Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Con người luôn ở vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tri thức con người là một nguồn lực không bao giờ cạn và luôn được tái sinh với chất lượng ngày càng cao hơn bất cứ một nguồn lực nào khác. Lịch sử phát triển nhân loại đã kiểm nghiệm và đi đến kết luận: Nguồn lực con người là
115 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế-Xã hội ở Thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lâu bền nhất, chủ yếu nhất trong sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp tiến bộ của nhân loại.
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới đang bước sang trang mới với những thành tựu có tính chất đột phá trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt trên lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, trong đó nhân tố đóng vai trò quyết định sự biến đổi về chất dẫn tới sự ra đời của kinh tế tri thức, chính là nguồn nhân lực (NNL) chất lượng cao.
Trước đây, các nhân tố sản xuất truyền thống như số lượng đất đai, lao động, vốn được coi là quan trọng nhất, song ngày nay đã có sự thay đổi thứ tự ưu tiên. Chính nguồn nhân lực có chất lượng cao mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình, bởi lẽ những yếu tố khác người ta vẫn có thể có được nếu có trí thức, song tri thức chỉ xuất hiện thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tế trong đời sống kinh tế - xã hội; từ chính quá trình sản xuất ra sản phẩm để nuôi sống con người và làm giàu cho xã hội. Vì vậy, để có được tốc độ phát triển cao, các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm tới việc nâng cao chât lượng nguồn nhân lực. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp, công ty, các sản phẩm chủ yếu là cạnh tranh về tỷ lệ hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, nhờ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đối với các quốc gia trên thế giới đã và đang trở thành vấn đề cấp bách có tầm chiến lược, là vấn đề có tính chất sống còn trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế với trình độ khoa học - kỹ thuật, công nghệ ngày càng cao và sự lan tỏa của kinh tế trí thức.
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) rút ngắn, chúng ta còn thiếu nhiều điều kiện cho phát triển như: vốn, công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý đòi hỏi phải biết phát huy được lợi thế của những nguồn lực hiện có, cần phải có chiến lược và giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình. Trong phần mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006-2010 Báo cáo chính trị tại Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: "Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao" [15, tr.95]. Điều đó cho thấy, đào tạo và sử dụng có hiệu quả NNL chất lượng cao trở thành một trong các yếu tố then chốt thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thành phố Đà Nẵng là đô thị loại I cấp quốc gia, là thành phố động lực của khu vực miền Trung và Tây nguyên, có vai trò quan trọng trong việc góp phần thực hiện thành công CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, hơn bất cứ địa phương nào trong khu vực, đòi hỏi Thành phố Đà Nẵng cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những con người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh sáng tạo, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hóa, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học - kỹ thuật cao. Đó phải là nguồn nhân lực của một nền văn hóa công nghiệp hiện đại. Hơn nữa, trong xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nguồn nhân lực có chất lượng cao được coi là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và tăng trưởng nhanh.
Nhìn chung nguồn nhân lực của Thành phố Đà Nẵng hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, chưa thực sự là động lực để phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Vì vậy, Uỷ ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số117/QĐ-UB ngày 07 tháng 7 năm 2004 về chương trình "Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Cho nên việc nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng nguồn nhân lực để có những giải pháp nhằm tạo ra một sự chuyển biến về chất, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH của Thành phố Đà Nẵng trở thành nhiệm vụ cấp thiết.
Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài "Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Đà Nẵng" để làm luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở Thành phố Đà Nẵng cũng như trong cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, các hội thảo khoa học, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của các nhà khoa học về đề tài này ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau như:
- "Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH", "Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH" của GS.TS Phạm Minh Hạc;
- "Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH, những thách thức lớn đối với Việt Nam" của Trần Văn Tùng;
- "Nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam" của Tiến sỹ Đoàn Khải;
- "Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH" của Tiến sỹ Vũ Bá Thể;
- "Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng" của Trần Văn Tùng;
- "Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay" của Tiến sỹ Hồ Anh Dũng.
- "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước" của Mai Quốc Chính;
- "Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học ở Việt Nam" của Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan;
- "Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới" của Nguyễn Minh Đường;
- "Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm Đông á" của Lê Thị ái Lâm;
- Luận án tiến sĩ "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức" của Lê Thị Ngân;
- Luận văn thạc sĩ "Xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Đà Nẵng" của Vương Quốc Được;
- "Nhu cầu về nhân lực của một số ngành kinh tế - xã hội ở Quảng Nam - Đà Nẵng thời kỳ 1996-2000 dưới góc độ dự báo giáo dục" của tập thể tác giả Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Nam- Đà Nẵng;
- "Đề án đào tạo nguồn nhân lực dưới góc độ giáo dục chuyên nghiệp" của Phòng giáo dục chuyên nghiệp Thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu nguồn lực lao động, một số tác giả bàn đến hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong một số ngành cụ thể. Cho đến nay, việc đi sâu nghiên cứu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Thành phố Đà Nẵng chưa có công trình nghiên cứu riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế-xã hội ở Thành phố Đà Nẵng" là cách tiếp cận cụ thể một lĩnh vực chưa được đề cập một cách hoàn chỉnh, toàn diện như nội dung của luận văn đề cập.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu lý luận về NNL chất lượng cao tạo cơ sở khoa học cho phân tích thực trạng phát triển NNL này ở Thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp để đào tạo và phát triển NNL chất lượng cao nhằm đáp ứng phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố Đà Nẵng đến năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận về NNL, chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Luận giải một cách khoa học nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực cho quá trình CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế trí thức ở Việt Nam.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng NNL ở Thành phố Đà Nẵng, làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu của chất lượng nguồn nhân lực đó, đưa ra những giải pháp khả thi nhằm khắc phục những hạn chế về mặt chất lượng NNL, đề xuất một số phương hướng, giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế, xã hội ở Thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận NNL, chất lượng NNL nói chung và Thành phố Đà Nẵng nói riêng. Chủ yếu tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng số lượng, chất lượng NNL, yêu cầu nâng cao chất lượng NNL để từ đó tìm ra các phương hướng và giải pháp cơ bản để phát triển NNL chất lượng cao, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội ở Thành phố Đà Nẵng.
4.2. Giới hạn nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực trong phạm vi Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2001-2005. Chỉ nghiên cứu mặt chất lượng NNL (đặc biệt nhấn mạnh mặt trí lực của NNL) trên giác độ Giáo dục và Đào tạo để có các giải pháp cơ bản phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2006-2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiếp cận những lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị làm cơ sở, kết hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, tiếp cận lịch sử và các phương pháp điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, minh họa để thực hiện đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đà Nẵng trong những năm qua.
- Đề xuất được những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở Đà Nẵng đến 2010.
- Bằng xây dựng một hệ thống lý luận chặt chẽ và bằng minh chứng các số liệu cụ thể, đầy đủ, luận văn đã khẳng định NNL chất lượng cao là nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển của mọi quá trình kinh tế xã hội. Do đó, Thành phố Đà Nẵng muốn phát triển kinh tế, đi tắt đón đầu để trở thành Thành phố động lực của miền Trung phải phát triển NNL chất lượng cao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
CƠ Sở Lý LUậN Và THựC TIễN Về NGUồN NHÂN LựC, NGUồN NHÂN LựC CHấT LƯợNG CAO CHO PHáT TRIểN KINH Tế - Xã HộI
1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiêu thức xác định
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực (Human resource-HR)
Trong những thời kỳ mà nền kinh tế tự nhiên còn phổ biến, thì sự phát triển của các nền kinh tế quốc gia trên thế giới chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động thủ công, do đó nước nào giàu tài nguyên hoặc có nhiều lao động, thì nước đó có lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại. Trong thời đại bùng nổ của cách mạng KH - CN, tình hình đã thay đổi: nước giàu tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào chưa hẳn đã có lợi thế trong phát triển hơn các nước nghèo tài nguyên hoặc khan hiếm lao động giản đơn. Trên thực tế, chẳng hạn, Singapo, với dân số chỉ có trên 3 triệu người, tài nguyên không có gì đặc biệt, đã nổi lên như một nền kinh tế có mức độ cạnh tranh cao nhất thế giới (qua nhiều cuộc bình chọn trong những năm gần đây). Để có được kết quả như vậy, trong một hướng đi của họ là đào tạo một nguồn nhân lực tốt. Ngay từ cuối năm 1998, Uỷ ban cạnh tranh của họ (CSC) đã công bố chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong một thập kỷ với mục tiêu là “trí thức hóa” lực lượng lao động. Nhật Bản, Hồng Kông, Singapo, Hàn Quốc…là những nước nghèo về tài nguyên, nhưng họ lại là những nước đạt tốc độ phát triển kinh tế cao liên tục trong nhiều thập kỷ, nên chỉ trong một thời gian ngắn đã biến đất nước họ trở thành các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Yếu tố đóng vai trò quyết định cho sự thành công trong phát triển kinh tế của các quốc gia đó chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao. ở các nước phát triển cao người ta đã tính toán được rằng trong giá trị của những sản phẩm cao cấp thì hàm luợng chất xám chiếm 70%, năng lượng 10%, nguyên liệu 10%, thao tác vật chất chỉ chiếm 5,6%. Trong thời đại ngày nay, những quan niệm về vai trò, vị trí của nguồn nhân lực trong phát triển liên tục thay đổi. Nếu như trước đây, người ta nhìn nhận vai trò của nguồn nhân lực chỉ đơn thuần là phương tiện, là một nguồn lực cho phát triển giống như mọi nguồn lực vật chất khác, thì ngày nay, sự nhận thức trên hoàn toàn khác. Con người, nguồn nhân lực không chỉ là động lực chủ yếu mà còn là mục tiêu của sự phát triển, với phương châm phát triển vì con người. Trí tuệ con người ngày càng được đề cao, vì nó là nguồn lực to lớn và mạnh mẽ nhất cho tiến bộ và phát triển xã hội. Theo Alvin Toffler, mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ riêng có trí tuệ là vô tận, bởi "tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết”. Trái lại, NNL, đặc biệt là NNL chất lượng cao, nếu biết khai thác và bồi dưỡng hợp lý thì càng phát triển và có khả năng tái sinh nhanh. Chính vì lẽ đó, NNL đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, và từ đó người ta cũng tìm ra các phương cách khác nhau để có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Có quan điểm cho rằng: Thông thường những nguồn lực làm cơ sở cho chiến lược phát triển của một nước có thể là nguồn lực tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, có thể là cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra trong các giai đoạn trước đó, có thể là nguồn lực ngoài như vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường, cũng có thể là nguồn nhân lực,... lịch sử cho thấy, NNL là nguồn lực lâu bền nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia từ trước đến nay…cho dù có những nguồn lực khác mà không có những con người tương xứng, đủ khả năng khai thác những nguồn lực đó, đủ trình độ nắm bắt và làm chủ kỹ thuật công nghệ hiện đại và nếu không có một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi cho con người hoạt động, thì khó có thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Theo giáo trình kinh tế lao động, thì: nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác (nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực công nghệ…) là ở chỗ: trong quá trình vận động, NNL chịu tác động của yếu tố tự nhiên (sinh, chết…) và yếu tố xã hội (việc làm, thất nghiệp...). Chính vì vậy, NNL là một khái niệm khá phức tạp, được nghiên cứu dưới nhiều giác độ khác nhau. Nguồn nhân lực còn được hiểu như là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Cách hiểu này muốn chỉ rõ nguồn gốc tạo ra nguồn lực con người, nghiêng về sự biến động tự nhiên của dân số và ảnh hưởng của nó tới sự biến động NNL. Nguồn nhân lực còn được hiểu như một yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, là tổng thể những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động. Cách hiểu này cụ thể hơn và có thể lượng hóa được, đó là năng lực lao động của xã hội, bao gồm những người có khả năng lao động, tức là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong NNL.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã hội. ở đây, con người được xem xét từ góc độ là lực lượng lao động cơ bản của xã hội.
