Lời nói đầu
Vốn là yếu tố quan trọng cho đầu tư phát triển. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về tầm quan trọng của nó xong phải khẳng định rằng nó là cần thiết nhất, là cơ sở và nền tảng nhất để phát triển kinh tế.
Kinh tế thị trường đang ngày một phát triển. Tồn tại dưới cái gay gắt của sự cạnh tranh kinh tế thị trường, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội cũng như bao Ngân hàng thương mại khác, cũng như các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác đang phải gồng mình lên để tồn tại và phát triển.
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nguồn vốn cho vay trung & dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm thấy được sự phát triển hôm nay rồi, phải làm sao có nó ở ngày mai và lâu hơn nữa. Hình ảnh của Ngân hàng sẽ là rõ ràng nhất nếu ta đem nó so sánh với các tổ chức kinh tế khác ở cùng một điều kiện. Có lẽ hình ảnh đó được tô vẽ bởi tính nhạy cảm cao, tính xã hội sâu sắc, bởi khả năng cạnh tranh, bởi tình hình hoạt động mà tính chất rất đặc thù của nó.
Vốn sẽ tạo nên sự thay đổi tích cực về mặt xã hội. Nó sẽ thúc đẩy sự phát triển đến đỉnh cao của sự hoàn thiện.
Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội thấy được tầm quan trọng của vốn như vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "Nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội. Thực trạng và giải pháp" thấy được tính cấp thiết vốn dĩ tồn tại của đề tài. Bằng kiến thức đã học, thực tế đã được tiếp xúc đôi chút, tôi nghiên cứu đề tài trên cơ sở chia làm 3 chương :
Chương I : Tầm quan trọng của nguồn vốn cho vay trung dài hạn trong hoạt động Ngân hàng
Chương II : Tình hình huy động vốn cho vay trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội
Chương III : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao và mở rộng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội.
Với phương pháp luận : Vận dụng những kiến thức nhưng với mong muốn khách quan kết hợp với số liệu phòng nguồn vốn cung cấp và tài liệu cần thiết tôi đã hoàn thành chuyên đề này.
Do tính cấp thiết và khả năng hạn hữu của bản thân. Rất mong được sự xây dựng thêm ý kiến sao cho đề tài trên cơ sở đã có, để có thể trở thành một công trình khoa học, hay ý tưởng tốt đẹp hơn - đúng đắn và ích lợi.
Tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư - Tiến sĩ Cao Cự Bội và cô Phó phòng nguồn vốn kinh doanh Phan Thị Chung đã hướng dẫn nhiệt tình tôi hoàn thành chuyên đề này.
Chương I
Tầm quan trọng của nguồn vốn cho vay trung và dài hạn trong kinh doanh Ngân hàng
A. Nhu cầu vốn trung và dài hạn với sự phát triển của nền kinh tế.
Đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi có thể tác động với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị và phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng... tăng lên, sự thay đổi làm tăng tổng cầu.
Đầu tư sẽ dẫn tới tăng vốn sản xuất nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này làm tăng tổng cung.
Ngày nay vốn đầu tư được coi là yếu tố quan trọng trong quy trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. Cuối cùng, cơ cấu sử dụng vốn đầu tư góp phần quan trọng vào việc dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế của đất nước, của đầu tư tới sự phát triển của nền kinh tế, nên nguồn vốn đầu tư có một ý nghĩa rất quan trọng.
Nguồn hình thành vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là nước có thu nhập thấp thì quy mô và tỉ lệ tích luỹ đều thấp trong khi yêu cầu của sự phát triển kinh tế ngày càng tăng đòi hỏi một lượng vốn hỗ trợ nước ngoài. Tuy nhiên để phát triển lâu dài, tất các các quốc gia đều phải có những chính sách huy động vốn trong nước. Và vấn đề quan trọng là làm sao sử dụng những nguồn vốn này một cách có hiệu quả để tạo ra nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết tổng tiết kiệm trong công ty chúng ta là rất lớn nhưng thường không tập trung vì thế cũng thể đưa vào đầu tư. Cần phải tập hợp chúng lại thông qua một định chế tài chính để nguồn vốn có thể tới tay những nhà đầu tư. Nguồn vốn trong dân cư có thể được tập hợp thông qua thị trường vốn bằng cách mua các chứng khoán trên thị trường chứng khoán hoặc thông qua các NHTM bằng cách gửi tiền tại các quầy giao ngay taị Mỹ người ta cũng nhận thấy được rằng lượng vốn đi vào nền kinh tế qua các kênh NHTM chiếm tỉ trọng lớn hơn qua thị trường chứng khoán, hơn nữa Ngân hàng còn có 1 chức năng hết sức quan trọng là tạo tiền đề, vì thế với 1 khối lượng vốn nhất định qua hệ thống Ngân hàng thương mại đã được nhân lên gấp nhiều lần thông qua số nhân tiền, các công cụ thanh toán được mở rộng trong toàn nền kinh tế.
Nhu cầu vốn đầu tư trong nền kinh tế tạo ra một nhu cầu tín dụng đầu tư đối với hệ thống các NHTM. Khi các Ngân hàng tìm kiếm được những nguồn vốn cho vay đầu tư, phát triển , đáp ứng tốt nhu cầu đặt ra 1 mặt sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh, mặt khác sẽ cung cấp 1 lượng vốn đáng kể cho nền kinh tế.
Cùng với sự hội nhập, xu hướng phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại trên thế giới. Nước ta đã thấy rõ được vai trò rất to lớn của nguồn vốn đầu tư trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế. Vì vậy chủ trương của Đảng và Nhà nước là luôn luôn hướng và chú trọng trong lĩnh vực này. Xác định vốn nước ngoài là rất quan trọng, xong trong những năm tới vốn trong nước sẽ có ý nghĩa quyết định đến tình hình phát triển.
Điển hình năm 2000 Chính phủ đã có chính sách hạ giá hàng tiêu dùng để khuyến khích người tiêu dùng tiêu thụ sản phẩm. Một biện pháp kích cầu để nhằm mục đích tăng cường nguồn vốn đầu tư trong nước một mặt giảm tiết kiệm lãng phí trong nhân dân.
Cùng với giải pháp đó, thị trường chứng khoán ra đời và càng làm cho thị trường vốn ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Thị trường chứng khoán ra đời để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển cùng kết hợp với lượng vốn mà NHTM huy động được.
Nói tóm lại, nguồn vốn đầu tư là cực kỳ quan trọng ở bất kỳ một quốc gia nào, đặc biệt là ở những nước đang phát triển thị trường chứng khoán và hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ là chiếc cầu nối giữa những người thừa và người thiếu vốn. Tạo ra sự cân bằng, giải quyết được nhu cầu thiết yếu của đầu tư. Có đầu tư sẽ có phát triển đó là một chân lý.
B. Tầm quan trọng của nguồn vốn cho vay trung và dài hạn với hoạt động của Ngân hàng Thương mại.
I. Quản lý kinh doanh của Ngân hàng thương mại và nhu cầu về vốn cho vay trung và dài hạn
1. Tài sản của Ngân hàng Thương mại :
Tài sản của Ngân hàng Thương mại là sản phẩm đầu ra của Ngân hàng Thương mại.Chúng ta có thể chia nó theo cơ cấu sau:
1.1 Khoản mục Ngân hàng
Khoản mục ngân quỹ có nghĩa là lượng tài sản được nằm trong két của Ngân hàng cùng với các khoản tiền mà Ngân hàng đang đi gửi nó ở Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Thương mại khác.
Đây là khoản mục quan trọng nhất quyết định 2 yếu tố quan trọng của Ngân hàng, đó là : Bảo đảm an toàn và tạo tính thanh khoản cho nó.
Lãi suất từ khoản mục ngân quỹ là không đáng kể xong buộc các Ngân hàng Thương mại phải có nó. Đó là sự bắt buộc, là sự nhạy cảm xong hết sức cần thiết.
Theo tính chất dự phòng khoản mục này có thể chia thành : Dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán. Dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước quy định nhằm kiểm soát chính sách tiền tệ và sau đó buộc các Ngân hàng Thương mại phải duy trì một tỉ lệ tài sản lỏng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc được quy định chung cho tất cả các Ngân hàng và thông thường các Ngân hàng gửi khoản này tại tài khoản của nó ở Ngân hàng Thương mại.
Dự trữ thanh toán được duy trì nhằm mục đích thanh khoản tuỳ thuộc vào mỗi Ngân hàng. Khoản mục này được giữ dưới dạng các tái sản lỏng như tiền mặt, tiền gửi tại các Ngân hàng khác, chứng khoán có chất lượng cao... Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn tương ứng để mở rộng tín dụng nếu cho rằng không cần phải duy trì một tỉ lệ dự trữ thanh toán nhiều như vậy.
1.2. Đầu tư
Các Ngân hàng Thương mại đầu tư vào các chứng khoán nhằm mục đích định khoản và đa dạng hoá hoạt động. Tỉ lệ lớn nhất của đầu tư chứng khoán là trái phiếu cổ phần, tín phiếu kho bạc và các trái phiếu của các thành phố. Do những ưu tiên về thuế và những điều kiện ưu đãi khác với các loại chứng khoán này, nên trong nhiều trường hợp nó được giữ như là một biện pháp nhằm gia tăng lợi nhuận. Các Ngân hàng cũng giữ một tỉ lệ tương đối nhỏ với các chứng khoán khác như hối phiếu chấp nhận thanh toán, thương phiếu thị trường mở... và một giới hạn nhất định các chứng khoán cơ quan Nhà nước và chứng khoán công ty.
