Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ THU HÀ LUẬN VĂN THẠC SĨ Đề tài: NGUYỄN DU VÀ CON ĐƯỜNG HOẠN LỘ QUA THƠ CHỮ HÁN Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học môn Văn Thành phố Hồ Chí Minh- 2010 NGUYỄN DU VÀ CON ĐƯỜNG HOẠN LỘ QUA THƠ CHỮ HÁN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Nguyễn Du đã từng viết: Bất thiệp Hồ Nam đạo, An tri Tương Thủy thâm? Bất độc Hoài sa phú An thức Khuất Nguyên tâm? Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủ

pdf111 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1787 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y, Thiên thu vạn thu thanh kiến để. (Biện Giả) (Không đi qua Hồ Nam Sao biết nước sông Tương sâu? Không đọc bài phú Hoài Sa, Sao biết được lòng Khuất Nguyên? Lòng Khuất Nguyên và nước sông Tương Nghìn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy.) Lời thơ ấy, tứ thơ ấy dường như cũng vận vào rất đúng với lòng Nguyễn Du, thơ chữ Hán Nguyễn Du. Chưa đi qua Hà Tĩnh, sao biết được nước sông Lam sâu. Không đọc thơ chữ Hán, sao hiểu lòng Nguyễn Du. Lòng Nguyễn Du cũng như nước sông Lam, nghìn năm vạn năm vẫn sâu thăm thẳm. Tấc lòng thăm thẳm ấy, Nguyễn Du gửi gắm thật nhiều trong thơ chữ Hán. Vì vậy, sẽ thật thiệt thòi cho những ai chưa từng đọc và sống với những vần thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Và cũng sẽ thật thiếu sót nếu chúng ta chỉ nói đến Truyện Kiều như một đỉnh cao chói lọi mà quên dành cho thơ chữ Hán sự quan tâm và một vị trí xứng đáng! Thơ chữ Hán Nguyễn Du, theo giáo sư Mai Quốc Liên, là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa (Lời nói đầu, Nguyễn Du toàn tập, Tập 1, NXB Văn học, 1996). Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du còn là tìm về với nguồn di sản quý báu của kho tàng văn học dân tộc. 1.2. Trong ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, phần lớn các bài thơ được sáng tác trong khoảng thời gian nhà thơ làm quan dưới triều Nguyễn. Đọc những bài thơ ấy, ta hiểu hơn tâm sự, nỗi niềm, những trăn trở, suy tư của Nguyễn Du trên con đường hoạn lộ. Điều quan trọng những tâm sự ấy không chỉ là những nỗi niềm riêng tây mà nó là hơi thở của thời đại, của dân tộc, của số phận con người. Và cho đến nay, gần ba trăm năm trải qua, nó vẫn là những bài học lớn về thế sự, nhân sinh cho hậu thế. 1.3. Cuối cùng, chúng tôi đến với đề tài này từ sự yêu thích của bản thân đối với thơ ca Nguyễn Du và đặc biệt là ba tập thơ chữ Hán của thi nhân. Trên đây là những lí do chúng tôi chọn đề tài Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 2.1. Mục đích đầu tiên của luận văn là tìm hiểu khái quát về thời đại, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du; từ đó có thể có được cái nhìn thấu đáo, toàn diện hơn về con người nhà thơ trên con đường hoạn lộ. 2.2. Theo sử sách ghi lại, con đường hoạn lộ của Nguyễn Du tương đối bằng phẳng, hanh thông; ông lại từng hai lần được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, hẳn là được triều đình tin dùng. Ra làm quan cũng là cơ hội để ông thực hiện hùng tâm tráng chí từ thời trai trẻ của mình. Thế nhưng, qua những bài thơ chữ Hán được sáng tác trong khoảng thời gian làm quan dưới triều Nguyễn, ta lại thấy nhà thơ có nhiều trăn trở, ưu tư; hơn thế nữa là những nỗi niềm đến bạc tóc về nhân sinh, thế sự. Vì vậy, mục đích chính của luận văn là tìm hiểu những tâm sự, qua đó phần nào hiểu được thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ Nguyễn Du trên con đường hoạn lộ thông qua ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Qua những nỗi niềm riêng cũng như cách Nguyễn Du đánh giá về cuộc đời, về con người, ta càng hiểu thêm thế giới tâm hồn sâu thẳm và tấm lòng rộng lớn của thi nhân. Từ cõi sâu thẳm và rộng lớn ấy, hậu thế tìm được cho mình những bài học về thế sự, nhân sinh thấm thía và quí giá. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI KHẢO SÁT 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là con đường hoạn lộ của nhà thơ Nguyễn Du qua ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục với những tâm sự, ưu tư; cách đánh giá, nhìn nhận của ông về cuộc đời, con người; qua đó hiểu hơn về bức chân dung tinh thần của nhà thơ. 3.2. Phạm vi tư liệu Với trình độ và vốn chữ Hán có hạn, chúng tôi không có điều kiện để khảo sát nguyên văn của văn bản, chủ yếu khảo sát văn bản trên phần dịch nghĩa. Những tư liệu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du được chúng tôi trích từ tuyển tập Nguyễn Du toàn tập, tập 1, NXB. Văn học, xuất bản năm 1996 do GS. Mai Quốc Liên chủ biên. 3.3. Phạm vi vấn đề Luận văn không nghiên cứu toàn bộ nội dung thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Trên cơ sở đọc ba tập thơ, chúng tôi khảo sát kĩ những bài Nguyễn Du sáng tác trong thời gian làm quan dưới triều Nguyễn, cụ thể là một số bài thuộc Thanh Hiên thi tập và toàn bộ hai tập Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Luận văn cũng không đi vào phương diện thi pháp, nghệ thuật biểu hiện của ba tập thơ mà tập trung tìm hiểu thế giới nội tâm, từ đó phần nào lí giải thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ trên con đường hoạn lộ trong một giai đoạn đầy phức tạp và biến động của lịch sử dân tộc. 4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 4.1. Khác với Truyện Kiều cho đến nay đã có cả một quá trình tiếp nhận, nghiên cứu phê bình trải dài trên dưới hai trăm năm, thơ chữ Hán Nguyễn Du đến năm 1931 mới được ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trên tạp chí Nam Phong số 161 chỉ với 13 bài. Trước Cách mạng tháng tám, các nhà nghiên cứu Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim đã từng có bài viết về thơ chữ Hán. Đến năm 1959 tập thơ chữ Hán Nguyễn Du đầu tiên ra đời có tên Thơ chữ Hán Nguyễn Du do các ông Bùi Kỉ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm biên soạn, in tại nhà in Hoàn Cầu, Hà Nội. Như vậy lịch sử nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du mới bắt đầu từ khoảng những năm ba mươi của thế kỉ XX, khá ngắn ngủi so với lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều. 4.2. Qua tìm hiểu tư liệu, chúng tôi nhận thấy: Các bài viết, công trình nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du có thể chia thành ba dạng sau: - Một là các tài liệu tìm hiểu một cách tổng quát về cả ba tập thơ chữ Hán trên các phương diện nội dung hoặc nghệ thuật. - Hai là các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về một vấn đề nổi bật của một hoặc hai tập thơ. - Ba là các bài nghiên cứu phê bình về một hoặc một số bài thơ chữ Hán cụ thể có trong các tập thơ. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về đề tài Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán. Tuy nhiên, vấn đề trên được đề cập đến trong một số tài liệu, công trình của các tác giả, nhà nghiên cứu. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh trong Khảo luận về Kim Vân Kiều (Quan hải tùng thư, Huế, 1943) cho rằng qua hai tập thơ có thể thấy lòng trung trinh là phần chủ yếu trong tâm tính Nguyễn Du… Cái lòng ấy, đến lúc chết ông vẫn chung chú vào nhà Lê vua Lê… (tr.228). Thái độ bất đắc chí của nhà thơ khi làm quan dưới triều Nguyễn cũng được ông giải thích là bởi nhà thơ luôn mang tâm sự day dứt của kẻ bề tôi phải thờ hai chúa. Nhà phê bình Hoài Thanh trong bài viết Tâm tình của Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán đăng trên tạp chí Văn nghệ, tháng 3 năm 1960 cũng chú ý lí giải thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại đương thời. Ông cũng cho rằng Nguyễn Du quả có nhớ tiếc nhà Lê nhưng nhà thơ nhận rõ vận nhà Lê đã hết rồi cho nên thật thà đi theo nhà Nguyễn, theo nhà Nguyễn nhưng vẫn nhớ tiếc nhà Lê và dường như có khi nhớ tiếc cả Tây Sơn nữa. Tóm lại, theo Hoài Thanh, thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại là không rõ ràng nhưng điều rất rõ ràng là ông không bằng lòng với toàn bộ cuộc đời lúc bấy giờ. Không bằng lòng cho nên nhà thơ khinh bỉ vô cùng những kẻ chỉ nuôi cái mộng làm quan và thương vô cùng những cảnh đời cơ cực. Năm 1965, cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du (NXB Văn học) ra mắt, trong phần giới thiệu, nhà nghiên cứu Trương Chính đã đưa ra những nhận định khác với nhà nghiên cứu Đào Duy Anh. Trương Chính không phủ nhận thái độ trung với nhà Lê của Nguyễn Du song theo ông khi ra làm quan với nhà Nguyễn, nhà thơ chỉ nhớ tiếc nhà Lê như một nỗi niềm hoài cổ chứ không phải ôm mối cô trung. Ông cho rằng cái bất đắc chí của Nguyễn Du trong những năm làm quan là do hiện thực cuộc sống dưới triều Nguyễn đem lại và tâm sự của Nguyễn Du trong hai tập thơ này không nằm ngoài nỗi nhớ nhà, nhớ thú săn bắn, muốn về yên nghỉ, cho đời là một cuộc bể dâu, ca tụng lòng tiết nghĩa, mạt sát những người hèn hạ cầu phú quý công danh… Tháng 11 năm 1965, tác giả Đào Xuân Quý trong bài viết Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán đăng trên báo Văn nghệ cũng có ý kiến bàn về vấn đề này. Tác giả cho rằng vấn đề chính của Nguyễn Du không phải là ở thái độ của nhà thơ đối với các triều đại mà chính là ở chỗ thái độ của Nguyễn Du đối với toàn bộ cuộc sống đương thời; ở đâu cũng thấy Nguyễn Du không bằng lòng với cuộc sống hiện tại, u uất với những nỗi băn khoăn lo lắng của chính mình. Tâm trạng ấy cho đến những ngày nhà thơ đi sứ ở Trung Quốc mới thấy thay đổi; nhà thơ phát biểu về nhiều vấn đề, suy nghĩ tỏ ra sắc sảo, sâu xa và nhiều khi táo bạo nữa. Trong chuyên luận Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán (Tạp chí văn học, tháng 11 năm 1966), nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi đã đưa ra những ý kiến khái quát và xác đáng: Đằng sau hình ảnh Nguyễn Du với cõi lòng ủ ê tê tái, với cá tính rõ mồn một, một Nguyễn Du nghìn lần hiện thực hơn cái con người chỉ biết vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện trước mặt Gia Long mà sử sách từng ghi lại, ta thấy một điều gì lớn hơn nữa; ấy là những suy nghĩ nung đúc của nhà thơ về con người, về xã hội, là cái nhìn phanh phui đến đáy những nhân cách lịch sử, cũng là sự chiêm nghiệm sâu kín và đầy trắc ẩn về những ba động của thời cuộc diễn ra trước mắt ông. Ở những thi phẩm này, Nguyễn Du đã đặt vấn đề trực tiếp về số phận mình, gắn liền với vận mệnh chúng sinh trong nhiều thời đại, nhất là thời đại ông đang sống. Giáo sư Nguyễn Lộc khi tìm hiểu Thơ chữ Hán Nguyễn Du và tâm sự của nhà thơ (Văn học Việt nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX xuất bản lần đầu năm 1976) cũng cho rằng điều quan trọng đối với Nguyễn Du không phải vấn đề triều đại này hay triều đại nọ, mà là vấn đề khác có ý nghĩa xã hội rộng lớn hơn nhiều; chính vấn đề cuộc đời mới là trung tâm những day dứt, suy nghĩ của nhà thơ. Nguyễn Du suy nghĩ nhiều và có xu hướng không dừng lại ở những hiện tượng cá biệt, lẻ tẻ mà muốn đi đến cái khái quát, cái phổ biến cho những lời thơ của ông nhiều câu như châm ngôn, như triết lí. Tác giả Hà Minh Đức trong bài viết Nguyễn Du qua thơ chữ Hán (Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Thanh niên, 2000) về cơ bản cũng đưa ra quan điểm tương đồng với các tác giả như Hoài Thanh, Trương Chính, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Lộc khi cho rằng điều quan trọng trong tâm hồn Nguyễn Du, trong thơ chữ Hán của ông không nằm ở thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại lịch sử mà ở tâm trạng, cái nhìn của ông đối với cuộc đời. Cho nên cái phần trong sáng và đáng trân trọng nhất trong những bài thơ chữ Hán chính là những yêu ghét của nhà thơ – dấu hiệu riêng của những nghệ sĩ lớn; bởi lẽ ở vào thời đại Nguyễn Du biết yêu ghét không phải là chuyện dễ. Trong Lời nói đầu của bộ sách Nguyễn Du toàn tập (Trung tâm nghiên cứu Quốc học và NXB Văn học ấn hành năm 1996), Giáo sư Mai Quốc Liên cũng nhận định nỗi buồn và sự thất vọng của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán không phải chỉ là cái buồn của thân thế, nó còn là cái buồn trước đất nước và thời cuộc; ấy là cái buồn chứa đầy những ý tưởng lớn. Trên đây là một số bài viết, công trình nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du có đề cập đến nội dung của đề tài. