Mục lục
Mở đầu
Chương i Khái quát chung về trung tâm thông tin-tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia
1.1.1 Chức năng của Trung tâm TTTLKH&CNQG
1.1.2 Nhiệm vụ của Trung tâm TTTLKH&CNQG
1.2 Cơ cấu tổ chức của Trung tâm TTTLKH&CNQG
1.3 Nguồn lực thông tin tại Trung tâm TTTLKH&CNQG
1.4 Các nhiệm vụ ưu tiên mang tính đột phá và mối quan hệ hợp tác
Chương 2 thực trạng nguồn tin kinh tế t
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nguồn tin kinh tế tại trung tâm thông tin tư liệu khoa học & công nghệ quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại trung tâm thông tin-tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia
2.1 Khái niệm về thông tin, thông tin kinh tế, nguồn tin, nguồn thông tin kinh tế
2.2 Vai trò của nguồn tin kinh tế trong xã hội hiện đại.
2.3 Điều tra về nguồn tin kinh tế tại Trung tâm TTTTLKH&CNQG
2.3.1 Nội dung của nguồn tin kinh tế tại Trung tâm TTTLKH&CNQG
2.3.2 Loại hình nguồn tin kinh tế tại Trung tâm TTTTLKH&CNQG
2.3.2.1 Sách.
2.3.2.2 Tạp chí.
2.3.2.3 Cơ sở dữ liệu.
2.3.2.4 Tài liệu xám.
2.3.2.5 Tổng luận, tổng quan.
2.3.2.6 Tài liệu điện tử.
2.4 Phân tích và đánh giá hiệu quả phục vụ nguồn lực thông tin kinh tế cho sự phát triển kinh tế-xã hội của Trung tâm TTTLKH&CNQG
Chương 3 một số giải pháp phát triển và hoàn thiện nguồn tin kinh tế tại trung tâm thông tin-tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia
3.1 Đẩy mạnh công tác bổ sung các nguồn tin kinh tế tai Trung tâm TTTLKH&CNQG
3.2 Cụ thể hóa hướng phát triển nguồn tin kinh tế tại Trung tâm TTTLKH & CNQG
3.3 Tăng cường ngân sách nhà nước và kinh phí của Trung tâm TTTLKH&CNQG cho kế hoạch phát triển nguồn tin kinh tế
3.4 Xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thông tin ở Trung tâm TTTLKH&CNQG
3.5 Tăng cường hợp tác quốc tế
3.6 Tin học hoá nguồn tin kinh tế tại Trung tâm TTTLKH&CNQG
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Mở đầu
Sự cần thiết và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội loài người. Bước vào thế kỷ 21, trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa , giáo dục-đào tạo, môi truờng ...đều có những biến đổi sâu sắc. Cùng với việc xuất hiện các cơ hội phát triển mới, nguy cơ tụt hậu về kinh tế, khoa học va công nghệ, thông tin đang và sẽ là những thách thức lớn đối với nhiều quốc gia. Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc, sự phân hóa giàu và nghèo ngay trong mỗi quốc gia ngày càng gia tăng, tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định trên thế giới.
Nắm đuợc tình hình đó, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu “Đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” từ nay đến năm 2020, đạt được mức tăng trưởng GDP từ 8 đến 10 lần so với năm 1990. Đây là mục tiêu tương đối khó khăn đối với nền kinh tế nuớc ta hiện nay. Việc duy trì một tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong những thập kỉ tới đòi hỏi nuớc ta phải tìm kiếm, huy động và sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn lực trong nước cũng như tranh thủ những nguồn lực mà chúng ta có cơ hội tiếp cận từ bên ngoài. Trong xu thế chung của thời đại, thông tin khoa học và công nghệ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong các nguồn lực phát triển kinh tế. Việc phát triển hệ thống thông tin, trong đó có hệ thống thông tin kinh tế không những chỉ huy động được sức mạnh tiềm lực thông tin, khoa học và công nghệ vốn có trong nước mà còn tranh thủ đuợc các cơ hội, sự hỗ trợ của các tổ chức trên thế giới để phát triển kinh tế đất nuớc. Với sự tác động của cuộc cách mang khoa học công nghệ đương đại thì tiềm lực thông tin, khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh của những thập niên vừa qua.