Các chứng khoán này thường được giữ tới ngày đáo hạn. Tuy nhiên trong một số trường hợp nó được bán đi để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của Ngân hàng.
1.3 Tín dụng :
Trong các khoản mục thì tín dụng là khoản mục sinh lời nhất của Ngân hàng Thương mại về mặt tài sản. Như chúng ta vừa nói ở trên, khoản mục này nhằm đảm bảo an toàn, đầu tư chỉ để làm đa dạng hoá hoạt động và thu lợi nhuận rát ít thì tín dụng được coi là phương thức " sống" của Ngân hàng thương mại. " Sống" ở đây được đồng nghĩa là không chỉ tồn tại mà còn là sự phát triển.
Có nhiều cách phân loại khoản mục này : Theo mục đích, theo hình thức bảo đảm, theo kỳ hạn, theo phương pháp hoàn trả và nguồn gốc. Do mục đích nghiên cứu của đề tài ta sẽ phân loại tín dụng theo kỳ hạn :
* Tín dụng ngắn hạn ( kỳ hạn < 12 tháng ) : Các khoản tín dụng này thường cung cấp cho các nhu cầu vốn lưu động, tài trợ tạm thời cho sản xuất kinh doanh, cho vay khi phát hành cổ phiếu mới...
* Tín dụng trung và dài hạn : Thường là hơn 1 năm có khi lên đến 20,. 30 đ 50 năm.
Các khoản này thường là các khoản cho vay bất động sản, cho vay trả góp, cho vay đầu tư vào thiết bị nhà xưởng máy móc, công nghệ với các đơn vị sản xuất, cho vay đầu tư các công trình lớn có sự tham giam gia của cổ phần.
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là :
+ Tính thanh khoản kém hơn là tín dụng ngắn hạn
+ Lãi suất cao hơn tín dụng ngắn hạn
+ Độ nhạy cảm lãi suất của nó kém hơn độ nhạy cảm lãi suất cho vay ngắn hạn.
+ Ngân hàng có thể cho vay với lãi suất cố định hay thả nổi tuỳ vào từng hợp đồng vay.
+ Khoản cho vay cố định thì khoản cho vay kém nhạy cảm với lãi suất. Tuy nhiên tuỳ từng khoản cho vay mà mức độ nhạy cảm với lãi suất khác nhau.
Nếu một Ngân hàng có càng nhiều các khoản cho vay như thế này thì tài sản của Ngân hàng kém nhạy cảm với lãi suất tăng lên.
+ Lãi suất cho vay thả nổi sẽ làm tăng tính nhạy cảm của các tài sản của Ngân hàng.
Do điều kiện kinh tế thị trường hiện nay và đặc biệt là mức quy định của từng thời kỳ của Ngân hàng luôn thay đổi biến động với sức khoẻ nền kinh tế. Nên trong cho vay thả nổi đang ngày càng được áp dụng rộng rãi. Ngân hàng sẽ quy định bao nhiêu lâu thì lãi suất sẽ thay đổi một lần hoặc là lãi suất sẽ thay đổi theo giá thị trường. Lúc này Ngân hàng áp dụng cho hợp đồng tín dụng sẽ không có sự can thiệp, không được ấn định bởi Ngân hàng đó mà sẽ phụ thuộc vào tình hình biến động của thị trường.
Tóm lại : Do nhu cầu ngày càng tăng để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, trang thiết bị, đầu tư nhà xưởng...., do mong muốn tối đa hoá lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại mà bất kỳ một Ngân hàng nào cũng đều cố gắng mở rộng tín dụng cho vay trung và dài hạn trong khả năng phù hợp với tình hình của Ngân hàng mình.
2. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại và đặc điểm của mỗi nguồn
a. Nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại
2.1. Nguồn huy động
2.1.1. Tiền gửi :
Đặc điểm chung của tài khoản tiền gửi là người gửi tiền có tài khoản tại Ngân hàng. Tài khoản này được chia làm hai loại : Tiền gửi giao dịch ( tiền gửi không kỳ hạn ) và tiền gửi phi giao dịch ( tiền gửi có kỳ hạn ).
Tiền gửi giao dịch : Tiền gửi giao dịch là tài khoản phát hành séc hay tài khoản séc. Lý do khách hàng mở tài khoản này là đảm bảo sự luân chuyển của đồng vốn khi cần đến. Dùng sẽ để giao dịch vừa đảm bảo nhanh gọn và an toàn trong khi vận chuyển.
Tiền gửi này lãi suất thu được rất bé, xong mục đích người gửi tiền là để hưởng ích lợi giao dịch chứ không phải vì mục tiêu lãi suất mang lại. Người của tài khoản sẽ hưởng được các phí giao dịch mà Ngân hàng phải trả để tiến hành giao dịch. Đổi lại Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn với chí phí cực thấp.
Tài khoản giao dịch nói chung có số vòng quay rất lớn có khi tới 50 năm với các hàng kinh doanh lớn. Nhưng xét một cách tổng thể thì nó luôn tồn tại 1 số dư ổn định và Ngân hàng có thể tận dụng được số dư này. Tuy nhiên người ta vẫn cho rằng tài khoản này liên tục biến động và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của Ngân hàng. Vì thế đòi hỏi phải duy trì nghiêm ngặt một tỉ lệ dự trữ pháp định trên số dư của tài khoản này.
Tiền gửi định kỳ ( có kỳ hạn )
Các khoản tiền này có kỳ hạn 3, 6, 9, 12 tháng. Thông thường tài khoản này được mở bởi doanh nghiệp và dân cư. Nó là nguồn tiền khá ổn định của Ngân hàng.
2.1.2. Tiết kiệm
Tiết kiệm có thể được phân thành tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm định kỳ trong dân cư. Nói chung các khoản tiết kiệm này đều không có 1 giới hạn số lượng của 1 khoản tiền gửi.
Tiết kiệm không kỳ hạn là thời gian của các khoản gửi, Ngân hàng phải thanh toán cho khách hàng bất kỳ lúc nào họ muốn. Đây là khoản gửi mà chủ nhân của nó chưa có một kế hoạch rõ ràng về khoản tiền của mình. Vì vậy đây là khoản kém ổn định của Ngân hàng nên tỉ lệ dự trữ bắt buộc của khoản này là luôn ổn định và cần thiết. Lãi suất không kỳ hạn thường thấp hơn nhiều lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiết kiệm có kỳ hạn là các khoản gửi có kỳ hạn về thời hạn, kỳ hạn của chúng có thể là 3, 6, 12..24 tháng. Nói chung ở các nước có hệ thống Ngân hàng phát triển không có các khoản tiết kiệm có thời hạn ngắn dưới 1 năm.
ở Việt Nam, các khoản tiết kiệm kỳ hạn thường dài vài năm. Về nguyên tắc khách hàng không được phép rút tiền trước thời hạn quy định, nếu rút trước phải báo cho Ngân hàng trước 7 ngày và chịu hình phạt (có thể bằng lãi suất không kỳ hạn). Như vậy Ngân hàng hoàn toàn chủ động tính toán được luồng tiền đi ra tại các thời điểm đáo hạn của các khoản gửi. Vì thế Ngân hàng thường ưa thích các khoản gửi định kỳ hơn là các khoản gửi không kỳ hạn.
Nguồn này là một nguồn khá ổn định của Ngân hàng, đặc biệt với các khoản có kỳ hạn dài. Ngân hàng thường có những biện pháp để kéo dài thời gian tồn tại của các khoản gửi nghĩa là 1 khoản gửi Ngân hàng có thể được gửi liên tiếp trong nhiều kỳ để được các nguồn có kỳ hạn dài hơn.
Tiết kiệm có kỳ hạn cũng đòi hỏi 1 tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các Ngân hàng cũng có thể duy trì dự trữ quá mức cho khoản mục tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn nếu thấy cần thiết.
2.2. Đi vay :
Ngân hàng thương mại có thể vay dân cư, vay các công ty, các Ngân hàng thương mại hay đi vay Ngân hàng Nhà nước.
Vay dân cư : Điểm khác biệt giữa cơ bản giữa các khoản vay và các khoản tiết kiệm là bảo hiểm tiết kiệm. Các khoản vay này thường dưới dạng trái phiếu, các tín phiếu vốn. Các công vụ này được mua đi bán lại liên hoàn vốn.
Các nguồn tiền có đuợc từ phát hành trái phiếu không chịu sự điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Các trái phiếu có thể được chiết khấu tại những Ngân hàng phát hành chúng hoặc bán trên thị trường vốn để thanh toán chúng trước hạn.
Với các Ngân hàng, nguồn tiền có được bằng cách phát hành các trái phiếu là nguồn quan trọng, nó có thể được tập trung trong 1 thời gian ngắn và có tính ổn định cao, đây là nguồn rất đáng quan tâm nếu muốn mở rộng huy động trung và dài hạn tại một Ngân hàng thương mại.
Vay các tổ chức tài chính tín dụng, vay các tổ chức kinh tế và Ngân hàng Nhà nước .