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy các công trình, bài viết có liên quan đến đề tài này phần lớn thống nhất với nhau ở những điểm sau: - Trên con đường hoạn lộ, điều quan trọng đối với Nguyễn Du không phải là vấn đề triều đại này hay triều đại nọ, ông cũng chẳng thiết tha với chốn quan trường. Nguyễn Du có những tâm sự riêng nhưng bao trùm lên tất cả là một nỗi buồn lớn, những ý tưởng lớn về thời thế, về nhân sinh. - Vượt ra khỏi giới hạn bản thân, giới hạn của một triều đại, giới hạn của một thời đại trong suy nghĩ và đánh giá cuộc sống, ấy là chỗ vĩ đại của Nguyễn Du và cũng là giá trị sáng ngời của thơ chữ Hán nói chung, những bài thơ được viết trong thời gian tác giả làm quan nói riêng. Những công trình trên, nhìn chung, do phạm vi đề tài quá rộng lớn hoặc dung lượng còn hạn hẹp nên chưa đi vào khảo sát một cách đầy đủ, chi tiết và hệ thống về đề tài Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán mà chỉ đưa ra một số nhận định có tính chất khái quát. Tuy chỉ là những phác họa còn sơ lược về đề tài này, song những nhận định, đánh giá trên đã gợi mở cho chúng tôi nhiều hướng tiếp cận. Chúng tôi xin trân trọng lĩnh hội và vận dụng vào đề tài của mình. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Để thực hiện đề tài này, chúng tôi phối hợp vận dụng nhiều phương pháp: Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bối cảnh thời đại, cuộc đời – những yếu tố chi phối sáng tác của Nguyễn Du, từ đó hiểu thêm về nội dung tác phẩm. Phương pháp so sánh được dùng để làm rõ bản chất của đối tượng trong mối tương quan với một số hiện tượng văn học khác như: thơ Nguyễn Trãi, thơ đi sứ của một số nhà thơ trung đại Việt Nam, thơ Nguyễn Công Trứ. Phương pháp thống kê được sử dụng như một phương pháp phụ trợ để làm tăng sức thuyết phục cho những kết luận rút ra từ luận văn. Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng với tư cách là phương pháp chủ đạo để tìm hiểu đặc điểm của đối tượng. 5.2. Trong khi vận dụng các phương pháp trên, chúng tôi đồng thời thực hiện yêu cầu về nghiên cứu tổng hợp và liên ngành. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của luận văn được triển khai thành bốn chương như sau: - Chương 1: Thời đại, cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du Trong chương này, luận văn giới thiệu những yếu tố về thời đại, cuộc đời nhà thơ có ảnh hưởng đến sáng tác của ông, đặc biệt là những sự kiện xáy ra trong thời gian Nguyễn Du làm quan dưới triều Nguyễn. - Chương 2: Con đường hoạn lộ với những nỗi niềm riêng Trong chương này, luận văn tìm hiểu những nỗi niềm riêng của nhà thơ trên con đường hoạn lộ. Đó là nỗi buồn, cô đơn, nhớ nhà; là nỗi chán ngán lợi danh và thất vọng trước hiện thực nhiễu nhương chốn quan trường; là nỗi giằng xé giữa ước nguyện được trở về với cuộc sống an nhàn với chí nguyện dấn thân. Vượt lên trên những nỗi niềm u uẩn ấy, vị quan đưa ra những lí lẽ tự khuyên mình cố gắng làm tròn chức phận mà không phạm vào cái tính tự nhiên của bản thân. - Chương 3: Con đường hoạn lộ với nỗi băn khoăn về số phận con người Trên con đường hoạn lộ, điều Nguyễn Du quan tâm không phải là những vấn đề của triều đại này hay triều đại nọ. Điều khiến ông trăn trở không yên là số phận của con người: người nghèo khổ, người tài hoa bạc mệnh và cả những kẻ bất nghĩa, xấu xa. Mỗi số phận, mỗi cuộc đời ẩn chứa một câu hỏi lớn về thời thế, nhân sinh. - Chương 4: Con đường hoạn lộ và những triết luận về cuộc đời Từ những băn khoăn về số phận con người, Nguyễn Du có những nhận xét khái quát mang tính chân lí, thấu triệt bản chất của xã hội và cuộc đời. Ở chương này luận văn tìm hiểu những nhận xét mang tính khái quát ấy của nhà thơ. 7. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán Nguyễn Du đã được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Đây là lĩnh vực còn mới mẻ, khó khăn đối với không ít giáo viên và học sinh. Vì vậy, việc thực hiện đề tài này sẽ giúp chúng tôi phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy thơ chữ Hán Nguyễn Du ở nhà trường phổ thông sau này. Chúng tôi cũng hi vọng đề tài này có thể góp thêm một nét nhỏ bé vào bức chân dung tinh thần to lớn của đại thi hào dân tộc mà rất nhiều bạn đọc, nhà nghiên cứu phê bình đã xúc động và say mê tìm hiểu từ trước đến nay. Lắng nghe thơ chữ Hán Nguyễn Du là lắng nghe một nỗi niềm tâm sự lớn, lắng nghe hơi thở của một thời đại bể dâu. Từ những nỗi niềm dâu bể ấy, ta lại thấy toả ra thứ ánh sáng đẹp đẽ của một chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Vì vậy, cũng như Truyện Kiều, thơ chữ Hán Nguyễn Du mãi mãi thanh lọc tâm hồn con người, đưa con người về gần với giá trị nhân bản của mình hơn. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 THỜI ĐẠI, CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU 1.1. THỜI ĐẠI Nguyễn Du sống trong một thời đại lịch sử đầy biến động:nửa cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với những cuộc bể dâu, những cuộc thay đổi sơn hà. Đặc điểm nổi bật của lịch sử xã hội nước ta thời kỳ này là chế độ phong kiến bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, không có lối thoát. Những mâu thuẫn chất chứa trong lòng xã hội phong kiến đến giai đoạn này bộc lộ gay gắt và bùng nổ thành những cuộc đấu tranh xã hội quyết liệt. 1.1.1. Chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Đàng Ngoài rồi lan rộng ra cả nước. Chiến tranh phong kiến kéo dài khiến cho nông nghiep đình đốn, ruộng đất phần lớn tập trung trong tay bọn quan lại địa chủ. Tô thuế rất nặng nề, mất mùa, đói kém xảy ra liên tiếp. Nhu cầu chi tiêu tăng lên, nhân dân không thể nộp thuế, đành phải bỏ làng đi phiêu tán. Làng xóm trở nên điêu tàn, sức sản xuất bị tàn phá. Người nông dân tha phương cầu thực khắp nơi, nhiều người chết đói, chết bệnh trên đường. Ở Đàng Ngoài, hình thành chế độ “vua Lê chúa Trịnh”, vua Lê chỉ ngồi làm vì, tất cả quyền hành tập trung vào phủ chúa, chuyên quyền, độc đoán. Các chúa Trịnh thường lo việc ăn chơi và xây dựng chùa chiền nhiều hơn là lo việc trị nước. Nhu cầu chi tiêu trong phủ chúa tăng lên, trong khi đó nhân dân không có khả năng nộp thuế; nhà nước đặt lệ mua quan bán chức để thu thóc, tiền. Sự suy đồi của khoa cử đẻ ra hàng loạt quan lại tham nhũng, dốt nát. Có thể nói, chính quyền phong kiến giai đoạn này từ trung ương đến địa phuơng đều thối nát, tệ tham nhũng hối lộ ngày càng trầm trọng. Ở Đàng Trong, những mâu thuẫn cố hữu của chế độ phong kiến dần trở nên gay gắt và từ giữa thế kỉ XVIII, Đàng Trong bắt đầu rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, xây dựng Phú Xuân thành kinh đô, tổ chức lại bộ máy nhà nước. Các gia đình quan lại, quý tộc cũng đua nhau xây dựng dinh thự, đua nhau chơi bời xa xỉ. Phủ huyện, làng xã nằm trong tay bọn quan lại cường hào tham nhũng. Chính trị thối nát, nhân dân lầm than. Họ là lớp người gánh chịu mọi tai họa của tự nhiên, mọi thiệt thòi, bất công của xã hội, mọi thứ thuế má, sưu dịch của triều đình. Tình hình kinh tế, chính trị như thế đã đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, không lối thoát. Căm thù đối với chế độ phong kiến, nhân dân đã phẫn nộ nổi dậy đấu tranh. 1.1.2. Sự bùng nổ của phong trào nông dân khởi nghĩa Ở Đàng Ngoài, từ cuối thế kỉ XVII- đầu thế kỉ XVIII, nông dân nhiều nơi đã nổi dậy cướp phá các nhà giàu, nhưng phong trào chỉ bùng lên từ cuối những năm 30, do hậu quả của những nạn đói liên tiếp. Có thể kể các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất và cuoc nổi dậy của Lê Duy Mật… Cuộc chiến đấu quyết liệt của những người nông dân tuy chưa giành được thắng lợi nhưng đã là hồi chuông báo động cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến Đàng Ngoài, là những biểu hiện nổi bật, toàn diện của cuộc khủng hoảng đó. Ở Đàng Trong, như sử sách đã ghi: trăm họ cơ cực, trộm cướp nổi lên bốn phương, trong cõi từ đó có nhiều việc [31, tr.114]. Chế độ phong kiến Đàng Trong bước vào giai đoạn suy tàn, chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại làm rung chuyển cả đất nuớc. Cuộc khởi nghĩa bùng lên từ đất Tây Sơn, do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Và sau hơn mười lăm năm khởi nghĩa (1771-1787), quân Tây Sơn đã hoàn thành một sự nghiệp to lớn: đánh đổ ba tập đoàn phong kiến thống trị Lê, Trịnh, Nguyễn, làm chủ đất nước, đánh tan tác năm vạn quân xâm lược Xiêm rồi hai mươi vạn quân xâm lược Mãn Thanh trong chớp nhoáng, bảo vệ độc lập cho dân tộc, thực hiện sứ mệnh thống nhất đất nước. Triều đại Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh xây dựng triều Nguyễn. Dưới thời thống trị của nhà Nguyễn, khởi nghĩa nông dân cũng xảy ra liên tục. Theo tính toán của các nhà nghiên cứu, thời Nguyễn có đến 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ các loại, riêng thời Gia Long có khoảng 90 cuộc [31]. Phong trào nông dân khởi nghĩa giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX không những đã làm cho giai cấp thống trị kinh hồn bạt vía mà còn làm cho hệ tư tưởng chính thống của giai cấp phong kiến bị khủng hoảng và sụp đổ. Tóm lại, đặc điểm cơ bản của tình hình xã hội nước ta giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVII - nửa đầu thế kỉ XIX là sự khủng hoảng, bế tắc của nhà nước phong kiến, sự sụp đổ của ý thức hệ phong kiến và sự vùng dậy của quần chúng nông dân bị áp bức. 1.2. CUỘC ĐỜI 1.2.1. Truyền thống gia đình Quê hương Tiên Điền của Nguyễn Du một thời nổi tiếng vì ở đây có nhiều người đỗ đạt cao, làm quan to. Nghệ Tĩnh có câu phương ngôn Quan Tiên Điền, tiền Hội Thống nói lên quá khứ giàu sang của làng này. Nhưng ở đây họ Nguyễn Tiên Điền có thể coi là dòng họ vinh hiển nhất. Có rất nhiều người đỗ đại khoa và làm quan to. Đến đời Lê - Trịnh, trong một nhà có đến ba người đỗ Hoàng giáp: tiến sỹ Nguyễn Nghiễm thân sinh Nguyễn Du, đỗ Hoàng giáp khoa Tân Hợi (1731); Nguyễn Huệ, bác Nguyễn Du, đỗ tiến sỹ năm Quý Sửu (1733); rồi Nguyễn Khản anh ruột nhà thơ, khác mẹ cũng lại đỗ tiến sỹ khoa Canh Thìn (1760). Những người đỗ cử nhân, tú tài thì không kể. Làm quan, vinh hiển nhất là cha con Nguyễn Nghiễm làm đến chức Đại tư đồ, tước Xuân Quận Công. Lúc bấy giờ dinh thự của Xuân Quận Công tọa lạc ở phía nam hoàng thành Thăng Long, ven dòng Bích Câu trong vắt chảy ra hồ Kim Âu, mùa hè ngát hương sen. Tòa nhà ở giữa một khu vườn rộng, toàn những cây cao bóng mát. Cảnh ở đây có lẽ đẹp nhất đế đô thời ấy. Trước dinh thự Nguyễn Nghiễm có đề hai chữ phú đức, ý nói nhà này được hưởng mọi thứ phú quý vinh hoa không ai bằng. Quả vậy ông đỗ tiến sĩ năm 24 tuổi rồi lập được