Nguyên lý cơ bản: vai trò của tri thức khoa học công nghệ với sự nghiệp CNH-HĐH

Đề tài: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ MỞ ĐẦU Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch căn bản và tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Với những tác động mạnh mẽ của các tiến bộ khoa học và công nghệ, đặc biệt của công nghệ thông tin và truyền thông, thế giới đang biến chuyển tới một nền kinh tế và xã h

doc12 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguyên lý cơ bản: vai trò của tri thức khoa học công nghệ với sự nghiệp CNH-HĐH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội mới mà thông tin và tri thức được xem là nguồn lực chủ yếu. Điều đó xuất phát từ: Công cuộc đổi mới bắt đầu năm 1986 đã tác động tích cực đến nhiều ngành kinh tế và do hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt năm 2006 nước ta ra nhập tổ chức Thương mại thế giới – WTO đã mở cửa nền kinh tế tạo ra nhiều cơ hội phát triển, đồng thời đặt nền kinh tế nước ta trước vô vàn thử thách. Hòa nhập vào sự phát triển chung của nhân loại, Việt Nam đang bước vào một thời kì phát triển mới – thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.Bên cạnh thành tựu đã đạt được, chúng ta còn nhiều khó khăn, hạn chế cần khắc phục. Cụ thể là trình độ công nghệ lạc hậu, tiềm lực khoa học công nghệ yếu cả về nguồn nhân lực khoa học công nghệ lẫn nguồn vốn cho hoạt động khoa học công nghệ, cơ chế quản lý khoa học công nghệ còn yếu kém, ít gắn bó với sản xuất kinh doanh.Chính vì vậy việc áp dụng khoa học công nghệ vào công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta là tất yếu.Chỉ có như vậy mới đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, trở thành một nước có nền kinh tế phát triển “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “ Khoa học công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII). Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng quan trọng. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học phát triển và đạt được nhiều thành tựu, khoa học đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “ lực lượng sản xuất hàng đầu là yếu tố không thể thiếu được để cho lực lượng sản xuất có động lực tạo nên những bước phát triển nhảy vọt. Có thể nói rằng : “ khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Các Mac đã từng dự báo “ Theo đà phát triển của đại công nghịêp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào trình độ chung cảu khoa học và số lượng lao động đã cho phí hơn vào sức mạnh cảu những tác nhân được khởi động trong thời gian lao động, và bản than những tác nhân, đến lượt chúng, hiệu quả to lớn của chúng tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tíêp cần thiết để sản xuất ra chúng mà đúng ra chúng phụ thuộc vào trình độ hung của khoa học và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học vào sản xuất …” và trong thời đại ngày nay dã khẳng định: phát triển xã hội không thể không dựa trên nền tảng vững chắc của khoa học công nghệ hiện đại. Chính vì lẽ đó, tôi chọn đề tài “Luận chứng vai trò của tri thức khoa học – công nghệ với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ”. Bài viết thể hiện một phần nào đó quan điểm, cách nhìn của giới trẻ Việt Nam về cuộc sống và những biến đổi lớn trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước minh, đặc biệt là vấn đề tri thức khoa học – công nghệ. NỘI DUNG 1. Khái niệm tri thức khoa học – công nghệ và mối quan hệ của chúng 1.1. Khái niệm tri thức khoa học – công nghệ Ý thức là một hiện tượng tâm lý, xã hội, từ góc độ trung nhất có thể định nghĩa là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” là “cái vật chất đã di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến đi ở trong đó” (theo Mác). Ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Trong đó tri thức là một yếu tố cơ bản nhất, là phương thức tồn tại của ý thức.Sự hình thành và phát triển của ý thức liên quan mật thiết tới quá trình nhận thức của con người. Tri thức, hiểu biết của con người về thế giới càng nhiều bao nhiêu thì ý thức càng sâu sắc bấy nhiêu. Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức có tính lịch sử-xã hội của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thông ký hiệu khác nhau. Tri thức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức thông thường được hình thành qua mỗi hoạt động thường ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính, trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực, là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, nó phản ánh dưới dạng logic, trừu tượng những thuộc tính, kết cấu, mối liên hệ với bản chất về quy luật của tự nhiên-xã hội-con người. Hầu hết các nhà khoa học đều thừa nhận tri thức khoa học bao gồm tri thức: kinh nghiệm và tri thức lý luận. Trong đó tri thức kinh nghiệm là trình độ thấp, còn tri thức lý luận là trình độ cao của tri thức khoa học. Giữa hai trình độ này các tri thức khoa học có mối quan hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề, cơ sở cho nhau cùng phát triển, phản ánh ngày càng gần đúng hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thế giới vật chất đang vận động không ngừng. 1.2. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ Khoa học và công nghệ được xác định là nền tảng và động lực cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Về thực chất công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao. Do đó nói đến công nghiệp hóa hiện đại hóa là nói đến việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội. Trong thời đại ngày nay khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng và là động lực của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Phát triển khoa học công nghệ, gắn khoa học công nghệ với đời sống chính là mấu chốt đảm bảo sự thành công của công nghiệp hóa hiện đại hóa. Nhận thức được vấn đề đó, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học và công nghệ như : Tại hội nghị lần thứ VII, ban chấp hành TƯ VII đã khẳng định “ Khoa học công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa hiện đại hóa”, hội nghị lần thứ II ban chấp hành TƯ khóa VIII cũng nhấn mạnh “ Cùng với giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH. Công nghiệp hóa hiện đại hóa phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ ” Muốn vậy chúng ta phải gắn hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ với thực tiễn,với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, phải tăng cường vốn đầu tư và tìm ra động lực cho phát triển bản thân nó. Động lực đó chính là lợi ích của những nhà nghiên cứu, phát minh, ứng dụng có hiệu quả của khoa học công nghệ. 2. Công nghiệp hoá hiện đại hoá Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, v.v... Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên. Dầu vậy, những thay đổi về mặt triết học là nguyên nhân của công nghiệp hóa hay ngược lại thì vẫn còn tranh cãi. 3. Vai trò của tri thức khoa học – công nghệ với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. 3.1. Tri thức khoa học –công nghệ là nền tảng và động lực cho phát triển kinh tế Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của khoa học – công nghệ đối với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nói riêng, đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam nói chung được biểu hiện trên các mặt cụ thể sau: Khoa học – công nghệ có vai trò quyết định trong việc trang bị và trang bị lại các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại tiên tiến cho các ngành kinh tế quốc dân nói chung, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới với mục tiêu không ngừng cải thiện và nâng cao mức sống của người dân, sự phồn vinh và sức mạnh của Việt Nam. Đó là nhiệm vụ đầu tiên, quan trọng nhất cuả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Khoa học – công nghệ còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ - một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Có nhiều cách thức để chung ta trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại, tiên tiến cho các ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên dù bằng hình thức nào đi chăng nữa điều quan trọng và có tính chất quyết định nhất ở đây là cần phải có những con người có đủ trí tuệ và năng lực để có thể khai thác và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hiện đại. Văn kiện đại hội Đảng IX đã chỉ rõ “ Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo khoa học – công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệpcông nghiệp hóa, hiện đại hóa ”. Khoa học – công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi trường thông tin và thị trường thông tin – huyết mạch của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và của cả nền kinh tế. So với giai đoạn phát triển trước đây thì ngày nay thông tin có một vị trí cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cả những hoạt động tinh thần. Thông tin trong lĩnh vực khoa học – công nghệ có liên quan rất chặt chẽ đến việc nắm bắt các bí mật, bí quyết công nghệ nằm trong các phương pháp, các thiết bị, các dữ liệu khoa học – công nghệ mới nhất. Trong xã hội hiện đại,trình độ phát triển của công nghệ thông tin có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của hàng loạt công nghệ hiện đại. Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học – công nghệ là cung cấp các trang thiết bị hiện đại thông qua các công nghệ cao, công nghệ sạch để con người khắc phục được những hậu quả tiêu cực do chính các phương tiện kỹ thuật chưa hoàn thiện trước gây ra. 3.2. Tiềm lực khoa học – công nghệ của Việt Nam hiện nay Nhờ có đường lối đúng đắn và sự quan tâm đầu tư của Đảng và nhà nước ta đối với khoa học công nghệ trong suốt các thời kỳ vừa qua, cho đến nay Việt Nam đã có những tiềm lực khoa học – công nghệ đáng kể, có khả năng cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách phát triển đất nước, tiếp thu nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ được chuyển giao từ bên ngoài, từng bước vươn lên giải quyết nhiều vấn đề khoa học – công nghệ do nhu cầu thực tiễn đất nước đặt ra. Hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp định hướng vào mục tiêu phục vụ thiết thực cho các ngành sản xuất công nghiệp, phục vụ phát triển công nghiệp địa phương, phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, phục vụ phát triển kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần cho khai thác sử dụng tài nguyên, năng lượng, cải thiện và bảo vệ môi trường. Nghiên cứu các dây chuyền công nghệ sản xuât bột giấy, dây chuyền đồng bộ 1 vạn tấn/năm, thiết bị lõi giấy điều khiển CNC năng suất 3000 tấn/năm, hệ thống nấu bột giấy năng suất 15000 – 20000 tấn/ngày. 3.3. Những yếu kém và hạn chế của khoa học – công nghệ Việt Nam hiện nay Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, khoa học công nghệ nước ta vẫn còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và chưa thực sự đóng vai trò động lực, nền tảng cho phát triển. Sau đây là một số biểu hiện : Tiềm lực khoa học – công nghệ vãn còn ở mức thấp so với khu vực và thế giới, chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhu cầu phát triển. Tỷ lệ cán bộ khoa học – công nghệ trên tổng số dân chưa cao so với các nước khác. Đặc biệt còn thiếu nhiều chuyên gia đầu ngành, việc đào tạo và đào tạo lại tiến hành chậm, nguy cơ hụt hẫng trong đội ngũ rất lớn, nhất là trong ngành mũi nhọn như công nghệ thông tin, sinh học, cơ khí chế tạo máy. Việc xếp loại các cơ quan hoa học – công nghệ còn lúc túng, việc sử dụng đội ngũ tri thức còn lãng phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị nghiên cứu khoa học còn thấp xa so với nhu cầu thực tiễn. Cơ chế quản lý kinh tế chưa thực sự gắn kết các hoạt động khoa học – công nghệ với kinh tế xã hội, tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi dào cho hoạt động khoa học – công nghệ phát triển. Mức đầu tư bình quân của các doanh nghiệp Việt Nam cho khoa học còn thấp, chưa vượt quá 0.25 % trong khi thỉ lệ này ở các nước công nghiệp hóa là 5 – 6 %, các nước phát triển là 10 %. Cơ chế quản lý khoa học – công nghệ chậm và vẫn chưa được đổi mới một cách căn bản, mặc dù tư tưởng đổi mới cơ chế quản lý khoa học - công nghệ đã xuất hiện từ rất sớm. Chưa có sự liên thong giữa cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế quản lý khoa học – công nghệ. Các cách tiếp cận khoa học – công nghệ tri thức Một là, xây dựng chính sách, tạo môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh mẽ việc nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, đặc biệt trong các doanh nghiệp. Gắn với nhiệm vụ này, cần đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, môi giới, dịch vụ về khoa học-công nghệ để phát triển thị trường công nghệ. Chuẩn bị ngay việc xây dựng các văn bản hướng dẫn để sớm thực thi có hiệu quả Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Chuyển giao công nghệ sau khi được Quốc hội thông qua. Xây dựng phát triển các trung tâm giao dịch khoa học-công nghệ tại các vùng kinh tế lớn trong cả nước. Hai là, đổi mới cơ bản chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho khoa học-công nghệ phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học-công nghệ và thúc đẩy đầu tư của toàn xã hội cho đổi mới công nghệ để có thể đạt mức 1,5% GDP vào năm 2010. Chú ý tập trung đầu tư cho con người để phát triển tài sản trí tuệ của đất nước và xây dựng các cơ chế, chính sách đặc biệt để phát triển tiềm lực khoa học-công nghệ Ba là, xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế về khoa học-công nghệ để lĩnh vực này có đủ năng lực phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết được các nhiệm vụ khoa học-công nghệ quốc gia ở tầm quốc tế; nhanh chóng củng cố và mở rộng mạng lưới đại diện khoa học-công nghệ ở nước ngoài. Tạo điều kiện để các viện nghiên cứu hàng đầu của khu vực và thế giới có chi nhánh nghiên cứu tại Việt