Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc bộ, được tách ra từ tỉnh Hà Bắc cũ với diện tích tự nhiên: 803,9 km2, dân số: 998.300 người.
Sau những năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh cùng với cả nước bước vào quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ năm 2000 đến nay, kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao, tương đối toàn diện, cơ cấu chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực trong từng khu vực, từng địa phương và các thành phần kinh tế. Tổng sản phẩm nội địa
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(GDP) tăng bình quân hàng năm 13,9%, tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp xây dựng tăng nhanh từ 25,6% năm 2000 lên 47,2% năm 2005, khu vực nông - lâm - thủy sản giảm từ 38% xuống còn 25% năm 2005. Tuy nhiên, Bắc Ninh vẫn còn mang nặng dấu ấn của một tỉnh nông nghiệp, lao động nông nghiệp ở nông thôn Bắc Ninh hiện nay vẫn đang chiếm 82,71% lao động xã hội và một trong những thách thức lớn nhất trong khu vực này là tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm của người lao động đang có xu hướng gia tăng. Điều đó, trong chừng mực nhất định đang cản trở bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của tỉnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 17 (nhiệm kỳ 2006 - 2010) đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, tiếp tục đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đổi mới quan hệ sản xuất, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới" [53].
Để thực hiện chủ trương trên, một trong những vấn đề quan trọng là phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực - nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh nói riêng. Với những lý do đó, tác giả chọn vấn đề "Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh" làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã có nhiều công trình khoa học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của các công trình này là:
+ Làm rõ quan niệm, nội dung và biện pháp để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
+ Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở các vùng khác nhau trong nước.
+ Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta nói chung.
Các công trình tiêu biểu mà tác giả được biết:
- Nguyễn Văn Bích: "Đổi mới và phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa" Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996.
- Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng (chủ biên): "Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam", Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.
- GS.TS Nguyễn Đình Phan, GS.TS Trần Minh Đạo và TS Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên): "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Vấn đề con người - nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã có nhiều tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Một số công trình, tác phẩm nghiên cứu mà tác giả được biết đó là:
- Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ của Trần Kim Hải.
- Vai trò Nhà nước trong tạo tiền đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Quý Tình.
- Đề án chiến lược về lao động và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp và nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1999 - 2020) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1999.
- Chương trình khoa học cấp nhà nước KX 04-04(1995): "Luận cứ khoa học cho giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần".
- PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc "Vấn đề giải quyết việc làm và dạy nghề cho nông dân", Tạp chí Con số và Sự kiện, 8/1999.
- Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Trần Kim Long, 2005.
- TS Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung (chủ biên): "Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
Các công trình trên được các tác giả nghiên cứu ở tầm vĩ mô trong phạm vi cả nước hoặc từng vùng tiêu biểu. Tuy nhiên, một đề tài riêng về nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh thì còn ít tác giả nghiên cứu một cách tổng thể dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đề tài luận văn này là cần thiết và có ý nghĩa lý luận - thực tiễn đối với tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu:
Phân tích và đánh giá thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
* Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; về nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đối với nguồn nhân lực.
- Đánh giá thực trạng về nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh.
- Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài luận văn thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, nên việc nghiên cứu đối tượng này được tiến hành dưới góc độ:
+ Coi nguồn nhân lực là một trong số các nguồn lực sản xuất. Sử dụng nguồn nhân lực được xem xét và phân tích trong mối quan hệ ràng buộc với các yếu tố khác trong quá trình sản xuất, đó là: Đất đai, vốn, tài nguyên, thị trường, công nghệ và các nguồn lực khác trong nông nghiệp, nông thôn.
+ Xem xét mối quan hệ tương tác giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với vấn đề sử dụng lao động và tạo việc làm cho người lao động.
+ Mốc thời gian để lấy số liệu, tư liệu minh họa chủ yếu từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài.
- Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp chung của kinh tế chính trị như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa vấn đề, rút ra kết luận.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính sách, chỉ đạo thực tiễn, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nước ta
1.1. Bản chất và nội dung Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
Sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước đã được Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ III (năm 1960). Đến Đại hội lần thứ VII và VIII, Đảng ta nhấn mạnh thêm nội dung hiện đại hóa và coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu của sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp là chủ yếu thành một nước công nghiệp. Đó cũng là con đường cơ bản để thực hiện mục tiêu: "Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 4/2001 tiếp tục khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn là nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Sau 20 năm đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã bước vào giai đoạn phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đây là sự tiếp nối đường lối và chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng. Chỉ có đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức mới có thể đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản đã trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy vậy, trong những năm đầu thế kỷ XXI, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta trước hết và chủ yếu là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là vấn đề rộng lớn và phức tạp, vì thế cho đến nay vẫn còn có những quan niệm ít nhiều chưa thống nhất.
* Một số nhà nghiên cứu cho rằng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là vấn đề khoa học bao gồm 4 nội dung khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là: Công nghiệp hóa nông nghiệp; công nghiệp hóa nông thôn; hiện đại hóa nông nghiệp; hiện đại hóa nông thôn.
Công nghiệp hóa nông nghiệp, theo tác giá Chu Hữu Quý và Nguyễn Kế Tuấn là:
Quá trình chuyển biến từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán sang nền nông nghiệp sản xuất lớn với trình độ chuyên canh và thâm canh cao, tiến hành sản xuất và quản lý sản xuất - kinh doanh với trình độ trang bị công nghiệp và công nghệ tiên tiến, áp dụng rộng rãi thủy lợi hóa, cơ khí hóa, hóa học hóa, điện khí hóa, sinh học hóa cao hơn và bước đầu áp dụng cả tin học hóa, tự động hóa [47, tr. 26].
Cũng theo các tác giả trên thì phạm vi, tính chất của công nghiệp hóa nông thôn sâu rộng hơn nhiều, thể hiện qua ba điểm:
Thứ nhất, nó là quá trình biến đổi không phải trong từng ngành sản xuất hay từng lĩnh vực xã hội đơn lẻ, mà là một quá trình biến đổi toàn diện trong một khu vực xã hội rộng lớn là nông thôn, bao quát mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị tại đó.
Thứ hai, nó phải phát triển một nền nông nghiệp dồi dào làm nền tảng, một nền sản xuất công nghiệp ngày càng tiên tiến, một hệ thống dịch vụ đầy đủ và hữu hiệu.
Thứ ba, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cùng với các ngành kinh tế phát triển, một hệ thống hạ tầng cơ sở kinh tế và xã hội dần dần được hoàn chỉnh theo hướng hiện đại hóa, các lĩnh vực hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế được nâng cấp, các quan hệ xã hội được hoàn thiện, tạo ra một lối sống công nghiệp năng động, cởi mở, văn minh... [47, tr. 26-27].
Nhóm các nhà nghiên cứu khác, về cơ bản tán đồng với quan điểm trên và nhấn mạnh trong ba mặt biểu hiện (đặc trưng điển hình) của công nghiệp hóa nông thôn nêu dưới đây đã bao hàm cả yếu tố hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn:
Công nghiệp hóa nông thôn phản ánh sự biến đổi toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị của một vùng xã hội nông thôn. Nó khác với công nghiệp hóa nông nghiệp ở chỗ công nghiệp hóa nông nghiệp phản ánh sự biến đổi chỉ đối với một ngành cụ thể - ngành nông nghiệp (bao gồm cả nông - lâm - thủy sản). Tất nhiên nói như vậy cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi lẻ khi nông nghiệp được công nghiệp hóa chắc chắn sẽ động tới các mặt khác của xã hội nông thôn.
Công nghiệp hóa nông thôn phản ánh sự thay đổi một cách căn bản kết cấu kinh tế - xã hội nông thôn. Kết cấu kinh tế của một vùng nông thôn được công nghiệp hóa phản ánh một cơ cấu ngành tích cực, trong đó có một nền nông nghiệp đa dạng đã được công nghiệp hóa ở trình độ cao là nền tảng, một nền sản xuất công nghiệp ngày càng tiên tiến và một hệ thống dịch vụ hiệu quả. Về kết cấu xã hội, đặc biệt là kết cấu lao động cũng có sự thay đổi: Tỷ trọng lao động nông nghiệp ngày càng giảm và tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
Công nghiệp hóa nông thôn còn được phản ánh qua sự phát triển bằng một hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng ngày càng hiện đại; đồng thời các lĩnh vực hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế có sự biến đổi rõ nét về chất, các quan hệ xã hội được hoàn thiện, một lối sống công nghiệp văn minh được hình thành [44, tr. 14-16].
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa nông thôn ở nước ta, cần chú ý một số điểm sau:
Một là, công nghiệp hóa nông thôn tất yếu phải kéo theo sự phát triển công nghiệp nông thôn và do đó phát triển công nghiệp nông thôn là một trong những nội dung quan trọng của công nghiệp hóa nông thôn, mặt khác công nghiệp hóa nông thôn bao hàm cả công nghiệp hóa nông nghiệp. Mặc dù vậy cũng không nên chỉ dùng thuật ngữ công nghiệp hóa nông thôn và mà không nói đến công nghiệp hóa nông nghiệp. Vì trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn thì vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp vừa là quan trọng, vừa như là một thách thức.
