MỤC LỤC
Trang
LỜI GIỚI THIỆU…………………………………………………………………………..3.
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN
NHÂN LỰC VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ……………………………………….4.
1.Nguồn nhân lực:………………………………………………………………….. 4.
a) Khái niệm về nguồn nhân lực:………………………………………………............... 4.
b) Một số khái niệm khác có liên quan đến khái niệm nguồn nhân lực:……………5.
2. Hội nhập kinh tế:……………………………………………………………….....6.
a) Khái niệm về hội nhập kinh tế:………………………………………………………….6.
b) Tính tất yếu của hội nhập kinh tế…
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nguồn nhân lực Việt Nam. Lợi thế, thách thức & xu hướng phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
………………………………………………6.
3. Vai trò của nguồn nhân lực đối với tiến trình hội nhập kinh tế………………..7.
PHẦN II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ……………………………………………………………..9.
1.Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam:…………………………………………...9.
a) Lợi thế của nguồn nhân lực Việt Nam trong hội nhập kinh tế:……………….....9.
b) Thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam:………………………………….12.
2. Thực tiễn hội nhập kinh tế của Việt Nam:……………………………………...20.
a) Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam:………………………………………20.
b) Những thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam hội nhập kinh tế:………………... 20.
PHẦN III: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT
NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ………………………………… 22.
1. Xu hướng phát triển của nguồn nhân lực Việt Nam:………………………… 22.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam:…………………..24.
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………..27.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:……………………………………………….. 28.
LỜI GIỚI THIỆU
Trong bất kỳ giai đoạn nào, sức mạnh mà mỗi quốc gia có được đều là từ sự tổng hợp sức mạnh của nhiều con người trong quốc gia đó.Thực tế lịch sử đã chứng minh vượt lên sự khắc nghiệt của thiên tai bằng sức mạnh của mình con người Nhật Bản đã làm được những gì, nhân dân Trung Quốc đã làm được những gì, từ một quốc gia non trẻ người dân Mỹ đã làm được những gì. Đối với Việt Nam chúng ta trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm qùân chúng nhân dân đã tỏ rõ được sức mạnh quyết định của mình. Ngày nay, trong cuộc kháng chiến chống “giặc” nghèo, “giặc” dốt vai trò đó vẫn giữ nguyên vị trí của mình. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi thế giới đang phát triển như vũ bão, Việt Nam chúng ta tuy còn rất nhiều khó khăn nhưng cũng không thể đứng ngoài cuộc. Để theo kịp bạn bè năm châu chúng ta phải tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Trong công cuộc đó không thể không quan tâm tới vai trò của nguồn nhân lực nước ta: nguồn nhân lực nước ta có vai trò như thế nào đối với quá trình hội nhập kinh tế? chúng ta đang đứng ở đâu trên mặt bằng nguồn nhân lực thế giới và phải làm gì để nguồn nhân lực Việt Nam đủ sức mạnh đưa nước ta vào quá trình hội nhập?... Để trả lời những câu hỏi đó em nghiên cứu đề tài: Nguồn nhân lực Việt Nam: lợi thế, thách thức và xu hướng phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế.
Dù còn nhiều hạn chế nhưng bằng những kiến thức đã được học ở nhà trường, những kiến thức xã hội và sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, em cũng đã cố gắng hết sức của mình để hoàn thành đề án này trong giới hạn khả năng của mình. Trong đề án em có sử dụng các tài liệu của các tác giả đăng trên các tạp chí: Lao động & xã hội, Kinh tế phát triển, Thông tin thị trường lao động,… và nhiều cuốn sách khác. Bằng các phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng…em đã tổng hợp lại và trình bày theo ý kiến riêng của mình. Chắc chắn còn nhiều sự non nớt, thiếu sót, em rất mong cô sẽ chỉ bảo thêm để em có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho công việc sau này của mình. Em xin chân thành cảm ơn cô.
.