Theo Thuyết lao động xã hội thì nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, NNL bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (trừ những người bị dị tật bẩm sinh). Theo nghĩa hẹp: Nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có tham gia vào nền sản xuất xã hội tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, thì NNL chính là nguồn lực chủ yếu tạo động lực cho sự phát triển. Vì vậy việc cung ứng đầy đủ và kịp thời NNL theo yêu cầu của nền kinh tế là yếu tố đóng vai trò quyết định đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Do đó, bất cứ hiện tượng thiếu hoặc thừa sức lao động đều gây ra những khó khăn cho sản xuất xã hội và ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là đối tượng của môn Kinh tế phát triển.
Theo thuyết về vốn con người (Human resource), thì yếu tố con người được coi là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội. NNL được coi như mọi nguồn lực khác (như vốn, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, đất đai…), cho nên cần phải đầu tư cho con người. Trên thực tế việc đầu tư cho con người có tỷ lệ thu hồi vốn khá cao và mang lại nguồn lợi lớn hơn so với đầu tư vật chất.
Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,…mà mỗi cá nhân sở hữu. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên,… Do đó đầu tư cho con người là đầu tư quan trọng nhất trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững. Theo cách tính toán của WB thì đầu tư cho giáo dục tiểu học tỷ lệ thu hồi vốn là 24% so với vốn đầu tư, cho trung học là 17%, và cao đẳng đại học là 14%, trong khi đó đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồi chỉ đạt 13% tổng vốn đầu tư.
Biểu 1.1: Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cho giáo dục theo vùng và cấp giáo dục
Đơn vị tính: %
Khu vực
Công cộng
Tư nhân
Tiểu học
Trung học
Đại học
Tiểu học
Trung học
Đại học
Các nước có thu nhập trung bình và thấp
Tiểu Sahara và châu Phi
24,3
18,2
11,2
41,3
26,6
27,8
Châu á
19,9
13,3
11,7
39,0
18,9
19,9
Châu Âu,Trung Đông và Bắc Phi
15,5
11,2
10,6
17,4
15,9
21,7
Mỹ La tinh, Caribê
17,9
12,8
12,3
26,2
16,8
19,7
OECD
10,2
8,7
12,4
12,3
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Việt Nam-Nghiên cứu tài chính cho giáo dục-1996, tr.80.
Liên hiệp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự và cho rằng: Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước” [55, tr.8]. Quan niệm này xem xét nguồn lực con người chủ yếu ở phương diện chất lượng con người và vai trò, sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội. Chính vì vậy, Liên hiệp quốc đã kêu gọi các quốc gia quan tâm hơn nữa tới nguồn nhân lực, vì:…đầu tư vào vốn con người trước hết có tỷ lệ thu hồi vốn cao hơn so với đầu tư cho các nguồn lực khác…tiết kiệm được việc sử dụng và khai thác các nguồn lực khác, lợi ích thu được từ đầu tư này có tính lan tỏa đồng đều hơn so với đầu tư vào các nguồn lực khác. Do vậy, việc tập trung phát triển con người sẽ đem lại tốc độ phát triển cao hơn, ổn định hơn và công bằng hơn trong phân phối lợi ích của sự phát triển [55, tr.9].
Theo UNDP, thì nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, nguồn năng lực-nội lực đó của con người cũng chính là nội lực xã hội của một quốc gia. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, với dân số đông, NNL dồi dào đang trở thành một trong những nguồn nội lực quan trọng nhất và nếu biết khai thác nguồn nội lực đó một cách hiệu quả sẽ tạo ra một động lực to lớn cho phát triển kinh tế-xã hội.
ở Việt Nam, theo ý kiến của các nhà khoa học tham gia chương trình khoa - công nghệ cấp Nhà nước, mã số KX - 07 thì: Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” do giáo sư, tiến sỹ khoa học Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, cho rằng nguồn lực con người được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất [19, tr.328] còn trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học - công nghệ các tỉnh, Thành phố phía Bắc khi đề cập đến vấn đề tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học - công nghệ và các cơ quan Chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong lời phát biểu của mình nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định: "Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta” [24].
Giáo sư, tiến sỹ Hoàng Chí Bảo cho rằng: Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng - hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người” [3, tr.14] tức là kết cấu bên trong của nguồn nhân lực bao gồm sức mạnh thể lực, trí tuệ và sự kết hợp hai yếu tố đó tạo thành năng lực sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên.
Trong luận án tiến sỹ triết học - nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tác giả Đoàn Khải cho rằng: Nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [23].
Theo quan điểm của tác giả Lê Thị Ngân, trong luận án tiến sỹ thì nguồn nhân lực được quan niệm là tổng thể sức lao động của xã hội đang và sẽ được vận dụng cho quá trình sản xuất xã hội hay nói một cách rõ hơn: NNL là tổng thể những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong tổng số lực lượng lao động của xã hội và được họ đang và sẽ đem ra vận dụng để sản xuất ra hàng hóa tiêu dùng cho xã hội [34].
Theo quan điểm của một số nhà khoa học khác, thì: nguồn nhân lực được xem là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất, tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực phẩm chất, thái độ và phong cách lao động.
Do khi nghiên cứu NNL xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau như vậy nên có những khái niệm khác nhau về NNL, nhưng nhìn chung các khái niệm đó đều thống nhất về nội dung cơ bản là: NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia.
Như vậy, khi nói tới nguồn nhân lực trước hết phải hiểu đó là toàn bộ những người lao động đang có khả năng tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội và các thế hệ những người lao động tiếp tục tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế xã hội, con người đóng vai trò là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó, hướng nó tới mục tiêu đã được chọn. Cho nên NNL nó còn bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, thái độ và phong cách làm việc- đó chính là các yếu tố thuộc về chất lượng nguồn nhân lực. Ngoài ra khi nói tới nguồn nhân lực phải nói tới cơ cấu của lao động, bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề. Khi nói nguồn nhân lực cần nhấn mạnh sự phát triển trí tuệ, thể lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của con người, bởi vì trí lực là yếu tố ngày càng đóng vai trò quyết định sự phát triển NNL. Ngoài ra khi nói đến NNL cũng cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, đạo đức và nhân cách của con người.
Do đó, NNL tiếp cận dưới giác độ phổ quát của Kinh tế Chính trị được hiểu là: Tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Cho đến nay, xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, khi nói về phát triển NNL(Human Resource Development - HDR). Nhưng chung quy lại, phát triển NNL của một quốc gia (một vùng lãnh thổ) chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng NNL trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu NNL. Nói một cách khái quát nhất, phát triển NNL chính là qúa trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người [53, tr.194].
Trước đây, sự giàu có, sức mạnh của một quốc gia, một dân tộc thường được hiểu đồng nghĩa với sự phong phú giàu có của các nguồn tài lực, hoặc đánh giá thông qua khối lượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Còn ngày nay, nhờ những thành tựu to lớn của khoa học công nghệ, sự giàu có của mỗi nước không chỉ đơn giản đo bằng khối lượng tài nguyên thiên nhiên; trong thực tiễn một nước có thể nghèo về của cải tự nhiên song vẫn có thể trở thành một nước giàu mạnh, nếu ở đó có được chiến lược phát triển đúng cùng với NNL có chất lượng cao và biết khai thác hợp lý nó.
Vậy thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao? Trước hết, nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn kỹ thuật nhất định (lao động kỹ thuật lành nghề, trên đại học). Giữa chất lượng NNL và NNL chất lượng cao có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể NNL của một quốc gia, trong đó NNL chất lượng cao là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh túy nhất, có chất lượng nhất, cho nên khi nói về NNL chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng NNL nói chung của đất nước [30].
Nguồn nhân lực chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường (yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến thức: chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc [29].
Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng NNL. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người, đặc biệt là NNL chất lượng cao, tức là con người được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành “nguồn vốn-vốn con người, vốn nhân lực”.
Đánh giá năm 2005 của diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về chất lượng lao động của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, trên thang điểm 10 điểm, so với Trung Quốc là 5,73 và Malaysia là 5,59 [4]. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài chất lượng NNL Việt Nam còn thấp trong so sánh quốc tế [12]. Tính theo chỉ số đánh giá tổng hợp về chất lượng giáo dục và NNL thì Việt Nam chỉ đạt 3,2/10 điểm, thuộc vào nhóm yếu kém nhất (trong khi Singapo dẫn đầu các quốc gia được khảo sát với 8,4/10 điểm), xếp thứ 11 trong số 12 quốc gia Châu á được so sánh, chỉ đứng trên Inđônêxia và kém xa so với Philipin, Thái Lan và Malaxia. Về từng khía cạnh cụ thể:
- Chất lượng của Hệ thống giáo dục: VN được 3,25 điểm, đứng thứ 10/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Hàn Quốc đạt 8,00 điểm).
- Mức độ sẵn có về lao động sản xuất chất lượng cao: Việt Nam được 3,25 điểm, đứng thứ 11/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Nhật Bản với 8,00 điểm).
- Sự thành thạo của lao động trình độ công nghệ cao: Việt Nam được 2,50 điểm, đứng thứ 11/12 nước và vùng lãnh thổ, tương đương với Inđônêxia (cao nhất là Singapo 7,83 điểm).
- Mức độ sẵn sàng về cán bộ quản ly kinh tế chất lượng cao: VN được 2,5 điểm, đứng thứ 10/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Hàn Quốc đạt 7,50 điểm). Theo đánh giá chung, các nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu (Việt Nam đạt 32 điểm) [56].