Đây thường là các khoản vay nóng, cần kíp mang tính tình hình để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản. Do nguồn tiền cực khan hiếm, nên các Ngân hàng thường tận dụng tối đa các nguồn vào các tài sản có sinh lời, giảm thiểu dự trữ. Có những lúc Ngân hàng thường thiếu tạm thời các khoản phải thanh toán, thiếu lượng dự trữ vì vậy để điều chỉnh cho phù hợp thì Ngân hàng phải đi vay " nóng".
Ngân hàng Nhà nước cho vay thông qua các nghiệp vụ chiết khấu hoặc tái chiết khấu các chứng từ có giá như : Thương phiếu, hối phiếu chấp nhận thanh toán, các chứng khoán của chính phủ... Việc vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước là một sự nhờ vả chứ không phải là quyền lợi. Bởi sau khi hệ thống Ngân hàng được tách riêng biệt thì mỗi một Ngân hàng ( Ngân hàng Nhà nước và hệ thống Ngân hàng thương mại ) đều phải tự lo giải quyết cho các hoạt động của mình. Ngân hàng Nhà nước chỉ hỗ trợ có chăng với các Ngân hàng gặp những trường hợp khó khăn như nguy cơ phá sản... Tuy nhiên nói ở đây không phải là chúng không phụ thuộc gì vào nhau. Mà ngược lại sự phối hợp, liên kết giữa chúng là cực kỳ rõ ràng thông qua các chính sách, các thông tư..Mặt khác dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước, bất kỳ một Ngân hàng thương mại nào hoạt động cũng không thể vượt qua được hành lang pháp lý mà Ngân hàng Nhà nước quy định. Do tính chất nhạy cảm giữa mối quan hệ đó nên việc vay Ngân hàng Nhà nước là một giải pháp cuối cùng mà 1 Ngân hàng thương mại buộc phải làm.
Thường thì 1 Ngân hàng thương mại luôn vay các Ngân hàng thương mại khác trong những trường hợp cần kíp. Đó là tính hỗ trợ lẫn nhau mà chúng ta thường nói là " Hệ thống Ngân hàng thương mại".
Ngân hàng thương mại có thể vay mượn các Ngân hàng thương mại khác bằng cách mua lại 1 phần số dư tiền gửi của nó tại Ngân hàng Nhà nước. Do các khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nhằm để đáp ứng các nhu cầu giao dịch không sinh lãi vì vậy các Ngân hàng sẵn sàng nhường chúng lại cho các Ngân hàng khác sử dụng trong một khoảng thời gian có thể. Lãi suất các khoản vay này thường cao hơn vay Ngân hàng Nhà nước nên chỉ trong trường hợp cần thiết Ngân hàng mới sử dụng nguồn này.
Ngân hàng thương mại có thể vay vốn tạm thời nhàn dỗi của các công ty. Ví dụ Sony thừa lượng vốn là 50 triệu USD. Ngân hàng có thể mua lại số vốn này và được đảm bảo bằng chứng khoán cổ phần hoặc các chứng khoán có chất lượng khác, đồng thời Ngân hàng cam kết sẽ mua lại số chứng khoán này vào một ngày gần đó với giá cao hơn. Hình thức này gọi là hợp đồng mua lại, nó ít rủi ro vì đã được thế chấp bằng các chứng khoán có chất lượng cao và các Ngân hàng cũng không phải dự trữ cho các khoản này. Đây là cách mà các Ngân hàng thường áp dụng nhất là ngày nay thị trường vốn ngày càng phát triển.
2.3. Vốn của chủ sở hữu :
Bất kỳ một Ngân hàng nào khi thành thành lập cũng phải có vốn điều lệ. Ngân hàng là một doanh nghiệp với chức năng cơ bản là kinh doanh tiền tệ vì vậy theo luật định khi thành lập thì phải có vốn tự có. Vốn tự có chỉ có thể lớn hơn vốn pháp định xong tỉ lệ vốn tự có của Ngân hàng nhỏ hơn rất nhiều lần tổng nguồn của Ngân hàng thương mại. Thường thường vốn tự có phải lớn hơn 1/20 lần của tổng nguồn thì Ngân hàng hoạt động mới an toàn. Vốn của chủ đòi hỏi ít ngân quỹ, và nó được sử dụng để cung cấp tài chính cho đầu tư đất đai, nhà cửa, số còn lại cho vay dài hạn và đầu tư chứng khoán ít luôn chuyển nhằm nâng cao lợi tức của Ngân hàng.
b. Mục tiêu nghiên cứu các nguồn tiền của một Ngân hàng thương mại và đặc điểm của mỗi nguồn :
Khi xem xét cơ cấu các nguồn tiền ta nhận thấy nguồn trung dài hạn thực sự của Ngân hàng là các nguồn tiền gửi, tiết kiệm, nguồn phát hành trái phiếu, tín phiếu và giấy nợ, tất cả các nguồn này đều có lãi suất cao. Tuy nhiên nguồn ngắn hạn ở Ngân hàng cũng chiếm phần lớn. Nó bao gồm các nguồn tiền như tiền gửi, tiết kiệm, các khoản vay từ thị trường tiền tệ vay các Ngân hàng thương mại, vay từ Ngân hàng Nhà nước.
Nhu cầu tín dụng và đầu tư trung và dài hạn là rất lớn. Muốn đáp ứng được nhu cầu Ngân hàng cần phải đảm bảo được nguồn vốn cho vay trung và dài hạn. Xem cơ cấu các nguồn tiền của Ngân hàng ta thấy, để đáp ứng được nhu cầu này, Ngân hàng phải xem xét ba khía cạnh.
- Làm thế nào để hoán chuyển các nguồn ngắn hạn hơn sang cho vay dài hạn hơn.
- Huy động các nguồn trung và dài hạn mới.
- Kết hợp tất các các ngùôn để có được nguồn cho vay trung và dài hạn
Mỗi một nguồn đều có đặc điểm riêng có của nó về giá cả, về kỳ hạn. Vì vậy làm thế nào nghiên cứu, kết hợp để có một nguồn cho vay trung và dài hạn hợp lý mà tạo ra lợi nhuận cao xong phải hạn chế được rủi ro. Đó là một câu hỏi khó cho các nhà quản trị Ngân hàng. Xong giải quyết được nó thì vấn đề khan hiếm của nguồn trung dài hạn và thừa thãi ( ứ đọng ) nguồn ngắn hạn sẽ được giải quyết và có nghĩa là hoạt động của Ngân hàng sẽ tăng được hiệu quả trong cạnh tranh kinh doanh của mình.
II. Quản lý kết hợp tài sản nguồn tiền và khả năng hoán chuyển các nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn
Việc quản lý kết hợp tài sản, nguồn tiền được hiểu là quản lý bảng tổng kết tài sản của một Ngân hàng thương mại. Ngân hàng sẽ phải có một cơ cấu nguồn tương ứng với 1 cơ cấu tài sản mà nó duy trì nhằm đạt được 2 mục tiêu chính của Ngân hàng là : Đảm bảo khả năng an toàn và tạo lợi nhuận lớn nhất.
Trong những năm gần đây để tăng lợi nhuận các Ngân hàng thường tiến hành việc hoán chuyển các nguồn ngắn hạn sang cho vay trung dài hạn. Nghiệp vụ này hàm chứa hai rủi ro :
* Rủi ro thanh khoản : Do các nguồn vốn sử dụng để cho vay có thời hạn ngắn hơn nhiều so với thời gian đáo hạn của các khoản tín dụng. Điều này khiến các Ngân hàng thường xuyên phải tìm kiếm các nguồn gối nhau để đáp ứng các nhu cầu rút các khoản tiền gửi cũ. Nếu Ngân hàng không tìm kiếm được các nguồn này thì rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra, tác động xấu tới khả năng thanh toán của Ngân hàng.
* Rủi ro lãi suất: Do các món vay ít nhạy cảm với lãi suất, trong khi đó các nguồn vốn ngắn hạn rất nhạy cảm với lãi suất. Như vậy, nếu Ngân hàng hoán chuyển nhiều nguồn vốn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn thì tài sản nhaỵ cảm lãi suất nhỏ hơn rất nhiều so với vốn nhạy cảm với lãi suất.Nếu lãi suất thị trường tăng lên thì lãi suất bình quân của nguồn tăng lên, trong khi đó lãi suất của các khoản tín dụng không thay đổi. Khi đó ngâ hàng sẽ gặp rủi ro trong lãi suất, nó làm lợi nhuận của Ngân hàng giảm đi. Tuy nhiên những rủi ro nhiều hay ít tuỳ thuộc vào khả năng quản lý kinh doanh, phân tích tình hình, lập kế hoạch kinh doanh. Một Ngân hàng tại những thời điểm khác nhau hoặc những nhiệm vụ khác nhau sẽ hoán một tỉ lệ rất khác nhau sao cho phù hợp với khả năng nguồn của mình.
Có hai phương pháp quản lý nguồn vốn và tài sản, đó là :
* Phương pháp phân chia quỹ
* Phương pháp quản lý khe hở quỹ
Dưới đây ta sẽ lần lượt xem xét 2phương pháp để thấy được khả năng chuyển hoán các nguồn tiền ngắn sang cho vay trung và dài hạn, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất của mỗi phương pháp ở mức độ nào.