PHẦN I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN
NHÂN LỰC VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ
1.Nguồn nhân lực:
a) Khái niệm về nguồn nhân lực:
Trước khi tìm hiểu khái niệm nguồn nhân lực, chúng ta tìm hiểu các khái niệm: Nguồn lao động và Lực lượng lao động.
Nguồn lao động là toàn bộ số người trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động.Nước ta quy định tuổi lao động là từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi đối với nam và đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ.
Lực lượng lao động: bao gồm những nguời trong độ tuổi lao động đang tham gia lao động và những người chưa tham gia lao động nhưng có nhu cầu tham gia lao động.
Như vậy nguồn lao động bao gồm lực lượng lao động và nguồn lao động dự trữ là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu tham gia lao động vì nhiều lý do khác nhau như đi học, bộ đội, nội trợ…( (): Giáo trình kinh tế lao động trang 35,36.
)
Quay trở lại khái niệm nguồn nhân lực, nguồn ở đây có nghĩa là có thể được sử dụng trước mắt và trong tương lai. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực hay còn gọi là nguồn lực con người. Nguồn nhân lực trong một tổ chức có thể hiểu là toàn bộ những người làm việc trong tổ chức đó. Nguồn nhân lực xét về giác độ xã hội là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, tổng nguồn lực xã hội có thể huy động cho quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cho xã hội, nói lên khả năng lao động của xã hội. Tuy nhiên việc xác định quy mô nguồn nhân lực thì chưa thống nhất với nhau.
Theo giáo trình kinh tế lao động, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết hoặc dị tật bẩm sinh). Tuy nhiên cách hiểu này đã loại trừ những người có thể bị một số khíêm khuyết, dị tật nhưng vẫn có khả năng lao động và đang lao động đóng góp cho xã hội.
Cũng theo giáo trình Kinh tế lao động nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế xã hội là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động. Khái niệm này lại bỏ sót nguồn nhân lực bổ sung là những người ngoài tuổi lao động (dưới hoặc trên tuổi lao động) thực tế đang tham gia lao động. Đây cũng là nguồn nhân lực quan trọng làm giảm tính căng thẳng trong tính thời vụ.
Như vậy nguồn nhân lực về mặt lượng lớn hơn nguồn lao động. Có thể tóm lại nguồn nhân lực là tổng hợp các cá nhân, tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần đang và sẽ được huy động vào quá trình sản xuất trong một thời gian không xa, bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người trên độ tuổi lao động thực tế đang tham gia vào quá trình lao động.
b) Một số khái niệm khác có liên quan đến khái niệm nguồn nhân lực:
Lợi thế của nguồn nhân lực là những mặt tích cực,những yếu tố vượt trội của nguồn nhân lực so với các quốc gia khác, thể hiện khả năng cạnh tranh của nguồn nhân lực.
Thách thức đối với nguồn nhân lực là những mặt hạn chế, những khó khăn đặt ra đòi hỏi nguồn nhân lực phải khắc phục để nâng cao tính cạnh tranh của mình.
Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhiệm một nhiệm vụ nhất định.
Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện mặt chất lượng của sức lao động. Nó biểu hiện ở sự hiểu biết về lý thuyết, về kỹ thuật của sản xuất và kỹ năng lao động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc một nghề nghiệp, một chuyên môn nào đó.( (): Giáo trình kinh tế lao động trang 35,54.
).
Theo Liên Hợp Quốc: Phát triển nguồn lực con người là quá trình làm biến đổi về số lượng chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế xã hội, bao gồm phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người, nền văn hoá, truyền thống lịch sử dân tộc hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của con người trong lao động.( (): Sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam trang 12,13.
)
Như vậy có thể nói xu hướng phát triển nguồn nhân lực là quá trình biến đổi nguồn nhân lực về lượng, về chất theo hướng đi lên trong một thời gian dài, tương đối ổn định.