1.1.3. Các tiêu thức xác định nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhiều mục tiêu cụ thể về phát triển NNL cho 10 năm đầu của thế kỷ XXI đã được đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001-2010. Những mục tiêu này phản ánh khá toàn diện các nội dung cơ bản nhất của phát triển NNL Việt Nam đến năm 2010: về thể lực (nâng cao tầm vóc trung bình của thanh niên, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, giảm tỷ lệ mắc bệnh,…) về trí lực (bao gồm trình độ học vấn, trình độ chuyên môn- kỹ thuật…), và về giữ gìn, phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam để đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước, và đó được xem là các tiêu chí của NNL chất lượng cao ở Việt Nam. Để thấy rõ, cần phân tích từng tiêu thức cụ thể sau:
1.1.3.1. Năng lực về thể chất (thể lực) của nguồn nhân lực
Nói đến thể lực là nói đến tình trạng sức khỏe của NNL, sức khỏe là sự phát triển hài hòa của con người về cả thể chất lẫn tinh thần. Đó là sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Trong hiến chương của tổ chức y tế thế giới đã nêu: "Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thỏa mái về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không phải là không có bệnh hay thương tật”. Quan niệm về chất lượng NNL mà đề tài phân tích là năng lực tinh thần và năng lực thể chất của NNL, tức là nói tới sức mạnh và tính hiệu quả của những khả năng đó, trong đó năng lực thể chất chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Nếu con người có thể lực tốt thì mới phát huy được lợi thế của sức mạnh trí tuệ trong phát triển kinh tế xã hội và ngược lai. Sức khỏe là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện để truyền tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, sức khỏe là yếu tố quan trọng của NNL, nó trở thành một chỉ tiêu quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tình trạng sức khỏe được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe như: Chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất và các điều kiện về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Cho nên thể lực của NNL được hình thành, duy trì và phát triển bởi chế độ nuôi dưỡng, chế độ chăm sóc sức khỏe…Vì thế, thể chất của NNL phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phân phối thu nhập, cũng như chính sách xã hội trước mắt và lâu dài của mỗi quốc gia, nếu các vấn đề liên quan đến sức khỏe, dinh dưỡng không được giải quyết tốt sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực cả về thể lực lẫn trí tuệ; Tình trạng thể lực chung của người Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên, tầm vóc và thể lực người Việt Nam hiện còn nhiều hạn chế. Tỷ trọng người lớn có chỉ số cơ thể (BMI) bình thường chỉ chiếm khoảng 48% trong tổng số. Còn lại khoảng 52% tổng số người lớn có những biểu hiện không bình thường trong phát triển cơ thể như quá gầy hoặc quá béo…Vì vậy, để có NNL chất lượng cao không thể không đề cập đến phát triển y tế, chăm lo sức khỏe cho người lao động. Thể lực tốt thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bĩ dẻo dai của sức mạnh cơ bắp trong công việc. T._.hể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí lực. Trình độ kinh tế - xã hội càng phát triển càng đòi hỏi cao ở thể lực, bởi nếu không có thể lực và tinh thần tốt khó có thể chịu được sức căng thẳng của công việc, nhịp độ cuộc sống trong thế giới hiện đại, không thể tìm tòi, sáng tạo ra những tri thức mới và vật hóa các tri thức đó thành sản phẩm có ích. Theo nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười: "Trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức khỏe là một tiền đề cần thiết để làm ra cái tài sản đó. Cần cải thiện, phát triển nòi giống, nâng cao thể lực tầm vóc và thể trạng nhằm phát triển cân đối, hài hòa giữa thể lực và trí lực con người Việt Nam. Mục tiêu là nâng cao một cách liên tục, bền vững tầm vóc của người Việt Nam bằng cách tăng chiều cao trong thời kỳ trung hạn lên ngang bằng với các nước trong khu vực Đông á và lên ngang bằng với chuẩn quốc tế của WHO trong thời kỳ dài hạn.
Nâng cao tuổi thọ trên cơ sở tăng cường thể lực cùng với cải thiện nhanh về hình thể, trước hết là chiều cao và trọng lượng của người lao động.
Biểu 1.2: Chiều cao và cân nặng của người Việt Nam so với tiêu chuẩn chung của WHO
Tuổi
Chiều cao (mét)
Cân nặng (kg)
Việt Nam 2001
Tiêu chuẩn WHO
Việt Nam 2001
Tiêu chuẩn WHO
Nam
10
1,328
1,322
27,38
31,3
15
1,607
1,698
46,66
56,7
Nữ
10
1,339
1,383
27,23
32,5
15
1,527
1,618
42,76
53,7
Nguồn: Viện Khoa học Thể dục thể thao
Đồng thời với việc nâng cao tầm vóc là không ngừng cải thiện thể trạng đồng thời đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa chiều cao và trọng lượng cơ thể, tăng cường trạng thái sức khỏe chung, đặc biệt là sự phát triển hài hòa về tố chất thể lực cần thiết (sức bền, sức mạnh, sức nhanh, mềm dẻo, khéo léo…) cho người lao động, học tập, sáng tạo và các hoạt động bình thường khác của mỗi người.
Biểu 1.3: Các mục tiêu cụ thể cần đạt được vào năm 2010
2000
2005
2010
2020
Tuổi thọ
67,8
70
71
75
Tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 5 tuổi (0/00)
42
37
32
20
Chiều cao của thanh niên (m)
-
-
1.6
1.65
Nguồn: Chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa đói giảm nghèo; Nghị quyết 37/CP của Chính phủ về định hướng chiến lược công tác chăm sóc và sức khỏe nhân dân giai đoạn 1996-2000 và 2020.
Năng lực tinh thần (trí lực) của nguồn nhân lực
Chất lượng NNL được phản ánh chủ yếu thông qua sức mạnh trí tuệ, đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn nhân lực, đặc biệt trong điều kiện trí tuệ hóa lao động hiện nay. Trí lực của NNL biểu hiện ở năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động thông qua các chỉ số: trình độ văn hóa, dân trí, học vấn trung bình của một người dân; số lao động đã qua đào tạo, trình độ và chất lượng đào tạo; mức độ lành nghề (kỹ năng, kỹ xảo…) của lao động; trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh; năng suất, chất lượng hiệu quả của lao động…
- Trình độ học vấn: là chỉ tiêu đầu tiên biểu hiện trí lực của NNL, bởi lẽ nó thể hiện sự hiểu biết của người lao động về những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội, là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống.
Trình độ học vấn được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân. Trình độ học vấn của NNL được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất: Tỷ lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế
Tỷ Lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế là số % những người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có thể đọc, viết và hiểu những câu đơn giản của tiếng mẹ đẻ hoặc tiếng nước ngoài so với tổng số dân số 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế.
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hóa ở mức tối thiểu của nguồn nhân lực. Các thống kê lao động và việc làm trong nước sử dụng chỉ tiêu này.
Thứ hai: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hóa tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hóa (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) là số % dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hóa tốt nghiệp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ thông) so với dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế.
Chỉ tiêu này đánh giá một cách đầy đủ trình độ văn hóa của nguồn nhân lực.
Thứ ba: Số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế
Số năm di học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế là số năm trung bình một người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế dành cho học tập.
Đây là một trong những chỉ tiêu được liên hiệp quốc sử dụng để đánh giá chất lượng NNL của các quốc gia.
Thứ tư: Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp: Tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp: (Tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) là số % trẻ em đi học cấp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ thông) đủ độ tuổi của các em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ thông) hay không trong tổng dân số ở độ tuổi cấp tiểu học từ 6-10 tuổi, cấp trung học cơ sở từ 11 - 14 tuổi; cấp trung học phổ thông từ 15-17 tuổi).
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo dục ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực của các quốc gia.
Thứ năm: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông là số % trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học từ 6-10 tuổi; cấp trung học cơ sở từ 11-14 tuổi, cấp trung học phổ thông từ 15-17 tuổi đi học cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông trong tổng số em trong độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá hiệu quả của hệ thống giáo dục, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Biểu 1.4: Cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ học vấn
Đơn vị tính: %
Trình độ học vấn
1996
2000
2004
Tổng số
100,00
100,00
100,00
Không biết chữ
5,72
3,97
4,24
Chưa tốt nghiệp cấp I
20,72
16,49
25,48
Tốt nghiệp tiểu học
27,70
29,29
31,51
Tốt nghiệp THCS
32,08
33,01
30,40
Tốt nghiêp THPT
13,78
17,24
18,37
Nguồn: Điều tra lao động việc làm 1.7 hằng năm, Bộ LĐ-TB và XH.
Chính phủ các nước căn cứ vào các chỉ tiêu trên để xây dựng mục tiêu phát triển giáo dục trong chiến lược giáo dục của quốc gia. Ví dụ: định hướng phát triển giáo dục của Việt Nam đến năm 2010 với mục tiêu đạt tỷ lệ đi học chung của các cấp tiểu học là 100%, cấp THCS là 80%, cấp THPT là 45%.
Trình độ dân trí của dân cư phản ánh trình độ học vấn của LLLĐ, là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng NNL, bởi lẽ trình độ học vấn cao tạo ra những điều kiện và khả năng tiếp thu và vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Chất lượng của nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, quan trọng hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông qua số lượng và chất lượng của lao động đã qua đào tạo.Trình độ chuyên môn kỹ thuật là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Lao động có chuyên môn kỹ thuật bao gồm những công nhân từ bậc 3 trở lên (có bằng hoặc không có bằng) cho tới những người có trình độ trên đại học. Họ được đào tạo ở các Trường kỹ thuật, được trang bị kỹ năng thực hành về công việc nào đó và được thể hiện thông qua các chỉ tiêu so sánh như sau:
Thứ nhất: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động đang làm việc là % số lao động đã qua đào tạo (từ sơ cấp, công nhân kỹ thuật đến sau đại học) so với lực lượng lao động đang làm việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực. Ví dụ: Năm 2005, ở Việt nam tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 24,8%, tăng thêm 2,2% so với năm 2004.
Biểu 1.5: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động tại Việt Nam
Đơn vị tính: %
1991
1996
1999
2002
2004
2005
Tổng số lao động(triệu người)
30,97
35,87
37,78
40,69
50,3
44,38
Lao động không có chuyên môn (%)
93,4
87,69
86,13
80,38
77,5
75,2
Lao động có chuyên môn kỹ thuật (%)
6,6
12,31
13,87
19,62
22,5
24,8
Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam, Bộ lao động-Thương binh-Xã hội
Thứ hai: trình độ chuyên môn kỹ thuật được thể hiện thông qua tỷ lệ lao động được đào tạo theo cấp bậc so với tổng số lao động đang làm việc của cả nước, từng vùng, từng ngành. Chỉ tiêu này đánh giá một cách cụ thể nhất về trình độ CMKT của nguồn nhân lực. Ví dụ: ở Việt Nam, năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 24,8%, tăng thêm 2,2% so với năm 2004. trong đó tỷ lệ qua đào tạo nghề nói chung là 15,2% (tăng 1,8%), tỷ lệ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,3% (giảm gần 0,1%), tỷ lệ tốt nghiêp CĐ, ĐH và trên ĐH là 5,3% (tăng 0,4%). Vùng có tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất là đông Nam bộ(37,4%) và đồng bằng sông Hồng (34,4%), thấp nhất là tây Bắc (13,5%). Vùng kinh tế trọng điểm, có tỷ lệ qua đào tạo cao nhất là Bắc Bộ với 36,4%, tiếp đến là phía Nam 36,1%, thấp nhất là miền Trung 31%. Theo tiến sỹ Lê Duy Đồng- Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh- Xã hội đánh giá, lực lượng lao động qua đào tạo mặc dù không ngừng tăng lên, bình quân giai đoạn 2001-2005 tăng tới 12,9% (gần 983.000 người/năm) nhưng cũng mới đạt 24,8%, còn thấp so với mục tiêu Đại hội IX của Đảng đề ra là 30% [25]. Như vậy, vẫn còn đến hơn 70% nguồn nhân lực chưa qua đào tạo. Một lực lượng lao động như vậy, khó có thể đáp ứng yêu cầu “đi tắt, đón đầu” tiến vào nền kinh tế tri thức.
