Nguồn vốn kinh doanh và vấn đề tao lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại VN hiện nay

lời nói đầu Vốn là chìa khoá của mọi quá trình phát triển kinh tế xã hội, nguần vón là nguyên liệu “ đầu vào”, là hoạt động thường xuyên liên tục của hệ thống NHTM. Các NH chỉ có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh một khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ huy động vốn của mình . Một nền kinh tế vận hành và phát triển đều phải dựa trên cơ sở các yếu tố sản xuất bao gồm : Lao động, vốn, đất đai. Ngoài ra là công nghệ và quản lý, trong đó v

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguồn vốn kinh doanh và vấn đề tao lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại VN hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn là một yếu tố cực kỳ quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội . Vốn ở đây bao gồm : Tiền tệ, vật tư, kỹ thuật , tri thức khoa học... Nhưng trong cơ chế thị trường các quan hệ kinh tế được tiền tệ hoá thì tiền tệ thực sự trở thành nguần vốn quan trọng nhất, bao trùm nhất và linh hoạt nhất . Đối với nước ta, để đưa đất nước vượt qua tình trạng một nước nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện để cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI, thúc đẩy sự phát triển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại càng cần có một khối lượng vốn lớn . Mặt khác, với tình hình kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á làm cho hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang gặp khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế đang có dấu hiệu chững lại thì việc tăng cường khai thác nội lực từ bên trong là một giải pháp hết sức cần thiết và cấp bách để tiếp tục giữ vững được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã đạt được trong nhiều năm qua . Từ thực tế nền kinh tế nước ta và sự quan trọng và cần thiết của nguồn vốn đối với qúa trình phát triển kinh tế của đất nước mà em đã chọn đề tài này . Em hy vọng khi nghiên cứu xong đề tài này, em xẽ rút ra được nhiều bài học bổ ích tạo điều kiện để em hiểu sâu hơn được vấn đề . Trong quá trình nghiên cứu do trình độ có hạn nên em xin được nêu lên những vấn đề cơ bản, phần nào còn thiếu sót em mong thầy chỉ bảo thêm . em xin chân thành cảm ơn thầy nhiều . phần I . Nguồn vốn và vấn đề huy động vốn của NHTM Việt Nam hiện nay : Vài nét về Ngân Hàng Thương Mại : Ngân Hàng Thương Mại (Commercial Bank ) là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng . Vì vậy, nó liên quan đến tất cả các ngành, các mặt của đời sốnga kinh tế xã hội . Do vậy Ngân Hàng Thương Mại có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội . Hiệu quả kinh doang của NHTM đạt được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của các Doanh Nghiệp vay vốn ngân hàng . Ngân hàng không trực tiếp sinh ra lợi nhuận mà thông qua các doanh nghiệp bằng hình thức “ Giá của quyền sử dụng vốn” mà giá ( lãi suất ) ở đây được thu đủ và đều đặn nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả . Ngược lại, nếu doanh nghiệp bị thua lỗ thì ngân hàng sẽ không thu được lãi mà vốn cũng có nguy cơ hao hụt . Như vậy hiệu quả tài sản có của ngân hàng sẽ không đạt được theo ý muốn. Đứng trên góc độ tín dụng đó là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội . Hoạt động của NHTM dựa trên các nghiệp vụ : Nghiệp vụ nợ Nghiệp vụ có Nghiệp vụ trung gian Trong đó nghiệp vụ nợ giữ vai trò rất quan trọng phục vụ cho Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước. Tầm quan trọng của nguồn vốn và vấn đề đòi hỏi về vốn NH: Vốn NH là số tiền nhờ đó những tài sản có của một NH vượt quá những tài sản nợ của nó . Vốn NH được NH giữ như là một cái đệm phòng ngừa sự sụt mạnh tạm thời giá trị cả những tài sản có, nếu không có cái đệm ấy thì có thể khiến NH này vỡ nợ và không kinh doanh được nữa . Ví dụ : vốn của NH là 10% tài sản có của nó, thì khi NH trải qua các vụ vỡ nợ đối với những món tiền cho vay của nó làm cho giá trị tài sản có của nó giảm đi 5% thì NH này vẫn có khả năng duy trì kinh doanh . Một NH cũng duy trì vốn NH để làm yên lòng các khách hàng vay tiền và những người gửi tiền rằng nó khó có thể vỡ nợ . Như vậy, NH này có thể thu được nhiều vón hơn từ những người gửi tiền và thực hiện được nhiều nghiệp vụ cho vay hơn . Tuy nhiên, một NH không muốn duy trì quá nhiều vốn : ví dụ nếu một NH thu được một khoản lợi nhuận ròng 1000000$ đối với tổng tài sản có của nó 100000000$ và có vồn NH bằng 10% tài sản có của nó ( 10000000$ ) khi đó các cổ đông của nó sẽ thu được lời tức 10% đối với vốn cổ phần ( 1000000$/ 10000000$=10%) . Cũng với thu nhập này, nếu vốn NH là 5% tổng tài sản có của nó ( 5 triệu USD) thì lợi tức trên cổ phần là 20% . Những người quản lý NH phải cân nhắc giữa phí tổn của việc có một cái đệm nhỏ hơn về vốn NH này đổi lại các lời tức cao hơn của vốn cổ phần mà NH nhận được khi vốn NH nhỏ hơn . Mặc dầu một NH muốn duy một số Vốn NH nào đó, nó sẽ không muốn duy trì nhiều đến mức nó phải duy trì bởi vì nó không phải gánh chịu toàn bộ phí tổn khi nó vỡ nợ . Sự mong uốn của các cơ quan điều hành ngăn ngừa các vụ vỡ nợ NH đã dẫn đến việc các cơ quan này định rõ các đòi hỏi tối thieẻu đối với vốn NH . Số vốn NH tối thiểu hiện nay được quy định là 3% tổng tài sản Có của NH ( Đối với những NH mạnh nhất ) nhưng là 6% đối với những NH khác . ở Mỹ, vốn NH tối thiểu đã được định rõ bằng một tỷ lệ % cố định trên tổng tài sản có của NH . Cơ quan kiểm tra tiền đã đưa thêm một đòi hỏi bổ sung về vồn trên cơ sở rủi ro . Các tiêu chuẩn vốn tối thiểu được gắn với những hoạt động ngoài bản quyết toán của NH . I. Bàn về nguồn vốn cuả NHTM Việt Nam : Muốn kinh doanh thì phải có vốn . Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần thực hiện bằng cách phát triển và mở rộng các loại thị trường như : Thị trường đối hoái, thị trường liên ngân hàng, thị trường chứng khoáng nhằm tăng khả năng huy động vốn cho các ngân hàng thương mại . Hệ thống NHTM cổ phần ở nước ta hiện nay chưa đủ mạnh, thời gian kinh nghiệm hoạt động chưa nhiều, nguồn vốn hoạt động phần nhiều dựa vào vốn huy động tiết kiệm của dân cư phải trả lãi cao là chủ yếu do đó thời gian tới có thẻ gặp nhiều khó khăn trng công tác huy động vốn nhất là những vụ rò rỉ thông tin gần đây về những sai phạm trong hoạt động tín dụng bảo lãnh của một vài NHTM cổ phần càng chưa thể giải toả mối hoài nghi của công chúng về thực trạng tài chính của hệ thống này . 1. Thực trạng huy động vốn trong những năm qua : Trong những năm qua công tác huy động vốn của NHTM còn đơn điệu và kém hiệu quả, chưa có tác dụng thúc đẩy kinh doanh cuả NH : Đơn điệu ở chỗ : chỉ có loại tiền gửi không kỳ hạn và loại tiền gưỉ có kỳ hạn đối với các đơn vị tổ chức kinh tế và dân cư chủ yếu là nội tệ : Việt Nam Đồng . Những năm qua lãi suất của loại tiền gửi này đều cao hơn lãi suất cho vay. Từ tháng 6-1992 đến nay mới chuyển sang cơ chế lãi suất dương, tuy nhiên lãi suất chưa linh hoạt nên chưa khuyến khích được khách hàng gửi nhiều tiền vào ngân hàng . Về mặt cơ cấu nguần vốn : Tiền gửi tiết kiệm chiếm 50-60% ( những năm trước đấy chiếm 70-80% ) trong khi đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế chỉ chiếm tỉ trọng 30-40% nên đã tạo ra sự khó khăn trong kinh doanh, thậm chí kinh doanh bị lỗ . Nhiều chi nhánh NH không dám huy động tiền gửi tiết kiệm vì sợ bị lỗ . Do tình trạng như vậy nên nguồn vốn của NHTM không đủ đáp ứng với nhu cầu của người vay . Thời gian gần đây các NHTM có những hình thức huy động mới để thu hút thêm nhiều tền nhàn rỗi từ các dơn vị tổ chức kinh tế và dân cư . 