Phần I - Mở đầu
1.1. Tính tất yếu của đề tài:
Nước ta đang chuyển dịch nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, cho phép tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, hoạt động và quan hệ với nhau theo một loạt những qui luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động đó.Trong cơ chế thị trường, bất cứ một doanh nghiệp nào trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng phải tự đề
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nguồn gốc bản chất và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra cho mình một hệ thống các mục tiêu như: lợi nhuận, tăng trưởng, phát triển, an toàn, kéo dài tuổi thọ, bảo đảm và không ngừng nâng cao thu nhập cho các thành viên v.v.... Trong đó, mục tiêu tổng hợp và quan trọng nhất là tối đa hoá lợi nhuận.
Nhưng không có tấm huy chương nào là không có mặt trái của nó. Các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động với mục đích tối đa hoá lợi nhuận, nên họ bất chấp cả đạo đức, pháp luật, thực hiện các mánh khoé nhằm thoả mãn lợi ích của họ như: lạm dụng tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, cạnh tranh không lành mạnh... Điều này có tác hại rất lớn đối với sự phát triển chung của xã hội.
Qua các lý do trên, tôi thấy cần thiết phải có một công trình nghiên cứu nhằm đưa ra giải pháp tối đa hoá lợi nhuận và giảm bớt tối thiểu mức thiệt hại cho xã hội. Tôi thực hiện đề án này với mong muốn góp phần hình thành lý luận lợi nhuận trong thời kỳ mới và những giải pháp có hiệu quả.
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trước đây đã có rất nhiều khà kinh tế học xuất sắc nghiên cứu về lợi nhuận: Adam Smith (với tập Của cải của các dân tộc) Các Mác (bộ tư bản), Anghen, Ricarđo...
Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, do có sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, khoa học-kỹ thuật làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng nhưng bên cạnh đó làm tăng thêm mâu thuẫn và tệ nạn vốn có của nó. Các học thuyết kinh tế tư sản hiện đại đề cập đến lợi nhuận trong giai đoạn mới và các giải pháp để đạt được lợi nhuận tối đa cho các doanh nghiệp và giảm mức thấp nhất thiệt hại cho xã hội như: trường phái "Cổ điển mới", Keynes, Samuel Son, David Begg....
Qua học hỏi và tiếp thu tri thức từ các học thuyết của các nhà kinh tế học trên, tôi đi sâu vào phân tích nguồn gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
1.3. ý nghĩa lý luận của đề tài:
Lợi nhuận là hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư. Lý luận giá trị thặng dư của Mác là một trong lý luận quan trọng nhất của Mác được coi là "viên đá tảng" của học thuyết kinh tế Mác-xít. Đề tài nghiên cứu này muốn bổ sung thêm, đồng thời phân tích và làm rõ hơn lý luận của Mác.
Hơn nữa trong những điều kiện lịch sử khác nhau thì lợi nhuận được biểu hiện rát đa dạng. Do đó việc nghiên cứu sẽ phân tích tính lợi nhuận một cách cụ thể trong nền kinh tế thị trường, kinh tế Việt Nam.
1.4. ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường từ năm 1986. Trong nền kinh tế đó lợi nhuận là động lực thúc đẩy, việc nghiên cứu sẽ làm rõ hơn lợi nhuận trong điều kiện kinh tế nước ta, đưa ra các giải pháp phát triển kinh tế. Đồng thời nó cũng chỉ ra tính tất yếu phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì chủ nghĩa tư bản cũng phát triển nhanh, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp, cá nhân tự do cạnh tranh, nên hình thức bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày càng tinh vi. Qua nghiên cứu đề án tôi muốn chỉ rõ hơn bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản giai đoạn mới.
Phần II- Nội dung
Chương I
Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa trọng thương về lợi nhuận.
Chủ nghĩa trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản ra đời trong thời kỳ tan rã của phương thức sản xuất phong kiến. Hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế thị trường.
Một trong những tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương là họ cho rằng tiền là nội dung căn bản của cải, là tài sản thực sự của quốc gia. Do đó tất cả các hoạt động của họ đều lấy tiền làm tiêu chuẩn mọi hình thức nghề nghiệp, làm thế nào để có thể gia tăng khối lượng tiền. Tiền được CNTT coi như là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ và phương tiện thu để thu được lợi nhuận. Lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang quá, là sự lừa gạt, như chiến tranh. Họ cho rằng, không một người nào thu được lợi nhuận mà lại không thiệt kẻ khác. Với tư tưởng này chủ nghĩa trong thương đã cắt đứt hẳn với những truyền thống kinh tế tự nhiên, nó đã từ bỏ việc tìm kiếm sự công bằng xã hội, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của chủ nghĩa trọng thương.