1. Phương pháp phân chia các nguồn tiền
Các nguồn không
kỳ hạn
Các nguồn ngắn hạn
Các nguồn có kỳ hạn trung và dài hạn
Vốn của chủ
Dự trữ (bao gồm dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt quá)
Cho vay ngắn hạn
Cho vay trung và dài hạn
Tài sản cố định
Phân chia các nguồn tiền được hiểu là việc phân chia với tỉ lệ nào đó cho các khoản dự trữ pháp định, dự trữ quá mức, tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn và đầu tư nhằm đạt được nhu cầu thanh khoản mà Ngân hàng cho là cần thiết. Cách phân chia như thế dửatên quan điểm về quản lý thanh khoản trên cơ sở đảm bảo mức dự trữ. Có nhiều cách phân chia, nhưng ở đây tôi xin đề cập tới cách phân chia thường sử dụng phổ biến nhất. Cách này được mô tả như hình vẽ sau :
Mô hình này thừa nhận rằng, số lượng ngân quỹ ( bao gồm dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt quá ) một Ngân hàng cần đến có liên quan với các nguồn vốn của Ngân hàng. Mô hình đã cố gắng phân biệt các nguồn vốn theo các nhu cầu dự trữ pháp định, vòng quay hay doanh số của nguồn vốn, cụ thể là :
Các khoản tiền gửi có thời hạn dài được dùng 1 phần đảm bảo dự trữ quá mức. Phần còn lại dùng để cho vay trung và dài hạn.
Vốn của chủ là các khoản mục không đòi hỏi nhiều ngân quỹ, giá của nó thấp nên được sử dụng để mua các tài sản cố định của Ngân hàng, phần còn lại cho vay trung dài hạn đầu tư vào các khoản mục đầu tư để nâng cao lợi tức.
Mô hình trên quản lý thanh khoản trên quan điểm dự trữ nghĩa là nguồn để đáp ứng thanh khoản chủ yếu là các khoản dự trữ tại nhà Ngân hàng. Nó chỉ chú ý tới việc đáp ứng các nhu cầu rút tiền trong tương lai mà không chú ý tới việc đáp ứng các nhu cầu tín dụng và cũng không thấy rằng ngoài nguồn dự trữ Ngân hàng có thể đáp ứng các nhu cầu bằng việc tìm kiếm các nguồn khác như vay trên thị trường tiền tệ hay vay tại Ngân hàng Nhà nước và từ các luồng lợi tức khác.
Mô hình này còn cho thấy một sự tương hợp cao về kỳ hạn giữa các nguồn vốn và tài sản. Ngân hàng cũng có thể phân tích nguồn ngắn hạn ổn định và chuyển nguồn này sang cho vay trung và dài hạn. Rủi ro thanh khoản trong trường hợp này là rất thấp tuy nhiên rủi ro không thể tách khỏi. Tổng nguồn ổn định được tập hợp từ nhiều nguồn có tính chất và lãi suất thay đổi. Tuy nhiên do dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt quá cho các nguồn ngắn hạn lớn nên số dư ổn định lãi suất tất nhiên ảnh hưởng tới lợi nhuận của Ngân hàng nhưng không phải là vấn đề lớn phải đặt ra. Lợi nhuận giảm nhiều khi là do Ngân hàng đã quá thận trọng trong quản lý thanh khoản thể hiện ở tỉ lệ ngân quỹ quá lớn và sự tương hợp quá cao giữa nguồn vốn và tài sản.
2. Phương pháp quản lý khe hở quỹ :
Phương pháp này dựa trên cơ sở luồng tiền đi ra và luồng tiền vào. Quản lý luồng tiền nghĩa là quản lý trên quan điểm tài chính trên cơ sở luồng tiền phát sinh khác.
Khi xem xét khái niệm thanh khoản trên quan điểm luồng tiền, người ta xem xét không chỉ khả năng chuyển đổi các tài sản có lưu hoạt như dự trữ mà còn xét đến cả khả năng của Ngân hàng trong việc vay và tìm kiếm các nguồn tiền khác nhau.
Khi đó tại bất kỳ lúc nào, Ngân hàng cũng có thể biết được luồng ra và luồng vào như sau :
Luồng vào
Luồng ra
1. Tiền gửi
2. Tín dụng tới hạn
3. Lãi thu được
4. Thu được dự trữ hoạt động khác
1. Tiền gửi tới hạn thanh toán
2. Tín dụng
3. Lãi trả
4. Trả tiền vay
Giả sử luồng ra lớn hơn luồng vào, Ngân hàng sẽ tìm cách bù đắp sự thiếu hụt đó. Ngân hàng cũng thường xuyên dự đoán các luồng tiền trong tương lai để từ đó có kế hoạch tìm kiếm các nguồn tiền mới. Ngân hàng có thể thực hiện một số phương pháp sau :
+ Giảm dự trữ
+ Bán bớt các chứng khoán thanh khoản
+ Đi vay trên thị trường tiền tệ
+ Huy động thêm
Quản lý thanh khoản như thế này gọi là quản lý khe hở quỹ. Nếu luồng vào lớn hơn luồng ra tại thời điểm đang xét, khi đó Ngân hàng phải sử dụng nguồn để tránh tình trạng tồn đọng vốn.
- Nếu Ngân hàng cho vay tín dụng ngắn hạn thì khi tới thời hạn trả nợ, nó sẽ là một bộ phận luồng vào của Ngân hàng và Ngân hàng sẽ phải tiếp tục cho vay ngắn hạn.
- Nếu Ngân hàng quyết định đầu tư trung và dài hạn thì nó sẽ làm luồng vào nhỏ hơn luồng ra kể từ ngày bắt đầu giải ngân tới khi thanh toán hết nợ gốc. Trong suốt quá trình đó, nợ gốc sẽ được trả dần dần nhưng cần làm cho luồng tiền âm.
Như vậy để đưa ra quyết định sẽ sử dụng nguồn vào việc gì Ngân hàng phải xem xét khả năng bù đắp các luồng tiền trong tương lai.
Mỗi Ngân hàng và tại một thời điểm nhất định có những phương pháp để làm sao đáp ứng thanh khoản khác nhau. Nó phụ thuộc vào thị trường các nguồn mà Ngân hàng đã có và có thể khai thác tại thời điểm đang xét, nó được phản ánh thông qua thời gian và chi phí để có các nguồn tiền mới. Để có thể sử dụng cả 4 phương pháp trên đòi hỏi thị trường mà Ngân hàng đang hoạt động phải khá hoàn hảo. Với phương pháp này khả năng quản lý thanh khoản linh hoạt hơn rất nhiều, đổi lại nguồn vốn tiền của Ngân hàng trở nên rất nhạy cảm với lãi suất bởi vì
+ Ngân hàng duy trì khe hở thanh khoản dương ( NH 1 ) sẽ nắm giữ nhiều tài sản nhạy cảm với lãi suất hơn nguồn nhạy cảm với lãi suất.
+ Ngân hàng duy trì khe hở thanh khoản âm (NH2 ) nắm giữ nhiều nguồn nhạy cảm với lãi suất hơn tài sản nhạy cảm. Giả sử NH 1 muốn thoát ra khỏi rủi ro lãi suất đi kèm với các khoản cho vay lãi suất cố định, Ngân hàng sẽ sắp xếp để trả một mức lãi cố định ( thấp hơn mức lãi của khoản cho vay với lãi suất cố định kể trên ). Với một công ty môi giới, đổi lại công ty sẽ trả cho Ngân hàng này một mức lãi suất thay đổi ( có thể lãi suất UBOR ) trong thời hạn của khoản vay. Ngược lại, nếu NH 2 muốn thoát ra khỏi rủi ro lãi suất để đi kèm với các khoản tiền gửi có lãi suất cố định nó sẽ trả cho công ty môi giới lãi suất LIBOR và nhận từ công ty môi giới một mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất Ngân hàng trả cho công ty này trong suốt thời gian các nguồn tiền gửi với lãi suất cố định được thực hiện. Như vậy trong trường hợp lãi suất trên thị trường có sự thay đổi theo hướng nào ( tăng lên hoặc giảm xuống ) thì các Ngân hàng không vì thế bị lỗ mà luôn nhận được một mức lãi chấp nhận được.
Nghiệp vụ này đòi hỏi một thị trường tài chính phát triển với những nhà môi giới thành thạo nghiệp vụ. Như vậy Ngân hàng có ba cơ sở để thực hiện việc hoán chuyển các nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn. Đó là :
+ Dự trữ ít cùng có nghĩa là các nguồn tiền được dành nhiều hơn cho nghiệp vụ cho vay và đầu tư làm lợi nhuận gia tăng.
+ Ngân hàng luôn có thể đáp ứng được các luồng tiền thiếu hụt bằng cách này hay cách khác nhằm thoả mãn các nhu cầu thanh khoản bất kỳ lúc nào.
Tại các nước có thị trường phát triển, các Ngân hàng thương mại thường hay sử dụng các công cụ trên thị trường này như : vay mượn đô la Châu Âu, mua bán quỹ liên bang, hợp đồng có thể mua lại... để vay "nóng" các nguồn tiền hoặc bán các chứng khoán dự trữ và các tài sản có thanh khoản cao khác. Chính vì vậy, ở những nước này có những định chế tài chính hoán chuyển tới hơn 60% các nguồn ngắn hạn hơn kỳ hạn của khoản đầu tư mà vẫn đảm bảo an toàn. Các Ngân hàng ở các nước có thị trường kém phát triển hơn thì tính toán lượng tiền gửi và tiết kiệm mới và Ngân hàng trong giai đoạn tới hoặc có thể vay Ngân hàng Nhà nước khi cần thiết. Tuy nhiên sự kém linh hoạt trong khả năng tìm kiếm các nguồn sẽ hạn chế khả năng thực hiện nghiệp vụ này.