2. Các hình thức huy động tiền gửi: a. Các hình thức huy động tiền gửi của dân cư : Theo điều tra ban đầu của các nghành chức năng, cách đây 5 năm vốn trong dân cư khoảng 100.000 tỷ đồng, gần đây một số chuyên gia kinh tế cho rằng vốn nhàn rối trong dân cư còn lớn hơn nhiều, có thể gấp 2 lần nhưng chưa có chính sách “ bùng nổ” nên kết quả đưa lại chưa cao . Khi các NHTMQD hoặc kho bạc Nhà nước nâng lãi suất thì vốn huy động được lại nâng lên nhưng vẫn là tiền gửi ngắn hạn còn tiền gửi dài hạn đang ở phía trước vì người có tiền đang chờ lãi suất cao hơn so với lãi suất hiện hành . Vừa qua NHĐT& PT Việt Nam đã phát hành trái phiếu 1, 2, 3 và 5 năm chỉ trongvòng 25 ngày đã thu hút 1000 tỷ đồng bình quân một ngày huy động 40 tỷ đồng . Trong đó 45% thời hạn 1 năm và 55% thời hạn từ 2 năm đến 5 năm. Điều này cho thấy tiến nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều, cần có biện pháp hữu hiệu thu hút nguồn vốn này . Từ cuối năm 1992 các NHTM đã phát hành kỳ phiếu NH có mục đích với lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm nhằm hấp dẫn người gửi do đó đã thu hút đựơc nguồn vốn lớn . Mặt khác, huy động tiền gửi tiết kiệm, xây dựng nhà ở, đây là loại tiết kiệm nhằm giúp đỡ người dân sớm có nhà để rút ngắn thời gian chờ đợi đủ vốn, góp phần thực hiện chính sách về nhà ở của Đảng và Nhà nước .Do vậy cũng đã khuyến khích được phần nào người dân gửi tiền vào NH . Theo số liệu thống kê, tình hình huy động và cho vay vốn của các NHTM thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua như sau : Bảng tổng hợp huy động và cho vay của các NHTM thành phố Đà Nẵng đến 31/7/2000 : Đơn vị tính : tỷ đồng 1/1/1997 31/7/2000 tăng giảm NHQD NHCP NHQD NHCP 1. Nguồn vốn 1297 172 2203 411 1145 * Tiền gửi tổ chức kinh tế * Tiền gửi tiết kiệm dân cư 757 540 42 130 844 1359 149 262 194 951 2. Sư dụng vốn 1978 338 2497 387 568 * Dư nợ ngắn hạn * Dự nợ trung và dài hạn * Nợ quá hạn và nợ khoanh 1305 673 91 295 43 7 1794 703 237 307 80 13 507 67 152 Từ bảng trên ta thấy nguồn vốn kỳ sau có tăng hơn so với kỳ trước đặc biệt là tiền gửi dân cư , nhưng cơ cấu các nguồn tạo lập vẫn chưa có sự cân đối cần thiết . Quan trọng hơn cả chính là sự tăng trưởng các loại nguồn vốn chưa thật sự đáp ứng được như mong đợi so với khả năng của nó . Nguyên nhân dễ nhận thấy nhất là chúng ta chưa có một mức lãi suất và hình thức huy động thật sự hấp dẫn để đủ thách thức và khơi dậy sự “khát khao tiền lời” trong nhân dân. Một mặt các NHTM chưa thực sự quan tâm đúng mức đến các lĩnh vực tiếp thị, tuyên truyền, khuyến mại, mở rộng mạng lưới, tạo nhiều tiện ích cần thiết...nên có một số người dân còn e ngại khi đến ngân hàng . b. Các hình thức huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế : Hiện nay có hai loại tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn, do lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thấp nên các đơn vị kinh tế không quan tâm đến việc gửi tiền . Một số đơn vị dùng tiền nhàn rỗi của mình cho các đơn vị vay với lãi suất cao hơn lãi suất gửi vào ngân hàng . Có những chi nhánh NH 100% tiền gửi của các đơn vị kinh tế thuộc loại không kỳ hạn. Thực tế của nhiều NHTM hiện nay nếu lãi suất đầu vào của tiền gửi cao hơn lãi suất quy định NH vẫn có thể kinh doanh có lãi vì lãi suất bình quân đầu ra cao hơn nhiều hơn so với lãi suất bình quân đầu vào. Trong điều kiện như vậy, một số NHTM đã có những bàn bạc với đơn vị, tổ chức kinh tế để ký hợp đồng gửi tiền vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn và NH trả lãi xuất cao hơn lãi suất hiện hành trong điều kiện NH đảm bảo kinh doanh có lãi . Ví dụ : lãi xuất tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng theo quy định là 0.8%/ tháng, NH ký hợp đồng với đơn vị trả lãi suất từ 1-2%/tháng trong khi đó lãi suất cho vay bình quân là 2%/ tháng . Tại chi nhánh NHCT Hải Phòng đến cuối 1992 số dư tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 65250 triệu đồng, trong đó chỉ có 5500 triệu đồng là số dư tiền gửi có kỳ hạn . Năm 1993 cân đối giữa đầu vào và đầu ra, NHCT Hải Phòng thực hiện biện pháp trên ký hợp đồng với một số đơn vị kinh tế . Đến cuối năm 1993 tổng số dư tiền gưỉ của các tổ chức kinh tế là 89100 triệu đồng