2. Hội nhập kinh tế:
a) Khái niệm về hội nhập kinh tế:
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra các quá trình toàn cầu hoá, khu vực hóa và quốc tế hoá một cách nhanh chóng, toàn diện dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Các quá trình đó dẫn tới xu thế hội nhập kinh tế của tất cả các nước trên thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây nhưng đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có ý kiến cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Ý kiến khác lại cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước. Tuy vậy khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư vào các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.( (): Giáo trình kinh tế quốc tế trang 235.
)
b) Tính tất yếu của hội nhập kinh tế.
Ngày nay khi hoạt động của các quốc gia không còn bó hẹp trong ranh giới lãnh thổ của mình mà vươn rộng ra nhiều nước khác trên thế giới thì hội nhập kinh tế là một xu thế vận động tất yếu của thời đại.
Một quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của chính mình. Trình độ phát triển càng cao càng phụ thuộc với mức độ nhiều hơn vào thị trường thế giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật.
Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam chúng ta thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Hội nhập kinh tế sẽ giúp chúng ta thu nhận tri thức, khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, tạo sức ép để các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, mở rộng thị trường ra nước ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
3. Vai trò của nguồn nhân lực đối với tiến trình hội nhập kinh tế.
Nếu trước đây sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn thì ngày nay quan niệm đó đã thay đổi. Theo các lý thuyết gần đây, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững cần dựa vào ba yếu tố cơ bản là áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó yếu tố và cũng là động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người. Theo tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF),nhóm yếu tố lao động là một trong 8 nhóm yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Các nước Singapore, Hàn Quốc, Malaysia… cũng đã xác định phát triển nguồn vốn nhân lực như là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất. Con người vừa là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần vừa là mục tiêu, đối tượng hướng tới của quá trình phát triển, là trung tâm của sự phát triển. Thực tế đã chứng minh được vai trò quyết định đó của con người trong phát triển kinh tế. Trước đây Nhật Bản là một nước khan hiếm tài nguyên, chịu sự khắc nghiệt của tự nhiên, nghèo nàn và lạc hậu ngang tầm nước ta. Chỉ nhờ sức mạnh nguồn nhân lực đáng khâm phục của mình nước Nhật đã vươn mình lên thành một cường quốc trên thế giới. Ở Việt nam chúng ta khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhà nước đã có nhiều chính sách phát huy nguồn nhân lực góp phần tạo nên sự tăng trưởng kinh tế ở mức cao và ổn định trong nhiều năm qua. Điều đó đã được nhắc đến trong Nghị quyết trung ương Đảng VII, VIII và khẳng định lại trong Nghị quyết trung ương Đảng IX: “Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ vai trò quyết định của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất và tốc độ tăng trưởng kinh tế để kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền kinh tế quốc tế.
PHẦN II:
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ.
1.Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam:
a) Lợi thế của nguồn nhân lực Việt Nam trong hội nhập kinh tế:
Một trong những ưu thế rõ rệt của lao động Việt Nam hiện nay là nguồn nhân lực dồi dào. Đó là do quy mô dân số lớn, cơ cấu dân số trẻ được coi là “cơ cấu vàng” nên số người trong độ tuổi lao động cũng lớn. Tỷ lệ tăng bình quân năm của nguồn nhân lực qua nhiều năm đều lớn hơn tỷ lệ tăng dân số, hệ số phụ thuộc có xu hướng giảm. Vì vậy quy mô nguồn nhân lực lớn thể hiện: Tại thời điểm 1/7/2004, lực lượng lao động nói chung (bao gồm trong độ tuổi lao động và trên độ tuôỉ lao động) của cả nước là 43.255,3 nghìn người, tăng gần 2,7% so với thời điểm 1/7/2003 với quy mô tăng thêm là 1.130,6 nghìn người. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động có 40.805,3 nghìn người chiếm 94,3% tăng 2,4% so với thời điểm 1/7/2003 với quy mô tăng thêm là 939,3 nghìn người.
