Lời mở đầu
Việt Nam đang buớc vào thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. CNH-HĐH là nhằm phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo thêm công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ, bảo đảm an ninh chính trị lãnh thổ, ổn định và phát triển đất nước, cải thiện hơn nữa đời sống nhân dân. Trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là một nội dung cơ bản, quan trọng hàng đầu trong quá trình
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nguồn nhân lực Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CNH-HĐH. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công cần có sự đóng góp rất lớn của nguồn nhân lực(NNL), đặc biệt là NNL có chất lượng cao.
Nhận thức được điều đó, chúng ta phát triển NNL toàn diện cả về thể lực và trí lực, cả về khả năng lao động, năng lực sáng tạo và tính tích cực chính trị xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn và tình cảm.
Tuy nhiên, hiện trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay còn rát nhiều bất cập, chưa thực sự là động lực để phát triển kinh tế. Vì vậy, nghiên cứu về chất lượng nguồn nhân lực để có giải pháp khắc phục những điểm yếu, phát huy tiềm năng của lao động Việt Nam để trở thành nội lực thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần thúc đẩy CNH-HĐH là nhu cầu bức xúc cả về lý luận và thực tiễn. Đó là lý do mà chúng em tiến hành thực hiện đề tài này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Lê Huy Đức đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này.
Chúng em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn .
Chương I
Lý luận chung về nguồn nhân lực
I. Lý luận về nguồn nhân lực:
1. Khái niệm:
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần để thoả mãn nhu cầu của bản thân và xã hội, là hoạt động gắn liền với sự hình thành và phát triển của loài người. Lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả là yếu tố quyết định sự phát triển xã hội. Lao động được coi là hoạt động chủ yếu, là quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người. Lao động ngày càng phát triển theo chiều hướng chuyên môn hoá và hiệp tác hoá.
Sức lao động là khả năng về trí lực và thể lực của con người để tiến hành lao động.
Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển KT-XH. Nó được xác định bằng số lượngvà chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động KT-XH.
Nguồn lao động là tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác(những người nghỉ việc hay nghỉ hưu trước tuổi theo đúng quy định của luật định.
Lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế.
2. Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
Nguồn nhân lực là mục tiêu và động lực chính của sự phát triển. Tại ĐH lần thứ 8 của Ban chấp hành TW ĐCSVN, khi nói về vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Đảng ta đã khẳng định: “ Nâng cao dân trí và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của CNH -HĐH đất nước”.
Thực tiễn các nước phát triển cho thấy, các nguồn lực phát triển KT-XH(nguồn lực con người, vốn, TNTN, cơ sở vật chất-kỹ thuật, khoa học, công nghệ giữa chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau trong quá trình phát triển nhưng trong đó, nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh quan trọng chi phối quá trình phát triển của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám, có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến dâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi KT-XH kết hợp được với nguồn lực con người một cách hiêụ quả. Con người với tư cách là nguồn lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển KT-XH.
3. Cách đánh giá chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách vừa là khách thể vật chất đặc biệt vừa là chủ thể của mọi hoạt động KT và các quan hệ XH. Chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể những nét đặc trưng, phản ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất và phát triển con người. Do đó chất lượng nguồn nhân lực là khả năng tổng hợp, bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, năng lực, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực, trạng thái sức khoẻ, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành phần xã hội.
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện theo nhiều tiêu chí:
-Trạng thái thể lực, ý thức hệ, đạo đức và lối sống của nguồn nhân lực.
-Trình độ chuyên môn, kỹ thuật và nghiệp vụ của nguồn nhân lực.
-Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực.
3.1. Về trạng thái thể lực:
Có thể dựa vào chiều cao, cân nặng, loại sức khoẻ...
3.2. Về trình độ văn hoá:
Trình độ văn hoá được đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu:
a. Tỷ lệ biết chữ của dân số 10 tuổi trở lên:
Tỷ lệ biết chữ của dân Số người 10 tuổi trở lên biết chữ trong năm xác định
số từ 10 tuổi trở lên Tổng dân số 10 tuổi trở lên trong cùng năm
=
x 100
Tỷ lệ dân số biết chữ là số % những người 10 tuổi trở lên có thể đọc viết và hiểu được những câu đơn giản của tiếng Việt, tiếng dân tộc hoặc tiếng nước ngoài so với tổng dân số 10 tuổi trở lên. Phương pháp tính:
b. Số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên:
Là số năm trung bình một người dành cho học tập.