Trong một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay, thông tin đang trở thành một nguồn lực quan trọng, đặc biệt là hệ thống thông tin kinh tế đã góp phần to lớn không chỉ trong công tác quản lí, điều hành các hoạt động kinh tế mà nó còn góp phần tạo ra các giá trị mới trong các hoạt động đó. Nhất là ở xã hội văn minh ngày nay, trong thời đại kinh tế thị trường, thông tin được coi là thứ hàng hóa đắt giá nhất, thậm chí còn quý hơn cả vốn liếng. Thời đại ngày nay "Ai nắm đuợc thông tin thì coi như nắm đuợc thành công trong tay, người đó sẽ làm chủ thế giới". Những câu nói đó đã và đang trở thành khẩu hiệu bất diệt. Tuy nhiên, sự thành công này còn tùy thuộc vào khả năng nhận thức, xử lí, sáng tạo của người sử dụng tin. Thu thập, xử lí như thế nào để hình thành một tư duy, một phuơng án, một quyết định hiệu quả, để áp dụng tiếp trong hoạt động kinh doanh, hoạt động quản lí, tiêu dùng của mình. Đó là quá trình tái sản xuất mở rộng thông tin để phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nuớc.
Lúc đầu, thông tin kinh tế phát triển trên cơ sơ phân tán, tản mạn, không thống nhất. Đến nay thông tin kinh tế ở các nước tư bản đã phát triển trên một cơ sở kỹ thuật cao, với tiềm lực tính toán rất lớn và rất nhiều tổ chức, trung tâm thông tin kinh tế lớn ra đời. ở một số nuớc công nghiệp phát triển, đã chuyển từ hình thức xử lí thông tin, phân tán, bằng điện tử sang hệ thống thông tin kinh tế liên kết trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Tại Việt Nam việc xây dựng và phát triển nguồn lực thông tin kinh tế đặc biệt được chú trọng. Đây là yếu tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển ngành thông tin-tư liệu, là nhiệm vụ không phải của riêng tổ chức xúc tiến mà còn là trách nhiệm của nhà nuớc trong mục tiêu phát triển và nâng cao năng lực nội sinh của khoa học và công nghệ quốc gia. Thế nên, thông tin kinh tế luôn là bộ phận không thể thiếu trong các cơ quan thông tin. Với Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia- Trung tâm đầu ngành cả nước về khoa học-công nghệ, thông tin kinh tế tuy chiếm số lượng không đáng kể nhưng nó đã góp phần tạo nên sự hoàn chỉnh trong hệ thống thông tin tại cơ quan. Bởi vậy, đề tài: “Nguồn tin kinh tế tại trung tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia " có ý nghĩa to lớn cả về mặt lí luận và thực tiễn.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua tìm hiểu thực trạng và công tác hoạt động, quản lí nguồn thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia để có hướng nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của hệ thống thông tin kinh tế quốc gia, tác giả cũng mạnh dạn đưa ra một số đánh giá-nhận xét, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động lưu giữ, khai thác và phục vụ nguồn thông tin kinh tế có giá trị này góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, giúp nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển theo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng và nhà nuớc đã đề ra.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động, quản lí và khai thác nguồn tài liệu về kinh tế tại Trung tâm Thông tin Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Mặc dù nguồn tài liệu nay có số lượng rất hạn chế trong cả kho tài liệu của Trung tâm nhưng nó góp phần trong việc hoàn thiện vốn tài liệu nhằm phục vụ đắc lực cho bạn đọc cả nước. Đây cũng là cơ sở để các nhà quản lí hoạt động thông tin kinh tế có chiến lược phát triển tăng cường nguồn lực thông tin kinh tế quốc gia trong thời kì tới.
Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận
Khóa luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí minh về kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học và công nghệ đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động thông tin- tư liệu.
Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh phương pháp tổng hợp, nghiên cứu, thống kê, đánh giá tài liệu, tác giả còn trao đổi, phỏng vấn các cán bộ thông tin để hiểu rõ thực trạng quản lí hoạt động nguồn lực thông tin kinh tế ở Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia hiện nay.
Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có 3 chương nội dung sau
Chương 1: Khái quát chung về Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
Chương 2: Thực trạng nguồn tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
Chương 3: Phương hướng phát triển và hoàn thiện nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
Chương 1
Khái quát chung về trung tâm thông tin- tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia
Lịch sử hình thành và phát triển
Trong thời đại hiện nay, việc áp dụng những thành tựu khoa học vào tất cả các lĩnh vực trong đời sống đang trở thành nhân tố cho sự lớn mạnh của xã hội. Sự phát triển khoa học và lực lượng sản xuất xã hội, việc áp dụng những thành tựu khoa học vào nền kinh tế quốc dân là đối tượng chú ý đặc biệt của các nuớc xã hội chủ nghĩa. Sự tiến bộ của khoa học-công nghệ đã đưa đến việc giảm bớt sức lao động rút ngắn ngày công, nâng cao phúc lợi của nhân dân lao động, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì thế mà hầu hết các quốc gia phát triển và nhiều quốc gia đang phát triển đều có Trung tâm khoa học quốc gia-bộ phận khoa học đầu não trong cả nước. Nhiều quốc gia có Viện hàn lâm khoa học với bề dày lịch sử trên 100 năm. Nhưng hoạt động khoa học chỉ thực sự đạt hiệu quả khi có sự tham gia của hoạt động thông tin. Chính thông tin vừa là chất xúc tác, vừa là môi truờng để hoạt động khoa học đi lên. Do đó, bên cạnh việc chú trọng phát triển thông tin khoa học quốc gia, các nước cũng xây dựng và hoàn thiện cho mình Trung tâm thông tin mang tính đầu ngành cả nuớc. Hòa chung vào dòng chảy đó, ngay từ năm 1961 Việt Nam đã hình thành Viện Thông tin Khoa học Kỹ thuật Trung ương với nhiệm vụ ban đầu chủ yếu là xuất bản tạp chí tóm tắt, tiến hành nghiên cứu các vấn đề lí luận, phương pháp và thực hành thông tin khoa học kỹ thuật; nghiên cứu, thu thập, xử lí, bảo quản và phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến, những thành tựu khoa học-kỹ thuật của trong và ngoài nước; giúp đỡ về mặt phương pháp cho các cơ quan thông tin khoa học nghành và địa phương. Song song với sự tồn tại của Viện Thông tin này, trước đó vào năm 1958 Thư viện Khoa học Kỹ thuật Trung ương cũng đã ra đời dựa trên cơ sở chia tách Thư viện Khoa học Trung ương thành Thư viện Khoa học Kỹ thuật Trung ương và Thư viện Khoa học Xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước hiện nay, vai trò của Thư viện Khoa học Kỹ thuật Trung ương ngày càng đuợc xác định rõ ràng. Để phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân đi tới văn minh hiện đại, đòi hỏi phải có tri thức khoa học kỹ thuật. Thư viện chính là nơi tàng trữ tài liệu khoa học kỹ thuật, là cây cầu giao lưu chất xám giữa các nhà khoa học trong nước là cánh cửa giao lưu với thế giới bên ngoài cho các nhà khoa học của ta tiếp xúc với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến toàn cầu. Hiện nay, thư viện còn là nơi lui tới của một đội ngũ đông đảo bạn đọc gồm toàn những cán bộ nghiên cứu, những chuyên gia khoa học xuất sắc của đất nước. Trong hoàn cảnh nền khoa học kỹ thuật của ta còn rất lạc hậu, Đảng và nhà nuớc đã nhận thức được tầm quan trọng của thư viện khoa học đối với việc thu thập và phổ biến các tri thức tiên tiến của nhân loại. Đại hội lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới coi khoa học và công nghệ là một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới đất nuớc. Vai trò của cách mạng khoa học kỹ thuật càng được khẳng định, trong đó hoạt động thông tin khoa học giữ vị trí thiết yếu. Ngày 24 tháng 9 năm 1990, Chủ nhiệm ủy ban khoa học kỹ thuật nhà nước (nay là Bộ Khoa học Công nghệ) đã ra quyết định số 487/TCCB hợp nhất hai đơn vị Thư viện Khoa học Kỹ thuật Trung ương với Viện Thông tin Khoa học kỹ thuật Trung ương thành Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia(Trung tâm TTTLKH & CN).
Chức năng
. Thông tin khoa học và công nghệ của Nhà nước.
. Giúp Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý thống nhất hoạt động thông tin tư liệu khoa học, công nghệ trong cả nước.