Bảng 1: Quy mô nguồn nhân lực:
Năm
2003
(nghìn người)
2004
(nghìn người)
Lực lượng lao động
nói chung
42.124,7
43.255,3
Lực lượng lao động
trong độ tuổi lao động
39.866,0
40.805,3
Lực lượng lao động
trên độ tuổi lao động
2.450,0
2.258,7
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Cơ cấu dân số trẻ nên cơ cấu lực lượng lao động cũng trẻ. Cơ cấu lực lượng lao động chia theo nhóm tuổi: Lực lượng lao động ở nhóm tuổi 15-24 chiếm 21,5% (không thay đổi so với thời điểm 1/7/2003); nhóm tuổi 25-34 chiếm 25,3% (giảm 1,3%); nhóm tuổi 35-44 chiếm 27,1% (giảm 0,3%); nhóm tuổi 45-54 chiếm 18,4% (tăng 1,2%); nhóm từ 55 tuổi trở lên chiếm 7,7% ( tăng 0,4%). Lực lượng lao động ở nhóm tuổi 24-44 tuổi chiếm nhiều nhất: hơn 52,4%. Đây là độ tuổi người lao động đang sung sức nhất về thể lực, trí lực,trưởng thành về mặt kiến thức, hiểu biết, sôi nổi, giàu nhiệt huyết nên làm việc năng nổ, xông xáo,nhiệt tình, hăng say, có hiệu quả nhất. Đây là đội ngũ chủ lực, thể hiện sức trẻ của đất nước. Với ưu thế này nếu được khai thác triệt để sẽ là yếu tố quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước.
Cơ cấu LLLĐ nói chung của cả nước chia theo nhóm tuổi 1/7 năm 2003 & 2004 (%)
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Một ưu thế khác là nước ta có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số lớn. Tại thời điểm 1/7/2004 tính chung cả nước tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên là 71,4%, giảm 0,6% so với thời điểm 1/7/2003. Ở khu vực thành thị là 63,2% (giảm 1,1%), khu vực nông thôn là 74,6% (giảm 0,3%).
Bảng 2: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2003, 2004:
Năm
2003 (%)
2004 (%)
Khu vực thành thị
64,3
63,2
Khu vực nông thôn
74,9
74,6
Chung
72,0
71,4
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Nhờ chính sách cải cách đổi mới phát triển kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực đã được nâng cao nhiều. Trình độ học vấn và dân trí của nguồn nhân lực Việt Nam là khá cao. Trong những năm qua do Đảng và nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo nên đã đạt được một số thành tựu nhất định. Việt Nam được Liên Hợp Quốc đánh giá cao về chỉ số phát triển con người: chỉ số HDI đạt 0,682 cao hơn nhiều nước trong khu vực. Tỷ lệ mù chữ của lực lượng lao động cả nước là 5,01%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 3,28%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học là 19,7%, so với thời điểm 1/4/2003 tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở tăng 2,6%, tốt nghiệp phổ thông trung học tăng 1,4%.
Bảng 3: Trình độ học vấn phổ thông của nguồn nhân lực Việt Nam:
Năm
2003 (%)
2004 (%)
Tổng số LLLĐ
100
100
Tỷ lệ mù chữ
4,31
5,01
Tỷ lệ tốt nghiệp PTCS
30,2
32,8
Tỷ lệ tốt nghiệp PTTH
18,3
19,7
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động là 22,5% tăng nhiều so với các năm trước trong đó tỷ lệ đã qua đào tạo nghề (bao gồm đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn không phân biệt có hoặc không có chứng chỉ hoặc bằng nghề và tốt nghiệp sơ cấp) là 13,3%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên là 4,8%. So với thời điểm 1/7/2003, tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động cả nước tăng 1,5%; trong đó tỷ lệ đã qua đào tạo nghề tăng 0,8%; tỷ lệ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp tăng 0,3%; tỷ lệ tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên tăng 0,4%.