Điều này rất quan trọng, thực hiện được điều này Ngân hàng không những bảo đảm cho hoạt động của chính bản thân nó mà còn chứng tỏ với những nhà quản lý hoạt động của hệ thống Ngân hàng rằng việc chuyển hoán các nguồn tiền như vâỵ là hoàn toàn lành mạnh và an toàn.
+ Cho dù chi phí để vay nóng các nguồn tiền để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản ngắn hạn trên thị trường tiền tệ ở mức cao nhưng Ngân hàng sẽ phải tính toán để tất các các chi phí._. của nghiệp vụ này thấp hơn chi phí so với việc huy động vốn thêm các nguồn vốn trung và dài hạn. Và chi phí này sẽ giới hạn tỉ lệ chuyển đổi các nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn.
Tóm lại : cho dù Ngân hàng có sử dụng phương pháp thanh lý thanh khoản nào thì đều có khả năng hoán đổi kỳ hạn của các nguồn tiền mà vẫn đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Cách quản lý thanh khoản thứ hai sẽ cho 1 tỉ lệ hoán chuyển cao hơn. Mỗi Ngân hàng trong một thời kỳ quyết định 1 tỉ lệ hoán chuyển các nguồn tiền ngắn hạn thích hợp.
3. Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng hoán chuyển các nguồn tiền
Hoán chuyển các nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn nhiều hay ít được quy định tùy thuộc vào khả năng giải quyết 2 vấn đề :
+ Ngân hàng có khả năng đáp ứng thanh khoản như thế nào ?
+ Những vấn đề về rủi ro lãi suất được Ngân hàng giải quyết như thế nào. Chi phí cho những rủi ro ấy là bao nhiêu và tóm lại nó làm lợi nhuận của Ngân hàng tăng bao nhiêu.
Ngân hàng sẽ kết hợp hai vấn đề này quy định sẽ chuyển hoán nhiều hay ít các nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn. Các yếu tố ảnh hưởng tới hai vấn đề trên cũng là những yếu tố ảnh hưởng tới khả năng hoán chuyển của Ngân hàng. Các yếu tố đó là :
+ Uy tín,vị thế và quy mô của Ngân hàng
Uy tín là yếu tố rất quan trọng quy định tới việc Ngân hàng có thể tìm được các nguồn tiền một cách dễ dàng hay không. Rõ ràng một Ngân hàng lớn có uy tín trong hoạt động kinh doanh sẽ dễ dàng huy động thêm được nhiều các khoản gửi trong thời gian ngắn hơn các Ngân hàng nhỏ.
+ Khả năng kinh doanh : Khả năng này phản ánh qua các yếu tố
+/ Việc sử dụng có hiệu quả nguồn tiền và tìm kiếm các nguồn tiền đan xen nhau trong thời gian ngắn
+/ Tính toán các chi phí hợp lý cho lợi nhuận của họ là tối đa mà vấn đề thanh khoản của họ vẫn không bị xâm phạm.
+/ Thiết lập tốt mối quan hệ với các đối tác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
+ Các chính sách lãi suất, chính sách tín dụng hợp lý mà Ngân hàng áp dụng.
III. Các hình thức để mở rộng nguồn huy động trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại
Trong phần II, ta đã nghiên cứu về việc hoán chuyển kỳ hạn nợ và thấy rằng nghiệp vụ này hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, các nguồn ngắn hạn không phải là nguồn cơ bản để cho vay trung và dài hạn. Các Ngân hàng sử dụng các nguồn ngắn hạn trong nghiệp vụ này với mục đích sử dụng nguồn hiệu quả hơn và gia tăng lợi nhuận. Luật pháp không cho phép các Ngân hàng được sử dụng quá mức tỉ lệ nguồn ngắn hạn để chuyển sang cho vay trung và dài hạn. Bản thân Ngân hàng cũng thấy rằng lâu dài sẽ không an toàn nếu chỉ sử dụng các nguồn ngắn hạn, đặc biệt là khi nền kinh tế và thị trường tiền tệ có những khó khăn khiến cho việc tìm kiếm cũng như chi phí để có được các nguồn nóng là quá cao. Việc kết hợp khả năng hoán chuyển các nguồn ngắn hạn và sử dụng các nguồn trung và dài hạn một cách hợp lý có nghĩa là Ngân hàng đã kết hợp có hiệu quả hai mục tiêu an toàn và sinh lời.
Các nguồn trung và dài hạn bao gồm :
+ Các khoản tiết kiệm và tiền gửi định kỳ có kỳ hạn trên 1 năm ( nguồn trung hạn ) và có kỳ hạn trên 5 năm ( nguồn dài hạn )
+ Các trái phiếu có thời hạn dài được phát hành trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
+ Các nguồn đi vay từ phía đối tác nước ngoài theo các dự án
+ Các khoản thu nợ của các dự án cũ
Trước khi vào các phương pháp để có thể huy động được các nguồn trung và dài hạn ta xét các yếu tố ảnh hưởng tới nguồn này
1. Các yếu tố ảnh hưởng tới nguồn trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại.
Có 8 yếu tố ảnh hưởng tới nguồn huy động của Ngân hàng thương mại.
1, Nhu cầu tín dụng: Nền kinh tế đòi hỏi rất nhiều vốn nhưng bản thân nó không thể tập hợp được đủ vốn đáp ứng được đủ nhu cầu nhưng nó lại tạo ra nhu cầu đối với hệ thống các Ngân hàng thương mại, từ đó các Ngân hàng sẽ đi tìm vốn trên thị trường để đáp ứng cho nhu cầu này với mục đích sinh lời, đồng thời nó cũng tham gia vào quá trình tạo tiền thông qua số nhân tiền tạo ra nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế gia tăng thì tiền gửi ở hệ thống các Ngân hàng thương mại tăng lên. Trong thời kỳ này, có sự cạnh tranh lớn giữa các Ngân hàng thương mại để có thể thu hút nhiều các khoản ký thác.
2, Lãi suất cạnh tranh.
3, Đặc điểm vật chất và nhân sự.
4, Các dịch vụ do Ngân hàng cung cấp.
5, Các chính sách cơ bản và uy tín của Ngân hàng.
6, Mức độ hoạt động kinh tế.
7, Địa điểm.
8, Thâm niên.
Nguồn tiền trung và dài hạn cũng là một bộ phận của tổng nguồn tiền nên nó cũng chịu sự tác động của những yếu tố trên. Tuy nhiên, không phải các yếu tố cùng có tác động như nhau và sự tác động của các yếu tố đó tới nguồn trung và dài hạn cũng không giống nhau. Trong phần này tôi xét tới các yếu tố ảnh hưởng mạnh tới nguồn trung và dài hạn theo thứ tự quan trọng của các yếu tố. Nó sẽ phản ánh rõ hơn vấn đề tôi đang đề cập đến.
1.1. Lãi suất:
Lãi suất là giá trị thặng dư do tư bản đẻ ra. Lãi suất với các khoản tiền gửi trung và dài hạn hoặc trái phiếu là rất quan trọng do:
Khi khách hàng hoặc một doanh nghiệp gửi tiền trung và dài hạn họ có ý muốn đầu tư tài chính và hoàn toàn có kế hoạch với các khoản đầu tư này. Chiết khấu không phải là cách thức mà một Ngân hàng mong muốn trừ khi gửi tiền hoặc mua các trái phiếu trung và dài hạn và họ buộc phải chiết khấu các trái phiếu trong trường hợp cần thiết. Điều này đặc biệt đúng với nước ta khi người dân không có thói quen với việc gửi khoản tiền của mình với thời hạn trung và dài hạn khi thị trường tài chính chưa phát triển.
Các khoản tiền gửi dài hạn có rủi ro cao do:
Lạm phát sẽ làm mất giá đồng tiền.
Nếu lãi suất trên thị trường tăng lên làm lãi suất trung và dài hạn thấp đi tương đối (sẽ rất đúng trong môi trường lãi suất không nhạy cảm với thị trường ).
Ta luôn có :
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỉ lệ lạm phát.
Khả năng thanh khoản của đồng tiền hay nói cách khác tính lỏng khi chuyển đổi của đồng tiền đó.
Rủi ro tín dụng gắn liền với khả năng không trả nợ được của Ngân hàng.
Rõ ràng với đặc điểm như vậy thì lãi suất của người gửi tiền là :
Lãi suất yêu cầu = %lợi tức mong muốn + %dự kiến rủi ro +%lạm phát
Nếu như Ngân hàng có một lãi suất phù hợp hay thoả mãn được lợi tức mong muốn của khoản tiền mà họ gửi thì họ sẵn sàng gửi số tiền đó. Bằng không họ sẽ tìm cách khác để với khoản tiền đó họ có được những khoản lợi tức mong muốn.
Như chúng ta biết lãi suất của Ngân hàng đặt ra không thoả mãn thì có rất nhiều cách để họ “ cất tiền” mà sinh lãi. Họ có thể đầu tư bất động sản, mua vàng, ngoại tệ ... hay nói cách khác họ sẽ có đầu cơ. Lúc đó trên thị trường tài chính nói riêng, nền kinh tế nói chung nguồn vốn sẽ cực kỳ “nóng”.