nhiều công trạng, năm 1761 được thăng Đô ngự sử, sau đó thăng thượng thư bộ công, giữ chức thị tham tụng ở phủ chúa, tương đương với chức tể tướng, nắm tất cả chính quyền. Bấy giờ mới 54 tuổi. Năm 1764 ông được thăng hàm thiếu phó. Năm 1767, Trịnh Sâm lên cầm quyền, ông được thăng làm Thái tử thiếu bảo tước Xuân Quận Công [2]. Con trai đầu của ông là Nguyễn Khản đỗ tiến sỹ năm 27 tuổi, được làm Đốc đông xứ Sơn Tây. Năm Trịnh Sâm nối ngôi, ông giữ chức Tri binh phiên ở phủ chúa, lại có công dạy chúa lúc còn là thế tử nên được thăng Đông các đại học sỹ, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm ấy trong hồ Kim Âu nhà Xuân Quận Công có một giò sen nở hai hoa. Trịnh Sâm và các quan triều đình làm thơ khen mừng, có bài như sau: Phụ đăng khoa, tử kế đăng khoa Thế chưởng quân hành Nguyễn tướng gia Bất tín thả khan trì thượng thụy Đình đình tranh xuất tịnh đầu hoa (Cha đậu cao, con cũng đậu cao Hai đời giữ chức trọng yếu, chỉ có nhà quan tướng công họ Nguyễn mới được như vậy Không tin hãy xem điềm tốt kia hiện ra trên mặt hồ Rành rành là một chồi nở những hai đóa hoa). Chủ nhân của tòa nhà này là tâm phúc của vua Lê chúa Trịnh. Trịnh Sâm lại xem Nguyễn Khản như người bạn thân thiết nhất của mình: Khản có thể mặc quần áo thường ra vào trong cung, còn chúa thì mỗi khi ngự chơi chùa lại đến thăm nhà Khản. Chúa cùng Đặng Thị Huệ ngồi thuyền dạo chơi trên hồ, Khản ngồi hầu ngang trước mặt, cười nói như người nhà. Chúa thưởng ca cũng có Khản ngồi cạnh cầm chầu điểm hát, chính chúa đã viết bốn chữ “tâm phúc hòa trung” ban cho Khản. Hai bên gắn bó với nhau như thế [14, tr.191]. Nguyễn Du cất tiếng chào đời giữa hội này. Cảnh nhà đang hết sức thịnh vượng, giàu sang tột bậc. Năm ấy Nguyễn Nghiễm đang làm tể tướng trong chính phủ, hai năm sau (1768) được thăng Thái tử thiếu bảo. Ân điển tới tấp, do đó mới lên ba, Nguyễn Du đã được tập ấm là Hoằng tín đại phu, trung thành môn vệ úy, tước thu nhạc bá. Trong ký ức của cậu Chiêu Bảy còn lưu lại ấn tượng sâu sắc về sự kiện cụ thân sinh vinh quy về làng. Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm 64 tuổi, xin về hưu. Chúa đặc cách thăng chức Đại tư đồ và chuẩn cho vinh quy về làng. Cả nhà cùng về theo, được dự một cuộc tiếp rước long trọng từ bến Giang Đình về đến dinh thự ở Tiên Điền. Sau này, trải qua hơn hai mươi năm lưu lạc, trở về dưới chân núi Hồng, nhà thơ không khỏi nhớ lại cảnh huy hoàng ngày ấy, ghi lại trong bài thơ Giang đình hữu cảm: Ức tích ngô ông tạ lão thì, Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi. Tiên chu kích thủy thần long đấu, Bảo cái phù không thụy hạc phi. Nhất thự y thường vô mịch xứ, Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi. Bách niên đa thiểu thương tâm sự Cận nhật Trường An đại dĩ phi. (Nhớ xưa cha ta cáo lão về hưu Xe bồ ngựa tứ về bến sông này, oai vệ làm sao! Đoàn thuyền tiên xô nước như rồng thần đấu nhau. Những chiếc tàn quý phấp phới trên không như hạc báo điềm lành. Từ khi bóng xiêm không thấy đâu nữa Trông làn khói trên ngọn cỏ ở hai bên sông mà khôn xiết bùi ngùi. Cuộc đời trăm năm có biết bao chuyện thương tâm. Gần đây Trường An đã đổi khác lắm rồi!) Đó là bài thơ ghi lại dấu ấn một thời vang bóng, một quá khứ vàng son của gia đình đã để lại ấn tượng sâu đậm trong kí ức của nhà thơ. Giọng điệu ông không sao giấu được nỗi chua xót, ngậm ngùi, hẳn là tiếc nhớ. Nguyễn Du được sinh ra trong một gia đình đại quý tộc triều Lê - Trịnh danh giá bậc nhất đương thời, lại là gia đình tâm phúc của nhà chúa, được hưởng ân nặng phúc dày khác hẳn người thường. Điều đó lý giải vì sao Nguyễn Du lập thân bằng việc ra làm quan cho triều Lê và luôn nặng nợ trung quân với triều Lê cho đến mãi về sau này. 1.2.2. Lập thân dưới triều Lê Kỳ thi Hương năm Quý Mão (1723), Nguyễn Du cùng các anh em lều chõng đi thi. Khoa ấy, các anh em của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ, Nguyễn Nhưng cùng người cháu của ông là Nguyễn Thiện đỗ tứ trường (cử nhân), còn Nguyễn Du chỉ đậu tam trường (hay nho sinh, tức tú tài). Ông có tài văn chương, kiến thức rộng nhưng có lẽ không chuyên về lối học khoa bảng nên lần đầu tiên bước chân vào đời đã nếm mùi thất bại. Đời Lê khoa thi ấy chưa phải là khoa thi cuối cùng, còn có khoa Bính Ngọ (1726) nhưng ông không dự. Khoa bảng không thành, Nguyễn Du khát vọng lập thân cùng thanh trường kiếm. Đó là thanh bảo kiếm ông được quận công Hoàng Ngũ Phúc ban cho từ khi còn nhỏ vì có tướng mạo khôi ngô khác thường. Với thanh bảo kiếm, chàng trai trẻ Nguyễn Du từng mang khát vọng to lớn, chí nguyện dấn thân: Tằng lăng trường kiếm ý thanh thiên (Khất thực) (Tựa kiếm dài, ngạo nghễ nhìn trời xanh) Cái nhìn ngạo nghễ của trang nam tử mới lẫm liệt làm sao, như thu cả vũ trụ vào trong tầm mắt. Cùng với thanh bảo kiếm ấy, Nguyễn Du bước vào đời. Lúc bấy giờ người cha nuôi họ Hà - nguyên là một vị võ quan trong triều - mất, Nguyễn Du được tập ấm chức Chánh thủ hiệu đội quân hùng hậu hiệu ở tỉnh Thái Nguyên. Cùng lúc đó, các anh em của ông đến tuổi trưởng thành đều được người anh cả là Nguyễn Khản xin Chúa cho mỗi người một chức vị: Nguyễn Quýnh giữ chức Quản trấn tả đội, Nguyễn Trừ làm tri phủ Tam Đới, Nguyễn Nễ học giỏi được vào Thị nội văn chức, giữ việc thường trực tại nhà học của con Chúa [2]. Nguyễn Du vào đời lúc vua Lê chúa Trịnh đã đến bước suy tàn. Gia đình ông gắn bó với vua Lê chúa Trịnh cũng đang suy tàn theo. Năm Giáp Thìn 1784 xảy ra nạn kiêu binh làm lung lay cả phủ chúa và ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình Nguyễn Du. Kiêu binh nguyên là lính người Thanh Nghệ, lập được nhiều công trạng cho triều đình. Triều đình có lệ ưu đãi họ hơn lính người nơi khác và gọi họ là ưu binh. Sự ưu đãi đó trải qua nhiều đời làm họ trở nên kiêu căng, có những hành vi phóng túng. Đã nhiều lần họ đốt nhà tham tụng, bồi tụng mà chúa không dám làm gì, như các năm 1674, 1741. Năm 1782 Trịnh Sâm chết, Trịnh Cán lên ngôi chúa, Hoàng Tố Lý phụ chính. Được một tháng kiêu binh nổi dậy, phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông (sau đổi là Trịnh Khải), giết Hoàng Tố Lý, giáng Đặng Thị Huệ - mẹ ruột Trịnh Cán làm thứ nhân. Trịnh Khải lên ngôi, Nguyễn Khản vì là quốc sư, được nhắc lên làm Thượng thư Bộ lại và tham tụng, ban tước Toản quận công. Em là Nguyễn Điều được giữ chức Đô đốc phủ sứ, ban tước Điều nhạc hầu. Hai anh em cùng ở trong chính phủ. Kiêu binh lại không phục, họ nổi lên làm loạn, đòi hỏi đặc ân. Không ai kiềm chế nổi họ. Các quan đại thần trong chính phủ, như Nguyễn Khản, Dương Khuông (cậu ruột chúa) định làm mạnh tay để ngăn chặn ưu binh và củng cố uy tín cho triều đình nên quyết định xử tử bảy người trong bọn họ. Việc đó làm cho họ tức giận, chẳng còn biết sợ hãi, kéo nhau đến phá nhà Dương Khuông, phá nhà Nguyễn Khản. Nguyễn Khản có một người thủ hạ giỏi kiếm thuật ra cửa chống cự, còn ông cải trang trốn lên Sơn Tây tìm em là Nguyễn Điều, bàn nhau liên lạc với chúa Trịnh Khải, ước hẹn các trấn cùng kéo quân về dẹp kiêu binh. Kiêu binh biết được, ngày đêm canh giữ vương phủ. Chúa phải ngầm cho người đi bảo các trấn hãy thôi việc đó. Anh em Nguyễn Khản phải bỏ về quê ở Nghi Xuân. Lúc này, Nguyễn Du vừa đúng mười tám tuổi. Ông chứng kiến tất cả những việc đó, không khỏi lo âu cho gia đình và bản thân. Thêm nữa, tình hình trong triều đình cũng như bên phủ chúa vô cùng rối rắm. Từ lâu, vua Lê chỉ làm vì, không có thực quyền. Chúa Trịnh nắm lấy tất cả mọi quyền hành. Ai trung thành với nhà Lê thì trước hết phải trung thành với chúa Trịnh. Cha và anh Nguyễn Du – Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Khản đều như thế. Cũng như ở phủ chúa, nội bộ bên vua Lê cũng thường xảy ra chuyện tranh giành ngôi, khiến anh em chú cháu ghét nhau, làm liên lụy đến nhiều người. Mặt khác, ở Đàng Trong lúc này không phải chỉ có chúa Nguyễn đối địch với tập đoàn Lê - Trịnh mà có cả lực lượng Tây Sơn. Anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dựng cờ khởi nghĩa, năm 1771 hạ thành Quy Nhơn, tiến ra chiếm Quảng Ngãi, Phú Yên rồi đem quân vào Gia Định, đánh bật quân chúa Nguyễn ra khỏi đất liền. Chúa Nguyễn phải trốn tránh vào các hải đảo, cuối cùng sống lưu vong bên đất Xiêm. Chúa Nguyễn lại cầu cứu quân xâm lược Xiêm, Tây Sơn cũng đánh cho tan tác (1785). Sau đó quân Tây Sơn đánh ra Đàng ngoài, quân Trịnh thua to. Tây Sơn tiếp tục tiến quân ra Bắc Hà. Ở Bắc Hà tướng thì lười, quân thì kiêu, triều đình không có kỷ cương, bị đánh tất thua. ._. Khi Nguyễn Du lập thân bằng chức quan võ dưới triều Lê - Trịnh thì thời cuộc như vậy, như một ván cờ sắp tàn. Năm Bính Ngọ 1786, Nguyễn Huệ chỉ huy đội quân thủy chiến tiến đến sông Vị Hoàng (Nam Định). Thế quân Tây Sơn lúc này là thế chẻ tre. Không đầy một tháng, họ chiếm Thuận Hóa cho đến Vị Hoàng rồi tiến thẳng ra Thăng Long giương cờ phù Lê diệt Trịnh. Khi nghe tin quân Tây Sơn Bắc tiến, Nguyễn Khản bèn tính mọi công việc với em là Nguyễn Điều, rồi đi mành vượt bể ra trước. Đến cửa Thần Phù (Ninh Bình) được tin báo quân Tây Sơn đã đến bến Vị Doanh, ông ta liền đi bộ thẳng ra Thăng Long, gặp Trịnh Khải dâng kế. Kế của ông ta là để tướng ở lại giữ kinh thành, rước vua Lê lên Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên là nơi ông ta có nhiều tay chân, sẽ chiêu mộ nghĩa sĩ. Kế hoạch ấy bị bọn kiêu binh phá. Họ nghe bàn nói Nguyễn Khản sẽ chiêu mộ nghĩa sĩ thì sợ Nguyễn Khản trả thù và họ sẽ chết trước. Cho nên họ tụ tập lại, mưu giết ông làm ông phải bỏ chạy lên Sơn Tây. Quân Tây Sơn tiến đến huyện Thanh Trì (ngoại thành Hà Nội ngày nay), chúa Trịnh Khải phải đích thân đốc suất quân đánh ở bến Tây Luông, nay là bờ sông Hồng thuộc đầu phố Hàng Than. Quân của chúa thua, chúa vội cởi áo bào, chạy ra cửa Yên Hoa. Nguyễn Huệ vào thành đóng quân ở phủ chúa. Chỉ trong vòng một tháng, quân Tây Sơn đã lật nhào nền thống trị xây dựng gần ba trăm năm của chúa Trịnh (1570 – 1786). Lúc bấy giờ, Nguyễn Khản trốn ở Sơn Tây cho đến khi Nguyễn Huệ rút về nam (tháng 8 năm 1786). Vua Lê Chiêu Thống ra lệnh triệu ông về kinh, lại sai tri phủ Nguyễn Trừ, em ông, đi đón. Về đến kinh, ông cảm bệnh và mất ngày 19 tháng 9 năm ấy. Nguyễn Điều ở nhà đợi tin của anh và xem xét tình thế trong hạt. Đến sông Thanh Giang, thuộc huyện Thanh Chương, nghe kinh thành thất thủ, đau xót, cũng cảm bệnh, mất trước đó ít lâu vào ngày bảy tháng bảy năm Bính Ngọ [2, tr.37]. Sau đó thời cuộc tiếp tục biến chuyển một cách khó lường. Quân Tây Sơn đột ngột rút về Nam bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh một mình ở đất Bắc (đêm mười bảy tháng tám năm Bính Ngọ 1786). Trịnh Lệ, em ruột Trịnh Sâm đem quân về đòi lại ngôi báu của cha, của anh khi trước. Trịnh Bồng, con Trịnh Giang, cũng dâng biểu xin vào chầu vua Lê. Hai con hổ đấu nhau. Trịnh Lệ thua, Trịnh Bồng được, nhà vua đành phải trả chính quyền lẫn binh quyền cho Trịnh Bồng theo đúng mẫu mực từ hai trăm năm trước. Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân từ Nghệ An ra đánh bại Trịnh Bồng, được vua Chiêu Thống cho chức Bình chương quân quốc trọng sự đại tư đồ, tước Bằng trung công, vào mùa thu năm Đinh mùi (1787). Rồi Nguyễn Hữu Chỉnh lại chuyên quyền ở Bắc Hà y như chúa Trịnh ngày trước, cũng tự giải quyết mọi công việc không hỏi gì đến vua Lê, thu phục lòng người bằng cách mở chế khoa, chọn lấy mười lăm tiến sỹ - cũng là khoa thi cuối cùng của triều Lê (Đinh Mùi 1787). Quân Tây Sơn lại đưa quân ra, diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, lấy đất Bắc Hà vào tháng mười một năm Đinh Mùi (1787). Khi Vũ Văn Nhậm phá quân Nguyễn Hữu Chỉnh ở sông Thanh Quyết rồi đuổi ra đến Thăng Long, Nguyễn Hữu Chỉnh bảo vua Lê Chiêu Thống phải chạy sang Kinh Bắc để lánh nạn. Nhà vua vội vàng sai lấy đòn võng tre cáng thái hậu và nguyên tử đi, tôn thất và phi tần đều phải đi bộ hết. Đồ đạc chỉ khênh đi được bốn hòm, còn bao nhiêu để lại trong cung điện. Cha con Nguyễn Hữu Chỉnh chạy theo sau. Dọc đường quân lính bỏ trốn quá nửa. Đến bờ sông Như Nguyệt chỉ còn hơn bốn trăm người. Cha con Chỉnh bèn sang sông trước đem quân đi về phía bắc. Nhà vua và tuỳ tùng phải đợi có đủ thuyền. Sang sông nhà vua bảo bọn Lê Quýnh đưa thái hậu và nguyên tử về phía Cao Bằng, từ đó tìm đường sang Quảng Tây xin vua Thanh đưa viện binh sang cứu. Còn nhà vua cùng các quan văn Nguyễn Đình Giản, Chu Doãn Lê, Vũ Trinh (anh rể Nguyễn Du) dựa vào thổ hào để mưu đồ việc phục hưng. Hồi đó, anh em Nguyễn Du cũng chạy loạn, họ cũng định chạy theo vua Chiêu Thống nhưng không kịp. Nguyễn Nễ tạm về quê ngoại ở Hoa Thiều, Nguyễn Du về quê vợ ở Hải An, Nguyễn Ức về quê vợ ở Phù Đổng. Họ chia nhau mỗi người đi mỗi ngả, chờ xem tình hình biến chuyển ra sao. Không bao lâu đã có tin cha con Nguyễn Hữu Chỉnh về đóng ở núi Tam Tầng (thuộc huyện Việt Yên, Bắc Giang cũ). Quân Tây Sơn đuổi kịp, hai bên giao chiến, quân Nguyễn Hữu Chỉnh tan vỡ [2, tr.44]. Nguyễn Du về quê vợ ở Thái Bình là để chạy loạn, không định ở lâu. Nhưng các sự việc cứ dồn dập đến. Bấy giờ ông mới 22 tuổi, không có nhiều kinh nghiệm, lại ở đất lạ, không quen biết ai, cho nên chỉ biết nhìn thanh bảo kiếm than vắn thở dài: Thư kiếm vô thành sinh kế xúc (Nghề văn nghề võ đều không thành, sinh kế quẫn bách) (Tự thán II) Loạn thế nam nhi tu đối kiếm (Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn) (Lưu biệt Nguyễn đại lang) Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm (Tráng tâm tịch mịch phụ cả cây đoản kiếm) (Tạp ngâm) Sau đó, Nguyễn Huệ ra Bắc hà lần thứ hai (Mậu Thân 1788). Ông chỉ giết Vũ Văn Nhậm là con rể Nguyễn Nhạc, cậy tài kiêu ngạo chứ không nghĩ đến chuyện lên ngôi vua. Ông cải tổ bộ máy chính trị Bắc hà, giao cho người của mình giữ các trấn rồi lại trở về Nam. Rõ ràng Tây Sơn phù Lê diệt Trịnh thực sự. Ngôi vàng còn vắng thì đặt Lê Duy Cận làm giám quốc giữ việc thờ cúng nhà Lê. Cho nên người Bắc hà xưa nay một lòng theo nhà Lê cũng không có cớ mà chống lại Tây Sơn. Nhưng một sự kiện trọng đại đã xoay chuyển hẳn chiều hướng. Quân Thanh mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chia hai mươi vạn quân thành ba đạo tiến vào nước ta. Nguyễn Huệ lại ra Bắc hà lần thứ ba để cứu nước. Mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 quân Tây Sơn giành thắng lợi lừng lẫy. Quân xâm lược Thanh đại bại. Công của quân Tây Sơn đối với giang sơn tổ quốc không thua gì công của Lê Lợi ba trăm năm trước. Vua Chiêu Thống theo tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị cùng với hoàng thái hậu và mấy vị cận thần chạy sang Trung Quốc. Chuỵên xảy ra đột ngột quá, không mấy ai theo kịp. Nguyễn Du lúc bấy giờ đang nương náu ở Thái Bình, đành phải ở lại đó một thời gian nữa. Như vậy ván cờ thời cuộc đã ngã ngũ. Tập đoàn Lê - Trịnh bị diệt vong. Nguyễn Du vừa bước vào đời, bắt đầu lập thân dưới triều Lê thì thời vận đã lỡ làng, công danh đã dang dở như thế. 1.2.3. Bất hợp tác cùng Tây Sơn Khi Tây Sơn thay nhà Lê, các nhà nho Bắc hà băn khoăn giữa lẽ xuất - xử, hành - tàng. Nhiều người không ngần ngại noi gương Đào Tiềm trở về với cỏ cây, đồng ruộng, giữ lấy chí cao. Quyết liệt hơn có người noi gương Bá Di, Thúc Tề tìm đến cái chết, cự tuyệt với triều đại mới. Nguyễn Du cũng có sự lựa chọn của riêng mình, ông không hợp tác cùng Tây Sơn. Ông không làm gì để chống lại, trong thơ văn cũng không thấy có thái độ thù hằn nhà Tây Sơn nhưng để nhận một chức vụ nào trong triều thì Nguyễn Du nhất định không làm. Điều đó trái với lương tâm, trái với đạo thánh hiền: Đản đắc Kỳ Sơn thánh nhân xuất Bá Di tuy tử bất thần Chu. (Dù ở đất Kỳ Sơn có thánh nhân ra đời đi chăng nữa Thì Bá Di chết thì chết chứ chẳng chịu làm tôi nhà Chu.) Đó là hai câu thơ được ghi lại trong Thế phả, có lẽ nói lên thái độ bất hợp tác với Tây Sơn của Nguyễn Du lúc bấy giờ [2, tr.46]. Vua Quang Trung khi thiết lập triều đại mới đã ra tờ Chiếu cầu hiền hiểu dụ các văn võ quan triều cũ. Tờ chiếu này do Ngô Thì Nhậm thảo với những lời lẽ đầy tâm huyết, có lý có tình: Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng? Kìa như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đang ở buổi đầu của nền đại định, công việc vừa mới mở ra. Kỷ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên cương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hoá của trẫm chưa kịp thấm nhuần khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kỹ thì thấy rằng: một cái cột thì không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu đồ một người không thể dựng nghịêp trị binh. Suy đi tính lại trong vòm trời này, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa. Huống nay dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao? [28, tr.216-217]. Sau tờ chiếu này thì hai người anh thân thiết của Nguyễn Du đã ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Đó là Nguyễn Nễ - anh ruột Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn - anh vợ Nguyễn Du. Nhưng Nguyễn Du thì không lay chuyển. Hai ông anh sau khi đã cạn lời khuyên, đành từ biệt Nguyễn Du mà trở lên Thăng Long nhận chức của triều đình mới. Ấy là vào năm đầu Quang Trung (Canh Tuất 1790). Đoàn Nguyễn Tuấn đỗ Hương cống đời Lê, được sung ngay vào sứ bộ, có mặt trong đoàn đưa Phạm Công Trị đóng giả Quang Trung sang Trung Quốc mừng thọ vua Càn Long. Vinh dự đó ông còn ghi lại trong bài tựa tập Tình sà kỷ hành của Phan Huy Ích: Chuyến đi này được nhà vua (Thanh) đặc cách cho quan tổng đốc (Thanh) đi bạn tống. Thuyền, xe, cờ, quạt quáng cả mắt. Đi đến đâu, quan lại phải lăng xăng đón tiếp đến đó. Mùa thu (năm Canh Tuất 1790) đến hành cung Nhiệt Hà lại theo xa giá về Yên Kinh, đi Tây Uyển. Luôn luôn tiệc yến hàng tuần, được ơn trời âu yếm, ưu đãi, khác thường. Trước nay, người mình đi sứ Tàu chả có lần nào lạ lùng và vẻ vang như vậy [2, tr.52]. Nguyễn Nễ thì được bổ chức Hàn lâm viện thị thư, sung phó sứ tuế cống ngay năm đó. Năm sau cùng đoàn tuế cống đến Yên Kinh, được dự yến, làm thơ chúc mừng, được vua Càn Long khen và ban thưởng. Về nước ông liền được thăng Đông các đại học sĩ gia tàng thái sử, thử tả thị lang, Nghi thành hầu. Nghĩ đến em trai đang giấu kín tung tích ở Thái Bình, ông làm một bài thơ gửi cho em và nhắn lên chơi: Tố Như hà xứ trú, Linh lạc lối kham ai. Tự hữu lăng vân chí, Hoàn vô hiệp thế tài. Đào tình thời sách bút, Thác tích nhật hàm bôi. Giãi ngã tương tư khổ Từ huề ấu tử lai. (Hoài Tố Như đệ) (Tố Như ở nơi nào? Lưu lạc thật đáng thương Người vốn có chí cưỡi mây Nhưng lại không có tài giao thiệp với đời Dùng bút để rèn luyện tính tình Giấu kín tung tích, ngày nâng chén làm khuây Nên hiểu nỗi lòng ta mong nhớ, Thong thả bế con lên chơi) Mà tình cảnh của Nguyễn Du ở Thái Bình lúc này cũng thật đáng thương. Những bài thơ trong Thanh Hiên thi tập nói rõ điều đó: Nguyệt dạ không đình nguyệt mãn thiên, Y y bất cải cựu thuyền quyên. Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc, Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên. Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán, Bạch đầu đa hận tuế thời thiên. Cùng đo lân nhữ dao tương kiến, Hải giác thiên khai tam thập niên. (Quỳnh Hải Nguyên Tiêu) (Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời Vầng trăng vẫn đẹp như xưa, không hề thay đổi. Chẳng biết nhà ai được hưởng thú vui xuân đêm nay Ở đất Quỳnh Châu ngoài muôn dặm này! Còn ta ở quê hương Hồng Lĩnh, chẳng còn nhà cửa, anh em tan tác cả. Đầu đã bạc, càng giận cho ngày tháng trôi mau Lúc đường cùng thương ta cùng trăng nhìn nhau từ xa Ba mươi năm nơi chân trời góc bể.) Bài thơ tám câu nói lên thấm thía tình cảnh Nguyễn Du lúc bấy giờ. Không nhà, gia đình ly tán, bản thân lại phải lưu lạc nơi chân trời góc bể. Nhưng trăng thì vẫn thế, không hề thay đổi vẻ đẹp. Và vẫn sáng, càng sáng càng thấu tỏ nỗi niềm, càng làm cho người tha hương thêm cô độc nơi đất khách. Ở một bài thơ khác, Nguyễn Du nói mình đang ở một nơi u tịch, phải làm người khách trọ lâu ngày: Trệ khách yêm lưu nam hải trung, Tịch liêu lương dạ dữ thuỳ đồng. Qui hồng bi động thiên hà thuỷ, Thú cổ hàn xâm hạ dạ phong. Nhân đáo cùng đờ vô hải mộng, Thiên hồi khô hải xúc phù tung. Phong trần đội lý lưu bì cốt, Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mãn bồng. (Trệ khách) (Người khách ở lỳ chốn Nam Hải, Đêm đẹp và vắng lặng biết cùng ai tâm sự? Tiếng kêu bi thương của chim Hồng bay về làm xao động nước sông Ngân Cái lạnh của tiếng trống đồn canh xâm nhập vào luồng gió đêm hè Người đã đến bước đường cùng không mộng đẹp Trời đưa lại bể khổ để thúc giục bước chân phiêu bồng Gối khách buồn thiu hai mái tóc rối bù.) Người khách trọ đã đến bước cùng đường, không còn giấc mộng đẹp, thân còn lại da bọc xương, lòng bi thương, quạnh vắng, không có người để bày tỏ tấc lòng. Những bài thơ viết trong mười năm gió bụi ở Thái Bình đều rặt một giọng buồn thương như thế. Thời cuộc đảo điên, gia đình tan tác, bản thân ông vừa bước vào đời thì thời vận đã lỡ làng, cả hùng tâm lẫn sinh kế đều không thành, phải lưu lạc tha hương. Đã thế còn bệnh tật không có thuốc uống, phải nhờ lòng thương của người. Ông nhiều lần nói mình đã đến bước đường cùng, thân như ngọn cỏ bồng đứt gốc mặc cho gió bụi cuộc đời đưa đẩy, mái tóc đã bạc phơ trong gió thu dù lúc này mới ngoài ba mươi tuổi. Những hình ảnh con đường cùng, tóc bạc, ngọn cỏ bồng đứt gốc cứ trở đi trở lại trong thơ như một điệp khúc buồn, một nỗi ám ảnh da diết khiến người lưu lạc không ít lần phải thốt lên: Nhất sinh u tứ vị tằng khai (Thu chí) (Suốt đời ôm mối u sầu chưa từng gỡ ra được) Tình cảnh bi đát như thế nhưng Nguyễn Du vẫn quay lưng với triều đại mới, không ra làm quan cho Tây Sơn. Năm Giáp Dần 1794 tình hình có nhiều chuyển biến sau khi vua Quang Trung mất đột ngột. Năm ấy Nguyễn Du quyết định vào tận Phú Xuân nơi Nguyễn Nễ đang làm quan để thăm anh. Lúc này ở Phú Xuân, tình hình Tây Sơn đang rất gay go. Vua Quang Trung mất, triều thần lúc bấy giờ là Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng lập thái tử là Nguyễn Quang Toản lên ngôi, rồi sai sứ sang Trung Quốc báo tang và cầu phong. Vua Thanh phong Nguyễn Quang Toản làm An Nam quốc vương. Vua Cảnh Thịnh còn nhỏ, mọi việc đều do thái sư Bùi Đắc Tuyên quyết đoán. Các quan văn và quan võ nhiều người không quy phục, trong triều đình chia ra các bè đảng. Ở phía Nam thì chúa Nguyễn đã đem quân tiến đánh. Năm 1788, chúa Nguyễn lấy được thành Gia Định, thế lực ngày một mạnh. Họ tiếp tục tiến ra, hạ thành Bình Thuận, đánh lấy các phủ Diên Khánh, Bình Khang, Phú Yên, được thể tiến đánh thành Quy Nhơn. Người giữ thành Quy Nhơn lúc bấy giờ là Nguyễn Nhạc, sai người ra Phú Xuân cầu cứu. Vua Cảnh Thịnh cho quan thái úy Phạm Công Hưng và một số tướng vào cứu Quy Nhơn. Cứu được thành các ông lại chiếm lấy thành, tịch biên tất cả các kho tàng. Nguyễn Nhạc tức giận, thổ huyết mà chết. Thăm anh xong, Nguyễn Du lại trở ra Bắc. Cuối mùa đông năm ấy (Giáp Dần 1794), vợ Nguyễn Du bị ốm rồi mất. Ăn nhờ ở đậu nơi đất khách quê người đã khổ, nay lại chịu cảnh gà trống nuôi con, nhà lại nghèo, xung quanh không có ruột thịt, Nguyễn Du cảm thấy mình đang lâm vào cảnh cùng cực nhất. Ông quyết định trở về quê hương Tiên Điền. Từ ngày chạy loạn về Thái Bình, tưởng là ở tạm, tính đến lúc trở về quê hương là mười năm (1786-1796). Mười năm gió bụi, trải qua mấy phen dâu bể, nghĩ đến thân thế, quê hương, làng xóm, lòng nhà thơ ngổn ngang trăm mối. Bài thơ Bát muộn gói gọn tâm sự ấy của ông: Thập tải trần ai ám ngọc trừ, Bách niên thành phủ bán hoang khư. Yêu ma trùng điểu cao phi tận, Trỉ uế càn khôn huyết chiến dư. Tang tử binh tiền thiên lý lệ, Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư. Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ, Bách chủng u hoài vị nhất sư. (Bụi trần mười năm nay che tối thềm ngọc, Thành phủ trăm năm một nửa thành gò hoang Những côn trùng chim chóc nhỏ bé đều bay đi hết, Đất trời nhơ nhớp sau cuộc huyết chiến Giọt lệ nơi nghìn dặm khóc cho cuộc binh đao ở quê hương. Bà con bạn bè chỉ còn biêt qua mấy vần thơ dưới đèn Cá rồng lặng lẽ đêm thu vắng, Trăm nỗi u buồn chưa một lần được giải thoát.) Mười năm đi giữa gió mưa li loạn của cuộc đời. Thành phủ đã hóa gò hoang. Đất trời nhơ nhớp sau cuộc huyết chiến. Dâu bể cuộc đời xô đẩy con người. Thân phận con người cũng bé nhỏ nào khác gì con sâu cái kiến. Trên bước đường tha hương, dễ hiểu vì sao người thơ không ngăn được giọt lệ, không sao giải thoát được trăm nỗi u buồn trong lòng. Nguyễn Du trở về quê nhà, dưới chân núi Hồng năm Ất Mão (1795) đầu năm Bính Thìn (1796). Từ khi ông vào Phú Xuân thăm anh (1794), thời cuộc biến chuyển nhanh chóng, nhà Tây Sơn đã suy yếu lắm. Ở Phú Xuân, các quan đại thần giết hại lẫn nhau, thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, các quan nhiều người oán giận. Mùa đông năm 1796, Nguyễn Du toan vượt biển vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh, bị bắt giam ở nhà lao trấn Nghệ An. Ở tù, ông làm bài thơ My trung mạn hứng [2, tr.58]: Chung Tử viện cầm tháo Nam âm, Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm. Tứ hải phong trần gia quốc lệ, Thập tuần lao ngục tử sinh tâm. Bình Chương di hận hà thì liễu? Cô Trúc cao phong bất khả tầm. Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ Hồng Sơn giang hạ Quế giang thâm. (Chung Tử ôm đàn gảy khúc Nam, Trang Tích trong lúc ốm đau vẫn ngâm tiếng Việt Bốn bể gió bụi, lệ rơi vì tình nhà nợ nước, Mười tuần trong ngục, lòng nghĩ đến chuyện sống chết Mối hận để lại của Bình Chương bao giờ hết? Sự cao thượng của Bá Di, Thúc Tề nước Cô Trúc không thể tìm Ta có tấc lòng không biết nói cùng ai, Dưới chân núi Hồng sông Quế sâu.) Những điển tích trong bài thơ ông dùng đều ca ngợi những người không vong bản, đến chết vẫn giữ lòng trung với triều cũ. Chung Nghi, người nước Sở, bị nước Tấn bắt. Người ta đưa đàn cho ông gảy, ông chỉ gảy những bài hát phương Nam (nước Sở). Trang Tích, người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở vương hỏi mọi người: Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở, được phú quý rồi thì còn nhớ nước Việt nữa không?. Viên thị ngự đáp: Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra lúc ốm đau. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt thì tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng nước Sở. Sở vương sai người thân tín nghe thì thấy Trang Tích nói tiếng Việt. Còn Bình Chương, tức núi Bình Chương, ý nói đến chuyện Trương Thế Kiệt, một tướng giỏi đời Tống, phò Đế Bính chống quân Nguyên, mong khôi phục lại nhà Tống. Sau thua, lên thuyền chạy đến núi Bình Chương, gặp bão, thuyền đắm. Thế Kiệt chết, nhà Tống mất. Người nước Cô Trúc chỉ Bá Di, Thúc Tề, con vua Cô Trúc, đời nhà Ân. Khi Ân bị nhà Chu lấy, hai ông không phục nhà Chu, lên ở ẩn ở núi Thú Dương rồi nhịn đói mà chết chứ không thèm ăn thóc nhà Chu. Nguyễn Du muốn nói mình một mực trung thành với nhà Lê chúa Trịnh, không chịu làm tôi Tây Sơn. Nguyễn Du bị giam trong tù khoảng ba tháng rồi được thả nhờ quan trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Thận vị nể Nguyễn Nễ - anh trai ông. Ra tù, Nguyễn Du tiếp tục cuộc sống bế tắc dưới chân núi Hồng, tâm trạng bất đắc chí có phần sâu sắc hơn. Ông cảm thấy không gian như bao phủ con người, như muốn lấy cái vô tận của nó để làm tiêu ma ý chí con người. Thời gian không dừng lại, lao nhanh vun vút như thách thức cái hữu hạn của kiếp người. Ý thức được bước đi của thời gian, sự mênh mông của không gian, con người thất chí kia cũng muốn lao vào hưởng lạc, muốn tìm quên qua men say. Cũng có lúc cao hứng, con người còn cất lên bài ca hành lạc (Hành lạc từ). Cũng có lúc ông muốn tìm đến một sự giải thoát, tìm đến một cuộc sống an nhàn, vô lo. Và trở đi trở lại trong thơ là ước mơ về chốn cửa huyền, được làm người ẩn dật, về chuyện học đạo thần tiên, về chiếc xe gió một ngày đi vạn dặm, về đàn âu tự do theo dòng nước mà trôi đi, về vầng trăng sáng… Con người muốn thoát khỏi vòng trần tục nhưng vòng trần tục lại càng xiết chặt nên đành trở lại đối diện với nỗi day dứt của chính mình. Chứng kiến bao phen thay đổi sơn hà, đối với Nguyễn Du, cuộc đời đầy những đổi thay đến chóng mặt. Chuyện đổi thay trước mắt là thực tại, con người bị cuốn vào thực tại ấy không cưỡng lại được cho nên chỉ thấy cuộc đời này là đáng buồn, đáng thương: Thế sự phù vân chân khả ai (Đối tửu) (Việc đời như mây nổi thật đáng thương) Đằng sau những câu thơ mang tính chất khái quát, triết lý về cuộc đời kia là mái tóc bạc đi trong gió thu hiu hắt, là giọt lệ lặng lẽ dưới đèn khuya, là ánh mắt bi thương ngước nhìn trời. Đi giữa gió mưa li loạn của cuộc đời, Nguyễn Du càng hiểu rõ nỗi khổ của nhân dân, càng đau đớn trước sự suy tàn của thời cuộc. Luôn hoang mang giữa các ngả đường để rồi cuối cùng ông vẫn bế tắc không thể chọn cho mình một hướng đi. Nhưng, vượt lên trên tất cả vẫn là tấm lòng sáng tỏ như vầng trăng, vẫn là nỗi ưu ái dành cho cuộc đời và con người thẳm sâu như nước dòng sông Lam dưới chân ngọn núi Hồng. Trong sáu năm Nguyễn Du ở dưới chân núi Hồng này, thời cuộc cũng biến đổi rất nhanh. Nội tình Tây Sơn ngày càng suy đốn. Nhà vua nhu nhược, chỉ hay nghe lời dèm nịnh; triều thần và tướng tá thì chỉ tìm cách hại nhau. Năm 1798, tướng Nguyễn Bảo ở Quy Nhơn có ý đầu hàng Nguyễn Ánh. Triều đình sai bắt về giết. Tướng Lê Trung trấn thủ Quy Nhơn cũng bị giết. Thấy tình cảnh như thế, tướng sĩ rất ngã lòng, nhiều người bỏ theo nhà Nguyễn. Trong khi triều đình suy đốn thì bọn quan lại ở ngoài đua nhau mà bóc lột đục khoét nhân dân. Họ lại thường lấy cớ đàn áp cựu đảng họ Nguyễn (ở Đàng trong) và họ Lê (ở Đàng ngoài) mà thẳng tay hà hiếp, có khi tàn phá cả làng. Quân lính Tây Sơn bấy giờ không còn kỷ luật như ở đời Quang Trung nữa, thường nhũng nhiễu dân chúng. Đối với triều Tây Sơn bây giờ, nhân dân mỗi ngày một thêm chán ghét. Nguyễn Ánh thấy thế Tây Sơn suy đốn, một mặt vẫn cố thủ, một mặt sai người ngầm ra miền Quy Nhơn và Thuận Hóa để vận động dân chúng. Đến tháng tư năm 1799, Nguyễn Ánh đại tiến công Quy Nhơn, chiếm được thành này và đổi tên là Bình Định. Sau đó, quân Nguyễn Ánh tiến đại binh ra Phú Xuân. Vua Quang Toản phải bỏ thành chạy. Bấy giờ là tháng sáu năm 1801. Vua Quang Toản ra Bắc Hà truyền lệnh đi các trấn lấy viện binh, cả thảy được ba vạn người, đem chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ. Quân chúa Nguyễn đánh cửa Nhật Lệ, phá tan quân Tây Sơn. Một số tướng tá Tây Sơn đầu hàng, tàn quân chạy ra phía Bắc. Bấy giờ, Nguyễn Ánh đã khôi phục được đất cũ của các chúa Nguyễn từ sông Gianh trở vào. Tháng sáu năm 1802, ông lập đàn tế cáo trời đất lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long, rồi sai sứ thần sang cầu phong với nhà Thanh. Sau khi đã chuẩn bị chu đáo, Nguyễn Ánh cử đại binh ra Bắc Hà. Quân Nguyễn đi đến đâu thì quân Tây Sơn tan rã đến đó, chỉ trong một tháng là đến Thăng Long. Nhà Tây Sơn mất. Sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đặt cuộc thống nhất trên một lãnh thổ rộng rãi hơn ở thời Tây Sơn. Nhưng nó lại khôi phục sự thống trị của một tập đoàn phong kiến phản động hơn và xóa bỏ những cải cách tương đối tiến bộ mà nhà Tây Sơn đã mang lại cho nhân dân. Trong thời gian Nguyễn Du ở quê nhà thì lại có một phen thay đổi sơn hà long trời lở đất như thế. Triều Tây Sơn sụp đổ, cũng là kết thúc giai đoạn ẩn nhẫn dưới chân núi Hồng của Nguyễn Du. Cuộc đời nhà thơ lại có bước ngoặt mới. 1.2.4. Ra làm quan triều Nguyễn Tháng bảy năm Nhâm Tuất (1802) Gia Long ở thành Thăng Long, ra dụ cho cựu thần nhà Lê, các vị hương cống và học trò hiệp ý bày mưu giúp nền chính đạo. Nhiều người ra hưởng ứng, trong đó có những người khi Tây Sơn lên không ra nhưng bây giờ lại ra như Phạm Quý Thích, Phạm Đình Hổ. Nguyễn Du cũng ra khá sớm. Thế phả chép: Khi nhà vua đến Nghệ An, ông đón xe yết kiến và được đem thủ hạ đi theo ra Bắc. Đại nam chính biên liệt truyện lại chép: Đến khi có lệnh gọi, không thể từ chối, ông bất đắc dĩ phải ra. Các nhà nghiên cứu đều theo thuyết sau. Ông Trần Trọng Kim nói: Tiên sinh phải triệu ra làm quan, hai ba lần từ chối không được. Ông Đào Duy Anh cũng nói: Triều đình vẫn cố nài ép, sau ông thấy không thể trốn được, nếu cứ khăng khăng cố chấp thì e không khỏi lụy mình [2, tr.63]. Điều chắc là tháng tám năm ấy, ông được bổ tri huyện Phù Dung thuộc Khoái Châu, trấn Sơn Nam. Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội). Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau: Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc. Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ. Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc. Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ. Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820. Trong những năm ở dưới chân núi Hồng, Nguyễn Du đã nguyện làm bạn với cây tùng tảng đá, chán ngán vòng lợi danh, nguội lạnh tâm sự anh hùng. Lòng ông đối với triều Lê cũng chỉ còn là nỗi hoài niệm về một thời vàng son quá vãng. Những tưởng lẽ xuất - xử đã phân minh thì giờ đây ông lại ra làm quan cho triều Nguyễn. Không thể khẳng định chắc chắn những lí do vì sao Nguyễn Du về với triều Nguyễn nhưng một điều có thể thấy rõ là Nguyễn Du bước chân vào con đường hoạn lộ lúc này không phải để lập công danh. Hơn nữa, Nguyễn Du cũng như nhiều cựu thần khác của nhà Lê, không hợp tác với Tây Sơn nhưng lại ra làm quan cho Nguyễn Ánh, một phần bởi lẽ, nhà Nguyễn không phải là lực lượng đối đầu trực tiếp với nhà Lê, về với triều Nguyễn âu cũng không đi ngược với lẽ cương thường đầy ràng buộc của Nho giáo. Nguyễn Ánh đóng đô ở Phú Xuân, đặt quốc hiệu là Việt Nam, năm 1804 được nhà Thanh thừa nhận và tấn phong, năm 1806 xưng đế hiệu. Vì cuộc thống nhất mới thành, cơ sở chính trị chưa ổn định nên nhà vua chưa đặt chính quyền tập trung hoàn toàn, mà tách hai miền Nam - Bắc, đặt Gia Định thành và Bắc Thành, giao cho hai người công thần tin cậy phụ trách. Phần giữa thì trực thuộc triều đình, gồm các trấn và dinh từ Thanh Hoá đến Bình Thuận. Nhà Nguyễn dụng ý khôi phục và phát triển nhà nước phong kiến trung ương tập quyền với hình thức quân chủ chuyên chế. Để củng cố tuyệt đối quyền lực cá nhân, Nguyễn Ánh cũng tìm cớ trị tội các công thần có uy tín, tài năng. Nguyễn Văn Thành là đệ nhất công thần, được Nguyễn Ánh giao phó làm Tổng trấn Bắc Thành, thế mà chỉ vì một bài thơ có ý ngông của người con trai mà Nguyễn Văn Thành bị vu là mưu phản, bị hạ ngục, đến phải tự tử. Hành động đáng phê phán của nhà Nguyễn là sự trả thù tàn bạo nhà Tây Sơn. Trước khi hành hình Nguyễn Quang Toản, Gia Long đã bắt ông phải xem quân lính đào mộ Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cùng vợ chính, lấy hài cốt giã nhỏ bỏ vào một cái bồ lớn, xương đầu thì bỏ vào ngục tối, giam lâu dài. Quang Toản bị voi xé xác, chặt làm năm khúc, bêu ở năm chợ. Các em của ông đều bị voi giày. Tướng Trần Quang Diệu bị chém làm trăm mảnh, vợ là Bùi Thị Xuân cùng con gái cũng bị voi giày. Bọn lính lại chia nhau ăn tim gan của họ. Để đề cao hơn nữa uy quyền của nhà vua, Gia Long còn đặt ra lệ tứ bất (nhưng không ghi thành văn bản): không đặt tể tướng, không lập hoàng hậu, không lấy trạng nguyên trong thi cử, không phong tước vương cho người ngoài họ vua. Nhà Nguyễn dụng tâm chấn hưng chế độ phong kiến suy vi ở thời Lê mạt nhưng vẫn dựa trên giai cấp quý tộc địa chủ cũ là một giai cấp đã hết sinh khí, không còn năng lực thúc đẩy sự tiến triển của xã hội nữa. Cũng như các triều đại trước, dưới thời Nguyễn, xã hội Việt Nam chia thành hai giai cấp lớn: thống trị và bị trị. Giai cấp thống trị bao gồm vua, quan lại, thơ lại trong hệ thống chính quyền và giai cấp địa chủ. Vua và hoàng tộc (với cách gọi chung là Tôn thất) giờ đây đã trở thành một lớp người đông đảo, có đặc quyền, nhất là con cháu gần gũi của nhà vua. Họ có dinh thự, ruộng vườn rộng rãi và được một hệ thống cơ quan, đứng đầu là phủ tôn nhân, chăm lo bảo vệ. Các quan chức xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội khác nhau nhưng do vị thế của mình trở thành lớp người đối lập với nhân dân, luôn hạch sách, bóc lột nhân dân. Giai cấp bị trị bao gồm toàn bộ nông dân, thợ thủ công, thương nhân, một số dân nghèo thành thị. Lớp người bị lưu đày, nô tì cùng gia quyến sống ở các đồn điền cũng tăng lên đáng kể. Tuyệt đại đa số cư dân là nông dân, dân bản mường ở vùng dân tộc ít người. Họ là lớp người gánh chịu mọi tai hoạ của tự nhiên, mọi thiệt thòi bất công của xã hội. Thiên tai, mất mùa thường xuyên đe dọa cuộc sống của dân nghèo. Sau mỗi lần vỡ đê, lụt lội lớn, mùa màng hư hại, nhân dân lại bỏ làng đi phiêu tán kiếm ăn. Rồi lại khốn khổ vì dịch bệnh hoành hành. Ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ thời bấy giờ xuất hiện bài vè nói lên tình cảnh thê thảm của người dân: Cơm thì chẳng có Rau cháo cũng không… … Quạ kêu vang bốn phía Xác đầy nghĩa địa Thây thối bên cầu Trời ảm đạm u sầu Cảnh hoang tàn đói rét… Biết bao người dân không tìm ra lối thoát trong cuộc sống, chất chứa căm thù vua quan nhà Nguyễn và bọn địa chủ tàn ác, họ đã nổi dậy chống triều đình. Theo tính toán của các nhà nghiên cứu, dưới thời Nguyễn có đến năm trăm cuộc khởi nghĩa các loại, riêng thời Gia Long có khoảng chín mươi cuộc. Đói khổ, dịch bệnh lại chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân càng thêm cực khổ. Tất cả như một cái vòng luẩn quẩn khiến đất nước trì trệ. Như vậy, Gia Long Nguyễn Ánh tiếp tục xây dựng và củng cố nền thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến trong bối cảnh khủng hoảng, suy vong. Trong hơn nửa thế kỷ tồn tại dưới triều Nguyễn, xã hội Việt Nam hầu như không phát triển lên được theo chiều hướng tiến bộ của thời đại, mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc làm bùng lên hàng loạt cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân và cuối cùng đất nước trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Ấy cũng là bối cảnh chung của triều đại mới mà Nguyễn Du ra làm quan. Thời cuộc như thế, cộng với tâm sự riêng của bản thân ông, ta hiểu được vì sao con đường hoạn lộ khá hanh thông nhưng Nguyễn Du luôn muốn ca khúc quy khứ lai từ và trên thực tế, trong thời gian làm quan triều Nguyễn, đã có hơn ba lần ông xin cáo quan về quê, khi thì lấy cớ dưỡng bệnh, lúc lại bận việc nhà... 1.3. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi ._. Sinh thời Nguyễn Du có thể hoang mang dao động chưa thể đứng vào hàng ngũ của lực lượng xã hội tiến bộ. Song, âm vang của một thời đại đầy bão táp, của một cuộc đời đầy sóng gió đã giúp nhà thơ nhận ra rành rẽ đâu là điều cần khẳng định, bảo vệ, đâu là điều phải phủ nhận, lên án. Vì thế cái nhìn của vị quan trên con đường hoạn lộ dù vẫn thấp thoáng ánh buồn đau nhưng, so với trước, đã khỏe khoắn hơn và chứa đầy ý tưởng lớn: Mạc đạo chủy thủ cánh vô tế, Yết can trảm mộc vi tiên thanh. (Kinh Kha cố lý) (Chớ bảo rằng mũi dao nhọn kia chẳng ích gì, Nó mở đầu cho việc chặt cây làm giáo, làm cán cờ khởi nghĩa.) Đó là cái nhìn khái quát sự vận động tất yếu của lịch sử đồng thời cũng là lời nhắc nhở, cảnh báo dành cho các bậc đế vương. Xưa nay nếu người trị nước nào cũng nhìn rõ cái lẽ tất yếu ấy thì đã không có cảnh vua quan thừa mứa, hoang dâm vô độ, chèn ép trọng thần, vơ vét của dân; cũng không có thảm cảnh đau lòng dân nghèo dắt díu nhau đi tha phương cầu thực chết đói phơi xương đầy đường chợ! Một điều đáng lưu ý nữa là khi viết về lịch sử Trung Hoa, Nguyễn Du luôn có ý thức nối kết lịch sử – hiện tại, Trung Quốc – Việt Nam. Đó là ý thức thường xuyên và nhất quán, thể hiện cái nhìn sâu sắc và hiệu quả của nhà thơ đối với việc nhận thức bản chất xã hội. Từ sự liên kết có quy luật này, Nguyễn Du đã vạch ra một cách tự phát đặc trưng của nền chính trị “ ăn thịt người” tồn tại ở Trung Hoa mà cũng là ở Việt Nam mấy nghìn năm qua. Hiện thực thường xuyên được nhắc đến ở cuối mỗi bài thơ viết về nhân vật lịch sử. Hiện thực hiện lên trong trang thơ có thể là không gian hoang vu, là thời gian úa tàn. Hiện thực còn hiện lên qua hình ảnh những con người “thời bình”, “thời nay”. Ở những bài thơ này, cái nhìn đối sánh của nhà thơ thể hiện rõ nét nhất, từ đó cái nhìn phản tỉnh cũng được bộc lộ một cách sắc sảo: Thanh thời đa thiểu tu như kích, Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn. (Tam liệt miếu) (Thời bình biết bao kẻ râu vểnh lên như ngọn kích, Nói hiếu, bàn trung, ai cũng tự suy tôn mình.) Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục, Sở bội tiêu lan cánh bất đồng. (Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu II) (Gần đây mỗi khi người ta thích trang phục lạ, Thì thứ hoa tiêu, hoa lan họ đeo chẳng giống ông chút nào.) Thanh bình thời tiết vô chiến tranh, Nhất khẩu hùng đàm bất sổ Liêm Pha dữ Lí Mục. (Liêm Pha bi) (Gặp thời thanh bình không có chiến tranh, Đều nhất loạt nói hăng, chẳng kể Liêm Pha, Lí Mục.) Có thể thấy cảm quan hiện thực thấm đượm trong những bài thơ viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Du. Làm những bài thơ này, Nguyễn Du đã mượn xưa bàn nay, mượn những sự tích, những nhân vật của quá khứ để phát biểu về cuộc sống theo như nhà thơ nhìn thấy và cảm nhận. Bản chất xã hội phong kiến Trung Quốc trong quá khứ hay thực tại cũng giống xã hội phong kiến Việt Nam mà thôi. Ở đó, tinh hoa dân tộc bị rẻ rúng, ruồng rẫy, bị bức đến đường cùng. Ở đó, nhân dân lao động bị đói rét cùng cực đến chết. Ở đó, danh lợi, quyền lực là miếng mồi ngon khiến người đời cấu xé, thậm chí giẫm đạp lên nhau để giành lấy. Ở đó, những kẻ hèn nhát, xu thời hay gian ác xấu xa mà vẫn chức cao vọng trọng, vinh hoa phú quý. Viết về quá khứ, Nguyễn Du đau nỗi đau của người xưa. Nỗi đau ấy nhân lên gấp bội khi nhà thơ nhìn vào hiện thực, thấy những bậc hiền tài, tiết nghĩa chỉ còn lại những nấm mồ hoang, mọc đầy cỏ dại còn bọn “ăn thịt người” thì vẫn vênh váo, vẫn đi lại xênh xang. Bi phẫn tột độ khi thi nhân nhận ra đời sau người người đều là Thượng Quan hiểm ác, nơi nơi đều là dòng chảy Mịch La oan nghiệt. Một thái độ phủ nhận rõ ràng! Không chỉ phủ nhận xã hội sau thời Tam Hoàng mà còn phủ nhận chính cuộc sống thực tại, phủ nhận cả một nền chính trị “chuyên ăn thịt người”! Điều gì còn tồn tại được nếu con người, xã hội đi ngược lại với lí tưởng nhân văn? Bằng cái nhìn nối kết quá khứ – hiện tại, Trung Quốc – Việt Nam, cái nhìn của vị quan Nguyễn Du chứa đựng những bài học lớn về thời thế, nhân sinh. Danh lợi phú quý chỉ là thứ phù phiếm, nếu chỉ biết đuổi theo những điều phù phiếm ấy, con người sẽ phải ôm hận vì không đạt được sở nguyện hoặc đạt được sở nguyện nhưng chỉ để lại tiếng xấu đến muôn đời sau như Tào Tháo, như Chu Du. Những giá trị được trân trọng và trường tồn cùng hậu thế đó là lòng trung trực, tiết nghĩa, tài hoa của con người. Những bài học ấy nhẹ nhàng đi vào lòng người với sức sống mãnh liệt, không hề có tính chất răn đe, áp đặt. Khi nào xã hội này vẫn còn những Tần Cối, Vương Thị, Tào Tháo, Mã Viện, Tô Tần… thì khi ấy những bài học nhân sinh của Nguyễn Du vẫn còn nguyên tầm giá trị lớn lao của nó! 4.2. NỖI ÁM ẢNH VỀ SỰ TÀN PHAI CỦA CUỘC ĐỜI Trong những năm tháng lưu lạc giữa gió bụi trần gian, Nguyễn Du từng băn khoăn về lẽ đổi thay của cuộc đời, về số mệnh và văn chương. Trên con đường hoạn lộ, điều mà ông quan tâm không chỉ là những vấn đề của một triều đại, không chỉ là những chức phận ông được triều đình giao phó; điều ông quan tâm rộng lớn hơn rất nhiều, đó là cả cuộc đời này. Tại sao có những đống xương tàn của trăm trận đánh? Tại sao có những người phải lê la đầu đường xó chợ kiếm miếng ăn và biết bao người bỏ mạng bên ngòi rãnh vì đói trong khi có những người khác vây cá gân hươu cũng không thèm đụng đũa? Tại sao người hồng nhan, bậc tài hoa thường hay bạc mệnh vắn số? Và tại sao biển đời này không ngừng dồn dập những cơn sóng dâu bể, tang thương? Tất cả những câu hỏi ấy luôn thôi thúc trong lòng, khiến vị đại quan họ Nguyễn luôn thao thức, băn khoăn, khiến ông không bao giờ cảm thấy vui vẻ, thanh thản. Trên con đường đi sứ, những điều mắt thấy, tai nghe, cộng với những điều từ lâu trăn trở, ấp ủ trong lòng làm dấy lên trong lòng vị đại quan một nỗi trăn trở lớn, tạo thành một cảm hứng bi thiết về sự mong manh của cuộc đời và số phận con người. Trước hết, sự đổi dời không ngừng nghỉ của tạo hóa, sự biến động khôn lường của cuộc đời tạo một mối u hoài lớn trong lòng nhà thơ. Nó không phải là nỗi bi cảm nhẹ nhàng, kín đáo như trong thơ Haikư Nhật Bản: Chim đỗ quyên hót ở kinh đô mà nhớ kinh đô. (Ba-sô) Ba Tiêu thi sĩ ở cố đo Ki-ô-tô từ thời còn trẻ, sau đó chuyển lên Ê-đô. Hai mươi năm sau, vào lúc cuối đời, ông trở lại, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà viết nên bài thơ. Ở Nhật Bản, chim đỗ quyên là loài chim rất nổi tiếng trong thơ ca. Nó thường kêu vào mùa hè, không hót khi trời đẹp mà thường hót vào xẩm tối, vào đêm trăng, sau khi trời mưa… tiếng kêu rất thê thiết. Vì thế tiếng chim thường được dùng với nghĩa thương tiếc thời gian, thể hiện nỗi buồn và sự vô thường. Trong bài thơ, chủ thể đã bị xóa nhòa, chỉ còn tiếng chim kêu khắc khoải và nỗi hoài niệm. Ở kinh đô nhưng vẫn nhớ đến kinh đô, đó là kinh đô của ngày xưa, một kinh đô đầy kỉ niệm, một kinh đô đã vĩnh viễn qua rồi. Thơ Nguyễn Du cũng không có được sự tự tại vững vàng trước dòng chảy thời gian, sự trôi chảy của cuộc đời như trong thơ Thiền thời Lí Trần: Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. (Mãn Giác, Cáo tật thị chúng) (Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa cười Trước mắt việc đi mãi Trên đầu, già đến rồi Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một cành mai.) Bài thơ mở đầu bằng quy luật muôn đời của tạo