1.1.2 Nhiệm vụ
Những năm qua, bằng việc xác định rõ nhiệm vụ hàng đầu để bắt kịp sự đi lên của xã hội ở cơ quan mình, Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia đã không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ người dùng tin và bạn đọc trong cả nước. Các nhiệm vụ đó là
. Tổ chức xây dựng, trình Bộ trưởng Bộ Khoa học công nghệ (KHCN) phê duyệt kế hoạch công tác thông tin tư liệu KHCN trong cả nước và tổ chức thực hiện kế hoạch đó. Theo dõi kiểm tra hoạt động thông tin tư liệu KHCN ở các cấp , các ngành.
. Tổ chức, thúc đẩy và hoàn thiện hệ thống thông tin tư liệu KHCN quốc gia qua việc tạo nguồn, thu thập, bảo quản và lưu trữ các nguồn thông tin, tư liệu về khoa học, công nghệ và môi trường trong và ngoài nước đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Hướng dẫn xây dựng các tổ chức thông tin tư liệu ở từng cấp, kể cả mạng lưới các thư viện khoa học kỹ thuật.
. Quản lý nhà nước các nguồn tư liệu về khoa học, công nghệ và môi trường. Trên cơ sở tổ chức thực hiện công tác đăng ký đề tài và kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ và môi trường. Tổ chức việc tạo nguồn, thu thập, bảo quản và lưu trữ các nguồn thông tin, tư liệu về khoa học, công nghệ và môi trường trong và ngoài nước. Xây dựng vốn thông tin, tư liệu đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, khoa học, công nghệ và môi trường của đất nước.
. Xử lý phân tích-tổng hợp các nguồn thông tin tư liệu trong và ngoài nước nhằm tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin đáp ứng nhu cầu người dùng tin và bạn đọc, tiến tới tạo lập ngân hàng thông tin quốc gia về tư liệu và dữ kiện khoa học, công nghệ, môi trường và kinh tế.
. Tổ chức cung cấp thông tin, tư liệu cho các yêu cầu xét duyệt, đánh giá các chương trình, đề tài, giám định công nghệ, thẩm định các dự án đầu tư, các dự án phát triển kinh tế-xã hội.
. Tổ chức phục vụ bạn đọc, thực hiện công tác nghiên cứu phát triển hoạt động thông tin, tư liệu; hướng dẫn chỉ đạo thống nhất nghiệp vụ trong cả nước cũng như đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ. Tuyên truyền, phổ biến các thành tựu và kiến thức về khoa học, công nghệ, môi trường trong và ngoài nước.
. Tham gia hoạt động hợp tác quốc tế, trao đổi tài liệu, cho mượn giữa các thư viện. Thực hiện các dịch vụ thông tin-tư liệu về khoa học, công nghệ, môi trường cho mọi đối tượng có yêu cầu.
Nhờ vậy, các sản phẩm-dịch vụ thông tin của Trung tâm ngày càng đa dạng về số lượng, chuyên sâu về chất lượng, phục vụ tốt hơn cho độc giả và người dùng tin góp phần đẩy mạnh dịch vụ thông tin công nghệ như marketing về thị trường thông tin công nghệ, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin công nghệ, tư vấn công tác chuyển giao công nghệ....
1.1.3 Các nhiệm vụ ưu tiên mang tính đột phá và mối quan hệ hợp tác.
Trên cơ sở nguồn lực thông tin hiện có, Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia bước đầu xây dựng những đột phá cho mình như:
. Đẩy mạnh thông tin phục vụ các địa phương.
. Đẩy mạnh các sản phẩm và dịch vụ thông tin phân tích.
. Đẩy mạnh dịch vụ thông tin công nghệ.
. Xây dựng và phát triển thư viện điện tử.
Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia có quan hệ hợp tác và trao đổi tư liệu với hơn 120 cơ quan, tổ chức và thư viện của hơn 40 nước trên thế giới như AIF (Tổ chức liên Chính phủ Pháp ngữ), SAREC/SIDA (Tổ chức hợp tác nghiên cứu với các nước đang phát triển của Thụy Điển), UNESCO, APCTT, Trung tâm Thông tin khoa học kỹ thuật quốc tế...
1.2 Cơ cấu tổ chức
Với mục tiêu tổng quát của Chương trình hành động là tăng cường năng lực của Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của cơ quan thông tin khoa học công nghệ hàng đầu nhà nước và giúp Bộ quản lý thống nhất hoạt động thông tin khoa học công nghệ trong cả nước, cơ cấu tổ chức của Trung tâm hiện naycũng có nhiều thay đổi so với trước.