Vậy chúng ta có một kết luận là: Nếu lãi suất không phù hợp với khoản lợi tức mà khách hàng gửi tiền yêu cầu thì nạn đầu cơ sẽ xảy ra.
1.2.Uy tín của Ngân hàng:
Trong thương mại có một ngôn ngữ rất dí dỏm đó là “cái tát thương mại vào người tiêu dùng” còn trong Ngân hàng đó là khả năng, sức mạnh hay nói cách khác đó là hình ảnh của nó.
Uy tín của Ngân hàng sẽ là cái nhìn bề ngoài, là cái nhìn thiện cảm ban đầu để khách hàng gửi tiền muốn tìm đến. Những Ngân hàng có thâm niên với một vẻ bề ngoài ấn tượng sẽ thu hút khách hàng hơn những Ngân hàng khác. Uy tín của Ngân hàng sẽ được thể hiện qua:
An toàn: an toàn được hiểu là những khoản tiền gửi phải được hoàn trả một cách đầy đủ, đúng thời hạn, đảm bảo giá trị của các khoản tiền gửi đáp ứng các yêu cầu rút tiền của khách. Điều đó tạo ra tâm lý tin tưởng vào Ngân hàng, vào việc đem tiền đến gửi ở Ngân hàng. Gửi tiền vào Ngân hàng để được hưởng lãi suất chứ không phải lúc nào cũng lo là tiền không lấy ra được.
Bảo toàn: Ngân hàng có nhiệm vụ bảo toàn đồng vốn. Bảo toàn có nghiã là kinh doanh tạo ra mức lãi ròng đủ chi trả cho các chi phí của Ngân hàng và đảm bảo một mức lợi nhuận mong muốn. Ngân hàng không đi gửi tiền hộ người khác, chức năng của Ngân hàng là kinh doanh tiền. Bảo toàn một mặt đảm bảo an toàn cho người ký thác mặt khác an toàn cho chính bản thân Ngân hàng.
Bảo toàn vốn là một yếu tố hết sức quan trọng tạo nên uy tín của Ngân hàng. Nếu một Ngân hàng kinh doanh thua lỗ, hay thất thoát vốn do tham ô móc ngoặc hoặc do đội ngũ quản lý không có khả năng sẽ làm mất uy tín và rất lâu sau mới có thể lấy lại uy tín của mình.
1.3. Các dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng:
Các dịch vụ này lại thuận tiện và đơn giản nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng. Thực tế thuận tiện và đơn giản cũng là một trong những yếu tố tạo nên uy tín của Ngân hàng.
Các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp được xem xét từ những điều nhỏ nhất như thủ tục gửi tiền, rút tiền, thủ tục về chiết khấu các chứng từ có giá, tổ chức việc rút tiền bằng máy... tới những lợi ích khác mà Ngân hàng đem tới cho khách hàng như lãi suất thưởng hay như Ngân hàng sẽ tự động chuyển lãi được hưởng của khách hàng vào khoản mục tiết kiệm nếu khách hàng không tới lĩnh... Tất cả các dịch vụ tiện ích đó đảm bảo thuận tiện đơn giản mà vẫn đảm bảo đầy đủ lợi ích cho người gửi tiền sẽ thu hút được các khoản tiền tới Ngân hàng.
1.4. Nền kinh tế:
Sự ổn định của nền kinh tế tạo ra sự ổn định của đồng tiền. Lạm phát là một bộ phận cấu thành lãi suất danh nghĩa không đổi sẽ khiến lãi suất thực tế giảm xuống và lợi ích của người gửi tiền giảm đi. Sự ổn định của nền kinh tế thuộc phạm vi điều hành vĩ mô của nhà nước và bản thân các Ngân hàng cũng không điều chỉnh được yếu tố này trong thời kỳ có lạm phát cao, lãi suất của Ngân hàng có xu hướng tăng nhưng không thể tăng cùng mức với lạm phát và kết quả là người gửi tiền chịu thiệt thòi.
Nếu có một khoản tiền, người ta bao giờ cũng đặt ra những câu hỏi: mua ngoại tệ, mua vàng, đầu tư bất động sản hay gửi tiền vào Ngân hàng. Trong thời kỳ suy thoái, đồng tiền bị mất giá . Lúc này tiền gửi tại Ngân hàng sẽ sụt giảm đáng kể và đặc biệt đúng với các nguồn trung và dài hạn.
Nói tóm lại để tạo cho mình một nguồn vốn lành mạnh và hiệu quả, bản thân sự nỗ lực của Ngân hàng và phụ thuộc rất lớn vào yếu tố khách quan. Vì vậy tại những thời điểm cụ thể ta phải có những giải pháp cụ thể và cực kỳ phù hợp.
2. Các phương pháp mở rộng nguồn trung và dài hạn.
2.1. Tính toán kỳ hạn của các nguồn trung và dài hạn việc xác định kỳ hạn của các nguồn tiền phù hợp từ đó có đưa ra các loại kỳ hạn cho các khoản huy động sẽ nhằm đưa ra các loại kỳ hạn cho các khoản huy động sẽ nhằm vào 2 vấn đề:
Kỳ hạn phải phù hợp với việc sử dụng các nguồn.
Kỳ hạn phải có sức thuyết phục với khách hàng.
Về phía Ngân hàng:
Ngân hàng ít khi huy động các khoản tiền có kỳ hạn danh nghĩa dài để cho vay ngắn. Tất nhiên điều này rất đảm bảo cho an toàn thanh khoản, nhưng đó là một sự đảm bảo không cần thiết mà lại làm giảm doanh lợi của Ngân hàng.
Thời hạn mà Ngân hàng thông báo cho khách là thời hạn danh nghĩa của các nguồn tiền song quan trọng hơn là thời hạn tồn tại thực của các nguồn tiền. Thời hạn tính lãi gắn liền với chi phí của các nguồn tiền và các luồng tiền đi ra khỏi Ngân hàng.
Về phía khách hàng:
Trong những thời kỳ khác nhau, khách hàng sẽ chấp nhận các kỳ hạn khác nhau. Ví dụ trong thời kỳ có sự hiếu động lớn của nền kinh tế, lạm phát có xu hướng tăng lên thì những người gửi tiền không thích những khoản gửi có thời hạn dài cho dù lãi suất có cao. Khách hàng cũng nhằm tới thời hạn thực tế của những khoản tiền gửi, vì chi phí của Ngân hàng tăng lên cũng có nghĩa là người gửi tiền được hưởng lãi suất cao hơn.
Ngân hàng phải cân đối được giữa kỳ hạn mà công chúng có thể chấp nhận được và phù hợp với những tính toán của Ngân hàng để có những nguồn tiền hợp lý.
2.2. Tính toán lãi suất:
Ngân hàng tính toán mức lãi suất để có khả năng thu hút các khoản tiền gửi và khoản tiền tiết kiệm. Việc tính toán lãi phải đảm bảo :
Kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
Lãi suất phải phản ánh được mức lãi suất thị trường
Đảm bảo lãi suất thực dương các khoản gửi
Mức lãi suất phải đảm bảo Ngân hàng kinh doanh có lãi.
Khi trên thực tế lãi suất đã ở mức cao thì lãi suất cạnh tranh rất nhạy cảm. Một sự tăng lên nhỏ của lãi suất cạnh tranh có sức thu hút nguồn tiền gửi từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác. Ngân hàng tiến hành kinh doanh tiền tệ và mục tiêu là lợi nhuận, nên lãi suất đầu ra phải lớn hơn lãi suất đầu vào hay tính trên toàn bộ hoạt động của Ngân hàng lãi suất bình quân đầu ra phải lớn hơn lãi suất bình quân đầu vào để cho Ngân hàng có lãi. Như vậy mức lãi suất mà Ngân hàng có thể chấp nhận cho vay trung và dài hạn là:
Lãi suất chấp nhận = Bình quân lãi suất của các + lợi nhuận
cho vay trung và dài hạn nguồn sử dụng mong muốn
Vì thế nếu Ngân hàng đặt bình quân lãi suất của các nguồn sử dụng cao có nghĩa là nó chấp nhận một mức lợi nhuận cao thì bình quân lãi suất của các nguồn sử dụng sẽ thấp và rất có thể lãi suất bộ phận của mỗi nguồn sẽ thấp, điều đó sẽ không hấp dẫn các khách hàng gửi tiền của Ngân hàng.
Như vậy khi tính toán mức lãi suất bình quân phù hợp Ngân hàng phải cân đối được lợi ích của người gửi tiền và của Ngân hàng. Để thu hút được các nguồn huy động trung và dài hạn thì lãi suất của chúng phải được đặt ở mức cao, tuy nhiên lợi nhuận của Ngân hàng không vì thế mà giảm sút. Vì vậy Ngân hàng cần sử dụng có hiệu quả các nguồn tiền sẵn có để tạo ra mức lãi suất bình quân thấp. Lãi suất phù hợp bao giờ cũng là vấn đề cần phải tính toán kỹ của các Ngân hàng.
2.3. Tính toán RR: các khoản gửi trung và dài hạn có rất nhiều RR như: RR kỳ hạn, RR lãi suất, RR tín dụng do không thanh toán đựơc các khoản nợ (xét bên những khía cạnh khác nhau). Vì thế Ngân hàng phải có những nghiệp vụ để ước lượng được những RR có thể nhằm giảm RR cho khách hàng và cho chính bản thân mình. Chỉ khi Ngân hàng chứng tỏ được rằng RR của các khoản tiền gửi là rất thấp mới có sức thu hút khách hàng tới gửi tiền tại Ngân hàng.