Hai là, công nghiệp hóa nông thôn đúng hướng tất yếu phải góp phần thúc đẩy các chỉ tiêu về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn vùng tăng với tốc độ ngày càng nhanh và cao hơn so với vùng nông thôn đó trong điều kiện không được công nghiệp hóa. Đồng thời làm thay đổi cơ cấu về tỷ lệ đóng góp của các ngành vào GDP và thu nhập. GDP của các vùng nông thôn được công nghiệp hóa phải có tỷ trọng cao của phần đóng góp từ công nghiệp và dịch vụ, do đó phần đóng góp của nông nghiệp ngày càng giảm đi về tỷ lệ, nhưng quy mô tuyệt đối ngày càng tăng về cơ cấu và thu nhập của dân cư cũng có kết quả tương tự.
Hiện đại hóa nông nghiệp bao gồm tất cả những hoạt động có liên quan đến việc ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp nhằm góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của chúng, đồng thời thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu của xã hội, của thị trường về các sản phẩm nông nghiệp. Đặc trưng nổi bật của hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất.
Hiện đại hóa nông thôn là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh và tiến bộ. Hiện đại hóa nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hóa, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác trong sản xuất vật chất ở nông thôn mà còn bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội: Hệ thống giáo dục đào tạo, y tế và các dịch vụ phục vụ đời sống nông thôn. Về bản chất, hiện đại hóa là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hóa hoàn toàn không có nghĩa là xóa bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ, càng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện, từng bước nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ và tổ chức quản lý nền sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm với trình độ thế giới.
Từ những phân tích trên, ta thấy vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn liên quan đến 4 khía cạnh có nội dung khác nhau, có liên quan chặt chẽ với nhau, đó là: công nghiệp hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn, hiện đại hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn. Bốn khái niệm trên có quan hệ mật thiết với nhau: ở công nghiệp hóa nông thôn bao hàm công nghiệp hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn bao hàm hiện đại hóa nông nghiệp và giữa công nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng có quan hệ mật thiết với nhau. Công nghiệp hóa đã phần nào phản ánh trình độ nhất định của hiện đại hóa và ngược lại. Hiện đại hóa là yêu cầu đối với công nghiệp hóa nhất là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang phát triển nhanh như vũ bão; xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi công nghiệp hóa phải là quá trình hiện đại hóa.
* Quan niệm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Trong văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII Đảng ta đã xác định: Từ nay đến cuối thập kỷ, phải rất quan tâm đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Có thể nói đây là lần đầu tiên trong các văn kiện của Đảng đã đưa ra phạm trù công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã bổ sung cụ thể hóa thêm những quan điểm chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Trong văn kiện lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu" [38, tr. 87].
Đại hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã cụ thể hóa, bổ sung và phát triển những quan điểm, đường lối về công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta và chủ trương đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Để tiếp tục hoàn thiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành nghị quyết về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010. Nghị quyết đã nêu lên những nội dung tổng quát, quan điểm, mục tiêu phát triển, những chủ trương và giải pháp lớn để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Về quan điểm cần quán triệt để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 là:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đặc lực và phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
- Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững.
- Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hóa, các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
- Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân nông thôn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa và thuần phong mỹ tục.
- Kết hợp chặt chẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia [40].
Những quan điểm trên không chỉ đảm bảo cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững mà còn góp phần quan trọng cho sự phát triển hài hòa giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa kinh tế và xã hội, an ninh, quốc phòng, môi trường, tăng cường khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đảm bảo cho nước ta phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Những nội dung cơ bản công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Trong văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu:
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh. đảm bảo an toàn về lương thực quốc gia, tạo ra nông sản hàng hóa phù hợp với nhu cầu thị trường. Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và làng nghề mới và thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, ứng dụng thành tựu sinh học, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới văn minh và hiện đại [38, tr. 87-88].
Tháng 11/1998, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-TW về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn đã khẳng định:
Đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 5 năm thực hiện, nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã được cụ thể hóa từng bước. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng nêu rõ:
Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn [39, tr. 92-93].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã xác định nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.
- Về nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, Nghị quyết chỉ rõ:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường [40, tr. 42].
- Nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là:
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn [40, tr. 43].
Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác của các hộ nông dân, khuyến khích viện dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng; đổi mới chính sách giao đất, giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc sống ổn định và được cải thiện. Phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản có công nghệ hiện đại.
Phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bỏa vệ nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư, đô thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đồng bộ như: Thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn kể cả ở nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số [41, tr. 88-90].
Từ những trình bày trên, theo chúng tôi, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một quá trình bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
* Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh doanh theo quan điểm của kinh tế thị trường, từ đó thúc đẩy quá trình biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản nhằm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu lao động, quy mô và cơ cấu thu nhập.
* Thực hiện phân công mới lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở phát triển các ngành nghề, nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống và dịch vụ theo phương châm "rời đồng, không rời làng" (ly nông, bất ly hương) và "tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo", từng bước xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới theo diện mạo của công nghiệp và đô thị.
* Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý trong sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, tự động hóa, tin học hóa và ứng dụng các thành tựu hiện đại của công nghệ sinh học, thay đổi căn bản phương thức quản lý sản xuất kinh doanh ở nông thôn theo hướng lấy cơ cấu, quy mô nhu cầu thị trường làm căn cứ quyết định cơ cấu quy mô sản xuất và đổi mới cơ cấu sản phẩm nhằm kết hợp tốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngay từ trong từng phương án sản xuất kinh doanh.
* Nâng cao chất lượng nhân lực, kể cả nhân lực quản lý và đặc biệt là người lao động sản xuất nông nghiệp có trình độ cao.
* Từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp và nông thôn, nâng cao trình độ văn minh của xã hội nông thôn, chuyển mạnh lối sống ở nông thôn sang lối sống công nghiệp.
Đây là những điểm căn bản nhất phản ánh nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong đó có điểm phản ánh quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có điểm phản ánh quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (hiện đại hóa không chỉ về phương diện kỹ thuật và công nghệ, mà cả về phương diện quản lý kinh doanh) và có những điểm phản ánh các điều kiện kinh tế - xã hội để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
1.2. Tác động và yêu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.2.1. Khái niệm về nguồn nhân lực
Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực. Do cách tiếp cận khác nhau, nên có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực:
Thứ nhất, theo thuyết lao động xã hội thì nghĩa rộng của nguồn nhân lực, có thể hiểu là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội. Theo nghĩa hẹp, là khả năng lao động của xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có tham gia vào nền sản xuất xã hội. Theo quan điểm của Tổ chức Lao động thế giới (IL0): Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có việc làm và những và những người thất nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam tuổi lao động được quy định là từ 15 - 60 (đối với nam) và từ 15 - 55 (đối với nữ). T._.rên thực tế khi tính toán, thống kê lực lượng lao động, người ta thường quy định: Lực lượng lao động là những người trong độ tuổi lao động có việc làm và những người ngoài tuổi lao động vẫn tham gia làm việc (thường tính cho những người trên tuổi lao động). Như vậy, ở đây lực lượng lao động cũng đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế. Nguồn lao động được hiểu là toàn bộ những người có khả năng lao động dưới dạng tích cực và tiềm tàng, có thể biểu diễn nguồn lao động qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1.1: Nguồn lao động
Nguồn lao động
Trong độ tuổi lao động có khả năng lao động
Ngoài độ tuổi lao động có khả năng lao động
Tiềm tàng
Tích cực
Phục vụ quân sự
Đi học
Nội trợ
Các ngành phi sản xuất
Thất nghiệp
Các ngành sản xuất (trong đó có nông nghiệp)
Thứ hai, theo thuyết tăng trưởng kinh tế, thì nguồn nhân lực chính là nguồn lực chủ yếu tạo động lực cho sự phát triển.
Thứ ba, theo thuyết về vốn con người, thì nguồn nhân lực được hiểu như nguồn lực con người (Human Resonsrces), được huy động, quản lý cùng với các nguồn lực khác (tài chính, tài nguyên...) để thực hiện những mục tiêu phát triển đã định.
Thứ tư, theo định nghĩa của Liên hợp quốc, nguồn nhân lực là: "Trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng".
Thứ năm, theo một số nhà khoa học Việt Nam, nguồn nhân lực được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí tuệ và sức khỏe, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc...
Từ những quan niệm trên, chúng tôi cho rằng, nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong tổng số lực lượng lao động của xã hội, đang và sẽ được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất để phục vụ cho nhu cầu xã hội.
ã Nguồn nhân lực trước hết phản ánh qua số lượng lao động trong độ tuổi lao động và chất lượng của nó. Chất lượng nguồn nhân lực là trình độ, khả năng của năng lực thể chất và tinh thần cấu thành nguồn nhân lực của xã hội. Có nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Đó là: (1) Trí lực của nguồn nhân lực; (2) Chỉ số phát triển con người (HDI); (3) Thể lực nguồn nhân lực; (4) Phẩm chất, đạo đức, nhân cách, truyền thống văn hóa nguồn nhân lực.