Phương pháp tính: A= ồaixi
Trong đó: A: số năm đi học trung bình
ai các hệ số được chọn theo hệ thống GD của mỗi vùng hoặc mỗi nước.
xi % trình độ văn hóa theo hệ thống giáo dục tương đương
Tỷ lệ đi học chung các cấp (tiểu học,THCS, THPT):
Tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em học cấp tiểu học( cấp I), dù tuổi của em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học hay không, trong tổng số dân số ở độ tuổi tiểu học (6-10 tuổi). Tương tự như vậy đối với tỷ lệ đi học chung cấp THCS, trong đó độ tuổi học sinh đi học cấp này là11-14 tuổi và cấp THPT (cấp III), độ tuổi học sinh đi học cấp này là 15-17 tuổi.
Tỷ lệ đi học chung Số học sinh cấp tiểu học trong năm xác định
cấp tiểu học (cấp I) Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10 tuổi)
trong cùng năm
=
x 100
Phương pháp tính:
Các cấp THCS và THPT tính tương tự.
d. Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học và trung học:
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học (cấp I) tức là những em từ 6-10 tuổi, học cấp tiểu học trong tổng số trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học của dân số. Tương tự như vậy đối với nhóm tuổi THCS (cấp II) và THPT (cấp III).
Số học sinh cấp tiểu học từ 6-10 tuổi
Tỷ lệ đi học đúng trong năm xác định
tuổi cấp tiểu học Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học
(6-10 tuổi) trong cùng năm.
=
x100
Phương pháp tính:
Các tỷ lệ cấpTHCS và THPT tính tương tự.
3.3. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Trình độ CMKT là kiến thức và kỹ năng cần thiết để dảm bảo đảm đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp.
Lao động CMKT bao gồm những CNKT từ bậc 3 trở lên (có hoặc không có bằng) cho tới những người có trình độ trên đại học. Họ được đào toạ trong các trường, lớp dưới các hình thức khác nhau và có bằng hoặc không có bằng ( Đối với CNKT không bằng) song nhờ kinh nghiệm thực tế trong sản xuất mà có trình độ tương đương từ bậc 3 trở lên.
Các chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật:
a. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo so với LLLĐ đang làm việc
Là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc.
ồ LLVĐT
ồLLV
TLVĐT
x 100
=
TLVĐT : Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang làm việc.
LLVĐT : Số lao động đã qua đào tạo đang làm việc.
LLV : Số lao động đang làm việc.
b. Tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo ở từng vùng
Là % số lao động có trình độ CMKT theo bậc đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc.
ồLLVĐTij
ồLLVĐTj
TLVĐTij =
x 100
TLVĐTij: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo bậc i so với tổng lao động đang làm việc vùng j.
LLVĐT : Số lao động đã qua đào tạo đang làm việc.
LLVĐTij: Số lao động đang làm việc đã đào tạo bậc i ở vùng j.
LLV : Số lao động đang làm việc.
i : Chỉ số các cấp được đào tạo.
j : Chỉ số vùng.
Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác nữa như chỉ số phát triển nhân lực HDI
4. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng NNL:
Chất lượng NNL phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế, trình độ phát triển KH-CN, mức sống, y tế, giáo dục, dào tạo, đạo đức và truyền thống văn hoá dân tộc.Trong đó, trình độ phát triển kỹ thuật và sự thay đổi cơ cấu kinh tế là yếu tố quan trọng nhất, quyết định trực tiếp đến chất lượng con người cả về sức khoẻ, trí tuệ và tinh thần.
Chất lượng đào tạo không chỉ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp, nâng cao chất lượng về mặt trí lực của NNL, mà còn có tác động tích cực đến sức khoẻ, khả năng tiếp thu công nghệ, thu hút vốn đầu tư, tạo việc làm. Nghiên cứu, làm rõ cả về lí luận và thực tiễn về tác động của GD,ĐT đối với phát triển NNL là rất cần thiết để luận cứ cho quan điểm nâng cao chất lượng NNL đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH thông qua đầu tư phát triển GD-ĐT.