Thứ ba: là cơ cấu các loại lao động đã qua đào tạo theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và cấp bậc đào tạo thể hiện cơ cấu số lao động có trình độ ĐH,CĐ/số lao động có trình độ THCN/số lao động là công nhân kỹ thuật. Chỉ tiêu này cho thấy cơ cấu đào tạo có cân đối với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế hay không, trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh nhu cầu đào tạo cho phù hợp. Các nghiên cứu của các nhà khoa học gần đây cho thấy rằng, cơ cấu trên thể hiện ở Việt Nam còn bất hợp lý “thừa thầy, thiếu thợ”. Ví dụ: năm 2002 có cơ cấu: 1/0,9/1,86; năm 2003 có cơ cấu:1/ 0,9 / 2,7 [43]. Tỷ lệ này nói lên cơ cấu trình độ CMKT của lao động qua đào tạo còn bất hợp lý và có xu hướng gia tăng trong thời gian tới, bởi vì số học sinh bậc công nhân kỹ thuật được đào tạo từ năm 1991 trở lại đây ngày càng giảm nhanh so với sự gia tăng học sinh bậc đại học, cao đẳng. trong khi đó cơ cấu này ở các quốc gia đã thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, được coi là hợp lý với tỷ lệ tương ứng là: 1/4/10. Theo F.M.Harbison (nhà kinh tế học), trong một chu kỳ dài, tốc độ tăng việc làm của lao động đã qua đào tạo (lao động có kỹ thuật) thường gấp 2-3 lần tốc độ tăng của GDP [52, tr.240].
Đối với Việt Nam, quá trình CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức được thực hiện thông qua và bằng CNH, HĐH rút ngắn, do đó việc chuẩn bị NNL phải vừa tăng cường đào tạo các loại cấp bậc để đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế về nhân lực qua đào tạo đồng thời phải chú trọng nhiều hơn nữa đào tạo cao đẳng, đại học. Hơn nữa, số lao động số lao động được đào tạo trong tổng LLLĐ xã hội ở Việt Nam còn thấp, nên quá trình đào tạo phải tăng cường đào tạo CNKT và THCN, vừa tăng cường đào tạo bậc cao đẳng, đại học và trên đại học. ở nước ta hiện nay đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động kỹ thuật có trình độ cao (chỉ có 1,32 kỹ sư trên 1000 dân, trong khi ở những nước tiên tiến như Anh là 136, Thụy Điển: 115 và Nhật Bản: 100) và chưa hình thành được một đội ngũ doanh nhân giỏi có trình độ quản lý mang tầm quốc tế (kết quả điều tra về giám đốc doanh nghiệp của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy 79% trong số 77% tổng số chủ doanh nghiệp đã tốt nghiệp đại học chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về quản lý kinh tế). Đây cũng chính là tiềm năng có thể khai thác theo hướng sử dụng tốt lực lượng lao động có trình độ cao để tăng tỷ trọng lao động có kỹ năng và cải thiện cơ cấu lao động có trình độ cao góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế [47].
Trình độ CNKT của NNL còn được thể hiện ở khía cạnh khai thác và sử dụng lực lượng này qua tỷ lệ lao động được đào tạo có việc làm và bị thất nghiệp so với tổng số lao động được đào tạo. Các thông số đó cho thấy hiệu quả của việc khai thác và sử dụng NNL đã qua đào tạo.
Ngoài ra, trí lực của nguồn nhân lực còn biểu hiện ở kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của người lao động, chúng phụ thuộc trước hết vào khả năng của mỗi người, sự say mê nghề nghiệp, ý thức rèn luyện kỹ năng. Mặt này thể hiện qua thông số năng lực hoạt động chuyên môn của người lao động.
- Năng lực sáng tạo:
Tiếp tục phát triển và nâng cao trí lực và năng lực hoạt động thể hiện bằng trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tầm hiểu biết, phổ kiến thức, kỹ năng quản lý, tính năng động, năng lực thích nghi và sáng tạo của nguồn nhân lực.Trong thời đại ngày nay, việc trang bị những kiến thức học vấn phổ thông và kỹ năng nghề nghiệp là chưa đủ, cần phải tạo lập cho mối con người Việt Nam có tư duy năng động, sáng tạo, dám mạo hiểm, sẵn sàng thích ứng và thích ứng cao trong một thế giới đầy biến động và cạnh tranh khốc liệt nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực. Cho nên trí lực còn được biểu hiện ở óc sáng tạo, tính linh hoạt, nhanh nhẹn, sắc bén trong phát hiện thông tin mới và khả năng thích ứng nhanh để học tập, áp dụng, làm chủ các phương tiện khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại cũng như năng lực hoạch định các giải pháp kinh tế và thực hiện phát triển kinh tế. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực trí tuệ trong quá trình CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức hiện nay.
1.1.3.3. Chỉ số phát triển nhân lực HDI (Human Development Index)
Nếu quan niệm NNL là tổng thể năng lực lao động trong nền kinh tế của một quốc gia, tức là lực lượng lao động của đất nước đó, thì khi xét chất lượng NNL, tức là bộ phận trực tiếp hoạt động và sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội không thể tách rời những điều kiện phát triển con người trong quốc gia đó. Trên ý nghĩa đó, thì chất lượng nguồn nhân lực còn được thể hiện gián tiếp thông qua chỉ số phát triển con người (HDI- Human Development Index). Theo Liên hiệp Quốc, sự phát triển nhân lực của các quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau có thể so sánh với nhau bằng một thước đo chung, đó là chỉ số phát triển con người hay chỉ số phát triển nhân lực. HDI là một chỉ tiêu tổng hợp gồm 3 tiêu chí cụ thể: 1) Mức độ phát triển kinh tế: Được xác định bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người hằng năm;
2) Chỉ tiêu về phát triển giáo dục (chỉ tiêu học vấn): Được xác định bằng tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục; và 3) Chỉ tiêu y tế: Tính bằng tuổi thọ bình quân của người dân.
Theo quy ước quốc tế, chỉ số HDI mang giá trị từ 0 đến 1 gồm: chỉ số trình độ học vấn, chỉ số thu nhập, chỉ số tuổi thọ. Có nơi, còn sử dụng thêm 2 tiêu chí: môi trường tự nhiên và hệ thống an sinh xã hội. Chỉ số học vấn có giá trị bằng 1, khi 100% số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết; bằng 0, khi 0% số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết. Chỉ số tuổi thọ có giá trị bằng 1, khi tuổi thọ bình quân là 85 tuổi; bằng 0, khi tuổi thọ bình quân chỉ đạt 25 tuổi. Chỉ số thu nhập bằng 1, khi GDP bình quân đầu người đạt 40.000 USD (theo sức mua tương đương); bằng 0, khi GDP bình quân đầu người chỉ đạt 160 USD/năm.
Giá trị HDI của các nước và lãnh thổ trên thế giới nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Nước nào có giá trị HDI càng gần đến 1 thì mức độ phát triển nguồn nhân lực rất cao, nếu nước nào có giá trị HDI dưới 0,4 thì mức độ phát triển nguồn nhân lực của nước đó được coi là thấp. Theo số liệu của UNDP, chỉ số phát triển con người (HDI: tuổi thọ, trình độ học vấn, mức sống) của Việt Nam có xu hướng gia tăng, từ xếp thứ 116/174 nước (năm 1993) lên thứ 109/174 nước (năm 2000), nhưng năm 2003 lại tụt xuống thứ 112/174 nước. Năm 2005 tăng 4 bậc (đạt 0,704 điểm), lên mức 108/ 177 nước. Đóng góp vào chỉ số chung này thì chỉ số phát triển kinh tế (K) đạt 0,54; chỉ số tuổi thọ (T) đạt 0,76; chỉ số phát triển giáo dục (G) đạt 0,82. Chỉ số phát triển giáo dục đã có đóng góp nhiều nhất vào HDI, vì vậy nâng giá trị và thứ hạng HDI của nước ta lên (nước ta có thành tựu số người lớn biết chữ là 90,3%, số đi học trong độ tuổi 6-24 là 64%). Do vậy: G = 0,93x 2+0,64 = 0,82.
3
Biểu 1.6: HDI của Việt Nam
Năm
Chỉ số HDI
Thứ bậc so với các nước tham gia xếp hạng
Chỉ số giáo dục
1990
0,608
74/130
1995
0,539
120/174
0,78
2000
0,671
108/174
0,83
2004
0,691
112/177 nước
0,82
2005
0,704
108/177 nước
0,82
Nguồn: Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện đại hội X của Đảng; Nxb CTQG, Hà Nội 2006, trang 17.
Nước ta là một trong mười nước có chỉ số xếp hạng về HDI cao hơn xếp hạng GDP/ người trên 20 bậc, điều này chứng tỏ nước ta đã cố gắng tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, quan tâm đến các yếu tố sức khỏe, y tế, giáo dục…(tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay là 68,5, 90% dân số được tiếp cận các dịch vụ xã hội). Một trong những yếu tố làm cho HDI của Việt Nam còn ở mức thấp là do chỉ số GDP bình quân đầu người còn quá thấp. Vì vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế để sớm đưa VN ra khỏi vị trí nước kém phát triển là mục tiêu hàng đầu. Như vậy trên thực tế, tồn tại những quốc gia có trình độ phát triển kinh tế- xã hội ở mức cao, nhưng chỉ số này không được cao, trong khi đó nước có trình độ phát triển thấp, nhưng chỉ số HDI lại ở mức tương đối như Việt Nam. Do đó, chỉ số HDI tuy không phản ánh trực tiếp chất lượng nguồn nhân lực, song nó cho biết khá rõ môi trường xã hội ở đó nuôi dưỡng và phát triển NNL chất lượng cao.
1.1.3.4. Kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, phẩm chất đạo đức, thái độ và phong cách làm việc của người lao động
Tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, nhiều nhà nghiên cứu lý luận nước ta cho rằng, khi nói tới NNL thì ngoài thể lực và trí lực của con người cũng cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn và nắm bắt nhu cầu thị trường của họ. Bởi vì, ngoài thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người.