1.2. Quan điểm của trường phái cổ điển Anh về lợi nhuận.
Từ thế kỷ XVII chủ nghĩa trọng thương đã bộc lộ những hạn chế, tính chất phiến diện. Vì vậy nó đã trở thành lỗi thời và bắt đầu tan rã, đòi hỏi phải có lý luận mới để đáp ứng với điều kiện mới. Trên cơ sởđó kinh tế chính trị học cổ điển Anh ra đời.
1.2.1. Adam Smith.
Adam Smith là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế giới, ông là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết về kinh tế thị trường. Một trong những lý luận quan trọng của ông là "lý thuyết về giai cấp và thu nhập". Trong đó ông đã chia xã hội thành 3 giai cấp và gắn các giai cấp đó với 3 hình thức của thu nhập là địa tô, lợi nhuận và tiền công.
Giai cấp địa chủ là người chiếm hữu ruộng đất nhận được địa tô.
Giai cấp các nhà tư bản công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp nhận được lợi nhuận.
Giai cấp công nhân làm thuê nhận được tiền lương.
Giá trị của hàng hoá là do người công nhân tạo ra nhưng anh ta chỉ nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi nhuận của tư bản. Như vậy Smith đã thấy được nguồn gốc của lợi nhuận là do lao động của công nhân làm ra.
Nếu địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên thì lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hia vào sản phẩm của người lao động, chúng đêu có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân. Các Mác đánh giá rất cao tư tưởng này của ông và coi đó là thành tựu của kinh tế chính trị học cổ điên.
Khác với chủ nghĩa trọng nông, ông cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên ông lại không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận, ông cho rằng toàn bộ tư bản đẻ ra ông không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Ông cũng đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận trên cơ sơcạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
Lý luận của Adam Smith vừa chứa đựng những nhân tố khoa học, vừa chứa đựng những nhân tố tầm thường, nhưng những tư tưởng của ông còn ảnh hưởng rất nhiều tới giai đoạn sau.
1.2.2. David Ricardo.
Các mác đã nhận xét: Nếu Adam Smith còn dao động giữa phương pháp khoa học và tầm thường thì D. Ricardo đã nhất quán kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất: thời gian lao động quyết định giá trị.
Lý luận về thu nhập (tiền lương, lợi nhuận, địa tô) của Ricardo đã được phát triển trên cơ sở là lý luận thu nhập của A. Smith. Ông cho rằng giá trị được tạo ra gồm có 2 phần tiền lương và lợi nhuận và ông cũng đã thấy được sự đối kháng giữa tiền lương và lợi nhuận. Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà các nhà tư bản trả cho công nhân. D. Ricardo cho rằng giá trị là do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền công mà họ nhận được. Như vậy ông coi lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân. Riacrdo đã có những bước xa hơn nhiều so với A. Smith. Hơn nữa ông còn tiến đến gần lợi nhuận bình quân ,xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp. Nhưng ông lại không chứng minh được vì ông không hiểu được giá cả sản xuất.
Mặc dù có những hạn chế nhưng D. Ricardo vẫn được đánh giá là nhà kinh tế chính trị học đạt tới đỉnh cảo kinh tế chính trị học cổ điển, đưa kinh tế chính trị học đến gần chân lý.
1.3. Quan điểm của kinh tế chính trị học tầm thường.
Đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành đến năm 1825 lại xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế. Giai cấp côn nhân đã lớn mạnh, chủ nghĩa xã hội không tưởng xuất hiện đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong bối cảnh trên kinh tế chính trị học tầm thường ra đời, biểu hiện sự suy đồi kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Đại biểu tiêu biểu: Thomas Robert Malthus, J.B.SAY...