hóa như một vòng quay bất tận “xuân khứ bách hoa lạc – xuân đáo bách hoa khai”. Gắn với lạc – khai là xuân khứ - xuân đáo mang ý nghĩa khái quát về cái mất đi – cái đang đến trong ý thức của chúng sinh đang đắm chìm giữa vòng vây luân hồi. Ngụ ý của Mãn Giác đại sư khi chọn hai thời điểm mùa Xuân trong mối liên hệ đời hoa dường như cũng để khai nhãn cho chúng sinh đừng ảo tưởng về một mùa xuân bất biến, con người vẫn phải chấp nhận lẽ vô thường, hư huyễn của tự nhiên mà thôi! Hai câu thơ tiếp theo thể hiện nhận thức của thiền sư trước quy luật sinh, lão, bệnh, tử của đời người. Năm tháng qua đi, việc đời cứ thế tiếp diễn. Con người cũng theo đó mà biến đổi dần đi trước cuộc đời dâu bể. Vũ trụ thì chảy trôi bất tận trong khi đó con người và cuộc đời thì hữu hạn. Hai câu kết của bài thơ đã diễn giải một cách hết sức giản đơn nhưng thâm thúy giáo lý của Thiền tông - thuộc Phật giáo Đại thừa. Điều mà Thiền học muốn hướng con người đến không phải là trông chờ vào một cõi tồn tại khác sau cái chết, cũng không phải là tìm cách thay đổi thực tại mà là thay đổi thái độ với chính hiện thực ấy. Cái vòng sinh, lão, bệnh, tử sẽ vẫn luôn còn đấy như mùa hạ và mùa đông vẫn sẽ đến rồi đi nằm ngoài nhân ý của con người. Nếu như ở bốn câu đầu ngắn và đều đặn với nhịp thơ 2/3 diễn tả sự tuần hoàn chảy trôi của thời gian và thoáng gợn chút thảng thốt, lo âu thì hai câu kết kéo dài hơn với nhịp thơ 2/2/3, vững vàng, trang trọng, đĩnh đạc thể hiện sự ung dung, bình tĩnh, tự tại của nhà thơ trước cuộc đời mang những biến đổi không ngừng. Hai chữ “mạc vị” thể hiện sự khẳng định mạnh mẽ, “đối thoại với thiên nhiên, con người. Xuân tàn nhưng hoa không rụng hết. Cái nồng ấm, tươi đẹp của mùa xuân đã đi qua nhưng vẫn còn đó một cành mai rung rinh trước sân. Sự sống tươi đẹp vẫn đang tồn tại ngay trong chính sự héo úa, tàn phai bất chấp gánh nặng thời gian đang đè nặng. Nổi bật trong hai câu kết, và trong cả bài thơ, là hình ảnh nhành mai thanh thản rung rinh trước gió. Mai là một trong tứ quý của người xưa. Mai thể hiện sức sống mãnh liệt, thể hiện sự cao quý và thanh khiết. Trong bài kệ này, cành mai là biểu hiện cho cái chân tâm của người đạt đạo, an nhiên tự tại vượt lên trên sinh diệt, là niềm tin vào sự sống vẫn không ngừng sinh sôi nảy nở đến bất tận dù cuộc sống thì có hạn định, có thời gian, là biểu tượng cho những giá trị đẹp đẽ tồn tại vĩnh hằng mãi mãi. “Nhất chi mai” thể hiện sự bất diệt và vẻ đẹp tâm linh theo quan niệm Phật giáo. Vượt trên mọi bể dâu, biến đổi của cuộc đời cành mai kia vẫn kiêu hãnh tươi thắm. Hai câu thơ bảy chữ như một bước rẽ ngoặt bứt khỏi nhịp đều đặn tuần hoàn của bốn câu thơ năm chữ, toát lên sự tự do tuyệt đỉnh, tự do với chính cả cái chết của con người đã giác ngộ được quy luật cuộc sống và hiểu rõ giá trị đời sống. Nhưng thơ Nguyễn Du không có được cái an nhiên tự tại ấy. Nó chứa đựng sự nuối tiếc, đôi khi là nỗi lo sợ và niềm chua xót trước bước đi nghiệt ngã của thời gian: Tản lĩnh Lô giang tuế tuế đồng Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long Thiên niên cự thất thành quan đạo Nhất kiến cô thành một cố cung Tương thức mỹ nhân khan bảo tử Đổng du hiệp thiếu tẫn thành ông Quan tâm nhất dạ khổ vô thuỵ Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung. (Thăng Long I) (Núi Tản sông Lô bao nhiêu năm vẫn thế Đầu đã bạc rồi mà lại thấy Thăng Long Những ngôi nhà xưa nay đã thành đường cái quan. Dãi thành mới làm mất cung điện xưa Các mỹ nhân ngày trước giờ đã có con bồng Các bạn hào hiệp thuở xưa giờ đã thành ông Suốt đêm nghĩ ngơi, thao thức không ngủ Văng vẳng nghe tiếng sáo trong ánh trăng.) Bài thơ được làm trên đường Nguyễn Du đi sứ qua Thăng Long năm 1813. Nguyễn Du chỉ xa Thăng Long khoảng mười năm trời, nhưng ông thấy dường như tất cả đều đã biến đổi, tất cả đều tàn lụi và buồn. Chỉ có một niềm vui chua chát: Bạc đầu còn được thấy Thăng Long! Cho nên trong đêm trùng phùng đất cũ, người thơ suốt đêm dài thao thức. Lặng nghe tiếng sáo hoà lẫn ánh trăng man mác một nỗi u hoài. Thân thì tĩnh mà lòng dấy động phong ba! Lúc khác, lẽ thương hải tang điền của cuộc đời khiến nhà thơ đau lòng mà rơi lệ: Thuấn tức bách niên năng kỉ thì, Thương tâm vãng sự lệ triêm y. (Long Thành cầm giả ca) (Trăm năm như chớp mắt có là bao, Đau lòng việc cũ lệ thấm áo.) Trải qua nhiều biến cố dồn dập của cuộc sống, cuộc đời trôi dạt nhiều nơi, tận mắt chứng kiến những sự kiện vật đổi sao dời, những cảnh đời thương tâm, ngang trái… Nguyễn Du thấm thía triết lý của đạo Phật coi cuộc đời là vô thường. Ông nhìn cuộc đời bằng con mắt của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, yêu thương, xót xa cho thân phận con người: Cuộc đời trăm năm biết bao nhiêu chuyện thương tâm (Giang Đình Hữu Cảm). Câu thơ nặng trĩu nỗi niềm xúc cảm của Nguyễn Du. Xúc cảm ấy trong mạch văn ấy biểu lộ nỗi đau đời khôn nguôi, nỗi thương đời vô hạn do chính cảm nhận chân thực của ông về cuộc đời, nên có sức mạnh truyền cảm, lan toả đến muôn đời sau. Hơn nữa, câu thơ của Nguyễn Du còn cho thấy tâm thế khái quát sự vật, khái quát cuộc đời của ông. Ông không phải là người ngoài cuộc trong cuộc đời đầy rẫy những bi ai này. Những nỗi đau đời của người khác cũng là nỗi đau đời của chính Nguyễn Du. Ông là người quan sát, người đồng cảm, người cùng chia sẻ, người trong cuộc. Cái tâm thương cảm, đồng cảm, chia sẻ của Nguyễn Du đã khiến cho triết lý cuộc đời của ông tràn đầy chủ nghĩa nhân văn. Sự trôi chảy nhanh chóng của tuổi trẻ, nhan sắc, sự nổi chìm lạ kì của số phận con người theo dòng thời gian và dòng đời cũng tạo mối thương tâm, trăn trở lớn trong lòng Nguyễn Du. Trong bài Long thành cầm giả ca, Nguyễn Du đã kể lại hai lần gặp gỡ một cô đào hát tên Cầm. Ở lần gặp thứ nhất, hiện lên trong trang thơ là hình ảnh cô gái tươi đẹp như hoa mùa xuân: Kì thì tam thất chính phương niên Hồng trang yểm ái đào hoa diện Đà nhan hám thái tối nghi nhân Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến. (Long thành cầm giả ca) (Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi, Áo hồng ánh lên mặt hoa đào, Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương, Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.) Hai mươi năm sau gặp lại, cũng là người con gái ấy, nhưng hình ảnh đã hoàn toàn khác xưa: Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa Nhan sấu thần khô hình lược tiểu Lang tạ tàn mi bất sức trang Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu. (Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm, Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ, Đôi mày phờ phạc không điểm tô, Ai biết đó là người tài danh bậc nhất của kinh thành xưa). Và trước cái biến đổi “nhãn tiền” của nàng Cầm, nước mắt nhà thơ đã ướt đẫm vạt áo. Những giọt nước mắt kia, ngoài việc dành cho sự biến đổi chóng vánh của cuộc đời; sâu hơn, nó còn dành cho nỗi buồn đau về những gì càng tài năng, càng thanh sắc thì càng bị hủy diệt nhanh chóng. Quy luật nghiệt ngã ấy, Nguyễn Du từng nhiều lần đau đớn thốt lên: chữ tài liền với chữ tai một vần; tài tình chi lắm cho trời đất ghen (Truyện Kiều) hay: Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư. (Độc Tiểu Thanh kí) Nguyễn Du cũng không khỏi đau lòng, ngao ngán khi phát hiện ra ngay cả những giá trị tinh thần đẹp đẽ nhất của cuộc đời, của văn hóa nhân loại cũng bị thời gian tàn phá, không thoát được dòng chảy nghiệt ngã của thời gian. Thành quách, công danh tan theo bèo nước đã đành; đền đài, bia miếu vốn là không gian linh thiêng nơi người sống thể hiện lòng thương xót, lưu luyến, kính trọng đối với những bậc hiền tài, danh nhân vậy mà, bày ra trước mắt Nguyễn Du là hình ảnh bia tàn, chữ mất, là miếu mồ trở thành hang chuột cáo. Có sự đau đớn trước bước đi lạnh lùng của thời gian. Và có nỗi xót xa trước sự hững hờ của hậu thế đối với những linh hồn nghìn xưa tiết nghĩa. Trên con đường hoạn lộ, Nguyễn Du bị ám ảnh một khung cảnh rất hay xuất hiện gợi lên bao nỗi u hoài: đó là không gian hoang tàn đổ nát của đền đài, mồ mả, gò đống, lồng trong thời gian của những buổi chiều thu tê tái gió thổi hiu hắt. Theo tác giả Lê Thu Yến, Nguyễn Du đã 84 lần nhắc đến hình ảnh đền đài, mồ mả, gò miếu trong thơ chữ Hán [55]. Hình ảnh đền đài, gò miếu, mồ mả trong “Bắc hành tạp lục” xuất hiện với tần số cao ở những bài thơ viết về hai kiểu nhân vật: những bậc hiền, tài bạc mệnh và những nhân vật quyền thế một thời. Chúng tôi cũng nhận thấy dụng ý nghệ thuật, cảm xúc Nguyễn Du khi sử dụng những hình ảnh đền đài, miếu mộ gắn liền với hai kiểu nhân vật trên là khác nhau. Các nhân vật quyền thế xuất hiện trong bài thơ với những nét phác họa về một thời lừng lẫy tranh hùng xưng bá thiên hạ. Nhưng rồi, ở cuối bài thơ luôn là hiện thực điêu tàn: Đài cỏ tuy tại, dĩ khuynh dĩ Âm phong nộ hào thu thảo mĩ. (Đồng Tước đài) (Nền đài tuy còn nhưng đã nghiêng lở Gió lạnh réo gào giận dữ, cỏ thu tàn úa.) Ngõa lịch Ngô cung hoang đế nghiệp, Kinh trăn cổ mộ thượng hùng danh. (Chu Lang mộ) (Cung Ngô thành đống gạch vụn, nghiệp đế tan tành, Ngôi mộ cổ gai góc mọc đầy còn nức tiếng anh hùng.) Công danh, quyền lực tất cả đều thuộc về dĩ vãng. Tướng soái, đế vương cuối cùng cũng chỉ còn lại nấm mồ đầy cỏ dại. Vậy thì tại sao con người lại phải thù hằn chém giết nhau để tranh giành ngôi vị, đất đai? Há chẳng phải cát bụi lại trở về với cát bụi đó ư? Nhân gian huân nghiệp nhược trường tai, Thử địa cao đài ưng vị khuynh. (Đồng Tước đài) (Nghiệp lớn ở đời nếu còn mãi được, Thì tòa đài cao ở khoảng đất này chắc chưa bị đổ.) Nguyễn Du đưa ra một lập luận rất chặt chẽ. Nghiệp lớn trên đời nếu trường tồn thì tòa đài cao kia cũng phải đứng nguy nga cho đến hôm nay. Nay trước mắt đài đã tan hoang, vậy thì nghiệp lớn cũng chỉ là mây khói. Đó là bài học, là lời nhắc nhở thấm thía đối với những ai nuôi giấc mộng tranh đoạt công danh. Khác với thông điệp ấy, hình ảnh đền đài, gò miếu, mồ mả xuất hiện trong những bài thơ viết về các nhân vật danh nhân văn hóa mang một ý nghĩa khác. Nguyễn Du đã 27 lần sử dụng các hình ảnh ấy trong 48 bài thơ viết về các bậc hiền tài, tiết nghĩa. Công danh, quyền lực tan biến theo bèo nước đã đành, tại sao những giá trị đẹp đẽ nhất của con người cũng bị thời gian tàn phá? Tự cổ chí kim, người nghệ sĩ hơn ai hết luôn nhận ra rất rõ bước đi khắc nghiệt của thời gian. Người xưa từng u hoài: Xử thế nhược đại mộng (Lý Bạch ) Người nay cũng khắc khoải: Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá Kỉ niệm trong tôi Rơi Như tiếng sỏi Trong lòng giếng cạn. (Văn Cao) Nhưng nhận ra rồi bàng hoàng, rồi thảng thốt, rồi trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi thì có lẽ chỉ riêng Tố Như: Thu thảo nhất khâu tàng thử hạc, Danh gia bát đại thiện văn chương. (Âu Dương Văn Trung mộ) (Một gò cỏ thu trở thành nơi chứa chuột chồn, Đứng tromg hàng tám văn hào lớn lừng tiếng văn chương.) Bi tàn một tự mai hoang thảo, Thiên cố văn phong nhất há xa. (Liễu Hạ Huệ mộ) (Bia tàn chữ mất chôn vùi trong cỏ hoang, Nghìn năm sau, nghe danh tiếng ông, tôi xuống xe để tỏ lòng kính trọng.) Đền đài, bia miếu vốn là không gian linh thiêng của những người đã ra đi khỏi thế giới. Đó cũng là nơi người sống thể hiện lòng thương xót, lưu luyến, kính trọng đối với những bậc hiền tài, danh nhân. Vậy mà, ngày nay, bày ra trước mắt Nguyễn Du là hình ảnh bia tàn, chữ mất, là miếu mồ trở thành hang chuột cáo. Có sự đau