ã Những nhân tố tác động đến chất lượng nguồn nhân lực:
Một là, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở nền tảng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia đóng vai trò quyết định đến trình độ phát triển nguồn nhân lực của nước đó, vì tăng trưởng và phát triển kinh tế sẽ đưa đến kết quả là nâng cao mức sống, cải thiện tình hình sức khỏe của dân cư, sẽ tăng vốn đầu tư cho phát triển giáo dục - đào tạo, do đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hơn nữa, trình độ phát triển kinh tế sẽ quyết định mức độ hiện đại hóa nền kinh tế, mức độ áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất và đời sống, do đó, thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Và khi chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao sẽ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, giáo dục và đào tạo đóng vai trò trực tiếp quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Chúng ta đều biết: Trí tuệ và năng lực sáng tạo là nhân tố chủ yếu của chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục và đào tạo giúp cho người lao động nâng cao trình độ văn hóa, sự hiểu biết nói chung, trình độ nghề nghiệp, tay nghề, năng lực tư duy sáng tạo, phát huy tài năng của họ để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh... Do đó, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quyết định nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực còn có các yếu tố khác tác động, như: phát triển dân số, yếu tố văn hóa, truyền thống dân tộc và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
1.2.2. Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn
Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận cấu thành của nguồn nhân lực xã hội. Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn (theo nghĩa hẹp là nguồn lao động) là tổng thể sức lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn, bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động những vẫn tham gia lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn với quan điểm là một tiềm lực kinh tế thể hiện ở hai mặt: Số lượng và chất lượng.
- Số lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn là tổng số những người trong độ tuổi lao động (từ 15 - 55 đối với nữ, từ 15 - 60 đối với nam) có khả năng lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn và những người trên tuổi lao động nhưng vẫn tham gia lao động. Số lượng này phụ thuộc vào 2 yếu tố: Sự tăng giảm tự nhiên và tăng giảm cơ học do sự di cư từ nông thôn ra thành thị hoặc ngược lại.
- Chất lượng của nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn nói chung là khả năng về sức sản xuất của thể lực, trí lực của người lao động. Khả năng này được phản ánh qua trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật, năng suất lao động, kinh nghiệm sản xuất cũng như hành vi và giá trị của người lao động. Chất lượng của nguồn lao động là nhân tố có tính quyết định đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một nước. Chất lượng nguồn lao động nông thôn nói riêng và nguồn lao động xã hội nói chung tất yếu sẽ biến đổi theo xu hướng không ngừng tăng lên do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và vì vậy năng suất lao động ngày càng nâng cao. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện chăm sóc tốt hơn sức khỏe con người, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao thông qua sự đầu tư và các chính sách phát triển của Nhà nước vào các lĩnh vực y tế, giáo dục và văn hóa.
Những đặc trưng của nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn:
Một là, nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn nhân lực xã hội.
Nước ta là một nước nông nghiệp, có khoảng 78% dân số sinh sống ở các vùng nông thôn và đại bộ phận dân cư và lao động làm ăn sinh sống bằng nghề nông. Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ, tỷ lệ tăng tự nhiên đã giảm khá nhanh từ 2,2 năm 1990 xuống còn 1,43% năm 2000, tuy nhiên lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn năm 2005 vẫn chiếm tới 66,0% lao động xã hội.
Hai là, lao động nông nghiệp mang tính thời vụ cao.
Một trong những nguyên nhân khiến cho việc trồng lúa nước cũng như các cây rau màu khác cần một lực lượng lao động lớn là do tính thời vụ cao (gieo trồng, thu hoạch). Những công việc cần nhiều lao động như vậy lại chỉ diễn ra trong một số tháng trong năm. Tính chất thời vụ của việc canh tác lúa nước đã dẫn đến tình trạng nông nhàn cao trong nông nghiệp. Tính chất đặc thù của sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến lượng "cầu" về lao động nông nghiệp có biên độ dao động rất lớn giữa các kỳ thu hoạch. Kết quả là một lượng lao động làm nông nghiệp trở nên nhàn rỗi trong những tháng mùa khô hoặc trước và sau vụ thu hoạch. Chính đặc điểm này đã ảnh hưởng lớn đến mức độ sử dụng lao động trong khu vực này.
Ba là, điều kiện làm việc của lao động nông nghiệp nước ta còn vất vả và nặng nhọc.
Nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, trình độ kinh tế xã hội còn thấp kém, mức độ cơ giới hóa trong nông nghiệp còn ít (năm 1997 mức độ cơ giới hóa khâu làm đất đạt hơn 34%, tưới nước 53%, tiêu nước 30%, suốt lúa 78%, khai thác gỗ 60-70%) [43, tr. 22].
Lao động nông nghiệp chủ yếu vẫn là thủ công, trong khi đó các khâu công việc như cày bừa, cấy lúa, vận chuyển vật tư và sản phẩm đều là những công việc nặng nhọc, nên tốn nhiều sức lực của người lao động. Công cụ tuy đã được cải tiến nhưng vẫn còn lạc hậu, vấn đề đặt ra là các Viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, các nhà khoa học phải nghiên cứu, cải tiến chế tạo các loại công cụ cơ khí vừa và nhỏ phù hợp với điều kiện sản xuất nông nghiệp của từng vùng và phù hợp với khả năng kinh tế của nông dân, trên cơ sở đó từng bước giảm bớt các khâu nặng nhọc, độc hại đồng thời nâng cao năng suất lao động trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề cơ giới hóa nông nghiệp ở nước ra vẫn đang trong tình trạng mâu thuẫn giữa yêu cầu của hiện đại hóa với lực lượng lao động dư thừa quá lớn ở nông thôn, cần phải có giải pháp hữu hiệu từng bước khắc phục.
Bốn là, chất lượng lao động nông thôn.
Do những nguyên nhân lịch sử, kinh tế sâu xa cùng với phương thức sản xuất lúa nước đã liên kết những người dân sống ở nông thôn thành một cộng đồng gắn kết nhau với truyền thống đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, có phẩm chất cần cù, chịu khó, thông minh... Đó là những tố chất quan trọng của nguồn lực con người ở nông thôn. Tuy nhiên, nguồn nhân lực ở nông thôn cũng còn có nhiều hạn chế chưa đáp ứng được với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thể hiện ở một số nét chủ yếu sau:
- Trình độ văn hóa, dân trí và chuyên môn kỹ thuật của người lao động ở nông thôn còn thấp, ví dụ: Năm 1999 ở nước ta tỷ lệ lao động chưa biết chữ ở nông thôn vẫn còn gần 1,5 triệu người chiếm 4,9% tổng số lao động nông thôn, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm xấp xỉ 8% còn lại là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Lực lượng lao động chất xám vừa ít lại phân bố không đều, chưa gắn bó với sản xuất và phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý ở nông thôn còn yếu kém, số có trình độ đại học chỉ chiếm 3,5%, trung cấp 12,8%, sơ cấp 48% tổng số cán bộ quản lý. Rõ ràng với trình độ như vậy sẽ không đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, đây là yếu tố gây trở ngại lớn đến việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp [43, tr. 22].
- Thể lực của người lao động ở nông thôn đã được cải thiện nhưng còn thấp so với yêu cầu. Tình trạng dinh dưỡng của người lớn tính theo chỉ số cơ chế (BMI) của khu vực nông thôn cho thấy chỉ có 36,44% nam giới đạt mức bình thường, còn lại 62,5% ở mức gầy và quá gầy [43, tr. 23].
- Thu nhập của nông dân còn thấp, đời sống còn nhiều khó khăn. Vẫn còn khoảng gần 15% dân nông thôn bị nghèo về lương thực, thực phẩm và khoảng 1/3 còn phải sống ở mức nghèo chung. Bên cạnh đó các điều kiện khác ở nông thôn còn kém xa so với thành thị. Ví dụ về nhà ở, về phương tiện, về hưởng thụ văn hóa...
1.2.3. Tác động và yêu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.2.3.1. Tác động của nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nguồn nhân lực như đã nói ở trên, trước hết phản ánh qua số lượng lao động trong độ tuổi lao động. Yếu tố về số lượng lao động tác động tới tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mang tính đặc thù, đặc biệt là khi xét nó trong mối tương quan với quy mô và tốc độ tăng dân số. Nếu lao động quá ít thì không đủ đáp ứng cho nhu cầu lao động của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhưng ngược lại nếu lao động quá lớn, và đằng sau đó là quy mô dân số quá đông và tốc độ tăng dân số nhanh thì đây là khó khăn, thách thức đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Xét về mặt này, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta sẽ gặp nhiều khó khăn.
Khía cạnh thứ hai có liên quan đến nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đó là chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm cả chất lượng nguồn nhân lực lao động trực tiếp và nguồn lao động quản lý. Trong thời đại của tiến bộ khoa học - công nghệ diễn ra nhanh chóng, chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ta thấy hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta trong những năm qua đã có bước phát triển khá trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, so với nhiều quốc gia khác, chất lượng đào tạo của nước ta còn chưa ngang bằng, hơn thế nữa các cơ sở đào tạo người lao động có tay nghề, kỹ năng bậc cao, nhất là việc đào tạo kỹ thuật và kỹ năng cho những người lao động trực tiếp trong nông nghiệp, công nghiệp cũng như dịch vụ phục vụ nông nghiệp còn chưa được chú ý đầy đủ. Mặt khác, tính thủ cựu trong lối tư duy, làm ăn của nông dân nước ta nói chung còn mang nặng dấu ấn của người tiểu nông do cơ chế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung còn là thách thức lớn đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
1.2.3.2. Yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn về nguồn nhân lực.
Như trên đã phân tích, nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng, góp phần quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta. Chính vì vậy, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải được thực hiện bằng đội ngũ những người lao động đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, hợp lý về cơ cấu và hiệu quả trong sử dụng.