Toàn bộ Trung tâm gồm có 14 phòng ban hoạt động liên hoàn. Mỗi phòng đều có những chức năng riêng biệt song liên kết với nhau rất chặt chẽ. Do đó mà cả cơ quan luôn hoàn thành xuất sắc kế hoạch đặt ra. Bao gồm: Giám đốc, Các phó giám đốc, Hội đồng khoa học, Văn phòng, Phòng quản lý hoạt động thông tin, Phòng quan hệ quốc tế, Phòng tin học, Phòng phát triển các nguồn tin, Phòng xây dựng cơ sở dữ liệu thư mục, Phòng nghiên cứu và phân tích thông tin, Phòng dịch vụ thông tin, Phòng tra cứu- chỉ dẫn, Phòng đọc sách, Phòng đọc tạp chí, Phòng phổ biến khoa học và công nghệ, Phòng in-sao, Trung tâm INFOTERRA Việt Nam.
1.3 Nguồn lực thông tin:
Trung tâm TTTLKH&CN có một nguồn lực thông tin về khoa học- công nghệ khá lớn vào bậc nhất ở Việt Nam. Các tài liệu này luôn được bổ sung, cập nhật hàng ngày, nhất là các nguồn thông tin số hoá để đảm bảo cho nhu cầu tin cao của độc giả.
Sách: Hơn 220.000 đầu sách đủ các loại tiếng như Anh, Nga, Pháp, Việt, Trung... Trong đó, 35%các ngành khoa học cơ bản, 45% thuộc các ngành khoa học kỹ thuật và 19% thuộc nông-lâm-ngư nghiệp-y tế.
Tạp chí: Có hơn 6300 tên, ước khoảng 1000 tên được quay vòng và bổ sung thường xuyên phục vụ rộng rãi người dùng tin: 5300 tên tạp chí tiếng La Tinh, 780 tên tạp chí tiếng Nga, 300 tên tạp chí tiếng Việt. Ngoài ra, trong kho còn có kho microfim khoảng 1000 tên tạp chí tiếng Anh .
Tư liệu xám: Trung tâm cũng lưu trữ hơn 3500 báo cáo kết quả nghiên cứu, hơn 8000 đề cương nghiên cứu của các đề tài đăng ký tiến hành nghiên cứu.
Cơ sở dữ liệu: Hiện có nhiều cơ sở dữ liệu khoa học công nghệ có giá trị ở trong nước và trên thế giới: Pascal, Chemical abtracts, Vendor, Energy and environment, Scitec, cơ sở dữ liệu trên CD-ROM.... Tất cả các cơ sở dữ liệu này được đông đảo độc giả quan tâm và tra cứu thường xuyên.
Hơn nữa, Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia còn tổ chức, xây dựng và quản lý mạng VISTA. Đây là mạng thông tin máy tính diện rộng về khoa học và công nghệ được chuyển tải trực tuyến các thông tin, thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ trong nước cũng như trên thế giới đến các thành viên làm công tác khoa học và công nghệ phục vụ công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Chương 2
Thực trạng nguồn tin kinh tế tại trung tâm thông tin-tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia
2.1 Khái niệm thông tin, thông tin kinh tế, nguồn tin, nguồn thông tin kinh tế
Trong đời sống con nguời, thông tin là một nhu cầu rất cơ bản, nhu cầu đó không ngừng tăng lên cùng với sự gia tăng các mối quan hệ trong xã hội. Mỗi người sử dụng thông tin lại tạo ra những thông tin mới. Các thông tin được truyền cho người khác trong quá trình thảo luận, truyền đạt mệnh lệnh, trong thư từ và tài liệu hoặc qua các phuơng tiện truyền thông khác. Thông tin đuợc tổ chức tuân theo một số quan hệ logic nhất định trở thành bộ phận của tri thức, đòi hỏi phải đuợc khai thác và nghiên cứu một cách hệ thống.
Thông tin được thể hiện qua nhiều hình thức đa dạng và phong phú như con số, chữ viết, âm thanh, hình ảnh... Thông tin cũng có thể được ghi và truyền thông qua nghệ thuật bằng nét mặt, động tác và cử chỉ. Hơn nữa, con người đuợc cung cấp thông tin dưới dạng mã di truyền. Những hiện tượng này của thông tin được thấm vào thế giới vật chất và tinh thần của con người, cùng với sự đa dạng phong phú của nó khiến khó có thể đưa ra định nghĩa thống nhất về thông tin .