Nam. Bốn là, cần có các giải pháp để sớm hình thành các tập thể khoa học và công nghệ mạnh với đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề có trình độ khu vực và quốc tế, đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ khoa học-công nghệ quốc gia ở tầm quốc tế. Đầu tư có trọng điểm để xây dựng một số viện nghiên cứu đạt trình độ quốc tế. KẾT LUẬN Công cuộc đổi mới đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đang bước vào thời kỳ mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ những giá trị lớn lao của học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế - xã hội. Đây là cơ sỏ lý luận cho đường lối cách mạng của Đảng cộng sản, so sánh con đường cách mạng vô sản vào quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN. Khi tiến hành phân tích hình thái kinh tế xã hội TBCN, Các Mác đã khẳng định: Sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, song không pahỉ quốc gai nào, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một quốc gia, một dân tộc có thể bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nhất định nào đó. Với Việt Nam con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường phát triển tất yếu, khách quan hợp quy luật và về thực chất đó chính là quá trình thự hiện Công nghiệp hoá hiện đại hoá đât nước theo phương thức “út ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”. Nhằm tạo ra sự biến đổi về chất ủa xã hội trên tất cả cá lĩnh vựa nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại. Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích là cuối cùng phải tạo ra sự phát triển vượt bậc thậm chí nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên dù phát triển tuần tự hay rút ngắn thì cũng đều là sự phát triển lien tục của lực lượng sản xuất. Tại đại hội IX đại hội đầu tiên trong thế kỷ XXI, dựa trên lý luận và thực tiễn sau mười năm năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin đảng ta đã khẳng định:” Con đường đi lên của nước ta là sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dưng nền kinh tế hiện đại”(Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB chính trị quốc gia HN 2001, trang 84). Như vậy trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước không thể không dựa trên nền tảng vững chắc của khoa học công nghệ hiện đại. Hơn nữa cần biết phát huy những lợi thế của đất nước và tận dụng được những khả năng vốn có, đồng thời tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn nhưng thành tựu mới về khoa học công nghệ. Có như vậy chúng ta mới có thể phát huy được nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần vốn có của Việt Nam để biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp như CacMac đã từng dự báo và làm cho khoa học công nghệ trở thành nền tảng động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong suốt thời kỳ đó chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về mọi mặt của đời sống xã hội. Cuộc sống của người dân được cải thiện rõ rệt, có nhiều chuyển biến sâu sắc. Có được thành công đó không thể không kể đến vai trò của tri thức khoa học – công nghệ. Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ có nhiều biến đổi sâu sắc của đời sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách cũng là thời cơ cho các quốc gia, các dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam. Trong xu thế đó bất cứ một quốc gia nào, dân tộc nào nếu không xây dựng cho mình một thực lực khoa học – công nghệ mạnh mẽ sẽ có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu ”. Tư tưởng của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục tỏa sáng. Yêu cầu khách quan đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là phải tập trung đổi mới để nâng cao tiềm lực, trình độ kỹ thuật khoa học – công nghệ, nhanh chóng nắm bắt lấy và làm chủ các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến trên thế giới. Năng lực sáng tạo làm chủ khoa học – công nghệ là yếu tố đảm bảo cho con người làm chủ bản thân, làm chủ tương lai. Mặc dù trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa việc áp dụng khoa học – công nghệ còn nhiều bất cập, tuy nhiên, nhất định chúng ta sẽ làm được và sẽ làm tốt bởi mang trong mình sức mạnh đoàn kết dân tộc và trí thông minh, sáng tạo của người Việt Nam. Với phạm vi một bài tiểu luận em xin kết thúc bài viết của mình. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn của thầy để bài tiểu luận của em đạt kết quả cao. Hy vọng bài tiểu luận này sẽ giúp em củng cố tư duy về triết học và nhận thức đối với các quy luật xã hội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22513.doc
Tài liệu liên quan