- Về số lượng: Căn cứ vào mục tiêu phát triển và cơ cấu các ngành để có kế hoạch sử dụng lao động, đảm bảo đủ số lượng lao động tham gia, phấn đấu giảm dần sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động trong điều kiện nguồn nhân lực nông thôn vẫn có xu hướng gia tăng.
- Về chất lượng: Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa. Thế giới đang từng bước phát triển nền kinh tế tri thức. Chính vì vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng đòi hỏi một đội ngũ những người lao động có chất lượng cao, tinh thông nghề nghiệp, sáng tạo và có tác phong công nghiệp.
- Về cơ cấu nguồn nhân lực: Đảm bảo sự hợp lý trong phân bố nguồn nhân lực giữa các ngành và các vùng. Trong mỗi ngành, mỗi địa phương cũng phải tính đến tỷ lệ hợp lý giữa các trình độ chuyên môn kỹ thuật giữa các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách, các nhà quản lý và người trực tiếp sản xuất...
1.3. Kinh nghiệm phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở một số tỉnh trong nước
1.3.1. Kinh nghiệm của Sơn La
Sơn La là một tỉnh miền núi phía tây bắc nước ta, có diện tích 1.405,5 km2, với dân số 906.800 người (tương đương tỉnh Bắc Ninh). Trong đó, người trong độ tuổi lao động chiếm 46% dân số. Tỷ lệ lao động khu vực nông thôn chiếm 78,88% số lao động của tỉnh. Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động còn thấp mới đạt 68 - 70%. Như vậy 1/4 thời gian nông nhàn cần các ngành nghề, dịch vụ tạo nguồn thu nhập cho bà con nông dân Sơn La. Vấn đề này đặt ra cho tỉnh Sơn La một bài toán khó cần phải giải quyết. Mặt khác, mỗi năm Sơn La có khoảng 7.000 học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở chỉ có 1700 - 2000 em vào học tiếp các trường trung học phổ thông còn khoảng 5.000 em cần được đào tạo nghề, hướng nghiệp. Hàng ngàn học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ra trường, bộ đội xuất ngũ bổ sung cho lực lượng lao động trong tỉnh hàng năm.
Trong 10 năm qua (1996 - 2005) đặc biệt là 5 năm gần đây tình hình kinh tế xã hội ở tỉnh Sơn La có nhiều khởi sắc; chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi đúng hướng, nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá, GDP đạt mức trung bình 9,6%/năm, tổng sản phẩm quốc dân tăng gấp đôi, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 31,4% xuống còn xấp xỉ 15%. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở Sơn La có thể rút ra một số bài học về giải quyết việc làm, sử dụng nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
- Hạ thấp tỷ lệ tăng dân số, góp phần giảm áp lực gia tăng về dân số và lao động đối với việc làm.
- Tổ chức cân đối lại lực lượng lao động giữa các khu vực thị xã, thị trấn với khu vực nông nghiệp, giữa công nghiệp, dịch vụ với sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó đã tạo ra hàng vạn việc làm giúp cho hàng chục nghìn hộ gia đình sản xuất ổn định, thu nhập ngày một cải thiện.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất hàng hóa, phá thế độc canh, du canh du cư, tự cung tự cấp, hình thành mô hình kinh tế trang trại cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc, gia súc và gia cầm đang được nhân rộng và phát triển ở các vùng, tạo thêm nhiều việc làm cho nông dân vùng cao.
1.3.2. Kinh nghiệm của Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh nông nghiệp, dân số đông đúc, nguồn lao động dồi dào (hơn 1,8 triệu) nhưng chất lượng lao động thấp: năm 1997 tỷ lệ lao động không biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học là 13,26%, tốt nghiệp tiểu học và THCS là 70,11%, tốt nghiệp trung học phổ thông chỉ có 16,63%. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật mới đạt 12,1%, trong đó lao động có trình độ cao đẳng đại học trở lên là 2,01%, trung cấp chuyên nghiệp là 5,12%, công nhân kỹ thuật là 5,05%. Nguồn lao động phân bố không đều, chủ yếu tập trung cho các ngành nông - lâm - ngư nghiệp (trên 83%), lao động làm việc trong các ngành thương mại dịch vụ chỉ chiếm 4%. Hàng năm toàn tỉnh có trên 3 vạn người đến tuổi lao động chưa có việc làm, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn là phổ biến, thời gian lao động trong năm mới sử dụng đạt khoảng 70%.
Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều cố gắng tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến như: cây thuốc lá, cây mía, cây dứa... Đẩy mạnh trồng, khoanh nuôi, chăm sóc và bảo vệ rừng, phát triển khai thác hải sản xa bờ, nuôi trồng thủy sản, thành lập các cơ sở sản xuất mới, mở mang các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, mở rộng diện tích cây vụ đông...
Trong 3 năm 2001 - 2003 Thanh Hóa đã tạo thêm việc làm mới cho hơn 9 vạn lao động và hàng vạn lao động có việc làm đầy đủ hơn, nâng hệ số sử dụng lao động ở nông thôn từ 66,7% năm 1996 lên 74,2% năm 2003.
Kinh nghiệm sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn được thể hiện như sau:
- Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, đồng thời gắn các chương trình kinh tế xã hội với chương trình giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là lao động nông nghiệp nông thôn.
- Đẩy mạnh đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, từng bước thay đổi cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực, tăng tỷ lệ đào tạo công nhân kỹ thuật, đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi, cơ khí, dịch vụ. Khôi phục các ngành nghề thủ công truyền thống ở nông thôn, khuyến khích các cơ sở tư nhân mở trường lớp dạy nghề nhất là truyền nghề truyền thống của địa phương.
- Tăng cường các hoạt động dịch vụ việc làm trên cơ sở củng cố và tăng cường các trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh nhằm tư vấn cho người lao động chọn nghề học, hình thức học, nơi làm việc và tư vấn về pháp luật lao động. Đồng thời cung cấp thông tin về thị trường lao động và người sử dụng lao động, tổ chức cung ứng lao động theo quy định của luật pháp lao động.
- Hỗ trợ trực tiếp cho người lao động, tạo thêm việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thành lập Quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm của tỉnh và Ban chỉ đạo giải quyết việc làm ở ba cấp tỉnh, huyện, xã.
- Có chính sách ưu tiên phát triển sản xuất như: tạo điều kiện thuận lợi cho thuê mướn địa điểm sản xuất, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, miễn giảm thuế trong thời gian đầu cho các mặt hàng mới, nhất là các mặt hàng sử dụng nguyên liệu, lao động tại địa phương. Củng cố quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy mọi thành phần kinh tế mới theo hướng đầu tư đ sản xuất đ thu mua đ chế biến đ tiêu thụ sản phẩm. Thiết lập các mối quan hệ hợp tác trên cơ sở hoạt động kinh tế, điều hòa lợi ích thỏa đáng giữa người sản xuất nguyên liệu với người chế biến ra thành phẩm...
1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Ninh Thuận
Ninh Thuận là một tỉnh nhỏ so với các tỉnh phía nam của vùng kinh tế duyên hải miền Trung. Diện tích tự nhiên 3.360km2 dân số 557 nghìn người. Tỉnh có 4 huyện, 1 thị xã với 59 xã, phường.
Xét về góc độ kinh tế Ninh Thuận nằm xã trung tâm kinh tế trọng điểm phía nam. Tiềm năng đất đai, tài nguyên, khoáng sản không nhiều. Hơn nữa, do xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ bé, kinh tế thuần nông, cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật còn đơn sơ, trình độ dân trí chưa cao nên tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh còn thấp so với các tỉnh lân cận cũng như trên toàn quốc.
Để có bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo đà cho sự phát triển toàn diện, vững chắc Ninh Thuận chú trọng chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo đó là chuyển dịch cơ cấu lao động, đồng thời xây dựng nguồn lao động có chất lượng phục vụ quá trình chuyển dịch đó.
Trong tổng số 557 nghìn dân, số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 244.466 người, trong đó trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng 24.870 người (chiếm 10,17%), dịch vụ du lịch là 46.819 người (chiếm 19,47%), còn lại 70,68% (172.777 người) hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản [51, tr. 76].
Số liệu tổng hợp của Ban Chỉ đạo điều tra lao động và việc làm năm 2004 của tỉnh Ninh Thuận cho thấy: Số người hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật như sau:
- Đã qua đào tạo từ trung cấp chuyên nghiệp trở xuống: 26.046 người (10,65%).
- Trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học là 10.200 người (4,17%).
- Lao động chưa qua đào tạo là 208.220 người (85,18%) [51, tr. 77].