Chương II
Tình hình huy động nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển hà nội.
I. Vài nét về ngân hàng đầu tư và phát triển hà nội. Những thuận lợi và khó khăn.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội được thành lập ngày 27/5/1957 với tên gọi ban đầu là Ngân hàng kiến thiết Hà Nội, nằm trong hệ thống Ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ tài chính. Trong giai đoạn này nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng là nhận vốn từ ngân sách Nhà nước để tiến hành cấp phát và cho vay vốn trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
Năm 1982, Ngân hàng đổi tên thành Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội nằm trong hệ thống Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam.
Trong giai đoạn 1990- 1995, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội vẫn làm nhiệm vụ nhận vốn của Ngân sách để cho vay và cấp phát theo chỉ thị của Nhà nước, nghĩa là nó không làm chức năng như một Ngân hàng thương mại, những cũng không hoàn toàn là cơ quan quản lý vốn thay mặt Nhà nước cấp phát vốn cho những dự án trong những chương trình của Nhà nước.
Từ ngày 01/01/1995, Ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội bắt đầu thực hiện mở rộng các nguồn huy động vốn ngắn, trung và dài hạn từ các thành phần kinh tế, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp và dân cư để tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung và dài hạn. Từ năm 1995 đến nay, Ngân hàng hoạt động như một Ngân hàng thương mại với lĩnh vực có bề dày kinh nghiệm là lĩnh vực đầu tư phát triển.
Phòng
tín dụng 3
Mô hình tổ chức Ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội có 20 phòng ban và chi nhánh khu vực được thể hiện trong Sơ đồ 01.
Ban giám đốc
(4B LêThánhTông )
Phòng nguồn vốn kinh doanh
Phòng Tổ chức cán bộ
Phòng thẩm định kinh tế kỹ thuật và tư vấn đầu tư
Phòng
kế toán
tài chính
Phòng kiểm tra nội bộ
Phòng
Thông tin điện toán
Phòng
Ngân quỹ
Văn phòng
Phòng
tín dụng 1
Chi nhánh Đông Anh
( thị trấn Đông Anh )
Phòng
tín dụng 3
Chi nhánh thanh trì
( Km 8 Đường
Giải Phóng)
Phòng
tín dụng 4
Chi nhánh
Từ liêm
( 263 Cầu Giấy)
Phòng KTĐN & Thanh toán quốc tế
Phòng giao dịch số 1
( số 4 yết kiêu )
Phòng
Huy động vốn dân cư
Phòng giao dịch số 2
( Số 2 sônglừ Phương Mai )
Quý số 6
Quỹ số 10
Phòng
tín dụng 2
f
Cơ cấu tổ chức hợp lý và phù hợp đã giúp chi nhánh hoạt động hiệu quả trên lãnh thổ và lĩnh vực của mình
II. Khái quát tình hình huy động vốn cho vay của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội qua các gia đoạn.
1. Giai đoạn trước khi có pháp lệnh Ngân hàng (ban hành 23/5/1990 và chính thức có hiệu lức ngày 01/10/1990).
Trong thời gian này, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát đầu tư xây dựng cơ bản. Hoạt động huy động vốn chưa phát triển. Nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn Ngân sách cấp, nguồn vốn huy động chiếm một tỷ trọng rất nhỏ và chỉ bao gồm tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
2. Giai đoạn sau khi có pháp lệnh Ngân hàng (23/5/1990) tới ngày Cục đầu tư tách khỏi Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội (01/01/1995).
Theo báo cáo của Ngân hàng năm 1992, một trong những yếu kém cơ bản của Ngân hàng trong giai đoạn này là còn thụ động chờ vốn do ngân sách chuyển về để cấp phát và cho vay đầu tư theo kế hoạch của cấp chủ quan được uỷ ban kế hoạch nhà nước thông báo, chưa thực sự năng động nhạy bén tìm nhiều hình thức và biện pháp thu hút các nguồn vốn trong dân và mạnh dạn sử dụng vốn ngoại tệ để cho vay.
Thực tế trong giai đoạn này, Ngân hàng chưa hoạt động thực thụ như một Ngân hàng thương mại vì thế các dịch vụ Ngân hàng chưa mở rộng. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng đã tập trung công sức thực hiện có kết quả chủ trương làm thí điểm phát hành kỳ phiếu, trái phiếu đảm bảo giá trị theo giá vàng và trái phiếu nhằm huy động vốn nhà rỗi trong dân để bổ sung thêm nguồn cho vay dối với các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển sản xuất nhưng đang thiếu hụt vốn. Đợt phát hành kỳ phiếu, trái phiếu này đã tạo được niềm tin với khách hàng, cũng như đặt nền móng để Ngân hàng làm quen với huy động vốn mới. Ngân hàng có chủ trương tiếp tục thực hiện hình thức huy động này nhằm mở rộng hơn khả năng huy động vốn của Ngân hàng, nhưng do những yếu tố như: tâm lý, thị trường còn nhiều bất ổn, cũng như hình thức này còn rất nhiều mới mẻ nên chưa có sức thuyết phục cao.
- Việc huy động được trên hai tỷ đồng bằng trái phiếu, kỳ phiếu cũng tạo đà cho Ngân hàng tiếp tục mở rộng các hình thức huy động. Tổng lượng vốn đã có tác dụng tốt trong việc tạo nguồn theo định hướng “đi vay để cho vay”.
3. Giai đoạn sau khi tách khỏi tổng Cục đầu tư ngày 01/01/1995 tới nay.
Đây là một giai đoạn có thể xem như một chặng đường hoạt động hiệu quả của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội với vai trò là một Ngân hàng thương mại thực thụ.
Trong bối cảnh hoạt động kinh tế cả trong nước và nước ngoài cực kỳ sôi động với cơ chế kinh tế thị trường. Chi nhánh đã biết vận dụng sáng tạo những cái mình có và nỗ lực vượt qua nhiều trở ngại với những khó khăn trước mắt.
Toàn Ngân hàng đã nhận thức sâu sắc rằng huy động vốn cho nền kinh tế phục vụ cho đầu tư và phát triển là nhiệm vụ cơ bản nhất của mình. Với các biện pháp và hình thức huy động thích hợp cuối năm 1997 tổng nguồn là 1335,5 tỉ và đến 12/2001 là 3.984,276 tỉ đồng. Nhìn vào các con số chúng ta sẽ thấy được một phần nào sự nỗ lực to lớn của Ngân hàng.
Niềm tin của khách hàng với Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội ngày càng tăng lên, càng tạo điều kiện tốt cho mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng phát triển.
Cùng với công tác huy động, Ngân hàng đã tích cực sử dụng những biện pháp nghiệp vụ như lãi suất, chính sách khách hàng... tăng cường sử dụng vốn có hiệu quả cho vay. Nếu như cho vay trung hạn và dài hạn tăng trưởng đều đặn do đặc tính của khoản mục này thì tại Ngân hàng đầu tư và phát triển, tín dụng ngắn hạn càng tăng trưởng vượt bậc: Năm 1994 là 122 tỷ năm 1995 là 315 tỷ đồng thì đến năm 2000 là 1191,221 tỷ đồng và năm 2001 là 1763,586 tỉ đồng.
Bằng cách này hay cách khác, với những cố gắng của mình Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội xứng đáng là một Ngân hàng Thương Mại hoạt động có hiệu quả và đầy tiềm năng.
III. Thực trạng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
Để xem xét thực trạng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội ta phải hiểu biết tổng quan về: Các nguồn vốn của Ngân hàng, đặc điểm, biến động của các nguồn trên cơ sở đó chúng ta mới có thể đánh giá tương đối chính xác về khả năng, thực trạng sử dụng nguồn vốn trung và dài hạn như thế nào:
Phần 1- thực trạng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn:
1. Biến động nguồn vốn kinh doanh.
Sau khi Cục đầu tư tách khỏi Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội cho đến nay, Ngân hàng đã trải qua một thời gian khá dài để thử thách và hoàn thiện chính bản thân mình với tư cách là một ngân hàng đích thực. Để tiện theo dõi và đánh giá về sự biến động của nguồn vốn kinh doanh ta có thể phân thành: Nguồn vốn Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội tự huy động và nguồn vốn đi vay của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Theo số liệu của Phòng nguồn vốn thì tổng nguồn trong 3 năm gần đây từ 1999 đến nay tổng nguồn vốn tăng liên tục. Nhìn lại một cách tổng quan ta có thể đánh giá được khả năng huy động vốn của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội ngày một cải tiến, phù hợp đáp ứng được khả năng phát triển của xu hướng công nghệ hoá ngành Ngân hàng. Để thu hút được nguồn vốn, chắc chắn công tác Maketing, kế hoạch hoạt động kinh doanh của Ngân hàng... ngày càng hoàn thiện và phát triển. Nhìn vào Bảng 01 ta thấy. Tổng nguồn năm 1999 là 2.157.091 triệu đồng , năm 2000 là 2.898.964 triệu đồng và năm 2001 là 3.984.276 triệu đồng. Sự tăng lên đáng kể của tổng nguồn cho chúng ta đánh giá là nguồn vốn của Ngân hàng mỗi năm một dồi dào, bằng những phương pháp, nghiệp vụ và những cố gắng cần thiết Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đang tạo ra cho mình một khả năng cực kỳ thiết yếu của bất kỳ một Ngân hàng Thương mại nào, là có đủ nguồn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng đi vay.