Giáo dục góp phần cải thiện sức khoẻ, nâng cao tuổi thọ con người
Trong bối cảnh thay đổi công nghệ nhanh chóng, giáo dục giữ vai trò chủ yếu trong tiếp thu và phát triển công nghệ.
Đầu tư cho giáo dục tạo tích luỹ vốn nhân lực, là đầu tư có hiệu quả nhất góp phần vào tăng trưởng
Lợi ích tư nhân và xã hội của giáo dục.
5. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao chất lượng NNL:
Nước ta đang tiến hành CNH-HĐH đất nước, cùng với tác động của cơ chế thị trường, đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng trở nên cao hơn. Thể hiện ở các mặt:
Đòi hỏi về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật và trình độ quản lý đối với nguồn lực:
Quá trình CNH-HĐH đất nước, cùng với việc thực hiện chuyển giao công nghệ và áp dụng các thành tựu KH-KT và CN mới vào sản xuất đã và đang đòi hỏi một đội ngũ ngày càng đông đảo lực lượng lao động chất xám có trình dộ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ quản lý ngày càng phức tạp và các phương pháp quản lý hiện đại, nắm bắt và phát triển các CN hiện đại trong tất cả các lĩnh vực của sản xuất xã hội.
Ngoài những đòi hỏi cao về lực lượng lao động chất xám, sự nghiệp CNH-HĐH đất nước còn đòi hỏi 1 đội ngũ đông đảo công nhân kỹ thuật được đào tạo kỹ lưỡng, có chất lượng tay nghề cao. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, do sự phát triển của các khu chế xuất, khu công nghệ cao, đòi hỏi đó càng trở nên gay gắt. Việc đào tạo công nhân kỹ thuật ngày nay không chỉ dừng lại ở đào tạo phục vụ cho các ngành nghề trước mắt mà còn phải đào tạo đón dầu nữa.
Đòi hỏi về nâng cao sức khoẻ, ý thức công dân, lòng yêu nước và tác phong làm việc công nghiệp của người lao động:
Những phẩm chất đó của nguồn nhân lực sẽ giúp con người không bị cám dỗ bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường, nơi đồng tiền và lợi ích có thể trà đạp lên lương tâm, phẩm hạnh của con người. Đồng thời CNH-HĐH còn đòi hỏi ý thức kỷ luật lao động cao, tác phong làm việc khoa học, điều mà lực lượng lao động nước ta còn yếu kém.
Ngoài ra, thể lực của nguồn nhân lực nước ta nhìn chung còn chưa phát triển. Sự đi lên của đất nước, ngoài những đòi hỏi về trí tuệ, còn có đòi hỏi nguồn nhân lực phải ngày càng có sức khoẻ tốt, thể lực tốt, không kém hơn các nước trong khu vực và thế giới. Bằng cách đó, năng suất lao động xã hội sẽ được nâng cao, góp phần nâng cao mức sống dân cư.
6. Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển NNL với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH
Lao động gắn liền với dân số và các quá trình KT-XH. Mỗi người lao động vừa là người sản xuất vừa là người tiêu dùng.
ở góc độ thứ nhất, lao động của con người là yếu tố bản thân của quà trình sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động mang tính nội sinh tạo ra GDP và làm nảy sinh những quan hệ cấu trúc nội tại của quá trình sản xuất và phát triển KT-XH.