Bảng 4: Tỷ lệ nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật ở Việt Nam:
Năm
2003 (%)
2004 (%)
Tổng số LLLĐ
100
100
Tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung
21,0
22,5
Tỷ lệ đã qua đào tạo
nghề
12,5
13,3
Tỷ lệ tốt nghiệp THCN
4,1
4,4
Tỷ lệ tốt nghiệp ĐH, CĐ
trở lên
4,4
4,8
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Công tác nghiên cứu khoa học cũng được chú trọng. Chúng ta cũng đã phát triển được một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đông đảo. Nhiều nhà kinh tế, nhiều cán bộ khoa học của Việt Nam cũng đã tiếp thu và tiếp cận được với nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới; nhiều công nhân, lao động Việt Nam
thông qua xuất khẩu lao động và các chuyên gia nước ngoài đã có điều kiện tiếp cận được với những máy móc thiết bị hiện đại và tác phong lao động công nghiệp. Qua đó chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng đã được nâng cao hơn.
Nguồn nhân lực nước ta còn có lợi thế là được tiếp thu truyền thống lịch sử của đất nước: Truyền thống cần cù, siêng năng, chịu khó, yêu lao động. Người lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, cần cù, khéo léo, có trình độ dân trí, học vấn khá cao so với mức thu nhập quốc dân, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới. Đây là lợi thế so sánh có ý nghĩa đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình tham gia hội nhập.
b) Thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam:
Dù đã có những bước tiến bộ về chất lượng nguồn nhân lực như đã kể trên nhưng nguồn nhân lực Việt Nam vẫn còn nhiều mặt hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển hội nhập kinh tế, thể hiện:
Về chất lượng nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực Việt Nam tuy dồi dào về số lượng nhưng chất lượng không cao. Số người có trình độ chuyên môn và khoa học tuy đã đào tạo được hơn 7 triệu người nhưng so với yêu cầu của hội nhập kinh tế thế giới thì tỷ lệ còn thấp.
Bảng 5: Cơ cấu lực lượng lao động chia theo trình độ
chuyên môn kỹ thuật của cả nước:
Năm
2003 (%)
2004 (%)
CĐ, ĐH và trên ĐH
4,4
4,8
Trung học chuyên nghiệp
4,1
4,4
Đào tạo nghề / sơ cấp
12,5
13,3
Chưa qua đào tạo
79,0
77,5
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy dù tỷ lệ có chuyên môn kỹ thuật đã tăng và tỷ lệ chưa qua đào tạo đã giảm so với các năm trước nhưng tỷ lệ chưa qua đào tạo vẫn quá lớn, chiếm tới 77,5%. Trong số đã qua đào tạo thì trình độ sơ cấp lại chiếm tỷ lệ lớn, gấp rưỡi tổng hai bộ phận còn lại. Bộ phận lao động đã qua đào tạo vẫn còn nhiều lỗ hổng, thiếu sót, hạn chế về mặt kiến thức khoa học, năng lực thực hành, phương pháp tư duy sáng tạo, nắm bắt công nghệ hiện đại…Đó là do chất lượng giáo dục ở nước ta vẫn thấp. Giáo dục đào tạo được thương mại hoá, chạy theo quy mô, ít chú trọng đến chất lượng. Một bộ phận người lao động sau đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, đào tạo chưa thực sự tạo cho người lao động cơ hội tìm được việc làm. Có sự thiếu hụt công nhân lành nghề cao. Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu vực FDI và xuất khẩu lao động còn gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ( công nhân kỹ thuật lành nghề cao, lao động trình độ đại học trở lên được đào tạo có chất lượng tốt ) để đáp ứng chuyển giao khoa học và công nghệ mới từ nước ngoài. Người lao động hạn chế về trình độ năng lực, tay nghề và phong cách làm việc. Phần lớn lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp đều hạn chế về năng lực làm việc kể cả lao động trực tiếp và lao động quản lý. Người lao động ít được đào tạo một cách bài bản, kiến thức nghề nghiệp và kỹ năng làm việc của nhiều người hoặc không còn phù hợp hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Quy mô lao động qua đào tạo và chất lượng lao động chuyên môn kỹ thuật có khoảng cách so với nhiều nước trên thế giới: Chất lượng đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam chỉ đạt 17,86/60 điểm (60 là điểm tối đa) trong khi Singapore là 42,16 điểm, Hàn Quốc là 46,06 điểm, Trung Quốc là 31,5 điểm, Thái Lan là 18,46 điểm và Philipine là 29,85 điểm.( (): Tạp chí thông tin Thị trường lao động số 7/2004/trang 1.