trong đó số dư tiền gửi có kỳ hạn là 32600 triệu đồng và đến 31/3/1994 tổng số dư tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng lên là 112650 triệu đồng, trong đó số dư tiền gửi có kỳ hạn là 49530 triệu đồng. Biện pháp này chỉ áp dụng đối với các đơn vị kinh tế có doanh thu lớn và mang tính tạm thời trước mắt . Cũng từ bảng tổng kết của NHTM Đà Nẵng ta thấy : nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế tuy có tăng nhưng mức tăng trong gần 3 năm là chưa tương xứng và số tuyệt đối hiện có cũng không sao so với tiềm năng sẵn có . Nguyên nhân là hầu hết các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào vốn vay từ NH . Vốn tích luỹ chẳng được là bao và chỉ tập trung vào một số ít doanh nghiệp làm ăn có lãi như : Bưu điện, Điện lực... mặt khác, NHTM cũng chưa có phương sách hiệu quả hoặc việc triển khai các kế hoạch thu hút tiề gửi nhàn rỗi từ doanh nghiệp còn mang tính chiếu lệ, cầm chừng, chất lượng dịch vụ có cải thiện nhưng chưa đấp ứng được các yêu cầu thanh toán. 3.Hình thành và phát triển một số hình thức huy động vốn : Như trên đã nêu, huy động vốn là một hoạt động chủ yếu của NHTM . Do đó cần có những hình thức thích hợp để huy động, chẳng hạn : 1. Công tác huy động vốn của NHTM phải luôn luôn sống động, phù hợp với từng hoàn cảnh và điều kiện cụ thể . Người “ bán vốn” là các tổ chức kinh tế và dân cư ( kể cả tổ chức và cá nhân nước ngoài ), người “ mua vốn” là các NHTM, cùng có lợi thông qua giá cả là lãi suất ngân hàng trả cho người bán . 2. Tiếp tục phát triển, mở rộng các loại tài khoản tiền gửi cổ truyền đã và đang thực hiện và mở rộng thêm các loại tiền gửi khác, bao gồm : 2.1. Tài khoản séc : Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, thủ tục như tiền gửi tiết kiệm . Thay việc cấp một quyển sổ gửi tiền, ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một tập séc . Khi chi tiền, khách hàng xé một tờ trong tập séc và điền vào các khoảng trống , các chi tiết về số tiền và người thụ hưởng . Hình thức tiền gửi séc này có lợi cho người gửi nên sẽ hấp dẫn đối với họ vì : Tài khoản này có thể chuyển đổi thành 100% tiền mặt bất cứ lúc nào An toàn, không sợ mất cắp, mất trộm . Muốn chi bao nhiều thì phát séc đúng với số tiền đó . Thu được khoản tiền lãi Có thể trả tiền bằng séc cho các nơi xa (chỉ cần viết thư kèm theo séc ) Nếu ngân hàng tăng cường quản lý tiền mặt thì có nhiều khoản chi buộc phải thanh toán bằng séc . Do đó, mọi người dân và các doanh nghiệp đều mở tài khoản séc tại các ngân hàng và gửi hầu hết tiền mặt của mình vào đó . Vì vậy , ngân hàng sẽ thu được khối lượng vốn lớn mà trả lãi suất thấp 2.2. Tài khoản vãng lai : Đây cũng là một tài khoản séc dùng cho các tổ chức kinh tế nhưng nó khác với tài khoản séc ở chỗ ngân hàng và tổ chức kinh tế đồng ý thoả thuận với nhau về cách tính vãng lai của tài khoản . Tài khoản séc không có tính vãng lai, khách gưỉ tiền phải có số dư “ Có “ và chỉ được rút tiền trong phạm vi số dư đó . Nếu phát hành quá số dư đó là vi phạm về nguyên tắc quản lý, sẽ bị sử lý tuỳ theo mức độ vi phạm . Trong tài khoản vãng lai, tổ chức kinh tế có thể có số dư “Có” nhưng cũng có thể chi vượt quá số dư đó . Số vượt quá này được đôi bên ấn định đến một ngạch tối đa nào đó đôi bên đều có lợi : Thu được bao nhiêu tiền, tổ chức kinh tế đều nộp hết vào ngân hàng để giảm số tiền thiếu phải chịu lãi . Trong trường hợp cần tiền tổ chức kinh tế phát hành séc đến ngạch tối đa mà ngân hàng cho phép . Tài khoản vãng lai có hai đặc điểm chủ yếu là : Ngân hàng và đơn vị thoả thuận tính vãng lai, tài khoản có thể có số dư “ Có” , có thể có số dư “ Nợ “ . Số dư “ Nợ” được quy định đến một hạn ngạch tối đa, quá hạn ngạch này các séc của đơn vị sẽ coi là vi phạm phát hành quá số dư . Các khoản thu vào tài khoản vãng lai phải rõ ràng như : Tiền mặt, séc chứ không phải là hàng hoá, nhà cửa hay của cải khác . Lãi suất trong tài khoản vãng lai gồm lãi suất mà đơn vị phải trả cho ngân hàng ( nếu tài khoản có số dư Nợ ) và lãi suất ngân hàng trả cho đơn vị ( nếu tài khoản có số dư Có ) . Như vậy, tài khoản vãng lai là một thủ tục vừa gửi tiền vừa vay tiền rất có lợi cho doanh nghiệp cũng như cho ngân hàng . Một NHTM chỉ cần có một số doanh nghiệp lớn ký tài khoản vãng lai cộng với việc huy động bằng các hình thức khác là có thể có đủ nguồn vốn để kinh doanh có lãi . 