ở góc độ thứ hai, với tư cách là người tiêu dùng, sức mua của người lao động cũng như nhu cầu về nâng cao phúc lợi xã hội và các giá trị vật chất, tinh thần cho con người lại là động lực và định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Vì vậy, khi xem xét tổng thể các quan hệ KT-XH trong quá trình phát triển, con người là nhân tố quyết định. Chất lượng nguồn nhân lực càng cao càng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH cả về quy mô và cường độ. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động càng tiến bộ càng đòi hỏi khả năng thích ứng cao hơn cảu nguồn nhân lực về thể lực, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kĩ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, trình độ trí tuệ, năng lực sáng tạo, khả năng thích ứng cũng như phẩm chất sinh lý, tâm lý, xã hội, ý thức, lối sống, đạo đức làm nghề. Trong đó thể lực, trí lực, và tâm lực là những yếu tố quan trọng nhất. Mối quan hệ tương tác có tính nhân quả giữa chất lượng nguồn nhân lực và cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động liên tục tiếp diễn có tính chu kỳ theo xã hội, hướng cấp độ sau cao hơn cấp độ trước, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển KT-XH ở từng giai đoạn của mỗi nước, mỗi vùng, mỗi khu vực, mỗi địa phương.
Có thể thấy rõ hơn vấn đề này khi phân tích bản chất KT-XH và các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động:
Cơ cấu kinh tế biểu hiện bằng tỷ trọng GDP (hoặc giá trị tổng sản lượng) được tạo ra từ các ngành hoặc các thành phần kinh tế, các vùng lãnh thổ trong tổng GDP.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH đặt ra yêu cầu có tính nguyên tắc là bảo đảm an ninh lương thực, ổn định xã hội. Do đó, không thể giảm tỷ trọng GDP từ nông nghiệp bằng cách giảm thấp sự phát triển của khu vực này. Trái lại trên cơ sở phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hoá, áp dụng KHCNKT tiên tiến, đổi mới cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi, tập quán và kỹ thuật sản xuất, tăng nhanh NSLĐ XH để có thể chuyển ngày càng nhiều lực lượng lao động vào làm việc trong các ngành CN và DV.
Để thực hiện được yêu cầu này, vấn đề nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì không có lao động chuyên môn kỹ thuật, lao dộng đã qua đào tạo công nghệ và kỹ thuật mới không thể thay đổi được tập quán và kỹ thuật sản xuất lạc hậu, không thể nâng cao NSLĐXH, do đó không thể giảm một cách đáng kể lực lượng lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp. Mặt khác nếu chất lượng lao động thấp, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ thì mặc dù khu vực nông nghiệp không có khả năng tạo thêm chỗ làm việc mới để thu hút số lao động trẻ trong khu vực, cũng không dễ dàng gì mà chuyển đội ngũ này sang làm việc trong các ngành nghề phi nông nghiệp tại địa phương cũng như nơi khác. Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động lại tiếp tục diễn ra và ngày càng gay gắt.Sự mất cân đối giữa cung và cầu về chất lượng lao đọng ở nông thôn là trở ngại trực tiếp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu lao động trong khu vực.
Tóm lại, dù xem xét ở mặt này hay mặt khác của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH thì chất lượng lao động, cơ cấu lao động và khả năng thu hút lao động luôn là những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong đó chất lượng lao động đóng vai trò quyết định. Xu hướng chung của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH là tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nông nghiệp trên cơ sở đảm bảo an ninh luơng thực và ổn định xã hội.
7. Kinh nghiệm của nước ngoài trong việc nâng cao chất lượng NNL:
7.1. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN:
Tốc độ phát triển nhanh và công nghiệp hoá ngày càng mạnh đã làm nảy sinh một vấn đề phải giải quyết là nhân công phải thích nghi với thị trường việc làm. Do đó vấn đề cấp thiết là đào tạo nguồn nhân lực. Trước nhu cầu nêu trên ngày càng tăng, mặc dù đã có những cố gắng trong lĩnh vực đào tạo nhưng tình trạng thiếu hụt về nhân công có tay nghề vẫn theo chiều hướng gia tăng. Sự thiếu hụt nhân công có trình độ trước hết là do tình trạng yếu kém của hệ thống giáo dục bậc đại học. ở Malaixia nếu tỷ lệ nhập học bậc trung học là 72% thì tỷ lệ nhập học ở bậc đại học chỉ là 10% (tính cả số sinh viên đang được đào tạo ở nước ngoài). ở Thái lan chỉ đạt 33% ở bậc trung học và 19% ở bậc đại học, kém xa so với tỷ lệ này ở Hàn Quốc cùng thời điểm(38%). Tiếp đến là cơ cấu ngành nghề đào tạo ngày càng bất cập so với nhu cầu của thị trường vè nhân công có trình độ chuyên môn kỹ thuật.