) Có thể thấy sức cạnh tranh của lao động Việt Nam đang còn quá thấp. Bên cạnh đó ngân sách đầu tư cho giáo dục ở nước ta còn thấp. Chi phí học tập cho học sinh vẫn còn là điều đáng quan tâm nhất là đối với những gia đình nghèo. Ở các vùng sâu vùng xa, kinh tế kém phát triển (các tỉnh vùng núi phía Bắc, các tỉnh miền Trung, Đồng bằng sông Cửu Long…) thiếu các cơ sở đào tạo dạy nghề nên cũng thiếu nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật. Một vấn đề nữa là thiếu cán bộ nghiên cứu đầu đàn. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học đều đã già: tuổi trung bình của các nhà khoa học cao, 60% số cán bộ nghiên cứu có bằng đại học đã qua tuổi 45; độ tuổi trung bình của giáo sư, phó giáo sư của các viện nghiên cứu là 57,2. Tuổi cao hạn chế đáng kể năng lực sáng tạo, khả năng tiếp cận đến tri thức và phương tiện nghiên cứu mới. Số cán bộ khoa học thiếu hụt chỉ có chưa đến 10 người /1000 dân trong khi đó Singapore là 16, Hàn Quốc là 52 và Nhật Bản là 70.( (): Tạp chí thông tin Thị trường lao động số 3/2003/trang 9.
)
Cơ cấu đào tạo về nghành nghề và trình độ còn bất hợp lý dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động chuyên môn kỹ thuật. Toàn cầu hoá kinh tế đã tác động đến sự phát triển một số nghành nghề mới tạo ra xu hướng đào tạo chạy theo thị hiếu của người lao động, thiếu định hướng, phân luồng dẫn đến hậu quả là đào tạo chưa gắn với nhu cầu thực tế của các khu vực kinh tế và các nghành, mất cân đối giữa các nghành nghề đào tạo. Hiện nay số lượng sinh viên nghành văn hoá nghệ thuật là 1,3%, nông lâm ngư nghiệp là 3,13%, khoa học cơ bản là 15,5%, khoa học công nghệ và kỹ thuật là 15,2%, khoa học xã hội là 42,78%. Thực tế này tạo ra tình trạng cung lao động chuyên môn kỹ thuật cao hơn nhiều so với cầu lao động đối với một số nghành nghề, lĩnh vực. Một hạn chế nữa do đặc điểm sinh lý và lịch sử của người dân Việt Nam là thể lực kém, thể hiện ở chiều cao cân nặng, độ dẻo dai và sức chịu đựng kém.
Ngoài sự hạn chế khách quan đó chúng ta còn bị hạn chế bởi nguyên nhân chủ quan. Đó là thói quen làm việc nông nghiệp của chúng ta dẫn tới thói quen làm việc rề rà, giờ “cao su”,vừa làm vừa chơi. Thói quen đó rất có hại cho việc sản xuất. Chúng ta cũng đã gặp rắc rối với vấn đề lao động thiếu kỷ luật, thiếu trách nhiệm, tính tự giác kém như vụ việc Đài Loan đe doạ sẽ ngừng nhập khẩu lao động Việt Nam vì nhiều lao động bỏ trốn.