Đồng thời, khi xem xét chất lượng NNL con người, không thể không nói đến đạo đức, nhân cách, thái độ và phong cách làm việc của con người. Đây là những phẩm chất đạo đức, tinh thần có vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng của con người, nó thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng hiệu quả hoạt động của con người. Do vậy, phát triển NNL trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, đòi hỏi người lao động phải có hàng loạt phẩm chất cần thiết như: có ý thức tổ chức kỷ luật; tự giác trong lao động, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, tác phong làm việc nhanh nhẹn, chính xác, có lương tâm nghề nghiệp…tất cả những phẩm chất đó nằm trong phạm trù đạo đức của con người, tức là đào tạo con người “vừa hồng, vừa chuyên”. Trong thực tế ở nước ta lực lượng lao động còn hạn chế về ý thức, tác phong công nghiệp, thể lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực hành nghề chưa đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực của người sử dụng lao động, nên còn một tỷ lệ đáng kể lao động không tìm kiếm được việc làm thích hợp hoặc làm không đúng với trình độ và nghề được đào tạo. So với các nước trong khu vực, thứ bậc xếp hạng về chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn thấp (VN chỉ đạt 3,79/10 so với Trung Quốc là 5,73/10 và Thái Lan là 4,04/10).
1.2. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh tế xã hội và các nhân tố ảnh hưởng
1.2.1. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao
Một là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH rút ngắn.
Đối với NNL quá trình CNH, HĐH sẽ thúc đẩy sự phát triển, sự thay đổi về nhiều mặt. Chẳng hạn, nó làm thay đổi cơ cấu NNL, làm chuyển biến từ một cơ cấu lạc hậu sang một cơ cấu tiến bộ hơn; cơ cấu các khu vực lớn trong kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế kỹ thuật, cơ cấu trong nội bộ mỗi ngành, cơ cấu NNL ở từng vùng, từng địa phương cho đến cơ cấu NNL trong nội bộ từng doanh nghiệp. CNH, HĐH là một yếu tố tác động rất mạnh đến NNL và phát triển NNL.
Đối với Việt Nam, bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế-xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Bởi vì: Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, riêng về kinh tế, mục tiêu này ngày càng mở rộng được thị trường, bán được nhiều hàng hóa dịch vụ. Muốn thế, phải có sức mạnh trong cạnh tranh, tức là chất lượng và giá cả. Chất lượng và giá cả hàng hóa lại phụ thuộc vào hai yếu tố chủ chốt: đó là trình độ công nghệ của sản xuất và trình độ chuyên môn, kỹ thuật của nguồn nhân lực. Hơn nữa, quá trình hội nhập kinh tế thế giới là quá trình giao lưu, trao đổi giữa Việt Nam và các nước trên thế giới về hàng hóa dịch vụ, tiền tệ, công nghệ mới, NNL… theo hai chiều ra và vào. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ mới vào Việt Nam kéo theo công việc làm, các nghề mới, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý…Những diễn biến này tác động trực tiếp vào NNL và phát triển NNL chất lượng cao của Việt Nam.
Do vậy, phát triển NNL ở Việt Nam đặc biệt quan trọng cho sự thành công của CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Cho nên, cần tạo ra và cải thiện tất cả các điều kiện cần thiết để phát triển NNL nhanh, có chất lượng, đáp ứng nhu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, của CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và tăng trưởng nhanh
Trong quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang đứng trước thách thức rất lớn về NNL chất lượng cao. Tỷ lệ nguồn nhân lực chất lượng cao cón thấp so với nhu cầu của thực tế. Đến năm 2005, lao động qua đào tạo có tăng, song đến nay mới chỉ đạt 24,8% chỉ tăng 2,2% so với năm trước (chưa đạt mục tiêu do đại hội IX của Đảng đề ra là 30%).
Trong khi dư thừa rất lớn lao động phổ thông, thì lại thiếu hụt nghiêm trọng lao động có trình độ cao, nhất là lao động cung cấp cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động. Đây là tình trạng đáng báo động, không phù hợp với quy luật tăng trưởng là tỷ lệ tăng trưởng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bao giờ cũng phải cao hơn tốc độ tăng GDP để đảm bảo tăng GDP một cách vững chắc.
Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp, chủ yếu vẫn là nước nông nghiệp, nên ngay cả NNL được gọi là chất lượng cao vẫn còn mang nặng thói quen và tập quán của người tiểu nông, thiếu năng động, tính tổ chức kỷ luật trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại còn yếu, thích tự do, tác phong công nghiệp, trình độ văn hóa còn thấp. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn khoảng cách khá xa so với một số nước Đông á. Cụ thể, ta đang ở mức gần tương đương với Indonesia, nhưng thua hầu hết các nước và lãnh thổ khác như Nhật bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia, Hồng Kông, Thái Lan, Philippin... Từ đó dẫn đến một loạt các yếu kém khác như trình độ vận dụng khoa học kỹ thuật kém, năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao và dương nhiên dẫn đên sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn ở vị trí rất thấp. Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới, đã không được cải thiện hơn mà còn suy giảm. Năm 2004, xếp hạng 77/104 nước. Năm 2005 tụt xuống thứ 81/104 nước.
Với mục tiêu phát triển NNL đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ cấu công, nông và dịch vụ trong GDP chiếm khoảng 85-90%, nông nghiệp chỉ còn 10-15% thì nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo dự báo như sau:
Biểu 1.7: Dự báo nhu cầu đào tạo
Năm
Tỷ lệ lao động được đào tạo(%)
Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề(%)
2000
20
13,4
2005
30
18-19
2010
40
26,6
2020
60
44
Nguồn: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, Nguyễn Đình Luận, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tháng 7/2005.
Như vậy, vấn đề cơ bản, có tính chất chiến lược trong phát triển NNL chất lượng cao là phải tăng nhanh về số lượng để nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo, đặc biệt chú trọng đào tạo nghề, đảm bảo cơ cấu đào tạo hợp lý giữa đại học, cao đẳng trở lên so với trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề, đồng thời nâng cao chất lượng NNL với tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu kinh tế tri thức ở Việt Nam, có như thế mới rút ngắn được khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, góp phần tăng trưởng nhanh và bền vững.
Ba là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực chủ yếu tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức.
Thực tế, quá trình CNH ở các quốc gia trên thế giới cho thấy: trong tiến trình CNH, nếu nước nào biết dựa vào việc khai thác và sử dụng năng lực của nguồn nhân lực, thì luôn giữ được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định như Nhật Bản, Phần Lan, Ireland...là những nước nghèo tài nguyên nhất, nhưng đã vươn lên thành những quốc gia giàu có hàng đầu.
Không ai nhiều dầu lửa hơn các nước Trung Đông, nhưng chưa có quốc gia nào ở đó vượt lên để gia nhập nhóm” các nước phát triển” mà mãi vẫn dừng lại ở” các nước đang phát triển”. Không đâu đất đai rộng lớn hơn châu Phi. Nhưng hầu hết các quốc gia đó vẫn đang ở mức "kém phát triển”.
Nhà báo Thomas Friedman của tờ báo New York Times đã đưa ra khái niệm dùng trọng lượng của sản phẩm để so sánh trình độ quốc gia. Hãy xem ví dụ: để thu được 500USD, người ta có thể làm gì?
Để thu được 500USD? Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam bán 5 tấn than đá, Nông dân ở đồng bằng Sông Cửu Long bán 2 tấn gạo, Trung Quốc bán chiếc xe gắn máy trọng lượng 100kg, Hãng Sony bán chiếc tivi trọng lượng 10 kg, Hãng Nokia bán chiếc điện thoại trọng lượng 0,1kg, Hãng Intel bán con chip máy tính trọng lượng 0,01 kg, Hãng Microsoft bán một phần mềm trọng lượng 0 kg.
Còn nhiều nữa, những sản phẩm giá trị nhất nhưng trọng lượng chỉ 0 kg đó là những phát minh sáng chế hay giá trị thương hiệu...Hàm lượng tri thức càng cao, trọng lượng sản phẩm càng nhẹ [51]. Ngày nay tất cả những quốc gia hùng mạnh đều nhờ vào một yếu tố: trình độ giáo dục, và từ đó là trình độ công nghệ. Đó là kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức.
Như vậy, nhân tố đóng vai trò quyết định cho sự phát triển bền vững của các quốc gia chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, chứ không chỉ là nguồn của cải vật chất. Do vậy, hình thành và phát triển NNL có chất lượng cao là yếu tố quan trọng nhất không chỉ trong sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, mà còn tạo cơ hội tiếp cận kinh tế tri thức.
Tóm lại: Động lực, mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát triển tới bản thân con người cũng nằm trong chính bản thân con người. Điều dó lý giải tại sao con người, mà trước hết là NNL chất lượng cao, được coi là nhân tố năng động nhất, quyết định nhất của sự phát triển kinh tế-xã hội. Đối với Việt Nam, chưa bao giờ cơ hội cất cánh lại lớn như ngày nay. Với WTO, đường băng đã sẵn sàng. Bay nhanh bao nhiêu, bay cao bao nhiêu thuộc về cánh bay nào và nhiên liệu nào. Cánh bay của chúng ta là nguồn nhân lực chất lượng cao. Và nhiên liệu chính là tri thức.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực chất lượng cao
1.1.2.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở và nền tảng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia đóng vai trò quyết định đến trình độ phát triển NNL nhất là NNL chất lượng cao của nước đó.Tại một quốc gia có trình độ kinh tế phát triển cao, thì ở đó NNL có chất lượng cao, kể cả trình độ học vấn, trình độ CMKT, sức khỏe, tuổi thọ. ở các nước có nền kinh tế phát triển, thu nhập (GDP) bình quân/người/năm và tuổi thọ, có thể thấy điều đó qua các số liệu tại biểu 1.8.
Biểu 1.8: Quan hệ giữa GDP với HDI
Tên nước
Tuổi thọ (năm)
Tỷ lệ người lớn biết chữ
Tỷ lệ đi học từ 6-23 tuổi(%)
GDP đầu người (PPP USD)
Xếp hạng HDI
Xếp hạng HPI
Singapo
77,3
91,8
91,8
24.210
24
-
Malaixia
72,2
86,4
65
8.137
61
18
Thái Lan
68,9
95
61
5.456
76
29
Trung Quốc
70,1
82,8
72
3.105
99
30
Việt Nam
67,8
92,9
63
1.689
108
47
Campuchia
53,5
65
61
1.257
136
-
Lào
53,7
46,1
57
1.734
140
-
Nguồn: Báo cáo phát triển nguồn nhân lực, UNDP năm 2000.
Từ số liệu trên cho thấy, trình độ phát triển kinh tế-xã hội góp phần quan trọng vào việc nâng cao mức sống có điều kiện chăm sóc sức khỏe nâng cao thể lực, trí lực, nâng cao tuổi thọ của người lao động. Trình độ kinh tế-xã hội càng phát triển, càng có điều kiện nâng cao chất lượng NNL và NNL có chất lượng càng cao.