Như vậy, số lượng chưa qua đào tạo của tỉnh chiếm tỷ lệ rất cao, số này tập trung chủ yếu là ở khu vực nông thôn. Để có bước chuyển cơ bản về chất lượng nguồn nhân lực phục vụ trực tiếp cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tỉnh Ninh Thuận tập trung chú trọng công tác đào tạo nghề bằng nhiều hình thức theo phương châm đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Trong đó, các cơ sở dạy nghề của nhà nước đóng vai trò trung tâm vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương vừa đáp ứng nhu cầu lao động ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động; Phát triển mạnh mẽ cơ sở dạy nghề liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh để tiếp thu phương pháp và kinh nghiệm dạy nghề tiên tiến, khai thác triệt để nguồn lực từ bên ngoài. Đi đôi với việc huy động tối đa nguồn lực trong công tác đào tạo, phổ cập nghề Ninh Thuận thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo như: Dạy nghề theo hình thức kèm cặp tại nhà máy, phân xưởng; tổ chức theo lớp học; chuyển giao công nghệ; phổ biến kiến thức khoa học, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh; bồi dưỡng nâng bậc nghề, bồi dưỡng tập huấn; bổ túc hoàn thiện, mở rộng nâng cao kiến thức nghề nghiệp; dạy nghề kèm bổ túc văn hóa...
Đối tượng đào tạo chủ yếu là đội ngũ lao động ở nông thôn, nhất là độ tuổi thanh niên để học biết ít nhất là một nghề đề họ tự tạo việc làm và góp phần thực hiện các dự án phát triển kinh tế ở địa phương; Chú trọng chuyển giao công nghệ trong nông - lâm - ngư nghiệp, hỗ trợ làng nghề, các trung tâm bảo vệ thực vật, thú ý, giống cây trồng vật nuôi phối hợp với Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên tổ chức hướng dẫn cho nông dân kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi theo mô hình công nghiệp tập trung...
Từ những kinh nghiệm thực tế trong việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của ba tỉnh trên, chúng tôi thấy, Bắc Ninh nên nghiên cứu và có thể vận dụng một số kinh nghiệm sau:
Một là, tập trung tổ chức, cân đổi lại lực lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn, đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa để từng bước kéo theo sự chuyển dịch lao động và phân công lại lao động trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
Hai là, tăng cường đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển, đồng thời gắn các chương trình kinh tế - xã hội với mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động nhất là đổi với nông dân.
Ba là, chú trọng công tác đào tạo nghề bằng nhiều hình thức thích hợp theo phương châm đa dạng hóa các loại hình đào tạo nhằm từng bước bổ sung đội ngũ những người lao động được đào tạo, có chuyên môn cho các lĩnh vực sản xuất.
Bốn là, tăng cường các hoạt động dịch vụ việc làm trên cơ sở củng cố và phát triển các trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh nhằm tư vấn cho người lao động nhất là thanh niên chọn nghề, học nghề và giới thiệu việc làm sau khi được đào tạo.
Kết luận chương 1
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Coi trọng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Để thực hiện được nhiệm vụ này cần phải triệt để huy động các nguồn lực cần thiết, đặc biệt là nguồn nhân lực. Đây là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng ở nước ta còn nhiều bất cập cả về cơ chế, về cơ cấu, về số lượng và chất lượng … Đòi hỏi phải được đánh giá, nhìn nhận một cách khách quan, chính xác để làm cơ sở cho những chính sách giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Có như vậy, chúng ta mới thực hiện được những mục tiêu đã định, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Chương 2
Thực trạng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn tỉnh bắc ninh
2.1. những nhân tố tác động đến phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh bắc ninh
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ, mới được tái lập năm 1997 từ tỉnh Hà Bắc cũ, thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, phía bắc giáp với Bắc Giang, phía đông giáp Hải Dương và Hưng Yên, phía nam và tây giáp với Hà Nội.
Tổng diện tích của Bắc Ninh là 80.393 ha, trong đó đất nông nghiệp là 51.569 ha chiếm 64,14%, đất lâm nghiệp 623 ha chiếm 0,7%, đất chuyên dùng và đất ở 19.427 ha chiếm 24,1%, đất chưa sử dụng 8.774 ha chiếm 11,06%. Như vậy, diện tích đất đai chưa sử dụng của tỉnh vẫn còn lớn, còn có thể phát huy được. Hệ số sử dụng đất còn thấp, chỉ mới đạt 2,2 lần. Toàn tỉnh vẫn còn 2750 ha đất trũng ngập úng thường xuyên thuộc các huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Yên Phong, Diện tích gieo trồng 1 vụ còn 7642,5 ha, đây là một tiềm năng lớn cần được khai thác và sử dụng hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Bắc Ninh có địa hình tương đối bằng phẳng, được phù sa mầu mỡ của sông Đuống, sông Cầu bồi đắp, đất có độ dốc không lớn, độ cao phổ biến từ 3 m đến 7m so với mặt nước biển.
- Khí hậu nhiệt đới gió mùa thích hợp cho sự phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. Tuy nhiên, với điều kiện hiện nay, khả năng phát triển nông nghiệp theo chiều rộng hầu như không nhiều.
- Về khoáng sản: Bắc Ninh là một tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây dựng như: đất sét làm gạch ngói gốm ở Từ Sơn, Quế Võ, Thành phố Bắc Ninh, với trữ lượng không nhiều khoảng 4 triệu tấn; đá cát kết và sa thạch ở Thị cầu, Vũ Ninh (thành phố Bắc Ninh) trữ lượng 3,5 triệu m3. Ngoài ra còn có than bùn ở Yên Phong với trữ lượng khoảng 160.000 - 200.000 tấn.
Một trong những đặc điểm nổi bật của Bắc Ninh là nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông nối liền các trung tâm kinh tế, văn hóa của khu vực phía bắc như quốc lộ 1A, 1B nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn, quốc lộ 18 nối liền Sân bay quốc tế Nội bài - Bắc Ninh - Quảng Ninh... Bên cạnh đó với phong cảnh thiên nhiên ở một số vùng khá đẹp, hệ thống di tích lịch sử đền, chùa mang bản sắc văn hóa người Việt cổ cùng làn điệu dân ca Quan họ nổi tiếng có khả năng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước tạo điều kiện cho phát triển du lịch.
Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên như trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hóa trong và ngoài nước, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ, đất chật người đông (mật độ dân số 1.241 người/km2) cũng là một trở ngại lớn với những thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Bắc Ninh nói chung và nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh nói riêng đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm.
2.1.2. Về sự phát triển kinh tế
ã Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và toàn diện.
Nhiều năm qua, kinh tế của Bắc Ninh đã có nhiều chuyển biến tích cực, phản ánh những thắng lợi bước đầu đáng ghi nhận của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Bốn năm đầu (từ khi tái lập tỉnh) 1997 - 2000 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 12,6%, năm năm tiếp theo (2001 - 2005) tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 13,9% đứng thứ 2 trong những tỉnh thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và gấp 2 lần so với bình quân chung cả nước.
Biểu đồ 2.1: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) - giá so sánh 1994
Tỷ đồng
4895,2
5000
4181,0
2488,3
3671,8
4500
4000
3231,9
3500
2838,4
3000
2500
2000
1500
1000
500
0
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nguồn: Cục Thống kê Bắc Ninh.
Trong đó:
- Nổi bật nhất là lĩnh vực công nghiệp - xây dựng phát triển liên tục với nhịp độ cao, góp phần quyết định vào tốc độ tăng trưởng chung. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 26,6%, nếu so sánh năm 2005 với năm 1996 (trước khi tách tỉnh) thì gấp 11 lần. Tính đến tháng 12/2005 trên địa bàn tỉnh có 19.016 hộ cá thể và 413 doanh ._.ch và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tỉnh Bắc Ninh cần phải có những chính sách đồng bộ trong việc quy hoạch, đầu tư, định hướng và tạo điều kiện về cơ chế về thị trường cho từng loại ngành nghề và có kế hoạch nhân rộng nghề ra các làng xã khác theo kiểu "vết dầu loang" nhằm gia tăng năng lực sản xuất cho các làng nghề hoặc mở thêm những nghề mới từ các nước khác, địa phương khác phù hợp với "đồng đất và con người" Bắc ninh và sản xuất có hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2010 đưa số làng nghề ở Bắc Ninh lên 80 làng và 70 - 80% xã trong tỉnh có làng nghề tiểu thủ công nghiệp.
3.2.4. Tăng cường đầu tư vốn cho phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn và tạo việc làm cho người lao động
Thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chiến lược tạo việc làm, tăng cường sử dụng nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn của tỉnh, tất yếu đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn cho khu vực này. Trong thời gian qua đầu tư của tỉnh cho nông nghiệp và nông thôn vẫn ở mức thấp và cũng có sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư. Nhiều cơ sở sản xuất, các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn đều nằm trong tình trạng thiếu vốn. Mặt khác, lượng vốn đầu tư cần thiết để tạo việc làm cho lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn không phải là nhỏ. Vấn đề đặt ra là làm cách nào để huy động tối đa các nguồn vốn trong và ngoài tỉnh và sử dụng như thế nào cho hiệu quả nguồn vốn quý giá đó.