2.3. Để các tài khoản tiền gửi hoạt động nhanh chóng, tiện lợi cần phải đổi mới công nghệ ngân hàng, tiếp cận nhanh, mạnh với kinh tế hiện đại , từng bước quốc tế hoá hoạt động ngân hàng . Công nghệ ngân hàng không chỉ máy móc đơn thuần mà trước tiên là cơ chế thanh toán trong nội bộ các ngân hàng giữa các chi nhánh trong một NHTM, giữa các NHTM và NHNN . Đồng thời sử dụng tin học để thực hiện quản lý mặt nghiệp vụ trong đó có quản lý kế toán và thanh toán . Bên cạnh đó, cách điều hành và sử dụng nguồn vốn như thế nào cũng có tác dụng mạnh đến việc tăng hay giảm nguồn vốn tùy các tài khoản tiền gửi . Nguồn vốn hình thành để cho vay trung, dài hạn của NHTM: Vốn để NHTM cho vay trung và dài hạn hiện nay hình thành từ một số nghành chủ yếu sau : Từ vốn tự có của các NHTM, TCTD từ vốn huy động của các thành phần kinh tế Từ vốn của Bộ Tài Chính chuyển sang Từ vốn nước ngoài Đối với nguồn vốn tự có của NHTM : Vốn tự có là một trong những nguồn hình thành để các NHTM cho vay trung và dài hạn . Đây là nguồn vốn ổn định và an toàn nhất nhưng lại quá nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của toàn bộ nền kinh tế . Năm 1996, thống đốc NHNN đã quyết định nâng mức vốn pháp định của các NHTMQD là : NHN0& PTNT là 2200 tỷ đồng, các NHTMQD khác là 1000 tỷ . Trong nghị định 82/1998/NĐ-CP ngày 3/10/1998 của Chính Phủ cũng đã xác định mức vốn này cho các NHQD, còn các NHTM cổ phần vốn pháp định cao nhất cũng chỉ ở mức 70 tỷ đồng . Như vậy so với nhu cầu vốn để phát triển nền kinh tế hiện nay thì vốn tự có của các NHTM chỉ cung ứng được khoảng 1% . Nhưng đây là con số danh nghĩa, thực tế tỉ lệ này thấp hơn nhiều vì cho đến nay các NHTMQD vẫn chưa được ngân sách cấp đủ vốn hoạt đọng như quy định và vốn tự có của các NH đâu phải chỉ tập trung cho toàn bộ trung và dài hạn mà còn phải đảm bảo các chức năng hoạt động khác của NH, trong đó riêng việc mua sắm tài sản cố định đã có thể chiếm tối đa mức cho phép là 50% mức vốn tự có . Cũng có những giải pháp được nêu để các NHTM có thể tăng nguồn vốn tự có như : Chuyển đủ phần lợi nhuận vào vốn tự có sau khi đã trích lập các quỹ . Một giải pháp khác là phải đánh giá lại tài sản thực có của các NHTM vì giá trị này rất lớn . Chỉ tính một NHTM quốc doanh ở TP Hồ Chí Minh đã có hàng chục chi nhánh, giá trị tài sản một chi nhánh cũng đến mấy chục tỷ đồng . Tuy nhiên, Chính Phủ cũng cần xem xét lại vốn pháp định của loại hình kinh doanh này để nâng nó lên một mức tương ứng, đồng thời tăng cường uy tín và tạo điều kiện thuận lợi cho NHTM hoạt động nhất là trong lĩnh vực tín dụng . Nguồn vốn huy động : Việc sử dụng vốn huy động đúng chức năng, mục đích sẽ đảm bảo an toàn cho NH trong thanh toán . Nhưng tỷ trọng vốn huy động trung và dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động trong các NHTM rất thấp . Số liệu các năm qua ( từ năm 1995-1998 ) cho thấy tỉ trọng này ở các NHTMQD chỉ chiếm tối đa trên dưới 10% tổng vốn huy động và có những NHTM không có chủ trương huy động vốn trung và dài hạn . Vì vậy, nếu chỉ đơn thuần sử dụng nguồn huy động trung, dài hạn để cho vay trung, dài hạn thì doanh số cho vay là rất thấp . Nhận thấy bức xúc này nên Thống Đốc NHN0 đã có chỉ thị số 12/CT/ NH1 cho phép các NHTM sử dụng 20% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn . Điều đó chứng tỏ đã có sự vận dụng linh hoạt giữa vốn huy động ngắn hạn và trung, dài hạn . Tuy nhiên, việc vận dụng này phải hết sức cẩn thận, không được tuỳ tiện nâng tỷ trọng sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn để đảm