ở Thái lan, ngành văn học và sư phạm thu hút gần 2/3 số sinh viên; ngành Luật 24%, trong khi các ngành có nhu cầu khá nhiều như chế tạo, cơ khí, nông học thì chỉ có khoảng 2-2,3% số sinh viên theo học. ở Malaixia, tỷ lệ giữa sinh viên khối KHKT và nhân vănvà sinh viên khối KHTN và KT khá cân đối(53-47%). Ngược lại với trình độ “chứng chỉ” ưu thế nghiêng về các môn KH và KT(15-85%) trước đây và (40-60%) trong kế hoạch gần nhất. Về chính sách phát triển GD-ĐT và nghiên cứu khoa học: trong bối cảnh phát triển kinh tế ngày càng nhanh, hai ưu tiên cần được đặt ra là : Thứ nhất nâng cao các hệ thống giáo dục và đào tạo nghề; Thứ hai phát triển công tác nghiên cứu khoa học để làm cơ sở vững chắc cho các công nghệ nổi trội. Nhờ sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước trong các lĩnh vực đào tạo và phát triển công tác nghiên cứu khoa học, trong hai thập kỷ qua, Thái Lan và Malaixia có nhiều tiến bộ quan trọng, song còn rất nhiều việc phải làm để đưa các nước này tiến lên một trình độ CNH cao hơn. Một trong những khó khăn cơ bản gặp phải là khu vực tư nhân ít tham gia vào các đầu tư này, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu vè phát triển các chiến lược thương mại ngắn hạn để mở rộng thị trường hơn là đầu tư vào nghiên cứu để có được công nghệ mới.
Trong điều kiện như vậy và do vốn đầu tư trong nước còn yếu kém, giải pháp chủ yếu cho các vấn đề của công tác đào tạo và công tác nghiên cứu là dựa vào sự hợp tác quốc tế rộng rãi trong khuôn khổ viện trợ đa phương, song phương cũng như đối với các công ty lớn.
7.2. Kinh nghiệm ở Nhật Bản -nước có nền công nghiệp tiên tiến:
Duy trì và phát triển nhân lực không đơn giản chỉ là việc rèn luyện sức khoẻ, cơ bắp mà quan trọng hơn là đào tạo rèn luyện năng lực trí tuệ cho người lao động để tạo ra NSLĐ ngày một cao. Trí lực con người không phải là cái bẩm sinh, “ nhất thành bất biến” mà phải được đào tạo thường xuyên, liên tục ngay từ khi còn ở tuổi mẫu giáo. Nhật Bản là nước đứng đầu thế giới trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực “ từ xa” thông qua quá trình giáo dục từ tiền phổ thông cho đến khi thạo nghề lảma sản phẩm. ở Nhật Bản, giáo dục tiểu học và trung học cơ sở tuy được miễn phí nhưng là bắt buộc, ngay từ khi bước chân vào trường tiểu học, học sinh đã được rèn luyện thói quen kinh tế, tinh thần hợp tác trong sinh hoạt và trong lao động. Năm 1972, Nhật Bản thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc với khẩu hiệu “ Văn minh và khai hoá; làm giàu và bảo vệ đất nước; học tập văn minh và kinh tế Âu-Mỹ; bảo vệ truyền thống văn hoá và đạo đức Nhật Bản”. Sự phát triển vững chắc trong hệ thống giáo dục ở Nhật Bản đã có ảnh hưởng quan trọng tạo dựng một nguồn nhân lực có chất lượng cao. Sự cần cù, lòng kiên nhẫn, bền bỉ, kỷ luật lao động nghiêm, trung thành, tận tụy với công việc và gắn bó sống còn với tổ chức mà họ đang làm việc. Kết hợp với trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng được nâng cao không ngừng là truyền thống quý báu đối với nhiều thế hệ người Nhật Bản. Đặc biệt từ những năm 80 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã bắt đầu triển khai một số chương trình cơ cấu lại nền kinh tế với mục tiêu hình thành và phát triển một hệ thống mạng lưới các tâm điểm kinh tế với trọng tâm là các khu công nghiêp phần mền được coi như là một trong những mũi nhọn trong nền kinh tế công nghiệp phần mền của Nhật Bản hiện nay đứng vị trí thứ hai trên thế giới với tổng doanh thu năm 1995( không kể dịch vụ phần mền) lên đến 35 tỷ USD, chiếm 20% ngành công nghiệp thế giới.