Thứ nhất, tỉnh cần có chính sách huy động vốn đầu tư từ mọi nguồn lực, gồm cả nguồn vốn trong và ngoài tỉnh bao gồm nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn nhàn rỗi trong dân cư, vốn của các doanh nghiệp, vốn của các dự án, viện trợ … trong đó nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là nền tảng chủ yếu, tập trung cho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế cho nông nghiệp và nông thôn. Một vấn đề nữa là cần có chính sách khuyến khích đầu tư từ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cho nông nghiệp và nông thôn. Sự gia tăng của nguồn vốn này sẽ góp phần quan trọng cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa và giải quyết việc làm. Ngoài ra, cần phải đa dạng hóa các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua gửi tiền tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu …
Bên cạnh đó, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, tỉnh có thể đầu tư cho các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở một số vùng nông thôn (đặc biệt là các xã nghèo, đặc biệt khó khăn) các công trình thủy lợi, cải tạo đất, các chương trình phát triển giao thông và kết cấu hạ tầng, quy hoạch, xây dựng và mở rộng thị trấn, thị tứ, trung tâm thương mại dịch vụ trong đó đặc biệt coi trọng các dự án trực tiếp thu hút lao động và tạo nhiều việc làm cho nông dân.
Thứ hai, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả đồng vốn. Mục tiêu của cơ chế chính sách trong những năm tới của nhà nước là tập trung vào việc thúc đẩy chuyển dịch và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát huy nội lực, hướng vào phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động và ưu tiên cho xuất khẩu, thúc đẩy và phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho nên, đầu tư vốn cho nông nghiệp của tỉnh phải hướng vào việc đa dạng hóa cây trồng, tập trung vào những mặt hàng có tính cạnh tranh cao trên cơ sở đặc điểm sinh thái và lợi thế phát triển của từng vùng trong tỉnh. Đồng thời, cần tập trung vào nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, chế biến nông sản và phát triển kinh tế trang trại …
Kết cầu hạ tầng kinh tế nông thôn là nhân tố quan trọng có tác động trực tiếp đến các hoạt động sản xuất, dịch vụ của kinh tế nông thôn, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn là điều kiện tiên quyết để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn, là tiền đề cơ bản giúp cho việc sản xuất, giao lưu hàng hóa giữa các vùng, miền và từ đó góp phần quan trọng cho việc tạo mở và giải quyết việc làm trong khu vực này. Vì vậy, tỉnh tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho các xã, các huyện trong vùng nông thôn của tỉnh. Cần ưu tiên đầu tư để xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, thủy lợi kết hợp cung cấp nước sạch và phòng chống thiên tai, phát triển mạng lưới điện …
- Về hệ thống giao thông: Cần phát huy tối đa lợi thế về địa lý và tự nhiên của tỉnh để phát triển hạ tầng giao thông vận tải, hợp lý, đồng bộ và hiện đại tạo thành mạng lưới giao thông vận tải liên hoàn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, ưu tiên đầu tư nâng cấp các tuyến tỉnh lộ 282, 295, 271, 280, các tuyến vào khu công nghiệp, cụm công nghiệp các nút giao thông 270, 271, quốc lộ 38. Phấn đấu đến năm 2010 nhựa hóa (bê tông hóa) 90% hệ thống giao thông nông thôn. Các đường làng, ngõ xóm vận dụng cơ chế "Nhà nước và nhân dân cùng làm" bê thông hóa và cấp phối 100%.
- Tiếp tục củng cố, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống thủy lợi. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình đầu mối đảm bảo ưu tiên cho các vùng ngập úng (ở các huyện Quế Võ, Lương Tài, Gia Bình), tưới cho 100% diện tích gieo trồng trong đó chủ động tưới 65% diện tích. Tiếp tục kiên cố hóa kênh mương và cứng hóa mặt đê sông Đuống, sông Cầu; cải tạo và nâng cấp thủy lợi Nam Đuống, Hữu Đuống.
- Về cung cấp điện cho nông thôn: Cần tăng cường điện phục vụ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn, tiếp tục đầu tư xây dựng thêm lưới điện cao áp, hạ áp và nâng cấp mạng lưới điện hiện có để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu về điện cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân. Trước mắt cần xây dựng trạm 220 KV Bắc Ninh với công suất 1 x 125 MVA, trạm 110 KV khu công nghiệp Quế Võ, Tiên Sơn. Xây dựng 35 Km đường dây 110 KV mạch vòng Phố Mới - Thuận Thành - Tiên Sơn 160 Km đường dây trung áp 10-22-35 KV, 352 trạm biến phân phối công suất 55 MVA... Ngoài ra cần kết hợp mở rộng mạng lưới điện với tăng cường công tác quản lý, đảm bảo an toàn và tiết kiệm điện.
- Trong thời gian tới, để nâng cao năng lực nguồn nhân lực thì vấn đề quan trọng là mở rộng và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tâng khác như trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... ở các thôn, xã trong tỉnh nhằm thỏa mãn các nhu cầu phát triển toàn diện của người nông dân.
Trên phương diện tổng thể, Bắc Ninh cần tiến hành đổi mới quản lý những hoạt động của kết cấu hạ tầng để tạo ra những dịch vụ có hiệu quả hơn đối với người dân và kéo dài tuổi thọ của các công trình, đồng thời khuyến khích sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, phát huy mọi nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là điều kiện căn bản nhằm tạo mở việc làm và chính những công trình xây dựng này cũng trực tiếp tạo việc làm cho người lao động nông thôn trong tỉnh.
3.2.5. Tăng cường công tác đào tạo người lao động nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng dạy nghề cho nông dân
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII đã khẳng định quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Ninh là "Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn" theo hướng "Tiếp tục đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đổi mới quan hệ sản xuất, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới". Trong chiến lược phát triển này, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững đó là những người lao động trong tỉnh nói chung và lực lượng lao động trong nông nghiệp nông thôn của tỉnh nói riêng, nhưng điều kiện quan trọng nhất để thực hiện chiến lược tăng trưởng, giải quyết việc làm ở nông thôn trong tỉnh đó là việc nâng cao tố chất người lao động. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn lực nông thôn là một trong những giải pháp cơ bản nhất nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Khi phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn của tỉnh, chúng ta thấy lực lượng lao động đã qua đào tạo của khu vực này chỉ chiếm 27,48%, trong đó chỉ có 2,64% có trình độ cao đẳng, đại học trở lên, 4,79% số lao động có trình độ trung cấp và số công nhân kỹ thuật được đào tạo cơ bản có bằng cấp là 4,02%, còn lại 72,52% lao động không có chuyên môn kỹ thuật. Với mục tiêu đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề là 39 - 40% và đến năm 2020 tỷ lệ này là 50 - 60% để phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì sự phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở nông thôn tỉnh Bắc Ninh là đặc biệt quan trọng. Cần phải thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục ở nông thôn, làm cho người lao động ở nông thôn trong tỉnh được phát huy một cách toàn diện, đặc biệt về mặt trí lực và kỹ năng, đáp ứng được yêu cầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tạo điều kiện cho một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp di chuyển thuận lợi sang các ngành phi nông nghiệp. Muốn vậy, giáo dục - đào tạo ở nông thôn phải theo hướng kết hợp nông nghiệp - khoa học - giáo dục. Đào tạo phải gắn với nhu cầu lao động ở nông thôn, tức là phải có sự thống nhất giữa sản xuất ở nông thôn với nghiên cứu khoa học ở nông thôn, về nông nghiệp, nông thôn và giáo dục ở nông thôn cho người nông dân. ở đây, nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo phải đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của sản xuất và phục vụ đắc lực cho sản xuất. Có như vậy, mới có thể biến khoa học công nghệ và sản phẩm đào tạo trở thành lực lượng sản xuất phục vụ đắc lực, hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh nhà.
Để làm được điều này, Bắc Ninh phải đẩy mạnh phát triển giáo dục, có chính sách và biện pháp đầu tư thích đáng và hiệu quả cho sự nghiệp giáo dục, tiếp tục nâng cao chất lượng (thực) của giáo dục các cấp, các ngành học. Đẩy mạnh phong trào học tập trong các tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức giáo dục cả chính quy và không chính quy. Thực hiện "giáo dục cho mọi người" với phương châm "học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội". Coi trọng công tác hướng nghiệp, chuẩn bị cho thanh thiếu niên (nhất là ở nông thôn) đi vào các ngành nghề lao động phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn…
Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, dự báo nhu cầu lao động, cơ cấu các ngành nghề để xây dựng kế hoạch triển khai công tác đào tạo nghề theo phương châm đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Các cơ sở dạy nghề của nhà nước như các trường công nhân kỹ thuật, công nhân xây dựng, các trung tâm dạy nghề ở tỉnh và các huyện phải đóng vai trò hạt nhân trong việc đào tạo, vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong tỉnh vừa đáp ứng nhu cầu lao động ngoài tỉnh và cho xuất khẩu lao động; phát triển mạnh cơ sở dạy nghề liên doanh, liên kết với các đơn vị, cá nhân trong tỉnh và ngoài tỉnh để tiếp thu phương pháp kinh nghiệm giảng dạy tiên tiến, triệt để khai thác các nguồn lực từ bên ngoài kết hợp với việc huy động tối đa nội lực để thực hiện đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Các hình thức đào tạo cần được áp dụng rộng rãi là:
- Dạy nghề theo hình thức kèm cặp tại nhà máy, tại xưởng, tại trang trại.