Tựu trung lại có thể hiểu:
Thông tin là những tin tức phản ánh thế giới khách quan mà con người sử dụng trong mục đích của mình nhằm phát triển kinh tế xã hội, phục vụ và thỏa mãn mọi cầu sống của con người.
Hiện nay, người ta thừa nhận rằng vật chất, năng lượng, thông tin và bản sắc văn hóa dân tộc là các nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của mỗi quốc gia. Nếu như trước đây mọi nền kinh tế đều dựa chủ yếu vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên, lấy việc khai thác và chế biến chúng là nguồn chủ yếu tạo ra của cải, sự giàu có trong xã hội; thì từ những năm cuối thế kỷ 20 thông tin đuợc xem là một nguồn tài nguyên kinh tế giống như các tài nguyên khác như vật chất, lao động, tiền vốn... Bởi vì việc sở hữu, sử dụng và khai thác thông tin có thể đem lại hiệu quả cho nhiều quá trình vật lí và nhận thức. Ngày nay các hoạt động liên quan đến xử lí thông tin trong công nghiệp chế tạo cũng như trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và con người tăng lên đáng kể. Khác với các nguồn tài nguyên khác tài nguyên thông tin có thể mở rộng phát triển không ngừng và hầu như chỉ bị giới hạn bởi thời gian lẫn khả năng nhận thức của con nguời. Do đó, con người sử dụng thông tin ngày càng nhiều với nhu cầu rất cao ở xã hội hiện đại. Đặc biệt trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra với quy mô lớn như ngày nay cùng với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, số luợng thông tin tăng lên chóng mặt. Chính các tiềm lực này tạo ra sự phát triển nhảy vọt như vũ bão của các thông tin khoa học đã gây ra một hiện tượng "Bùng nổ thông tin ". Đứng trước tình hình trên, các cơ quan thông tin tư liệu phải gồng mình vì hiện tượng này. Họ phải chắt lọc trong số rất nhiều thông tin đó, những nguồn chính xác, có độ tin cậy, phù hợp để cung cấp cho nguời dùng tin và xây dụng vốn tư liệu cho cơ quan mình. Thế nên , thuật ngữ nguồn tin ra đời.
Nguồn tin là toàn bộ các thông tin phản ánh thế giới khách quan, là nguồn tri thức hiểu biết xã hội được lưu giữ trong các vật mang tin khác nhau, được tổ chúc có thể truy cập được giúp con người nhận thức, cải tạo thế giới khách quan và làm chủ xã hội.
ở mỗi cơ quan thông tin-thư viện, nguồn tin trở thành một trong những nguồn lực quan trọng cần phải quan tâm hàng đầu vì nó là cơ sở tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của chính cơ quan đó.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, kinh tế hiện đại, thông tin kinh tế cũng phát triển nhanh chóng. Thông tin phát ra từ các yếu tố của hệ thống nến kinh tế quốc dân từ trung ương đến cơ sở: các thông báo nội bộ của một hệ thống kinh tế, giữa những hệ thống kinh tế khác nhau. Bởi thế thông tin kinh tế góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế hàng hóa và tăng cường hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước, là một phần không thể thiếu trong chính sách tạo nguồn đối với từng quốc gia. Thật vậy, từ trước đến nay các hoạt động kinh tế và sản xuất đều cần đến thông tin. Các tổ chức sản xuất và kinh doanh đòi hỏi về nhu cầu đang thay đổi của khách hàng, các khuynh hướng thị trường đang tiến hóa, các vật liệu sản xuất đang xuất hiện, các trang thiết bị mới với khả năng kỹ thuật cao hơn, các công nghệ mới đang được áp dụng... Chính quá trình liên hệ nhiều thông tin với nhau, dù ở xã hội nguyên sơ nhất, đã dần dần đưa đến kiến thức về những nguyên lý thông dụng trong sản xuất, giúp con nguời đổi mới và hoàn thiện các quá trình lẫn phương pháp hiện hành. Đó chính là yếu tố quan trọng của sự phát triển, góp phần nâng cao sức sản xuất và tạo nên sự giàu có của xã hội. Từ giữa thế kỷ 20, nền sản xuất công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ, nhiều nhu cầu thông tin và xử lý thông tin mới nảy sinh nhanh chóng, đòi hỏi được đáp ứng kịp thời, nên vai trò của thông tin kinh tế ngày càng thêm quan trọng
Thông tin kinh tế phản ánh các hiện tượng kinh tế-xã hội khách quan. Là những thông tin kinh tế xã hội và kinh tế-kỹ thuật, những số liệu, những sự kiện tin tức và các tài liệu khác trên cơ sở nhận thức ban đầu về chất lượng và sự ưu thế về mặt số lượng, phản ánh những quan hệ kinh tế-xã hội, đuợc dùng để phân tích, quản lý, lập kế hoạch và dự báo sự phát triển kinh tế-xã hội. Nó khác với các thông tin khoa học tự nhiên, thiên văn, sinh học. Đó là những thông tin về các hiện tượng tự nhiên trong thế giới khách quan.
Trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, thông tin kinh tế là đại lượng đo lường, miêu tả những hiện tượng phát sinh ra trong hoạt động kinh tế, đuợc thu thập và lựa chọn, xử lý để phục vụ cho mục tiêu và nhiệm vụ nhất định của công tác quản lý, trong quá trình tái sản xuất mở rộng nền kinh tế quốc dân. Thông tin kinh tế là những căn cứ để giúp cho cán bộ quản lý lựa chọn và ra các quyết định quản lý tối ưu để điều hành hoạt động quản lý trong các đơn vị. Lênin đã từng khẳng định "Khoa học thống kê kinh tế-xã hội một trong những công cụ mạnh mẽ nhất để nhận thức xã hội".
Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau về thông tin kinh tế dưới những góc độ cụ thể. Nhưng ta có thể hiểu:
Thông tin kinh tế là loại thông tin chuyên ngành phản ánh về tình hình kinh tế-xã hội, về sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong điều kiện nền kinh tế thị trường có định hướng phục vụ cho các nhà quản lý vi mô và vĩ mô lập kế hoạch phát triển nền kinh tế-xã hội, quản trị sản xuất và kinh doanh.
Đối với việc xây dựng nền kinh tế quốc gia, thông tin kinh tế trở thành một đối tượng nghiên cứu độc lập cùng với sự ra đời của phương thức tư bản chủ nghĩa.Tính mâu thuẫn và sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản đã quyết định tính mâu thuẫn trong sự phát triển của lĩnh vục thông tin kinh tế. Đồng thời, nó cũng là đối tượng nghiên cứu độc lập đối với các nhà lãnh đạo quản lý. Bởi nó cung cấp những thông tin kinh tế-xã hội, kinh tế-kỹ thuật, số liệu, sự kiện, tin tức giúp họ phân tích, quản lý, lập kế hoạch, xây dựng chiến lược dự báo sự phát triển kinh tế, xã hội cho đất nước mình.
Chính điều này làm cho thông tin kinh tế trở thành nguồn tài nguyên quan trọng trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, thông tin kinh tế đã thâm nhập vào mọi khâu của hoạt động kinh tế xã hội, nó trở thành nguồn lực cho sản xuất-kinh doanh, quản lý. Và vì vậy, nguồn tin kinh tế ngày càng được cán bộ quản lý, các doanh nghiệp nhất là các cơ quan thông tin-thư viện coi trọng, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia.
Nguồn tin kinh tế là toàn bộ những thông tin kinh được lưu trên các vật mang tin khác nhau, được tổ chức và có thể truy cập được phục vụ đắc lực cho việc phát triển kinh tế-xã hội, sản xuất kinh doannh của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
ở nước ta hiện nay, quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế được quản lý một cách tập trung quan liêu sang một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nuớc rất cần có sự góp sức của nguồn tin kinh tế. Quá trình chuyển biến sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nắm vững rất nhiều loại thông tin kinh tế khác nhau với chất lượng thông tin cao nhằm phục vụ cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các nhu cầu thông tin kinh tế được đáp ứng có hiệu quả sẽ thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới, cải cách làm cho nền kinh tế phát triển.
Quốc gia nào càng có nguồn lực thông tin kinh tế lớn mạnh quốc gia đó càng có nền kinh tế phát triển. Thế nên, nguồn tin kinh tế trở thành một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của mỗi nước, là nguồn lực quan trọng góp phần tạo nên những ưu thế kinh tế-xã hội để quốc gia đó khẳng định được chính mình.
Vai trò của thông tin kinh tế trong nền kinh tế hiện đại.
Để cạnh tranh thành công trên thương trường một doanh nghiệp phải đưa ra những quyết định đúng đắn và kịp thời. Trên thực tế có nhiều yếu tố tác động đến chất lượng của các quyết định đó như trình độ của các nhà quản lý, sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật ... và một yếu tố cực kỳ quan trọng đó chính là vấn đề cung cấp thông tin.