Từ đó ta có thể rút ra được một số kinh nghiệm như sau:
Coi trọng giáo dục phổ thông theo hướng chuẩn bị các kiến thức cơ sở đề học sinh bước vào học một nghề nhất định khi không có đủ trình độ hoặc không muốn học tiếp lên đại học( chứ không chỉ hướng vào chuẩn bị kiến thức để thi đại học). Đồng thời chú trọng giáo dục đồng bộ “đức, trí, thể, mỹ” để học sinh có thể trở thành những người lao động có kiến thức, kỹ năng, có sức khoẻ và đạo đức tốt trong tương lai. Có chính sách phân luồng học sinh từ sau khi tốt nghiệp phổ thông cơ sở.
Coi trọng giáo dục dạy nghề theo hướng mở rộng quy mô, cơ cấu, loại hình đào tạovà nâng cao chất lượng của các cơ sở dạy nghề để có thể thu hút được các học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học.
Nâng cao chất lượng giáo dục đại học để có thể cung cấp cho đất nước những cán bộ KHKT, cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh thực sự có trình độ và kỹ năng tương xứng với bằng cấp. Từ kinh nghiệm nêu trên cho thấy vấn đề mấu chốt để có thể tiếp thu được KH, CN hiện đại và các phưong pháp, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và để có được những chuyên gia giỏi, đầu ngành đối với nước ta bây giờlà nâng cao chất lượng chứ chưa phải là mở rộng quy mô đào tạo.
Nhanh chóng thực hiện quá trình XHH trong giáo dục và đào tạo để huy động được mọi nguồn lực của các tổ chức cà nhân dân đóng góp cho sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên cũng cần có sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước trong các lĩnh vực đào tạo và phát triển công tác nghiên cứu khoa học cũng như dựa vào sự hợp tác quốc tế rộng rãi trong khuôn khổ viện trợ đa phương, song phương như kinh nghiệm của Thái lan và Malaixia.
Phát triển các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn để thu hút lực lượng lao động tại chỗ, nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động và thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Có cơ chế và chính sách thích hợp để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong đào tạo nghề và đào tạo lại đội ngũ CNKT.
Học tập và vận dụng kỹ thuật của các nước phù hợp với Việt Nam trong việc đào tạo nghề và đào tạo lại đội ngũ nhân lực có trình độ công nghệ thông tin nhằm làm biến đổi mọi mặt của đời sống con người và phát triển XH nước ta theo hướng XHCN dựa trên KT tri thức trong thế kỷ XXI.
CHƯƠNG II
Thực trạng chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam
Trong những năm gần đây, nhất là từ khi chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nguồn nhân lực ở nước ta đã có nhiều biến đổi cả về số lượng, chất lượng.
Về số lượng, có thể nói, nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay đã tăng một cách đáng kể. Dân số trong độ tuổi lao động tăng từ 33,9 triệu người năm 1989 lên gần 44 triệu người hay tăng 2,65%/năm, tạo mức cung lớn về lực lượng lao động.
Về chất lượng: chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta đã được cải thiện nhưng nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và sự khác biệt giữa các vùng là rất đáng kể. Cụ thể:
1. Sức khoẻ của NNLViệt Nam:
Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, tầm vóc và thể lực của người Việt Nam đang được cải thiện về chiều cao, cân nặng, tỉ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ; song vẫn kém hơn nhiều so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu về nguồn nhân lực cho giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta hiện nay.