Trong lý luận về giá trị lợi nhuận của mình Malthus cho rằng: lao động có thể mua được bằng hàng hoá là do chi phí để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định, chi phí đó bao gồm lượng lao động (sống và vật hoá) đã chi phí để sản xuất ra hàng hoá cộng với lợi nhuận của tư bản ứng trước. Như vậy Malthus đã phủ nhận vai trò của lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị và lợi nhuận là yếu tố cấu thành khác cuả giá trị. Từ đó, ông giải thích lợi nhuận như là khoản thặng dư ngoài số lao động đã hao phí để sản xuất hàng hoá. Lợi nhuận do đó chỉ là khoản cộng thêm danh nghĩa vào giá cả, lưu thông là lĩnh vực mà trong đó lợi nhuận xuất hiện, nhờ bán hàng hoá đắt hơn khi mua.
Dựa vào thuyết tính hữu dụng SAY giải thích thu nhập trong xã hội ông cho rằng lao động tạo ra tiền lương, tư bản tạo lợi nhuận còn ruộng đấ tạo ra địa tô, do đó mang lại những thu nhập tương ứng cho chủ sở hữu. SAY coi lợi tức của kẻ sở hữu tư bản là con đẻ của bản thân tư bản, còn thu nhập của nhà kinh doanh là "phần thưởng cho năng lực kinh doanh của anh ta" mà nhà tư bản tự trả cho mình.
Kinh tế chính trị học tầm thường sử dụng phương pháp duy tâm chủ quan. Xuất phát từ chỗ bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản, biện hộ cho chủ nghĩa tư bản một cách có ý thức. Kinh tế chính trị học tầm thường chỉ xem xét , hệ thống hoá các hiện tượng bề ngoài, không nghiên cứu bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế.
1.4. Lý luận về lợi nhuận của Mác.
1.4.1. Phát hiện của Mác về nguồn gốc bản chất lợi nhuận.
Giá trị của một hàng hoá sản xuất trong chế độ tư bản chủ nghĩa biểu thị bằng công thức: GT= c + v + m. Nếu trong giá trị ấy chúng ta đem trừ giá trị thặng dư m đi, thì sẽ còn lại có cái ngang giá mà thôi, tức là giá trị nằm trong hàng hoá, thay thế cho giá trị tư bản c + v đã chỉ ra dưới hình thái các yếu tố sản xuất.
Đối với các nhà tư bản, họ không phải hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá cho nên họ không tính theo kiểu đó. Mác cho rằng: "trên cơ sở nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, một khi người công nhân đã đi vào quá trình sản xuất, thì anh là một bộ phận cấu thành của tư bản sản xuất đang được sử dụng và thuộc về nhà tư bản. Do đó nhà tư bản là người thật sự sản xuất ra hàng hoá, vì vậy chi phí sản xuất ra hàng hoá đối với hắn là giá trị thực tế của bản thân hàng hoá" Tư bản quyển III, tập 1 trang 67
. Như vậy nhà tư bản chỉ xem hao phí bao nhiêu tư bản, chứ không tính xem hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. Các Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (K). Công thức giá trị hàng hoá được chuyển thành.
GT = k + m
Ta thấy, giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa khác cả về mặt lượng lẫn về mặt chất. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa của hàng hoá, về mặt lượng khác với giá trị của nó hay là khác với chi phí sản xuất thực tế của nó. Chi phí sản xuất ấy thấp hơn giá trị của hàng hoá. Về mặt chất, chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó, còn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (K) chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản mà thôi, nó không tạo ra gia strị hàng hoá. Mác cho rằng: "Chi phí sản xuất mang cai vẻ bề ngoài lừa dối của một phạm trù về sản xuất ra gí trị. Kinh tế chính trị Mác-Lênin, tập I, trang113
Nhờ khoảng chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất nên sau khi bán hàng hoá , nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra, mà thu được một số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận "Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận" Tư bản quyển III tập 1 trang 68
Nếu ta ký hiệu lợi nhuận là P thì giá trị hàng hoá là:
GT = K + P
Về mặt lượng, nếu hàng hoá bán đúng giá trị thì m = p, m và p đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê.
Về mặt chất, m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ V còn p được xem như toàn bộ tư bản ứng trước để ra. Do đó p đã che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, che dấu nguồn gốc thực của nó.
Sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa k = c + v đã xoá nhoà sự khác nhau giữa c và v
GT = c + v + m = k + m chuyển thành
GT = k + p
Như vậy theo công thức trên P lại được sinh ra từ toàn bộ tư bản ứng trước. Nó che dấu nguồn gốc thực của P là nhờ bộ phận V được thay thế bằng sức lao động trong quá trình sản xuất.