Một trong những biến chuyển lớn lao của xã hội chúng ta hiện nay là từ xã hội công nghiệp chuyển sang xã hội thông tin. Điều này không có nghĩa là công nghiệp sẽ biến mất trong tương lai, mà nó nói lên rằng, nếu người quản lý không hiểu rõ vai trò của thông tin thì họ sẽ biến mất.
Kiến thức ngày nay là sản xuất, là sức mạnh của doanh nghiệp. Kiến thúc có vai rò là hệ số của sản xuất, bởi vì nó có đặc tính sáng tạo. Thông tin nói chung, thông tin kinh tế nói riêng và kiến thức đang đóng vai trò tích cực và nổi bật trong các hoạt động tạo ra giá trị cho các công ty và các tổ chức kinh doanh. Nó là một trong ba lĩnh vực (công nghiệp, thương mại, dịch vụ) tạo thành trục quan trọng của quá trình phát triển kinh tế-xã hội; nối liền giữa sản xuất, lưu thông, tiêu dùng; thỏa mãn các nhu cầu nhanh nhậy, chính xác, toàn diện trong hoạt động kinh tế của các nước, các đơn vị kinh tế cơ sở. Bởi thế, thông tin kinh tế đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ riêng với nền kinh tế mà còn đối với các lĩnh vục hoạt động khác.
Thứ nhất, thông tin kinh tế góp phần thực hiện quá trình chuyển giao tri thức, tiến tới hỗ trợ việc ra quyết định giải quyết các vấn đề quan tâm cần thiết.
Thông tin kinh tế phản ánh các mặt đời sống kinh tế của xã hội. Nó chủ yếu vận động trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, giúp cho các chủ thể kinh tế ra quyết định thực hiện các hoạt động kinh tế của mình.
Thông tin kinh tế nói chung đang trở thành một nhân tố cạnh tranh quan trọng nhất mà bất kỳ nguời lãnh đạo công ty nào cũng phải cố nắm lấy để cạnh tranh với các công ty khác trên thế giới, để xác định cho mình hướng kinh doanh mới, cũng như phát huy đuợc lợi thế vốn có của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh tế, dù là người sản xuất, người tiêu dùng, người chủ nguồn lực kinh tế hay những người trung gian, đều chịu sự chi phối của cơ chế thị trường. Các quyết định kinh tế của họ có liên quan đến những người còn lại thông qua các quan hệ thị trường. Việc đề ra và triển khai thực hiện các quyết định đòi hỏi chủ thể kinh tế phải hiểu rõ những gì diễn ra trong các quá trình kinh tế của họ cũng như của những người khác liên đến họ. Vì vậy, thông tin kinh tế trước hết và chủ yếu phục vụ cho quá trình ra quyết định về các hành vi kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Những xu hướng phát triển kinh tế thị trường ngày nay làm cho thông tin có nhiều vai trò mới.
Tuy nhiên, mỗi giai đoạn lịch sử đều gắn với một trình độ phát triển nhất định của loài người. Sự kế tiếp giữa hai nền văn minh xuất hiện hiện tượng chuyển giao tri thức. Tri thức là nguồn tài nguyên của nhân loại, biểu hiện của trí tuệ con người và công nghệ. Tri thức cũng là nguồn tài nguyên quan trọng để giúp đem lại sự thịnh vượng của các quốc gia ở những giai đoạn khác nhau. Vì nó là động lực để thúc đẩy kinh tế và đổi mới công nghệ mang tính xuyên ngành và xuyên quốc gia. ở xã hội hiện đại, vai trò của tri thức nổi lên như một nguồn lực kinh tế. Các nước đều dựa vào tri thức làm sức mạnh chủ yếu đem lại giá trị kinh tế-xã hội. Việc góp mặt của thông tin kinh tế đã làm cho tri thức đi sâu áp dụng vào đời sống con người, làm cho quá trình chuyển giao tri thức nhanh hơn, đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, thông tin kinh tế làm cho người nhận được thông tin hiểu biết nhiều hơn về đối tượng để ra các quyết định hợp lý hơn.
Với vai trò này, thông tin kinh tế luôn gắn liền với hoạt động quản lý kinh tế, vừa là "nguyên liệu", vừ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0229.doc