Hiện nay nước ta nằm trong số các nước có mức sống thấp trên thế giới (GDP tính theo đầu người khoảng 475USD.). Những công trình nghiên cứu gần đây cho thấy: hiện tại 40% trẻ em dưới 5 tuổi nướ ta bị suy dinh dưỡng, 28% người lớn suy dinh dưỡng. Theo chỉ số cơ thể (BMI), tỷ lệ người lớn gầy ở nước ta chiếm tới 45,27%. Tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ không mang thai lên đến 42%, của phụ nữ mang thai là 52%, tất yếu tác động xấu đến trẻ em, nguồn nhân lực trong tương lai. 30% công nhân, gần 90% trí thức và 100% nông dân không được tổ chức khám và theo dõi sức khoẻ định kì hàng năm. Người lao động hay bị ốm đau, mắc các bệnh mãn tính và dễ mắc bệnh nghề nghiệp, sức khoẻ giảm sút, ngay cả khi tuổi chưa cao. Điều kiện lao động trong nhiều cơ sở sản xuất và các ngành sản xuất, trong một số cơ quan hành chính sự nghiệp của nước ta còn kém, thậm chí có nơi ở mức quá kém, môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng, các yếu tố nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần, tai nạn nghề nghiệp có chiều hướng gia tăng, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân và HTX.
Như vậy, nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực nước ta về mặt thể lực sức khoẻ và điều kiện lao động không đảm bảo, chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp tổ chức và cường độ lao động theo kiểu công nghiệp, rất cần được cải thiện.
2. Đạo đức của NNL:
Nói tới nguồn lực con người, không thể bỏ qua phẩm chất đạo đức, nhân cách con người. Trước đây, chúng ta thường hiểu về nguồn nhân lực đơn giản chỉ là sức người với thể lực và trí lực của họ. Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cái đem lại lợi thế cho nguồn nhân lực ngoài thể lực và trí lực con người còn phải tính đến phẩm chất đạo đức, nhân cách con người. Do vậy, việc phát triển nguồn nhân lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế trong điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ngoài việc quan tâm thích đáng tới việc nâng cẩoc mặt bằng lẫn đỉnh cao dân trí, tới việc bồi dưỡng và nâng cao sức khoẻ cho mỗi người, cho cả cộng đồng xã hội, chúng ta cần phải đặc biệt coi trọng việc xây dựng đạo đức, nhân cách, đạo đức cho người lao động. Phát triển dân trí, nhân tài, nhân lực phải trên mẫu số chung là nhân cách, đạo đức đem lại cho con người khả năng thực hiện tốt các chức năng xã hội của họ, nâng cao năng lực sáng tạo của họ trong hoạt động thực tiễn xã hội.
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước sẽ là một quá trình biến đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế,cơ chế quẩn lý kinh tế, cách thức hoạt động và sinh hoạt của con người... Sự chuyển tiếp các thế hệ, trình độ dân trí ngày càng cao, quá trình dân chủ hoá và đô thị hoá ngày càng diễn ra sâu rộng sẽ làm thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sụ thay đổi đố đã và sẽ diễn ra một cách sâu sắc, với tất cả những biến thái của của đua tranh, cạnh tranh, thực tế(và cả thực dụng), chủ yếu xoay quanh 4 vấn đề lớn sau:
+Lý tưởng và niềm tin
+Đồng tiền và cách làm giàu.
+Việc làm và nghề nghiệp.
+Truyền thống dân tộc.
Ngày nay, việc lựa chọn các giá trị hướng tới lý tưởng của cuộc sống, như niềm tin, sống có mục đích, sáng tạo, giàu sang cũng chỉ đạt tỷ lệ khoảng 45-55%, tức là ở mức trung bình.
Trong khi đó, 85.84%số người được hỏi coi đồng tiền là một giá trị xã hội, 87.48% đánh giá học và đi buôn có giá trị ngang nhau. “Một nghề cho chín hơn chín mười nghề” giờ đây dã trở thành lẽ sống của 84.87% những người được hỏi. Song 81,82 % cho rằng tay nghề và chuyên môn cao có mang lại uy tín nhưng vẫn nghèo.
Thế hệ trẻ phân hoá về đạo đức, nếp sống khá rõ nét. Một bộ phận tiên tiến tu chí học hành để lập thân, lập nghiệp. Nhưng một số không ít thanh niên trong bộ phận này hầu như ít quan tâm đến vấn đề tư tưởng, chính trị và thiếu hoài bão phục vụ sự nghiệp chung của đất nước và nhân dân. Bộ phận đông nhất trong thanh niên chưa có định hướng rõ về nghề nghiệp, lo lắng về tiền đồ và có xu hướng học để chờ đợi. Một bộ phận thanh niên, chủ yếu là con em các gia đình có điều kiện kinh tế khá giả hoặc có địa vị xã hội thì sống đua đòi theo mốt.