Điều đáng lưu ý là nhiều nước có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam, như Inđônêxia, Ai cập, Goatêmala, Namibia, Gabông, Nam Phi, Song do các chỉ số về tuổi thọ và giáo dục đều thấp, nên xếp ở thứ hạng thấp hơn Việt Nam về chỉ số phát triển con người. Năm 2005, ở Việt Nam, GDP/đầu người khoảng 640 USD; tuổi thọ từ 68 tuổi (1999) lên 71,3 tuổi(2005); trình độ học vấn tính theo số lớp trên đầu người từ 3-4 lớp (trước 1990) lên 7-8 lớp [15, tr.18].
Trình độ phát triển kinh tế- xã hội cao càng có điều kiện đầu tư cho giáo dục và đào tạo, khi giáo duc đào tạo phát triển lại góp phần quyết định trực tiếp vào việc tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, trình độ phát triển kinh tế xã hội và nguồn nhân lực chất lượng cao có mối quan hệ biện chứng với nhau và tác động qua lại lẫn nhau. Hay nói cách khác, kinh tế là nền tảng của phát triển xã hội, của con người, trong đó có NNL chất lượng cao và đến lượt nó nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Đối với Việt Nam, do trình độ kinh tế- xã hội còn ở mức thấp nên chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, do đó việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế là khâu đột phá nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược phát tr._.ẵng
- Huy động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố:
Hiện nay, Thành phố Đà Nẵng có hơn 18.000 việt kiều. Năm 2005 có hơn 11.000 lượt kiều bào về thành phố Đà Nẵng; lượng kiều hối qua đường chính thức ước đạt 74,7 triệu USD, hiện nay có 31 doanh nghiệp do người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư hoặc góp vốn với tổng vốn 867,8 tỷ đồng. Qua khảo sát 1160 thân nhân người Việt Nam ở nước ngoài cho thấy: Về trình độ học vấn 5431 người tốt nghiệp đại học trở lên, trong đó cử nhân 348 người, thạc sỹ 32 người, tiến sỹ 33 người. Về nghề nghiệp: có 101 người làm công chức, 177 buôn bán kinh doanh, 37 người nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học, 17 làm công tác từ thiện, 11 kỹ sư bác sỹ làm việc cho các cơ sở tư nhân, còn lại là các nghề nghiệp khác.
Tiềm năng to lớn của người Việt Nam ở nước ngoài là tri thức. Để huy động được nguồn lực của họ về hợp tác trên các lĩnh vực giáo dục, khoa học công nghệ nhằm góp phần đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao để phát triển kinh tế- xã hội của thành phố, do vậy cần tập trung vào các nội dung sau:
- Một là: trên cơ sở điều tra khảo sát, có kế hoạch tranh thủ với từng nhóm đối tượng phù hợp theo từng lĩnh vực ưu tiên hợp tác của thành phố;
- Hai là: Xây dựng các chương trình trọng điểm với quy mô và thời hạn khác nhau thu hút sự đóng góp của người Việt Nam ở nước ngoài trên từng lĩnh vực, cần tập trung:
+ Các cơ sở giáo dục và dạy nghề thành phố cần đề xuất những yêu cầu cần có sự hỗ trợ của người Việt Nam ở nước ngoài về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và kiến thức chuyên môn để mời gọi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia và có chính sách đãi ngộ hợp lý;
+ Giới thiệu chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho thành phố của trường trung học chuyên Lê Quý Đôn, qua đó vận động người Việt Nam ở nước ngoài hỗ trợ tìm kiếm học bỗng du học nước ngoài. Đặc biệt, cần vận động tìm kiếm những học bổng bậc cao, đào tạo chuyên gia giỏi cho thành phố;
+ Mời tham gia giảng dạy ở các trường đại học, dạy nghề để đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao theo chuẩn khu vực và quốc tế;
+ Khuyến khích trí thức người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện các chương trình chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin;
+ Ban hành và thực hiện một số chính sách ưu đãi đối với người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện cho Việt Kiều về Thành phố đầu tư, kinh doanh; qua đó tăng cường hiệu quả huy động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của thành phố.
- Tiếp tục thực hiện quyết định số 86 của UBND Thành phố về chủ trương thu hút nhân tài:
Thành phố công khai danh mục các ngành ưu tiên tiếp nhận người tài, xuất phát từ thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao của thành phố, nên tập trung ưu tiên những ngành nghề như công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, y tế, các ngành quản lý đô thị, hành chính công, luật tài chính kế toán, du lịch, ngữ văn báo chí, ngoại ngữ (tiếng nhật, Hàn Quốc, Thái Lan). Đối với những người có bằng tiến sỹ, thành phố không nên phân biệt ngành đào tạo và hộ khẩu thường trú; đối với những người có bằng thạc sỹ không nên ràng buộc điều kiện hộ khẩu thường trú tại Đà Nẵng.
3.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao tình trạng sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống cho con người
Cùng với việc nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, trình độ khoa học kỹ thuật bằng việc phát triển sự nghiệp giáo dục, việc nâng cao tình trạng sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống cho người dân là tiền đề quan trọng, là bước có tính chất đột phá cho vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thành phố. Bởi vì không có sức khỏe thì con người không thể trở thành nguồn lực xã hội được.
Trong những năm qua, Thành phố Đà Nẵng đã thực hiện đạt chỉ số phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm các tỉnh, thành cao nhất nước, năm 2001 xếp hạng 4/61 tỉnh, thành phố, sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng; năm 2003 nằm trong nhóm 4 tỉnh, thành phố có chỉ số HDI cao nhất nước.
Biểu 3.10: Một số chỉ tiêu tổng hợp về sức khỏe của người dân
ĐVT
Đà Nẵng
Tp HCM 2003
Tp Hà Nội
2003
1999
2004
Tuổi thọ bình quân
năm
74,4
75,86
75,51
75,50
Tỷ lệ chết trẻ sơ sinh
‰
19,4
22.0
14,88
14,91
Số bác sỹ/vạn dân
bác sỹ
10,23
12,98
8,17
13,19
Số giường bệnh/vạn dân
giường
31,93
43,00
31,35
31,84
Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng (cân nặng theo tuổi)
%
27,60
23,60
...
...
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2003.
Nhưng nhìn chung tình trạng sức khỏe của người dân Đà Nẵng vẫn chỉ ở mức trung bình, đặc biệt tỷ lệ yếu còn khá cao, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cũng khá cao. Nguồn nhân lực Đà Nẵng còn kém cả về tầm vóc và thể lực thuộc loại trung bình thấp của thế giới. Nguyên nhân của thực trạng trên là do một mặt thể trạng chung của người châu á, mặt khác do tình hình chăm sóc sức khỏe trẻ em những năm trước đây chưa thực hiện tốt, đồng thời do kinh tế phát triển chưa mạnh, thu nhập thấp, đời sống khó khăn, môi trường sống và làm việc bị ô nhiễm, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khỏe của người dân chưa cao, trình độ phát triển y tế và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe còn thấp.
Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, Đà Nẵng phải không ngừng nâng tình hình sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số và cải thiện môi trường sống bằng các biện pháp sau:
+ Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục về sức khỏe và dinh dưỡng cho mọi người dân;
+ Mở rộng mạng lưới y tế dự phòng, tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống còn dưới 10% vào năm 2010, phấn đấu đưa chiều cao trung bình của thanh niên đạt từ 1,6m trở lên; từng bước chuẩn hóa công tác đào tạo các loại cán bộ y tế và có chính sách ưu đãi thu hút nhân lực y tế để có 10 tiến sỹ và bác sỹ chuyên khoa II, 15 thạc sỹ và bác sỹ chuyên khoa I trên 100.000 dân; có 10 bác sỹ, 01 dược sỹ đại học (và trên đại học) trên 10.000 dân. Phấn đấu đến năm 2010, mức dinh dưỡng bình quân của một người dân đạt 3.000 Kcalo/ngày. Đến năm 2010 có 4.250 giường bệnh đạt 45 giường bệnh/10.000 dân, trong đó thành phố quản lý 3.150 giường.
+ Đầu tư nâng cấp, cải thiện hạ tầng cơ sở, xây dựng mới bệnh viện quy mô 600 giường với trang thiết bị hiện đại, cải thiện môi trường sống xanh, sạch, đẹp. Hiện nay mật độ cây xanh ở thành phố còn quá thấp, bình quân chưa đến 1m2/người, phấn đấu đến năm 2010 đạt 3m2 cây xanh/người. Đặc biệt là xử lý tiếng ồn và bụi, chất thải công nghiệp nguy hại môi trường sống bằng cách đưa các nhà máy công nghiệp ra khu vực ngoại thành; phấn đấu đến 2010 có 100% số hộ dân có nước sạch sinh hoạt;
+ Thực hiện nghiêm túc chế độ bảo hộ lao động, đặc biệt đối với lao động trong điều kiện độc hại, chú trọng đối với lao động nữ.
3.2.5. Nhóm giải pháp tạo việc làm cho người lao động
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp và giải quyết việc làm:
Trong những năm qua tỷ lệ thất nghiệp của thành phố Đà Nẵng thường được đánh giá là ổn định và hợp lý (nếu không muốn nói là bình thường) đối với một đô thị trên đà phát triển. Tỷ lệ này căn cứ vào kết quả điều tra lao động việc làm hằng năm và tính cho khu vực thành thị. Năm 2004 là 5,16%, năm 2005 là 5,05%.
Đây là kết quả của việc phát triển đời sống trong cộng đồng dân cư ngày càng tốt hơn, đồng đều hơn. Sự tăng trưởng nổi bậc trong những năm gần đây đã tạo được công ăn việc làm đều khắp. tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực thành thị giảm từ 5,54% năm 2000 xuống còn 5,05% năm 2005; hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn cũng tăng từ 76,17% năm 2000 lên 85,5% năm 2004.
Biểu 3.11: Số người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Đơn vị tính: người
Tổng số
Chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Chưa qua đào tạo
CNKT không có bằng
CNKT có bằng, có chứng chỉ
Sơ cấp
Trung học chuyên nghiệp
Cao đẳng, đại học trở lên
357493
181029
65292
22318
1690
29955
57209
Nguồn: Số liệu thống kê lao động việc làm ở Việt nam năm 2005, trang 223.
Biểu 3.12: Cơ cấu số người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm chia theo nhóm ngành kinh tế
Đơn vị tính: %
Tổng số
Nhóm ngành kinh tế
Nông, lâm, ngư nghiệp
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
100
36,56
36,76
26,68
Nguồn: Số liệu thống kê lao động việc làm ở Việt nam năm 2005, trang 265
Tuy nhiên, do quá trình đô thị hóa, việc tăng dân số cơ học đặc biệt là tình trạng lao động ngoại tỉnh về thành phố tìm việc làm ngày càng tăng, nhiều học sinh sinh viên ra trường ngày càng đông làm cho cung lao động vượt quá cầu lao động, gây sức ép lớn cho thành phố trong việc giải quyết việc làm:
Biểu 3.13: Cơ cấu số người từ đủ 15 tuổi trở lên thất nghiệp chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Tổng số
(người)
19052
Chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
chưa qua đào tạo
CNKT không có bằng
CNKT có bằng, có chứng chỉ
Sơ cấp
Trung học chuyên nghiệp
Cao đẳng, đại học trở lên
12083
431
633
2673
3232
%
63,42
2,62
3,32
14,03
16,96
Nguồn: Số liệu thống kê lao động việc làm ở Việt Nam năm 2005, trang 408, 411.