- Dạy nghề tổ chức theo lớp học.
- Chuyển giao công nghệ.
- Phổ biến kiến thức khoa học - công nghệ; trao đổi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh.
- Bồi dưỡng nâng bậc, tay nghề.
- Bồi dưỡng mở rộng kiến thức nghề nghiệp, bổ túc hoàn thiện kiến thức, dạy nghề.
- Bồi dưỡng, tập huấn.
- Dạy nghề kèm bổ túc văn hóa …
Một trong những hình thức dạy nghề phổ biến là tiến hành tại các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp để qua đó nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu tại chỗ về lao động kỹ thuật - công nghệ của từng doanh nghiệp, kịp thời đào tạo, đào tạo lại công nhân có đủ trình độ đáp ứng sự thay đổi của công nghệ sản xuất. Hình thức này được các nhà máy liên doanh ở khu công nghiệp Quế Võ, Tiên Sơn như Canon, liên doanh Kính nổi Việt - Nhật áp dụng và đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp và người lao động, những thanh niên nông thôn tốt nghiệp trung học phổ thông đủ điều kiện sức khỏe xin vào làm việc trong nhà mày, ưu tiên của hình thức đào tạo này là không chỉ tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm đào tạo một cách hợp lý, gắn liền đào tạo với sử dụng mà còn xây dựng quan hệ ràng buộc về trách nhiệm, nghĩa vụ của đơn vị sử dụng lao động với đơn vị làm nhiệm vụ đào tạo và người lao động.
Phát triển dạy nghề ở các trung tâm nhằm đào tạo lao động có nghề phổ thông, đáp ứng yêu cầu đa dạng của nền kinh tế nhiều thành phần, của các xí nghiệp vừa và nhỏ, của các xí nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản kể cả phục vụ cung ứng lao động ra ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động. Phát triển và nâng cao chất lượng các cơ sở dạy nghề ở thành phố Bắc Ninh, các huyện … nhằm thu hút được đông đảo lao động tham gia.
Khuyến khích phát triển dạy nghề với các hình thức đào tạo khác nhau như xây dựng các trường dân lập, tư thục nghề, các lớp tập trung dài hạn hoặc ngắn hạn, thực hiện kèm cặp dạy nghề để từng bước tăng nhanh số lượng lao động qua đào tạo.
Thực hiện chính sách khuyến khích thanh niên (ở nông thôn) phải học và thành thục 1 nghề để học tự tạo việc làm và góp phần thực hiện các dự án phát triển kinh tế ở địa phương và biết thêm một số nghề khác để có khả năng duy trì việc làm ổn định lâu dài và thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo lại để nâng cao trình độ nghề cho nông dân, theo kịp sự đổi mới công nghề và yêu cầu sản xuất.
Công tác đào tạo nghề và đào tạo lại nghề cho nông dân không chỉ cần một hệ thống chính sách đồng bộ, phải theo trình tự từ bổ túc văn hóa đến đào tạo nghề mà còn phải huy động sức mạnh, tiềm lực của mọi tầng lớp xã hội trong tỉnh tham gia. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh triển khai chương trình "Dạy nghề tại chỗ cho nông dân" nhằm tạo điều kiện cho nông dân đang sản xuất trực tiếp có điều kiện học nghề.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, tỉnh phải hết sức coi trọng việc chuyển giao công nghệ trong nông - lâm - ngư nghiệp, thực hiện khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư để không những chuyển dịch được cơ cấu kinh tế nông thôn mà còn nâng cao khả năng đào tạo nghề về số lượng, chất lượng và quy mô. Các trung tâm giống cây trồng vật nuôi, trung tâm bảo vệ thực vật, thú y của tỉnh cần phối hợp với các đoàn thể như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh … tổ chức hướng dẫn cho nông dân kỹ thuật mới trong chăn nuôi, trồng trọt; lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, ổn định; thực hiện chương trình IPM (quản lý dịch vụ tổng hợp) hiệu quả …
Bên cạnh đó, cần tiến hành đào tạo, bồi dưỡng bổ sung nguồn nhân lực nông thôn mà khâu then chốt là cán bộ huyện xã gồm cả cán bộ quản lý hành chính và cán bộ kinh tế kỹ thuật. Đây là lực lượng nòng cốt để triển khai, thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn của Đảng, Nhà nước đến người nông dân, phục vụ lợi ích của cộng đồng nông thôn.
3.2.6. Hoàn thiện một số chính sách nhằm phát triển khả năng tạo việc làm và nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn
- Về chính sách đất đai: Phải khẳng định thị trường đất đai là một tất yếu cho một nền nông nghiệp chuyển đổi như nước ta hiện nay. Cơ chế thị trường đất đai sẽ tạo ra và thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa theo hộ, thúc đẩy phân công lao động và đa dạng hóa kinh tế nông thôn dẫn đến đa dạng hóa việc làm. Đồng thời thực hiện hàng hóa quyền sử dụng đất đai cũng có lợi cho việc thực hiện sản xuất kinh doanh ở quy mô thích hợp, làm cho sự chuyển ngành nghề có tính làm thêm của người nông dân sang ngành nghề mang tính chuyên nghiệp. Trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của tỉnh thì vấn đề cốt lõi là người lao động có việc làm, tăng thu nhập để thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Vì vậy, tỉnh cần cụ thể hóa các chính sách của Nhà nước về quyền chuyển nhượng, các căn cứ tính giá thuê, mua... và áp dụng một cách đồng bộ để thị trường mua, thuê đất có thể hoạt động và đi đúng hướng.
+ Chính sách đầu tư tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn: Trước hết vốn ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn trong tỉnh phải được nâng lên tương xứng với yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, cần ưu tiên vốn cho các lĩnh vực như: xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phát triển nông thôn về y tế, giáo dục, văn hóa, công tác khuyến nông, bảo trợ một số mặt hàng quan trọng của nông nghiệp khi có biến động trên thị trường.
Khai thác và khuyến khích phát triển các hình thức tín dụng ở nông thôn, khai thác mọi nguồn lực nhằm hỗ trợ vốn cho các hộ nông dân để loại trừ nạn vay nặng lãi ở nông thôn. Đặc biệt có cơ chế ưu đãi cho các hộ nông dân nghèo vay và hướng dẫn họ đầu tư và sử dụng kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh.
+ Chính sách về thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa của nông dân: Khuyến khích hình thành các tụ điểm thương mại, dịch vụ ở nông thôn, duy trì và phát triển hệ thống chợ ở các xã, huyện trong tỉnh. Tìm kiếm và hướng dẫn nhân dân những thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa trong, ngoài tỉnh và xuất khẩu.
+ Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu lao động: Cùng với chiến lược phát triển kinh tế theo hướng mở, trong những năm gần đây Nhà nước ta có chủ trương tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu lao động, coi đây là một trong những biện pháp quan trọng để giải quyết việc làm cho người lao động và thu ngoại tệ cho đất nước. Bắc Ninh cần có cơ chế giao quyền chủ động cho các doanh nghiệp, các trung tâm tìm kiếm thị trường, lựa chọn đối tác, ký hợp đồng cung ứng và tuyển chọn lao động; nên thành lập ở các huyện những doanh nghiệp làm xuất khẩu lao động để có thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương tuyển chọn lao động, đào tạo nghề chuyên môn, học tiếng, tạo nguồn cho xuất khẩu lao động ở nông thôn. Việc tuyển chọn lao động cần phổ biến công khai về đối tượng, yêu cầu, việc làm, mức lương, tiền đặt cọc... đến địa phương và người lao động. Giải quyết triệt để nạn xuất khẩu lao động "chui" dẫn đến người nông dân dễ bị lừa, bị bắt chẹt...
Cần ưu tiên cho những thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, những người tốt nghiệp các trường dạy nghề, đặc biệt ưu tiên cho những gia đình chính sách, gia đình khó khăn, với đối tượng này tỉnh cần có sự trợ giúp về kinh phí đào tạo, cho vay tiền đặt cọc... nhằm tạo điều kiện tối đa cho họ có thể tiếp xúc với cơ hội việc làm bằng con đường xuất khẩu lao động.
+ Chính sách "xóa đói, giảm nghèo" và giải quyết việc làm cho người lao động: Đây là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã có những chính sách và biện pháp đồng bộ. Vấn đề đặt ra ở đây là tỉnh Bắc Ninh vận dụng và thực hiện như thế nào để các chính sách này phát huy hiệu quả và góp phần tăng thêm cơ hội tạo việc làm, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong tỉnh.