bảo tính thanh khoản của NH . Có một số giải pháp cho nguồn vốn này là : * Tạo sự an tâm đối với người gửi tiền : ở hầu hết các nước Châu Âu đều có quy định bảo đảm tiền gửi như ở Đức và các nước Bắc Âu mức bảo đảm là 30.000$ . ở Pháp là 80.000$, ở Việt Nam các NHTM bắt đầu chú ý đến độ an toàn bằng cách mua bảo hiểm tiền gửi nhưng chưa phổ biến và chua có những quy địng công khai về số tiền được bảo đảm . * Định mức lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý để kích thích dân cư Ngoài rủi ro lớn nhất mà khách hàng lo sợ là ngân hàng phá sản thì với mức lãi suất thấp sẽ không bù đắp được sự mất giá của khoản tiền gửi nhất là khi gửi dài hạn . Vì vậy, lãi suất huy động phải lớn hơn tỉ lệ lạm phát và lãi suất tiền gửi trung, dài hạn lớn hơn ngắn hạn . Do đó cần có sự cân đối giữa lãi suất tiền gửi ngắn hạn và lãi suất tiền gửi trung, dài hạn để tạo một khoảng cách thiết thực giữa hai loại lãi suất này . * Các NHTM nên có chủ trương huy động vốn trung, dài hạn thường xuyên, liên tục Để tăng nhanh doanh số huy động trung, dài hạn các NHTM cần có chủ trương và đa dạng háo các laọi hình huy động với mức lãi suất phù hợp . Bên cạnh đó cần thiết nập một thị trường trái phiếu dài hạn linh hoạt . Các NHTM cần chiết khấu, mua lại hoặc bán lại các trái phiếu dài hạn cho dân cư. Nguồn vốn từ Bộ Tài Chính chuyển sang : Hàng năm, các địa phương đựoc phân bổ một số vốn trung, dài hạn cho các công trình phục vụ các mục tiêu quốc kế dân sinh . Nguồn vốn này sẽ được Bộ Tài Chính và Quỹ Hỗ Trợ Đầu Tư chuyển sang NHĐT hoặc các NHTMQD khác để cho các đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi . Hoặc có những dự án thuộc danh mục chính phủ chỉ định nhưng NH sẽ đầu tư toàn bộ. Các dự án này cũng được vay trung, dài hạn với mức lãi suất ưu đãi, Bộ Tài Chính sẽ chuyển tiền đễ cấp bù phần chênh lệch giưã lãi suất cho vay trung, dài hạn của NH là lãi suất ưu đãi để NH không bị lỗ trong kinh doanh. Nguồn vốn của NH từ Bộ Tài Chính chuyển sang sẽ góp phần đáng kể để tăng cường doanh số cho vay trung, dài hạn nhưng nó vẫn còn nhược điểm là rót chậm. Vốn nước ngoài : * Vốn uỷ thác tài trợ phát triển : Nguồn vốn này rất đa dạng, phong phú với đặc điểm là lãi suất thấp và thời gian trả nợ dài ( 30-40 năm ) . Trong đó nguồn vốn ODA to lớn và quan trọng nhất, đây là nguồn tài trợ phát triển chính thức của hơn 20 quốc gia trên thế giới giúp Việt Nam từ 1993 . Thường vốn tài trợ gồm 3 khoản : một khoản tài trợ không hoàn lại, một khoản cho vay lãi suất thấp ( 0.75-1.5%/ năm ) và một thời gian ngắn hạn ( thời gian từ lúc vay đến lúc bắt đầu trả nợ lãi suất coi như bằng 0 ) . Nhưng đại lý sẽ trộn 3 khoản trên để có một lãi suất hoà đồng cộng với phí của NH để cho các DN vay lại . * Nguồn vốn vay ở nước ngoài : Các NHTM Việt Nam hiện có quan hệ đại lý và thanh toán rộng rãi với các NH thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành rất thuận lợi . Lãi suất vay sẽ là lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới ( 6.3-6.5%/ năm ) . Nhưng cần bàn về nguồn vốn này : Khi vay thì các NHTM và các DN Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định . Hạn mức này phải được Chính Phủ hoặc NHN0 Việt Nam bảo lãnh, Theo NĐ90/CP thìmức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó nhưng hạn mức trên phải trừ đi số dư nợ chưa trả đến thời điểm vay mới . * Ngay hạn mức tín dụng được cấp: các NHTM Việt Nam vẫn chưa sử dụng hết để cho vay lại ( Sử dụng 60-70% ) vì theo yêu cầu của nước ngoài và quy định trong nước, NHN0 Việt Nam phải kiểm soát, quản lý các khoản này vì vậy các hồ sơ vay đều phải qua NHN0 Việt Nam xét duyệt . Đây chính là khâu gây ách tắc vì thời gian duyệt rất lâu ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất kinh doanh của khách hàng làm họ nản lòng huỷ bỏ các hợp đồng xin vay dug lãi suất rất hấp dẫn . phần II. Hai mặt của vấn đề huy động vốn trong nước và vay nợ nước ngoài : Hai mặt của vấn đề tạo