Do vậy thành phố phải tập trung nỗ lực nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. cụ thể:
+ Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trên địa bàn để giải quyết việc làm cho người thất nghiệp và người chưa có việc làm. Tăng nguồn vốn và hiệu quả quỹ quốc gia giải quyết việc làm.Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn 2005-2010 để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động hiện có, cần lượng vốn ít nhất khoảng 50 tỷ USD.
+ Hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo ra nhiều chỗ việc làm, thu hút ngày càng nhiều lao động thông qua các chính sách phù hợp về tài chính-tín dụng, về áp dụng khoa học-công nghệ...
+ Làm tốt công tác xúc tiến đầu tư, tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào thành phố, mở rộng và tăng quy mô các khu công nghiệp (hiện nay Đà Nẵng có 5 khu công nghiệp và chế xuất, 4 khu CN đã đi vào hoạt động và 1 khu CN đang xây dựng với 189 doanh nghiệp trong nước, 35 DN có vốn đầu tư nước ngoài thu hút khoảng 30.000 lao động, đó là chưa kể số lượng các đơn vị tư nhân đang đóng trên địa bàn) tăng cường sản xuất các sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu để thu hút lao động và cùng với nó là quá trình đào tạo nâng cao chất lượng NNL phục vụ cho nhu cầu mở rộng trên.
+ Giảm tỷ trọng lao động trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp từ 36,56% năm 2005 xuống 16,8% vào năm 2010. Chuyển dần lao động trong ngành trồng trọt cây lương thực sang trồng cây công nghiệp và chăn nuôi, đẩy mạnh nghề rừng và nghề biển trong đó chú trọng đến nuôi trồng thủy sản. Tăng tỷ trọng lao động ngành công nghiệp xây dựng từ 36,76 năm 2005 lên 44,7% vào năm 2010, trung bình mỗi năm tạo ra thêm 13.303 chỗ việc làm mới trong ngành công nghiệp.
Tăng cường giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn theo các hướng sau: Đa dạng hóa sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, phát triển các hoạt động công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, phát huy thế mạnh các ngành nghề, làng nghề, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống như nước mắm Nam Ô, mỹ nghệ đá Non Nước,..phát triển du lịch sinh thái ở các làng nghề.
+ Mặt khác, giải pháp thiết thực và chủ yếu là thành phố phải tăng cường công tác đào tạo cho đội ngũ lao động phổ thông, trang bị cho họ trình độ nghề nghiệp nhất định để họ có thể tìm được việc làm phù hợp với khả năng và trình độ của mình, làm cho chất lượng chung của NNL tăng lên. Đảm bảo cho trên 90% số lao động trẻ mới gia nhập vào lực lượng lao động xã hội có trình độ văn hóa trên cấp 2, trong đó trên 70-75% đã được đào tạo nghề. Phải đảm bảo được từ 40-45% lao động trong nền kinh tế đã qua đào tạo các khóa đào tạo nghề cơ bản. Cụ thể cơ cấu đào tạo được xác định như sau: 15% trong tổng số là trình độ cao đẳng, đại học còn lại là đào tạo ở bậc công nhân kỹ thuật và trung học nghề.
- Xây dựng và phát triển thị trường sức lao động
Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường lao động. Trên thực tế hai vấn đề này liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, việc đưa ra những giải pháp để thúc đẩy sự hoạt động của thị trường lao động là một vấn đề bức xúc hiện nay.
Để thúc đẩy thị trường lao động của thành phố hoạt động, cần xây dựng và hoàn thiện các thiết chế cho loại thị trường này:
+ Điều quan trọng đầu tiên là thúc đẩy sự phát triển kinh tế của thành phố, tạo ra cầu về lao động từ đó thỏa mãn chúng một cách tự động, tiết kiệm và phù hợp nhất;
+Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, vuơn ra thị trường sức lao động ở nước ngoài. Hiện nay, mỗi năm thành phố xuất khẩu được hơn 1.000 lao động sang các nước có nhu cầu về lao động. Việc xuất khẩu lao động là biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bởi vì khi tiếp xúc và trực tiếp điều khiển những phương tiện kỹ thuật hiện đại góp phần nâng cao trình độ CMKT cho người lao động;
+ Tổ chức tốt các hội chợ lao động và việc làm nhằm tạo điều kiện cho người lao động có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm và các doanh nghiệp có nhiều cơ hội tuyển dụng được lao động phù hợp với yêu cầu của mình;
+ Xây dựng mạng lưới thông tin thị trường sức lao động từ cấp phường, xã, quận huyện. Củng cố mạng lưới trung tâm giới thiệu việc làm ở các quận, huyện, xây dựng các trung tâm giới thiệu việc làm tập trung có quy mô lớn và chất lượng ở thành phố, ở các khu công nghiệp và các tập đoàn kinh tế lớn có văn phòng tại Thành phố Đà Nẵng
+ Mặt khác, muốn thu hút được lao động chất lượng cao và hình thành thị trường sức lao động, một vấn đề quyết định là môi trường làm việc và thu nhập phải đặt lên hàng đầu. Hiện nay mặt bằng lương tại Đà Nẵng thường không cao vì vậy hiện tượng chất xám chảy ngược vào các thành phố lớn là chuyện bình thường
+ Coi trọng công tác dự báo tình hình phát triển kinh tế xã hội, phát triển các ngành nghề... trên cơ sở đó có sự chuẩn bị NNL cho phù hợp. Hiện nay, một nghịch lý xảy ra là những nghề mà thị trường đang cần như xây dựng, kiến trúc, quản lý, kinh doanh, hóa, phiên dịch tiếng Nhật, Hàn, Trung Quốc thì số lượng đào tạo còn hạn chế trong khi đó một số nghề đã bão hòa như tin, QTKD... thì lại thu hút số lượng lớn người vào học, vì vậy công tác tư vấn dự báo nghề trong tương lai rất là quan trọng nếu không tình trạng” thiếu vẫn thiếu, thừa vẫn thừa” sẽ là bài toán khó cho việc phát triển thị trường sức lao động ở Thành phố Đà Nẵng.
3.2.6. Nhóm giải pháp về xây dựng môi trường xã hội thuận lợi, phục vụ cho việc khai thác, sử dụng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Xây dựng môi trường xã hội thuận lợi:
Môi trường xã hội thuân lợi là tổng thể các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật, đạo đức, tâm lý, dư luận xã hội, phong tục tập quán, truyền thống, gia đình... cho phép con người có thể cống hiến và hưởng thụ những gì họ cho là họ xứng đang được hưởng thụ. Do vậy, để có môi trường xã hội thuân lợi, kích thích sự cống hiến và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ cho con người cần phải tác động tích cực có định hướng lên cả hai mặt vật chất và tinh thần.
Đó là các vấn đề về dân chủ và công bằng trong khuôn khổ của pháp luật, quá trình CNH, HĐH phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; những chính sách kinh tế-xã hội đúng đắn, vừa phù hợp với điều kiện và khả năng hiện thực của xã hội, vừa đáp ứng nhu cầu tâm tư, nguyện vọng của người lao động; có cơ chế rộng mở thu hút sáng kiến của mọi cá nhân; có môi trường làm việc với trạng thái tâm lý an tâm, an toàn, tin tưởng, phấn khích...Tất cả những vấn đề trên được hiện thực hóa nó sẽ thực sự là động lực mạnh mẽ kích thích tính sáng tạo của mọi người đặc biêt là các hoạt động sáng tạo và đòi hỏi trình độ trí tuệ cao vào mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố và trong tiến trình CNH, HĐH đất nước.
- Giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích:
Muốn khai thác triệt để, phát huy tối đa vai trò, sức mạnh của nguồn lực con người nhất thiết phải tìm ra được động lực thúc đẩy tính tích cực của con người. Bởi vì: "tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy đều dính liền với lợi ích của họ” [31, tr.109].
Lợi ích có nhiều loại, trong đó lợi ích cá nhân bao giờ cũng là động lực trực tiếp và kích thích mạnh mẽ nhất tính tích cực của con người, còn lợi ích cộng đồng thì nói chung chỉ có thể thực hiện được vai trò động lực của mình thông qua lợi ích cá nhân. Từ vai trò đó, việc giải quyết vấn đề lợi ích trong các chính sách tiền lương phải đảm bảo công bằng trong cống hiến nhất là chính sách tiền lương; đa dạng hóa các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với lao động trí tuệ, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học-công nghệ đỉnh cao, chế độ lương, thưởng vật chất, tinh thần phải chứng tỏ được sự ưu đãi của Nhà nước đối với nhân tài. Có chính sách đãi ngộ đối với những người có cống hiến xuất sắc cho xã hội chứ không chỉ cho sản xuất, nhất là những người đã cống hiến xương máu cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của tổ quốc.
KếT luận
Trong thời đại hiện nay, việc đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH Thành phố Đà Nẵng phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Nền kinh tế tri thức với những yêu cầu cao về tiềm lực trí tuệ và khoa học công nghệ đang đặt ra những thử thách lớn đối với phát triển NNL, trong đó NNL chất lượng cao chiếm vị trí hàng đầu.
Nguồn nhân lực ngày nay được xem là yếu tố quan trọng của phát triển, đến lượt mình nó được thụ hưởng những thành quả của chính sự phát triển. Nguồn nhân lực tốt, chất lượng cao là tiền đề vững chắc và là nhân tố quyết định đến tốc độ phát triển kinh tế-xã hội, tăng năng suất lao động. Nguồn nhân lực tốt, nhất là NNL có trình độ cao đảm bảo vững chắc trong việc đưa ra những quyết định sáng suốt, đúng đắn đối với những đường lối, chủ trương, chính sách và phương thức thực hiện các quyết sách về phát triển và hưng thịnh quốc gia.
Hiện nay NNL ở nước ta nói chung, ở Thành phố Đà Nẵng nói riêng bên cạnh ưu thế như: lực lượng lao động dồi dào, tính cần cù, thông minh, sáng tạo còn có những hạn chế không nhỏ, đó là chất lượng NNL chưa cao thể hiện ở lực lượng lao động qua đào tạo còn thấp, kỹ năng lao động, thể lực còn nhiều hạn chế, chưa quen tác phong văn minh công nghiệp...
Để phát triển NNL chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội thành phố trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực, cần nhanh chóng thực hiện hàng loạt các giải pháp về Giáo dục và Đào tạo, giải pháp về phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng NNL, giải pháp về thu hút NNL chất lượng cao bên ngoài thành phố, giải pháp về nâng cao tình trạng sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống cho con người, giải pháp tạo việc làm cho người lao động, giải pháp về xây dựng môi trường xã hội thuân lợi phục vụ cho việc khai thác và sử dụng, nâng cao chất lượng NNL. Đã đề xuất những kiến nghị quan trọng nhằm thực hiện được những giải pháp trên phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2006-2010.