Tóm lại, những chính sách và chương trình mới của quốc gia đã đem lại những kết quả không nhỏ trong giải quyết việc làm và nâng cao mức sống người lao động. Tỉnh Bắc Ninh cần nâng cao hiệu quả việc thực hiện các chương trình đó bằng cách xây dựng các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa, giám sát, kiểm tra chặt chẽ và điều chỉnh kịp thời. Và vấn đề quan trọng là việc thực hiện các chính sách về xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cần được gắn chặt và bổ sung cho nhau trong tiến trình phát triển nông nghiệp nông thôn của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kết luận chương 3
Với mục tiêu Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 và tạo tiền đề để đến năm 2020 là một trong những tỉnh dẫn đầu trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Đảng bộ và nhân dân Bắc Ninh còn rất nhiều việc phải làm, một trong những nhiệm vụ quan trọng là đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, trong đó việc đầu tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa lớn được ưu tiên hàng đầu. Để đạt được vấn đề này thì yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp và nông thôn, tạo thêm nhiều vị trí làm việc và khẩn trương giải quyết vấn đề mất cân đối giữa cùng và cầu lao động do sự gia tăng nguồn nhân lực và sức ép của việc làm. Với những giải pháp cụ thể cả trong định hướng chỉ đạo và trong quá trình triển khai mà Bắc Ninh đang và sẽ thực hiện để phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
Kết luận
Vấn đề con người - nguồn nhân lực có vai trò quan trọng, quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn tỉnh Bắc Ninh. Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả đã tập trung vào giải quyết những vấn đề sau:
- Luận giải những khái niệm cơ bản nhất về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đi sâu xem xét, phân tích những vấn đề về nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn với những nhân tố tác động và yêu cầu về nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Khảo cứu kinh nghiệm phát triển và sử dụng nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của một số tỉnh như Sơn La, Thanh Hóa, Ninh Thuận nhằm rút ra một số kinh nghiệm cho tỉnh Bắc Ninh.
- Phân tích thực trạng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh trong quá trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chỉ ra những điểm mạnh và hạn chế về số lượng, chất lượng, nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh Bắc Ninh và xu hướng vận động của nguồn nhân lực trong nông thôn để đi đến nhận định: ở một mức độ nhất định cơ cấu lao động trong nông nghiệp nông thôn tỉnh Bắc Ninh đã có những chuyển biến theo xu hướng tích cực, từ sự đổi mới trong cơ chế quản lý trong nông nghiệp đã tạo động lực cho sự phát triển, giải phóng được phần lớn sức lao động ở nông thôn và đã phát huy được tiềm năng của người nông dân trong tỉnh. Tuy nhiên, sự chuyển biến của cơ cấu lao động còn chậm, tình trạng lao động thiếu việc làm vẫn ở mức cao và tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn vẫn ở mức thấp, thị trường lao động phát triển chưa đều, còn manh mún, có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động. Nguyên nhân của tình trạng trên nằm trong mối quan hệ lao động - đất đai, đó là mâu thuẫn giữa sự tăng nhanh của nguồn nhân lực với giới hạn về đất đai canh tác, sự thiếu hút về vốn và những kiến thực khoa học kỹ thuật.
- Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong 5 năm (2006 - 2010) và tầm nhìn đến năm 2020 của tỉnh Bắc Ninh với nội dung cơ bản là đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2015 Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp. Đây là cơ sở định hướng có việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực và tạo mở được nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn, luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản, đó là: Phát triển mạnh mẽ nền nông nghiệp hàng hóa theo hướng toàn diện, sản phẩm hàng hóa đa dạng, chất lượng tốt, gắn với lợi thế từng vùng và gắn với thị trường; thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. Khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống và mở thêm các nghề mới cho nông dân; tăng cường đầu tư vốn cho phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn và tạo việc làm cho người lao động; tiếp tục hoàn thiện và thực hiện một số chính sách của tỉnh nhằm phát triển kỹ năng tạo việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn trong tỉnh.
danh mục Tài liệu tham khảo
Phạm Thị Vân Anh (2006), phát triển làng nghề ở Bắc Ninh trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội.
Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm tỉnh Bắc Ninh (2000), Thực trạng lao động - việc làm tỉnh Bắc Ninh năm 2000, Bắc Ninh
Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm tỉnh Bắc Ninh (2001), Thực trạng lao động - việc làm tỉnh Bắc Ninh năm 2001, Bắc Ninh
Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm tỉnh Bắc Ninh (2002), Thực trạng lao động - việc làm tỉnh Bắc Ninh năm 2002, Bắc Ninh
Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm tỉnh Bắc Ninh (2003), Thực trạng lao động - việc làm tỉnh Bắc Ninh năm 2003, Bắc Ninh
Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm tỉnh Bắc Ninh (2004), Thực trạng lao động - việc làm tỉnh Bắc Ninh năm 2004, Bắc Ninh
Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm tỉnh Bắc Ninh (2005), Thực trạng lao động - việc làm tỉnh Bắc Ninh năm 2005, Bắc Ninh.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002) Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Hà Nội.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (1999), Đề án chiến lược về lao động và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp và nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1999 - 2000), Hà Nội.
Đỗ Thị Kim Chung (2000), "Thị trường đất đai trong nông nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng chính sách", Nghiên cứu kinh tế, 1(260), tr. 21-31.
Chương trình khoa học cấp nhà nước KX 04-04 (1995), Luận cứ khoa học cho chính sách giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Hà Nội.
Chương trình khoa học cấp nhà nước KX 08, đề tài KX-04-01 (1995), Báo cáo tổng hợp hệ quan điểm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, Hà Nội.
Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX 02-05 (1999), Báo cáo tổng hợp con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, Hà Nội.
Nguyễn Sinh Cúc (1999) "Vấn đề giải quyết việc làm, dạy nghề cho nông dân", Con số và sự kiện, (8), tr. 18-20
Cục Thống kê Bắc Ninh (1999), Niên giám thống kê năm 1999, Bắc Ninh.
Cục Thống kê Bắc Ninh (2000), Niên giám thống kê năm 2000, Bắc Ninh.
Cục Thống kê Bắc Ninh (2001), Niên giám thống kê năm 2001, Bắc Ninh.
Cục Thống kê Bắc Ninh (2002), Niên giám thống kê năm 2002, Bắc Ninh.
Cục Thống kê Bắc Ninh (2003), Niên giám thống kê năm 2003, Bắc Ninh.
Cục Thống kê Bắc Ninh (2004), Niên giám thống kê năm 2004, Bắc Ninh.
Cục Thống kê Bắc Ninh (2005), Số liệu thống kê chủ yếu năm 2005, Bắc Ninh.
Cục Thống kê Sơn La (1999), Niên giám thống kê năm 1999, Sơn La.
Cục Thống kê Sơn La (2000), Niên giám thống kê năm 2000, Sơn La.
Cục Thống kê Sơn La (2001), Niên giám thống kê năm 2001, Sơn La.
Cục Thống kê Sơn La (2002), Niên giám thống kê năm 2002, Sơn La.
Cục Thống kê Sơn La (2003), Niên giám thống kê năm 2003, Sơn La.
Cục Thống kê Sơn La (2004), Niên giám thống kê năm 2004, Sơn La.
Cục Thống kê Sơn La (2005), Niên giám thống kê năm 2005, Sơn La.
Cục Thống kê Thanh Hóa (1999), Niên giám thống kê năm 1999, Thanh Hóa.
Cục Thống kê Thanh Hóa (2000), Niên giám thống kê năm 2000, Thanh Hóa.
Cục Thống kê Thanh Hóa (2001), Niên giám thống kê năm 2001, Thanh Hóa.
Cục Thống kê Thanh Hóa (2002), Niên giám thống kê năm 2002, Thanh Hóa.
Cục Thống kê Thanh Hóa (2003), Niên giám thống kê năm 2003, Thanh Hóa.
Cục Thống kê Thanh Hóa (2004), Niên giám thống kê năm 2004, Thanh Hóa.
Cục Thống kê Thanh Hóa (2005), Niên giám thống kê năm 2005, Thanh Hóa.
Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương, khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vũ Thị Hiển (1996), Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động để góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Hà Nội.
Trần Thị Minh Ngọc (2001), Sử dụng nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội.
Nguyễn Đình Phan - Trần Minh Đạo - Nguyễn Minh Phúc (2002), Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đồng bằng sông Hồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Dương Bá Phương (Chủ biên) (1996), Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa và chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Lương Xuân Quỳ (Chủ biên) (1996), Những biện pháp kinh tế tổ chức và quản lý để phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn Bắc bộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Chu Hữu Quý và Nguyễn Kế Tuấn (Đồng chủ biên) (2001), Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Sở Lao động Thương binh Xã hội tỉnh Bắc Ninh (2004), Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bắc Ninh đến 2010, Bắc Ninh.
Nguyễn Sỹ (2006), "Bắc Ninh đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (15).
Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Văn Thống (2005) "Chuyển dịch cơ cấu lao động và công tác đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Ninh Thuận", Lý luận chính trị, (12), tr. 75-78.
Tỉnh ủy Bắc Ninh (2001), Nghị quyết 06/NQ-TU về định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005, Bắc Ninh.
Tỉnh ủy Bắc Ninh (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII, Bắc Ninh.
Trần Thị Tuyết (1996), Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn nhằm tạo việc làm và sử dụng hợp lý nguồn lao động vùng đồng bằng sông Hồng, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Hà Nội.
ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020, Bắc Ninh.
Hồng Vinh (Chủ biên) (1998), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
._.