Từ giữa năm 1998 lại đây, trong bối cảnh có sự chững lại của đà tăng trưởng kinh tế, sự giảm sút công ăn việc làm và thất nghiệp, nhưng dư luận xã hội nhìn chung vẫn bình tĩnh. Lối sống, đạo đức không có sự xáo trộn hay đảo lộn lớn, tuy nhiên mức độ năng động và khởi sắc đã hạn chế. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải phục hồi được đà tăng trưởng kinh tế cao như các năm 1991-1995 và xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội mới có tính năng động hơn, để tranh đua và cạnh tranh thành công trong bối cảnh toàn cầu hoá, nhằm thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Trình độ văn hoá của NNL
Một trong những thành tựu lớn của nước ta thời gian qua là đã nâng cao mặt bằng dân trí của dân cư, số người biết chữ của lao động Việt Nam khá cao so với các nước có cùng mức thu nhập. Đến năm 1999 tỷ lệ lao động biết chữ đạt 96% so với năm 1989 là 84%, sau 10 năm đã tăng 12%. Tỷ lệ mù chữ cũng giảm. So với các nơi trong khu vực, tỷ lệ biết chữ và số năm đi học của Việt Nam vào loại trung bình, nhưng nếu xét đến những khác biệt về điều kiện kinh tế-xã hội thì các mức đó của chúng ta là khá cao, cao hơn so với Xingapo và Trung Quốc, những quốc gia phát triển hơn Việt Nam.
-Tỷ lệ đến trường cao, chỉ có 8,4% lực lượng lao động chưa bao giờ đến trường, trong đó thành thị 3,7%, nông thôn 10,2%.
-Cơ cấu nguồn nhân lực phân theo bậc học (cấp học) cũng có nhiều chuyển biến đáng kể. Tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học tăng nhanh từ 30,5% và 8,9% (năm 1989) lên 60,51% và 14,14% (năm 1997). Tỷ lệ chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở giảm mạnh từ 46,2% (năm 1989) xuống còn 20,26% (năm 1997).
-Cơ cấu lực lượng lao động phân theo bậc học ở nông thôn và thành thị có xu hướng ngày càng hợp lý hơn. Tốc độ biến chuyển cơ cấu tích cực ở khu vực thành thị nhanh hơn nhiều so với khu vực nông thôn.
Bảng 1: Cơ cấu trình độ văn hoá của lực lượng lao động.
Đơn vị:%
1996
1997
1998
1999
2000
Chưa biết chữ
5,8
5,1
3,8
3,8
4,01
Chưa tốt nghiệp cấp I
20,9
20,3
18,5
18,5
16,48
Đã tốt nghiệp cấpI
27,8
28,1
29,4
29,4
29,29
Đã tốt nghiệp cấpII
32,1
32,4
32,3
32,3
32,99
Đã tốt nghiệp cấp III
13,5
14,1
14,1
14,1
17,23
Nguồn: Vụ lao động Văn xã-Bộ KH&ĐT.
Khi so sánh với tình hình của các năm trước (1996, 2000), cơ cấu nguồn nhân lực chia theo trình độ văn hoá tiến triển theo hướng tích cực, biểu hiện rõ rệt là tỷ lệ người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I giảm.
Tính chung toàn quốc năm 2000, trong tổng lực lượng lao động thì số người chưa biết chữ chiếm 4,01%, chưa tốt nghiệp cấp I chiếm 16,48%, đã tốt nghiệp cấp I chiếm 29,29%, đã tốt nghiệp cấp II chiếm 32,99%, đã tốtnghiệp cấp III chiếm 17,23%. Trình độ học vấn của lực lượng lao động năm 2000 được nâng cao hơn so với năm 1996 (theo hướng tích cực): tăng tỷ trọng có trình độ học vấn cao (tốt nghiệp cấp II và III), giảm tỷ trọng có học vấ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35498.doc