Tuy nhiên, các giải pháp trên chỉ có thể trở thành hiện thực khi chúng được thực hiện trên cơ sở nhận thức đúng vị trí của NNL chất lượng cao trong thời đại ngày nay trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực, coi NNL chất lượng cao là nhân tố quyết định cho sự nghiệp CNH, HĐH của Thành phố Đà Nẵng.
danh mục tài liệu tham khảo
Báo Lao động (8/9/2006), (247), thứ 6.
PGS.TS. Đặng Quốc Bảo, TS. Đặng Thị Thanh Huyền (2005), Chỉ số phát triển giáo dục trong HDI, cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Chí Bảo (1993), "ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực con người", Tạp chí Triết học, (13), tr.14.
BBC VIETNAMESE (5/2006), Khan hiếm lao động bậc cao.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (5/2005), Tuần tin Kinh tế- Xã hội-Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế-Xã hội quốc gia, (5).
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (2006), Số liệu thống kê Lao động-Việc làm ở Việt Nam, Nxb Lao động-Xã hội.
"Chất lượng dân số- Quà tặng cho thế hệ sau" (14/9/2006), Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam.
Mai Quốc Chính (1999), Nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cục Thống kê Đà Nẵng (2005), Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng 2004.
Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
TS. Hồ Anh Dũng (2002), Phát huy yếu tố con người trong Lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Dự án Hỗ trợ kỹ thuật kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục trung học (2001), Tính toán của công ty nghiên cứu rủi ro chính trị và kinh tế trong tài liệu.
Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (2006), Văn kiện đại hội lần thứ XIX, Nxb Công ty xổ số kiến thiết và dịch vụ in Đà Nẵng.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Th.S Vương Quốc Được (1999), Xây dựng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở Thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới, Đề tài KX.07-14, Hà Nội.
GS.VS Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
GS.VS Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PGS. TS Phạm Hảo, PGS. TS Võ Xuân Tiến (2004), Toàn cầu hóa kinh tế, những cơ hội và thách thức đối với miền Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
TS. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển chất lượng nguồn nhân lực, những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
"Hướng nghiệp-đừng bỏ quên, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao" (08/6/2006), Báo Giáo dục thời đại, thứ năm.
TS. Đoàn Khải (2005), Nguồn lực con người trong qúa trình CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phan Văn Khải (11/11998), “Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học - công nghệ và các cơ quan Chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”, Báo Nhân dân.
Kết quả điều tra lao động, việc làm “Tỷ lệ thất nghiệp giảm, lao động qua đào tạo tăng” (21/11/2005), Thời báo kinh tế Việt Nam, (231)..
Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua Giáo dục và Đào tạo, kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
V.I.Lênin (1997), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Huy Lê (09/7/2006), “Để không lãng phí nguồn lực chất lượng cao", Báo Nhân dân, (28).
Hoàng Văn Liên - Hiệu trưởng trường Đại học Công nghiệp Hà Nội (14/4/2006), “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao- bài toán hóc búa của doanh nghiệp trẻ”, Báo điện tử- thời báo Kinh tế Việt Nam.
Nguyễn Đình Luận (2005), “Nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, (14).
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C. Mác (1998), Tư bản, Quyển I, Tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Các Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
TS. Lê Thị Ngân (2005), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phân viện Đà Nẵng (2/2004), Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nhân lực khoa học ở các cơ quan R&D ở miền Trung.
Phòng Giáo dục chuyên nghiệp Thành phố Đà Nẵng ( ), Đề án đào tạo nguồn nhân lực dưới góc độ Giáo dục chuyên nghiệp.
Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2005), Luật giáo dục, Điều 13.
Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
TS. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
Thủ tướng Chính phủ ( ), Quyết định số 331/QĐ-TTg về chương trình phát triển nguồn nhân lực về công nghệ thông tin đến năm 2010.
Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 221/2005/QĐ-TTg về việc xây dựng chương trình quốc gia phát triển nhân lực đến năm 2020.
PGS.TS Nguyễn Tiệp - Trường Đại học Lao động Xã hội (7/2005), “Phát triển thị trường lao động nước ta các năm 2005-2010”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (326).
Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
GS.TS Nguyễn Kế Tuấn (2004), Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Sơn Trung (8/9/2006), Báo Đà Nẵng, thứ 6.
Trung tâm Thông tin Kinh tế - Xã hội quốc gia (9/2005), Phân tích khả năng đạt tăng trưởng cao của nên kinh tế Việt Nam, (12).
ủy ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng (2005), Đề án quy hoạch mạng lưới trường trung học chuyên nghiệp Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2005-2010.
Uỷ ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng (2001), Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội Thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2001-2010.
Uỷ ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng (2006), Báo cáo kết quả điều tra Lao động-Việc làm Thành phố Đà Nẵng năm 2006.
Bùi Văn (11/9/2006), "Giáo dục và sự thắng thua", Vietnamnet-WTO.
Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..
Viện Nghiên cứu con người (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (2006), Thông tin chuyên đề giải quyết việc làm ở Việt Nam trong 5 năm 2006-2010.
Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (1999), Hướng tới một chiến lược phát triển con người, Hà Nội.
PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh (2005), Bàn về phát triển kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PHụ LụC
Phụ lục 1
Lao động đang làm việc phân theo trình độ
Đơn vị tính: 1000 người
Chỉ tiêu
Tổng số
Khu vực thành thị
Khu vực nông thôn
Lao động đang làm việc phân theo trình độ văn hóa
365.13
313.84
51.30
Chưa đi học và chưa hết cấp 1
27.28
20.25
7.04
Cấp 1
80.47
64.89
15.55
Cấp 2
106.14
86.98
19.16
Cấp 3
151.24
141.72
9.52
Lao động đang làm việc phân theo trình độ CMKT
365.14
313.84
51.30
Công nhân kỹ thuật
79.64
70.20
9.43
Trung học chuyên nghiệp
30.05
27.57
2.48
Cao đẳng, đại học
58.82
56.70
2.13
Không có trình độ
196.63
159.37
37.26
Lao động đang làm việc phân theo trình độ CMKT
365.14
313.84
51.30
Chưa qua đào tạo
196.63
159.37
37.26
CNKT không bằng
56.34
48.60
37.26
Có chứng chỉ nghề
20.00
18.73
1.27
Có bằng nghề
3.30
2.87
0.42
Trung học chuyên nghiệp
30.05
27.57
2.48
Cao đẳng
9.75
9.02
2.48
Đại học
47.42
46.10
1.32
Thạc sỹ trở lên
1.65
1.58
0.07
Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra lao động - việc làm Thành phố Đà Nẵng năm 2006, Sở Lao động Thành phố Đà Nẵng, trang 8.
Phụ lục 2
Lao động đã qua đào tạo và đang làm việc phân theo ngành đào tạo
Đơn vị tính: 1000 người
Chỉ tiêu
Tổng số
Khu vực thành thị
Khu vực nông thôn
Lao động đã qua đào tạo đang làm việc theo ngành đào tạo
168.51
154.47
14.04
Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên
13.42
12.13
1.29
Nghệ thuật
3.44
3.20
0.24
Nhân văn
4.23
4.07
0.17
Khoa học xã hội và hành vi
0.72
0.72
0.00
Báo chí và thông tin
1.10
1.10
0.02
Kinh doanh và quản lý
29.67
28.51
1.16
Pháp luật
1.20
1.06
0.14
Khoa học sự sống
0.18
0.18
0.00
Khoa học tự nhiên
1.55
1.53
0.02
Toán và thống kê
0.33
0.33
0.00
Máy tính
3.31
3.16
0.14
Công nghệ kỹ thuật
0.24
0.24
0.00
Kỹ thuật
28.35
26.22
2.13
kỹ thuật mỏ
0.05
0.05
0.00
Chế biến
27.39
24.10
3.29
Xây dựng và kiến trúc
20.53
17.32
3.21
Nông lâm nghiệp và thủy sản
1.71
1.48
0.24
Thú y
0.17
0.08
0.09
Sức khỏe
6.12
5.93
0.19
dịchvụ xã hội
0.01
0.05
0.05
khách sạn, du lịch, thể thao và dịch vụ cá nhân
4.05
3.77
0.28
Vận tải
19.63
18.32
1.31
Môi trường và bảo vệ môi trường
0.11
0.11
0.00
An ninh quốc phòng
0.47
0.42
0.05
Khác
0.16
0.14
0.02
Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra lao động - việc làm thành phố Đà Năng năm 2006, Sở Lao động thành phố Đà Năng, trang 9.
Phụ lục 3
So sánh số liệu giữa 1-4-1999 và kỳ điều tra 1.8.2006
Đơn vị tính: 1000 người
Chỉ tiêu
TĐTDS 01.04.1999(người)
Dự báo trung bình năm 2006(người)
Tăng trưởng bình quân năm (%)
Dân số
684,85
792,90
102,11
Thành thị
543,64
687,03
103,40
Nông thôn
141,21
105,87
95,97
Dân số từ 15+
481,06
611,17
103,48
Thành thị
385,35
532,69
104,73
Nông thôn
95,71
78,48
97,20
Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (%) (so tương ứng dân số)
60,96
64,93
Thành thị
62,06
65,67
Nông thôn
56,73
60,18
Dân số trong độ tuổi lao động
417,49
514,85
103,04
Thành thị
337,38
451,14
104,24
Nông thôn
80,11
63,71
96,78
Nguồn lao động
420,61
518,14
103,02
Lưc lượng lao động
314,68
384,04
102,89
Lao động có việc làm
285,03
365,13
103,60
Lao động thất nghiệp
29,64
18,91
93,78
Nguồn lao động KV vực thành thị
337,24
451,32
104,25
Nguồn lao động KV nông thôn
83,37
66,83
96,89
LLLL chia theo trình độ CMKT
314,68
384,04
102,89
Công nhân kỹ thuật
19,79
81,42
122,39
Trung học
17,66
32,68
109,19
Cao đẳng, đại học trở lên
28,73
61,51
111,49
Khác
248,49
208,43
97,52
LĐ có việc làm theo trình độ CMKT
Công nhân kỹ thuật
79,64
Trung học
30,05
Cao đẳng, đại học trở lên
58,82
Khác
196,63
LĐ có việc làm theo ngành kinh tế quốc dân
Nông lâm thủy sản
61,27
47,30
96,37
Công nghiệp xây dựng
86,45
114,11
104,05
Dịch vụ
137,97
203,72
105,73
Cơ cấu LLLĐ theo trình độ (%)
Công nhân kỹ thuật
6,29
21,41
Trung học
5,61
8,48
Cao đẳng, đại học trở lên
9,13
15,40
Khác
78,97
54,70
Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra lao động - việc làm thành phố Đà Năng tháng 8 năm 2006, Sở Lao động thành phố Đà Nẵng, trang 13-14.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- bia viet tat.doc