Mặt khác, tiền gửi của khách hàng tăng lên theo thời gian, huy động dân cư cũng tăng lên rõ rệt, huy động khác cũng tăng lên. Trong khi đó vay Ngân hàng đầu tư và phát triển giảm đáng kể. Một lần nữa chúng ta thấy khả năng thu hút khách hàng rất khích lệ.
Xét về giá trị tương đối hay theo tỉ trọng thì hàng năm nguồn vốn huy động từ dân cư vẫn là chiếm tỉ trọng lớn nhất.
Vốn tự huy động chiếm tỉ trọng: Năm 1999 là 80,02%, Năm 2000: 91,42%, Năm 2001: 94,04% tổng nguồn.
Điều này cho thấy tỉ trọng nguồn vốn đi vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam giảm dần trong các năm.
Biểu đồ cơ cấu huy động vốn:
Những số liệu trong Bảng 01 cho thấy sự cố gắng vượt bậc của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. Nguồn vốn chi nhánh tăng lên đáng kể trong các năm không những về con số tuyệt đối mà về giá trị tương đối, cơ cấu của nó cũng biến động theo hướng tích cực.
Vậy để thấy rõ hơn về nó ta đi nghiên cứu xem vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam gồm những khoản mục gì từ đó để đánh giá rõ hơn về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1. Vay Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là Ngân hàng trung ương của chi nhánh, là Ngân hàng mẹ nhằm tạo điều kiện để các Ngân hàng chi nhánh phát triển. Với sự kiểm soát và đốc thúc các chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh, thành phố hoạt động thì việc cho vay đối với các chi nhánh là nhiệm vụ của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đi vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chủ yếu là nguồn tài trợ uỷ thác đầu tư. Có thể xem Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam như là vai trò gián tiếp giữa nguồn ODA với việc đầu tư vào các dự án trong nước trên mặt pháp lý và giấy tờ, trong khi đó, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội sẽ có vai trò thực hiện nhiệm vụ áp dụng là cung cấp vốn trực tiếp cho các dụ án.
1999
2000
2001
(Biểu đồ biểu diễn đi vay ngân hàng đầu tư phát triển Việt nam)
Có thể chia nguồn đi vay của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thành:
Vay ngắn hạn: Đây là khoản mục tương đối ít khi đi vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Năm 1999 vay 4980 triệu đồng chiếm 1,17% trong khoản mục đi vay của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, năm 2000, chi nhánh Ngân hàng đã vay ngắn hạn Ngân hàng Trung ương 31355 triệu đồng, chiếm 12,6% tổng nguồn, đến năm 2001, đi vay 4150 triệu đồng, chiếm 1,86%.
Vì sao Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội lại có tỷ trọng đi vay ngắn hạn Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ít như vậy ?
Chúng ta có thể trả lời rằng do đặc thù kinh doanh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội là một Ngân hàng thương mại đi vay để cho vay đầu tư. Vì thế mà sự cần thiết tạo ra nguồn trung dài hạn luôn là yếu tố quan tâm hàng đầu. Nói như vậy không có nghĩa là hoạt động tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội là không phát triển, là không hiệu quả. Mà trái lại đã là một Ngân hàng thương mại hiện đại thì bản thân nó có thể phát triển mọi cách thức.
Vay trung và dài hạn: Vay trung và dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là khoản mục chủ yếu. Tuy nhiên trong những năm gần đây khoản mục này cũng giảm đáng kể: Năm 1999 là 259.712 triệu đồng chiếm 60,82% tổng nguồn vốn vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thì đến năm 2000 chỉ là 71.029 triệu đồng và đến năm 2001 là 101.674 triệu đồng.
Xu hướng đi vay trung và dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội không thể mất đi xong do nguồn vốn huy động được ở các nguồn khác (tự huy động ) tăng đáng kể nên nó càng ngày càng giảm.
Vốn tài trợ uỷ thác: Đây là nguồn cơ bản xong nó luôn cân đối với việc cho vay của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. Đây là nguồn ODA được tài trợ và uỷ thác đầu tư vào các dự án.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội sẽ là người nhận vốn đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế. Nguồn này thường được vay bằng USD và từ bảng 02 chúng ta thấy nguồn này giảm trong năm 1999 là 131.343 triệu đồng xong tỷ trọng hay về giá trị tuyệt đối lại có xu hướng tăng trong cơ cấu đi vay Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Nhìn lại một cách tổng quan ta thấy nguồn vốn đi vay Ngân hàng trung ương giảm cũng đồng nghĩa nguồn tự huy động tăng vì tổng nguồn tăng. Một phần nào nói lên được khả năng quản lý, tính chủ động và uy tín của chi nhánh ngày càng tăng lên trong công chúng.
1.2. Nguồn vốn tự huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. Bằng công tác quản lý và nỗ lực trong kinh doanh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đã tăng nguồn vốn tự huy động của mình lên một cách rõ rệt. Có thể nói, đây là sự phát triển một cách vượt bậc để khẳng định mình trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng trong thời kỳ đổi mới này. Trong những năm gần đây chi nhánh đã thiết lập được mối quan hệ tốt với khách hàng. Đã tạo được niềm tin tuyệt đối. Mặt khác do những chính sách quản lý, kinh doanh phù hợp kể cả về chi phí, về lãi suất ... và đặc biệt là công tác tuyển mộ nhân viên đã tạo ra cho Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội một cơ sở vững chắc để kinh doanh.
Để đánh giá rõ hơn về nguồn tự huy động, chúng ta sẽ đánh giá khoản mục huy động dân cư của chi nhánh để thấy được khả năng thực có và tiềm tàng của chi nhánh và một phần nào đó tự soi tập thể Ngân hàng vào các gương hiểu hiệu nhất đó là: Tính thông dụng và niềm tin trong dân cư.
1999
2000
2001
(Biểu đồ thể hiện huy động vốn trong khoản mục dân cư)
Từ bảng cơ cấu các khoản mục trong huy động dân cư cho chúng ta thấy: Khoản mục này tăng đáng kể về số tuyệt đối trong những năm 1999 – 2001, phản ảnh khả năng huy động vốn từ dân cư của chi nhánh là cực kỳ hiệu quả nguyên nhân chủ yếu là do: Uy tín của chi nhánh Ngân hàng ngày nâng cao, chính sách lãi suất, chính sách khách hàng hấp dẫn được coi là vấn đề cốt yếu và ngày càng hoàn thiện.
Thể hiện nguồn vốn huy động từ dân cư, năm 1999 là 1.045.187 triệu đồng, đến năm 2000 là 1.403.398 triệu đồng và tăng lên trong năm 2001 là 1.824.240 triệu đồng.
Nguyên nhân nguồn huy động từ dân cư tăng lên là do Chi nhánh Hà Nội đã đa dạng hóa hình thức huy động như tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu. Với chính sách lãi suất linh hoạt (trả lãi trước, trả lãi sau); Các kỳ hạn thích hợp và thực hiện chính sách khách hàng hợp lý.
Ngoài ra, trong những năm qua đặc biệt là năm 2000 chi nhánh Ngân hàng đã sử dụng hiểu hiệu công cụ kỳ phiếu, đến cuối năm 2000 dư có kỳ phiếu là 457.324 triệu chiếm 32,59% nguồn huy động dân cư chiếm 15,78% tổng nguồn.
Nói tóm lại: Nguồn vốn huy động từ dân cư là nguồn vốn chủ yếu trong mảng tự huy động của chi nhánh. Một mặt nói lên khả năng tự huy động của chi nhánh Ngân hàng.
Phần 2- tình hình nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
1. Vấn đề thứ nhất: Thực trạng về nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
Chương I chúng ta đã phân tích nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng được tạo ra:
- Các dự án ở trung ương chuyển về
- Huy động mới các nguồn trung và dài hạn có kỳ hạn tương hợp với các khoản cho vay.
- Kết hợp các nguồn ngắn với nguồn trung và dài hạn để được một nguồn trong giới hạn an toàn thanh khoản, rủi ro lãi suất và một số rủi ro khác.
Đây là những cách làm mà Ngân hàng đã có sự lựa chọn. Vì vậy nó phù hợp cho cả lý thuyết và thực tiễn.
Bởi lẽ để có nguồn trung và dài hạn mới thì trước hết và hầu hết nó được tạo bởi nguồn mới cùng tính chất với nó. Thứ hai là được biến đổi về nó thông qua 1 nghiệp vụ không quá phức tạp là chuyển đổi kỳ hạn và sự kết hợp giữa chúng nếu thấy cần thiết. Nói tóm lại để tạo ra nguồn mới để cho vay thì Ngân hàng càng cần phải có những điều kiện phù hợp.
2. Vấn đề thứ hai:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh từ năm 1999 đến nay, chi nhánh nhận thấy chưa bao giờ chi nhánh thiếu vốn cho vay với các dự án xét khả năng về nguồn vốn của mình. Tuy nhiên, có những dự án không được phép vay vốn hay bị huỷ bỏ là do xét thấy dự án không hiệu quả hoặc không đủ điều kiện để vay vốn. Vì vậy thông qua phần 1 chúng ta chúng ta sẽ nhận định lại xem chi nhánh có cần thiết tìm kiếm một nguồn vốn cho vay trung và dài hạn hay không.
3. Vấ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0066.doc