Thị trường lao động Việt Nam chưa phát triển, chưa được quan tâm quản lý đúng mức cũng là một khó khăn đối với người lao động. Có sự mất cân bằng giữa cung và cầu lao động. Lợi thế của chúng ta là lực lượng lao động đông đảo cũng dẫn tới thách thức cho chúng ta. Một mặt các ngành kinh tế chưa phát triển, chưa tạo ra đủ việc làm cho người lao động, mặt khác có những công việc vẫn thiếu người làm nhưng cung lao động trên thị trường lại không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Vì vậy nên có tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị là khá cao. Năm 2004 tỷ lệ này đã giảm so với năm 2003 là 0,2% nhưng vẫn còn chiếm tới 5,6%. Điều này có nghĩa là vẫn còn có khoảng 2422,2968 nghìn người lao động không thể tìm được việc làm.
Trong 8 vùng lãnh thổ, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị giảm được ở 6 vùng là: Đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và tăng ở 3 vùng còn lại. Vùng có tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị cao nhất năm 2004 là Đồng bằng sông Hồng: 6,03%, vùng thấp nhất là Tây Nguyên: 4,53%. Các vùng còn lại đều ở khoảng hơn 5,0%. Ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ này thậm chí lên tới 6,52%. Tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động thấp nhất là Đắc Nông: 1,97%.
Bảng 6: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở
khu vực thành thị:
2002 (%)
2003 (%)
2004 (%)
Cả nước
6,01
5,78
5,60
ĐB sông Hồng
6,64
6,37
6,03
Đông Bắc
6,1
5,94
5,45
Tây Bắc
5,11
5,19
5,30
Bắc Trung Bộ
5,82
5,45
5,35
DH nam trung bộ
5,5
5,46
5,70
Tây nguyên
4,9
4,39
4,53
Đông Nam Bộ
6,3
6,08
5,92
ĐB sông CL
5,5
5,26
5,03
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
B ảng 7: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở
khu vực thành thị của một số tỉnh, thành phố:
2002(%)
2003 (%)
2004 (%)
Cả nước
6,01
5,78
5,60
Hà Nội
7,08
6,84
6,52
Hải Phòng
7,20
7,12
6,37
Đà Nẵng
5,30
5,16
5,54
Thành phố HCM
6,73
6,58
6,39
Sóc Trăng
6,23
6,41
6,40
Kon Tum
5,94
5,36
6,58
Đắc Nông
-
-
1,97
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Nguồn nhân lực nước ta phân bố chưa hợp lý theo nghành và vùng. Trong tổng số 42.329,1 nghìn lao động có việc làm của cả nước có 57,9% làm việc chính ở khu vực I (nông,lâm nghiệp và thuỷ sản); 17,4% làm việc chính ở khu vực II (công nghiệp và xây dựng); 24,7% làm việc chính ở khu vực III (dịch vụ). So với năm 2003, tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực I giảm 1,7% và tăng tương ứng ở khu vực II là 1,0%; khu vực III là 0,7%
Bảng 8: Cơ cấu lao động chia theo nhóm nghành KTQD của cả nước
2003,2004 (%)
Năm
2003
2004
Tổng số lao động
100
100
Dịch vụ
24,0
24,7
Công nghiệp và xây dựng
16,4
17,4
Nông, lâm, ngư nghiệp
59,6
57,9
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Ta thấy gần đây đã có sự chuyển dịch cơ cấu từ các nghành nông, lâm, ngư nghiệp sang các nghành dịch vụ, CN và xây dựng nhưng sự chuyển dịch diễn ra chậm. Lao động ở các nghành nông nghiệp vẫn là chủ yếu, các nghành dịch vụ và xây dựng thể hiện sự phát triển của đất nước thì vẫn còn chiếm số ít. Về phân bố lao động theo vùng ta có các bảng số liệu sau:
Bảng 9: Lực lượng lao động cả nước chia theo thành thị, nông thôn.