đớn trước bước đi lạnh lùng của thời gian. Và có nỗi xót xa trước sự hững hờ của hậu thế đối với những linh hồn nghìn xưa tiết nghĩa: Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa, Sao ở đây hương khói lạnh lẽo thế này ? Dưới ánh mắt Nguyễn Du, qua sự tàn phá của thời gian, không một thứ gì còn lại nguyên vẹn. Thành quách nghiêng lở, đình miếu hương lạnh, khói tàn, bia mộ vùi lấp trong cỏ áy chiều tà, dung nhan yêu kiều chỉ còn lại vẻ mặt bơ phờ, tiều tuỵ. Ta hiểu được vì sao Nguyễn Du lại nhạy cảm đến thế trước sự tàn phai của tạo vật, đời người. Sống giữa một thời đại lịch sử đầy biến động dữ dội, trải qua những cơn gia biến lưu lạc, chứng kiến bao phen thay đổi sơn hà, cảm nhận rõ ràng sự suy tàn của một đế chế, Nguyễn Du không khỏi thảng thốt, bàng hoàng. Ông không thể yên tâm chọn cho mình một hướng đi nhất định, làm thế nào cũng thấy không thỏa lòng. Con người ấy đã cô độc, day dứt đi giữa cõi phù sinh, giữa gió mưa li loạn của thời đại để đi tìm câu trả lời cho cuộc đời, cho số phận con người. Và càng đi tìm thì càng không thấy cho nên tất cả những băn khoăn, yêu ghét cứ quấn quyện lại với nhau, dội ngược trở lại vào lòng, làm thành một mối bi thiết không cách gì gỡ ra được và dường như bản thân ông cũng không muốn, không nỡ gỡ ra! Những cảm xúc bi thương ấy dâng tràn theo mỗi bước chân ông và trở thành nỗi ám ảnh trong tâm hồn vị quan suốt cả cuộc hành trình dài: NỖI – ÁM – ẢNH – VỀ – SỰ – TÀN – PHAI. Đó không chỉ là nỗi ám ảnh về sự phai tàn của tuổi trẻ, của giấc mộng gác vàng. Cũng không phải là sự tàn phai của một kiếp người, một triều đại. Mà đó là nỗi ngậm ngùi của một bậc thánh nhân trước sự phai tàn của mọi vẻ đẹp trong cuộc đời này! Nguyễn Du xem nhẹ, phủ nhận quyền lực, vinh hoa. Nhưng Nguyễn Du trân trọng, khẳng định con người và những giá trị tốt đẹp thuộc về bản chất người. Không chỉ đề cao, nhà thơ khao khát lưu giữ bảo vệ những giá trị đẹp đẽ ấy. Vì vậy trong nỗi ám ảnh về sự tàn phai, nhà thơ dường như muốn lên tiếng nhắc nhở hậu thế về lẽ tiết nghĩa trên đời. Nếu thế hệ hôm nay không gìn giữ truyền thống văn hóa thì thế hệ mai sau làm sao biết đến một nền văn hóa truyền thống đẹp đẽ, ngời sáng giá trị nhân văn mà tiền nhân đã phải đánh đổi bằng máu xương để tôn tạo. Nhân loại sẽ đi về đâu nếu con người quay lưng lại với những giá trị nhân bản, nhân văn của chính mình? KẾT LUẬN 1. Lịch sử văn học dân tộc tự hào có những vị đại quan đồng thời là những nhà thơ tài hoa. Nguyễn Du cũng là một trong số đó. Con đường hoạn lộ của Nguyễn Du khá bằng phẳng, hanh thông; ông làm việc được sĩ phu và nhân dân yêu mến. Song có một con đường hoạn lộ khác hiện diện trong thơ ca, không hề bằng phẳng, hanh thông và đơn giản. Ấy là con đường mà vị đại quan – nhà thơ đã trải qua trong tư tưởng của mình. 2. Trên con đường ấy, Nguyễn Du gửi gắm những tâm sự riêng tư, ghi lại những điều tai nghe mắt thấy, bày tỏ thái độ của mình đối với việc nguời, cảnh đời… Trước hết, có thể thấy trong thời gian làm quan, nhà thơ luôn rơi vào một tâm trạng u uất, bất đắc chí. Ông chán ngán chốn quan trường nhiễu nhương, thờ ơ với vòng danh lợi, tha thiết muốn trở về với cuộc sống thanh sơ đạm bạc chốn quê nhà nhưng lại không thể quay lưng với cuộc đời dâu bể. Không chỉ có những tâm sự riêng, nhà thơ, với những điều mắt thấy tai nghe, với những gì từ lâu nung nấu trong lòng đã thẳng thắn bày tỏ thái độ của mình đối với thời thế, nhân sinh. Ông ca tụng, trân trọng những giá trị tinh thần đẹp đẽ của con người: khí tiết, lòng trung nghĩa, tài hoa; đồng thời khinh bỉ, căm ghét những kẻ xấu xa, gian ác, ti tiện, cả một đời chỉ biết chạy theo phú quý công danh để mong vinh thân phì gia. Và thi nhân thương cảm, xót xa vô hạn trước nỗi đau khổ và những bi kịch của con người. Vượt lên trên tâm trạng riêng và thái độ đối với mỗi việc, mỗi cảnh đời cụ thể, ở vị quan Nguyễn Du còn là một nỗi băn khoăn, thao thức lớn về số phận của con người và cuộc đời. Băn khoăn nhưng không thể lí giải cho nên nhà thơ mang trong lòng một nỗi trăn trở lớn, một cảm hứng bi thiết về sự mong manh của cuộc đời và số phận con người. 3. Trong quãng đời làm quan của mình, Nguyễn Du ghi lại dấu ấn đẹp đẽ của một vị quan thanh liêm, luôn cố gắng làm tròn chức phận, không một chút thiết tha cầu vị với danh lợi phú quý. Hiện lên trong thơ ca còn là hình ảnh một vị quan cả cuộc đời bất đắc chí, ôm mối ưu tư và nỗi cô đơn không cách gì giải tỏa được. Song quan trọng hơn, đến với những bài thơ chữ Hán Nguyễn Du làm trên con đường hoạn lộ, có thể thấy, rõ ràng việc ra làm quan hay vấn đề các triều đại không phải là mối quan tâm lớn nhất của ông. Mối quan tâm lớn của Nguyễn Du chính là cuộc đời và số phận con người. Vì vậy hình ảnh Nguyễn Du hiện lên trong những bài thơ sáng tác trên con đường hoạn lộ là hình ảnh của một vị quan ưa triết luận, suy tư. Những triết luận, suy tư chứa đựng tư tưởng nhân đạo, nhân văn là những giá trị ngời sáng của tâm hồn Nguyễn Du và thơ ca Nguyễn Du. Không dừng lại ở đó, những vấn đề Nguyễn Du nung nấu còn là những vấn đề sinh tồn mang tính bản thể luận. Nó đưa nhà thơ vượt ra khuôn khổ của thời đại và dân tộc, khiến ông bất tử và thuộc về nhân loại. 4. Sống giữa một thời đại đầy biến động bể dâu, mang trong mình những ý tưởng lớn của cuộc sống, Nguyễn Du rơi vào một nỗi cô đơn mênh mang sâu thẳm giữa cõi đời: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Câu hỏi lớn, đau đáu, thiết tha thể hiện niềm hi vọng, mong chờ vào hậu thế, vào sự hồi sinh đẹp đẽ của cuộc đời. Đến nay, từ điểm nhìn hai trăm năm, cả dân tộc vẫn hướng về ông để cùng chia sẻ những yêu thương, căm giận, để ngưỡng mộ ông về sự mẫu mực tuyệt vời của một nhân cách và tầm tư tưởng đạt đến đỉnh cao chói lọi trong nền thơ ca mà chưa ai sánh ngang bằng. Hôm nay đây, đọc lại Nguyễn Du đã hai thế kỷ mà vẫn như đang gợi mở cho ta biết bao câu hỏi lớn về thời cuộc, bao vấn đề lớn đang đặt ra cho sự nghiệp giải phóng nhân loại; xây dựng một cuộc sống thật sự dân chủ, bình đẳng, tự do, ấm no và hạnh phúc cho con người. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật Bản, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh. 2. Trương Chính - Nguyễn Thạch Giang (2001), Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 3. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, Tái bản có bổ sung và sửa chữa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 4. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào dân tộc, NXB Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh. 5. Ngô Viết Dinh (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh. 6. Trần Hữu Duy - Nguyễn Phong Nam (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, NXB Giáo dục. 7. Lê Anh Dũng (1994), Con đường tam giáo Việt Nam, NXB TP HCM. 8. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. 9. Trần Xuân Đề (2003), Tác giả tác phẩm Văn học phương Đông (Trung Quốc), NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. 10. Trịnh Bá Đĩnh (1999), Nguyễn Du về tác gia tác phẩm, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. 11. Nhiều tác giả (1971), Thơ văn Lý Trần, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, HN. 12. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hóa. 13. Hồ Sĩ Hiệp (1998), Đỗ Phủ, NXB Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh. 14. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm nhìn từ góc độ thi pháp học, NXB Giáo dục Hà Nội. 15. Đinh Gia Khánh (2005), Điển cố văn học, NXB Văn học, Hà Nội. 16. Vũ Ngọc Khánh (1992), Giai thoại văn học Trung Quốc, NXB Văn học, TP. Hồ Chí Minh. 17. Lê Đình Kỵ (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 18. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, NXB KHXH Hà Nội. 19. Mai Quốc Liên (1992), Trước đèn, NXB Văn nghệ TP HCM. 20. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập, NXB Văn học, TP. Hồ Chí Minh. 21. Nguyễn Thế Long (2001), Chuyện đi sứ - tiếp sứ thời xưa, NXB Văn hóa thông tin, TP. Hồ Chí Minh. 22. Nguyễn Lộc (1990), Nguyễn Du con người và cuộc đời, NXB Đà Nẵng. 23. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. 24. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Tái bản lần thứ ba, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 25. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Tái bản lần thứ 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 26. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ, NXB Trẻ. 27. Ngô Thì Nhậm (2004), Ngô Thì Nhậm toàn tập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 28. Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức (1969), Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, NXB KHXH Hà Nội. 29. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh, NXB Giáo dục, Hà Nội. 30. Vũ Tiến Quỳnh (1991), Nguyễn Du (Tuyển chọn những bài bình luận), Khánh Hòa. 31. Trương Hữu Quýnh (2005), Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. 32. Trần Trọng San (1990), Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường, NXB ĐH Tổng hợp TP HCM. 33. Đặng Đức Siêu (1999), Ngữ liệu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 34. Nguyễn Hữu Sơn - Trần Đình Sử… (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 35. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, NXB TP HCM. 36. Trần Đình Sử (1996), Lí luận phê bình văn học, NXB Hội nhà văn Hà Nội. 37. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 38. Trần Đình Sử (2007), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội. 39. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - tác gia - tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Tập 2, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 40. Bùi Duy Tân (chủ biên) (2007), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (Thế kỷ X – XIX), 2 tập, Tái bản lần 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 41. Quách Tấn (1998), Thi pháp thơ Đường, NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh. 42. Nguyễn Bá Thành (2005), Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, NXBĐHQG Hà Nội. 43. Tư Mã Thiên (1988), Sử Kí, Nhữ Thành dịch, NXB Văn học, TP. Hồ Chí Minh. 44. Phạm Thiều - Đào Phương Bình (1993), Thơ đi sứ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 45. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam: dưới góc nhìn văn hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội. 46. Lương Duy Thứ (2000), Đại cương văn hóa phương Đông, NXB Giáo dục. 47. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và Văn học, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 48. Lê Ngọc Trà (1994), Mỹ học đại cương, NXB Văn hóa thông tin. 49. Đỗ Minh Tuấn (1995), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội. 50. Phan Thị Bích Vân (2003), Hình tượng nghệ thuật về con người trong “Bắc hành tạp lục” của Nguyễn Du, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 51. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh. 52. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 53. Trần Ngọc Vương (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX, những vấn đề lý luận và lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội. 54. Lê Thu Yến (1995), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh. 55. Lê Thu Yến (2003), Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5158.pdf
Tài liệu liên quan