vốn là huy động vốn trong nước và vay vốn nước ngoài . Mỗi hình thức đi vay đều chứa đựng nội dung bên trong của nó, không phân tích và dự báo những gì xảy ra vốn có của nền kinh tế thị trường thì tất yếu sẽ gặp khó khăn . Chúng ta biết rằng vốn nội tại có đặc thù riêng mà vốn vay nước ngoài không thể có được là sự ổn định, thường xuyên và bền vững, chi phí ít mà không để lại hậu quả . Phát huy cao độ khả năng nội tại trong nền kinh tế phải bắt nguồn người dân, vay trong dân và nâng cao thu nhập cho dân bằng chính sách lãi suất kích thích lợi ích vật chất lãi suất đúng đắn thì việc huy động vốn nội tại sẽ “ bùng nổ” . Các NHTM, TCTD có trách nhiệm tạo nập vốn ngắn hạn để cung ứng cho các thành phần kinh tế theo cung cầu vốn trên thị trường . Đã là NH thì không thể thiếu vốn được, nếu hiện tượng này xảy ra thì các NH mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản . Huy động vốn ngắn hạn 3 tháng, 6 tháng, 1 năm không thể cho vay trung, dài hạn 2,3 hoặc 5 năm bởi vì nó cũng là một yếu tố dẫn đến nợ quá hạn gia tăng của các NHTM . Trong xã hội, người có tiền,có vàng đang còn “cất giữ” nằm rải rác khắp mọi nơi nếu huy động được thì vững chắc, ổn định, bền vững và tất nhiên không có hiệu quả . Khi nền kinh tế phát triển cao theo cơ chế thị trường, trình độ dân trí đã được nâng lên tạo cho con người làm việc gì cũng tính toán để sinh lời . Tâm lý người có tiền vẫn “say” gửi thời hạn ngắn vì một lệ thường tình là lãi suất huy động của NHTM, Kho bạc NN thay đổi lãi luôn, nếu gửi dài hạn thì có lãi suất thấp khi có lãi suất cao thì thiệt thòi, trả lãi trước, nhiều người dùng thẻ tiết kiệm, kỳ phiếu ở các NHTM khác sắp đến hạn làm thế chấp để vay rồi gửi vào NHĐT&PTcó lãi suất cao. Trong đời sống đời thường, lãi suất huy động cao có sức hút hấp dẫn đối với người có tiền nên trong chỉ 25 ngày NHĐT&PT phát hành kỳ phiếu đã thu hút trên 1000 tỷ đồng . Trong chính sách huy động vốn cũng cần phải linh hoạt tháo gỡ khó khăn cho người gửi có biến cố trong cuộc sống thì họ cần được rút trước thơì hạn thì cũng nên trả lãi theo số ngày đã gửi . Làm được như vậy thì việc huy động vốn nội tại sẽ chắc chắn thu hút đựoc 70-80% số vốn đang còn trôi nổi ngoài xã hội vào quỹ đạo của nền kinh tế và có nhiều lợi ích . Một số nước trong khu vực trước đây được mệnh danh là “ Những con rồng Châu á” thì đến nay những con rồng đó đang “ quằn quại “ trong cơn khủng hoảng tiền tệ . Vay nước ngoài là cần thiết không riêng gì Việt Nam, nước giầu cũng đi vay không riêng gì nước nghèo, chậm phát triển song phải tính toán hậu quả kinh tế chứ không phải vay tràn lan, tuỳ tiện . Vốn vay nước ngoài lãi suất thấp khoảng 8%/ năm nhưng suy cho cùng tốn kém vô hình lại nhiều hơn như phí thẩm định, khảo sát, thăm dò, hội thảo, chuyên gia...vốn vay nước ngoài không bền vững nhưng thiếu nó thì không xong . Trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước theo hướng CNH - HĐH, thiếu nguồn vốn này là bế tắc và làm chậm tốc độ phát triển của cả một quá trình . Như vậy, nếu nguồn vốn huy động trong nước ngày cành nhiều tỉ lệ vay nước ngoài giảm đi một cách hợp lý là tiết kiệm ngoại tệ cho nước nhà . Theo số liệu công bố gần đây thì đến cuối năm 1997 nợ nước ngoài là 10.153 triệu USD với lãi suất vay 8%/ năm thì số lãi trả bằng ngoại tệ không phải là nhỏ trên 812 triệu USD . Nếu như vốn vay nước ngoài giảm đi, vốn nội lực tăng nên thì số tiền lãi ngoại tệ phải giảm đi như vậy có tốt hơn không . Phần III. Biện pháp: Góp phần làm rõ nguyên nhân thừa vốn trong các NHTM hiện nay Quý 2 năm 1996 , NHNN đã nới rộng han mức tín dụng (HMTD) và không áp dụng HMTD đối với cho vay thu mua lương thực, mua hàng xuất khẩu nhưng các NHTM vẫn không có khả năng tiêu thụ hết vốn. Nhiều ngân hàng chỉ sử dụng 60-70% số vốn nội tệ, ngoại tệ đã huy động được. Điều gì đã khiến các NHTM không khai thông được đầu ra? Có tiếp cận với các doanh nghiệp mới thấy được tâm tư người vay có nhiều uẩn khúc. Nhu cầu bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp không phải là vốn ngắn hạn mà là vốn trung, dài hạn để thay thế những máy móc, thiết bị đã lạc hậu, đổi mới công nghệ phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu này các NHTM không đáp ứng được vì họ không có đủ nguồn vốn tương ứng. Họ không dám mạo hiểm sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn vượt quá tỉ lệ cho phép. Điều kiện vay vốn của các NHTM đặt ra quá khe khắt, trong khi hành lang pháp lý còn thiếu và chưa đồng bộ. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không dễ gì lập được một bộ hồ sơ vay có tài sản thế chấp theo đúng yêu cầu của ngân hàng để được vay vốn trong nước hoặc ngân hàng bảo lãnh vay vốn nước ngoài . Loại trừ những trường hợp lừa đảo, trong thực tế , số doang nghiệp làm ăn thua lỗ không sòng phẳng trong quan hệ tín dụng có chiều hướng phát triển . Nợ qúa hạn gia tăng, khó thu hồi . Trong điều kiện ấy, các doanh nghiệp chủ trương xiết nợ . Có giám đốc NHTM phát biểu “ Thà cho vay ít mà chắc, còn hơn cho vay nhiều mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ rủi ro” . Lãi suất cho vay tuy đã giảm nhưng so với tỉ suất lợi nhuận xí nghiệp thì vẫn còn cao, chưa khuyến khích người vay . Ngoài lãi suất ghi trên khế ước, các đơn vị vay vốn còn chịu thêm các khoản lãi suất “Bất thành văn” cho nên lãi suất đã giảm mà cũng như không . Đấy là chưa kể những phí tổn về ăn đợi, nằm chờ, đi lại nhiều lần để hoàn chỉnh thủ tục, hồ sơ . Những phí tổn này không thể tính toán bằng tiền . Hàng tiêu dùng nhập tràn lan, hàng chốn lậu thuế nhiều đã chèn ép hàng sản xuất trong nước . Tỉ giá tiền Việt Nam cao hơn so với giá trị thực tế ( so với USD ) đã làm hạn chế hàng xuất khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu càng nhiều càng lỗ . Đối với các NHTM, con đường giải phóng vốn nhanh nhất, nhiều nhất là con đường cho vay . Nhưng nhiều vướng mắc của người vay chưa được giải quyết nên vốn của các ngân hàng chưa dược khai thông . Các NHTM đã tính chuyện đa dạng hoá sử dụng vốn : Mua tín phiếu kho bạc,m chuển vốn về nông thôn cho các NHTM cổ phần nông thôn, các quỹ tín dụng nhân dân “ xài đỡ” , hùn vốn liên doanh liên kết với bên ngoài... Nhưng suy đi tính lại, nếu không gặp mạo hiểm, rủi ro thì cũng bị các chế tài hiện hành cấm đoán . Chỉ còn mỗi một con đường hợp pháp là gửi tiền thừa vào NHNN hưởng lãi suất 0.1%/ tháng . Nếu đi theo con đường này chắc chắn các NHTM sẽ đi vào “ mạt nộ” bởi vì lãi suất huy động cao gấp 9, 10 lần lãi suất tiền gửi NHNN . Được biết trong mấy tháng đầu năm, tại TP Hồ Chí Minh đã có 5 NHTM CP và 4 chi nhánh NHTM QD bị lỗ vốn . Những NH khác thì lợi nhuận thu được thua kém cùng kỳ trước rất nhiều . Từ những nguyên nhân chủ quan, khách quan gây ứ đọng vốn trong các NHTM, đòi hỏi phải có ngay những giải pháp cả về lý luận và thực tiễn để cứu vãn tình hình . Về mặt lý luận, nguồn vốn tiết kiệm chảyvào NH là một phần lượng tiền có sẵn trong lưu thông . Thông qua huy động vốn, các NHTMN tập trung những khoản tiền lẻ tẻ, nhàn rỗi không sinh lời trong dân cư thành nguồn vốn to lớn, thông qua tín dụng phục vụ nền kinh tế tăng trưởng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá . Như vậy, tiền gửi tiết kiệm là những yếu tố lành mạnh . Trong điều kiện nền kinh tế đang thiếu thốn, tiền gửi tiết kiệm với mức lãi suất hợp lý, huy động được càng nhiều càng tốt, không vì lý do gì mà sợ nguồn vốn này chảy vào NH . Trong tổng số nguồn vốn huy động mà nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm tỉ trọng 1/3 là điều không đáng khuyến khích . Trong tình hình hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn, phải vay ngân hàng khá lớn mà trong quá trình luôn chuyển vốn, vốn lưu động của các doang nghiệp lại đọng nhiều trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại các ngân hàng , là điều bất lợi ch._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35071.doc