Năm
2003 (Nghìn người)
2004 (Nghìn người)
Tổng số lao động
42124,6
43255,3
Thành thị
10188,5
10549,3
Nông thôn
31936,1
32706,0
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Cơ cấu lực lượng lao động cả nước chia theo thành thị và nông thôn
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Ta thấy lực lượng lao động tập trung ở nông thôn: Nông thôn chiếm tới 75,6% lực lượng lao động trong khi thành thị chỉ chiếm có 24,4%. Đó là do dân cư nước ta chủ yếu là làm nông nghiệp, quá trình đô thị hoá diễn ra chậm. Điều đó cũng đồng nghĩa với lực lượng lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm số đông nên không đáp ứng được yêu cầu về tiếp thu, sử dụng khoa học công nghệ. Mặt khác lao động tập trung nhiều ở các vùng Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ. Ở các vùng có nhiều tiềm năng như Tây Nguyên, Tây Bắc lực lượng lao động lại thưa thớt chỉ có 3,2 và 5,6%. Có sự chênh lệch đó là do sức hút của các thành phố lớn đối với lao động, do điều kiện cơ sở vật chất. Ở các vùng này lại còn thiếu các cơ sở đào tạo dạy nghề do các cơ sở đào tạo dạy nghề tập trung ở cácc thành phố lớn nên càng thiếu nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật. Điều đó làm hạn chế việc khai thác tiềm năng của các vùng có điều kiện như cửa biển, ven biển, miền núi, hải đảo…
Bảng 10: Cơ cấu lực lượng lao động cả nước chia theo vùng kinh tế 2004.
Vùng kinh tế
Lực lượng L Đ
(ngàn người)
Tỷ lệ
(%)
ĐB sông Hồng
9718,3
22,5
Đông Bắc
5129,2
11,9
Tây Bắc
1373,7
3,2
Bắc Trung Bộ
5214,6
12,1
DH nam trung bộ
3582,4
8,3
Tây nguyên
2415,7
5,6
Đông Nam Bộ
6536,9
15,1
ĐB sông CL
9284,5
21,5
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Ở khu vực nông thôn, việc sử dụng thời gian lao động chưa được hiệu quả. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn của cả nước là 79,34%, ở vùng cao nhất là Đông Nam Bộ: 81,56%, các vùng tiếp theo là Tây Nguyên:80,80% và Đồng bằng sông Hồng: 80,39%. Vùng có tỷ lệ thấp nhất là Bắc Trung Bộ: 76,55%. Các vùng còn lại đều từ trên 77% đến trên 79%. Do tính chất công việc nông nghiệp theo thời vụ nên có những thời điểm người nông dân không có việc làm, lao động giản đơn thừa nên hình thành dòng người di cư tạm thời từ nông thôn ra thành thị gây ra rất nhiều vấn đề khó khăn như: mật độ dân số ở các thành phố tăng lên,chật chội, nảy sinh nhiều tệ nạn…
Bảng 9: Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn
2002 (%)
2003 (%)
2004 (%)
Cả nước
75,5
77,94
79,34
ĐB sông Hồng
76,3
78,73
80,39
Đông Bắc
75,5
77,37
78.90
Tây Bắc
71,1
74,45
77,61
Bắc Trung Bộ
74,6
76,06
76,55
DH Nam TB
75,0
77,69
79,36
Tây Nguyên
78,1
80,58
80,80
Đông Nam Bộ
75,5
78,51
81,56
ĐB sông CL
76,6
78,43
78,66
Nguồn: Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2004
( Bộ lao động – thương binh và xã hội )
Một thách thức nữa đối với nguồn nhân lực Việt Nam đó là các tệ nạn xã hội đang ngày càng nhiều và xâm nhập vào các tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là tầng lớp thanh th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0219.doc