Do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá là đã có lợi nhuận rồi. Nhưng các nhà tư bản cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tái kinh doanh của nhà tư bản mà có. Nếu nhà tư bản bán hàng hoá với giá cả bằng giá trị của nó thì m = p, nếu bán giá cả cao hơn giá trị thì mp. Chính sự không nhất trí về lượng giữa m và p càng che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận, mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
Như vậy, theo công thức trên, tỷ suất lợi nhuận là cái biểu hiện tỷ suất giữ giá trị thặng dư với tổng tư bản. Tỷ suất lợi nhuận vạch rõ mọi bộ phận tư bản đều bằng nhau và đều đem lại lợi nhuận như nhau. Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận được hoàn thành ở sự chuyển hoá tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận.
Về mặt lượng, P' luôn luôn nhỏ hơn m'
Về mặt chất, tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư đối lập nhau. Trong tỷ suất giá trị thặng dư, giá trị thặng dư biểu hiện thành kết quả của riêng tư bản khả biến (v), điều này là đúng thực tế. Tư bản khả biến dùng mua sức lao động. Trong quá trình lao động, xét về mặt trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động. Giá trị mới tăng thêm chính là giá trị thặng dư (m). Tỷ suất lợi nhuận phản ánh trình độ bóc lột của tư bản đối với công nhân làm thuê. Trong tỷ suất lợi nhuận, giá trị thặng dư biểu hiện thành kết quả của tổng tư bản, đây là sự xuyên tạc, là một sự phủ định cái đã bao hàm trong tỷ suất giá trị thặng dư.
Khi xác định phần tăng thêm ngoài chi phí sản xuất, nhà tư bản xuất phát từ tỷ suất lợi nhuận hiện hành, họ nhân tỷ suất lợi nhuận với tổng tư bản, rồi cộng kết quả đó vào chi phí sản xuất. Như vậy tỷ suất lợi nhuận có trước lợi nhuận. Các nhà tư bản lấy tỷ suất lợi nhuận để tính lợi nhuận. Do đó nhà tư bản căn cứ vào lợi nhuận để nói lên mức lãi của việc đầu tư tư bản, chi phí chỉ cho nhà tư bản đầu tư vào đâu thì có lợi hơn. Những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành khác nhau thì khác nhau. Để thu được lợi nhuận cao nhà tư bản theo đuổi tỷ suất lợi nhuận cao và dẫn đến mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Tỷ suất lợi nhuận biểu hiện tỷ số giữa giá trị thặng dư với tổng tư bản. Do đó, tỷ suất lợi nhuận tỷ lên thuận với giá trị thặng dư và tỷ lệ nghịch với lượng tư bản ứng trước. Giá trị thặng dư tăng lên hay giảm xuống làm cho tỷ suất lợi nhuận tăng lên và giảm xuống. Tư bản ứng trước tăng lên hay giảm xuống làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống và tăng lên.
1.4.2. Phân phối lợi nhuận.
Những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản xuất khác nhau lúc đàu là rất khác nhau. Do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng đi thành một tỷ suất lợi nhuận chung. Lợi nhuận mà một nhà tư bản có một lượng nhất định thu được, căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận chung đó, không kể cấu thành hữu cơ của nó như thế nào, gọi là lợi nhuận bình quân Tư bản quyền III tập 1 trang 238
.
Hình thức cạnh tranh thứ nhất là cạnh tranh trong nội bộ ngành. Hình thức cạnh tranh này là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ramột loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siên ngạch. Các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kỹ thuạt, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm giá trị cá biệt để thu lợi nhuận siêu ngạch. Sau quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành hình thành nên giá trị xã hội tỷ suất lợi nhuận giảm xuống.
Hình thức cạnh tranh thứ hai là cạnh tranh giữa các ngành. Hình thức này là sự cạnh tranh giữa các tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Để có thể cạnh tranh được, các nhà tư bản tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là tự phát phân phối tư bản (C và V vào các ngành sản xuất khác nhau làm thay đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Kết quả là hình thành nền tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư trong thời kỳ cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản. Sự cạnh tranh giữa các ngành hình thành lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của các nhà tư bản khác nhau kinh doanh trong các ngành khác nhau.
Lý luận về lợi nhuận bình quân cho thấy một mặt mỗi sự cố gắng của nhà tư bản đều đem lại lợi ích chung cho giai cấp tư sản. Mặt khác nhà tư bản đều cạnh tranh nhau để phân chia giá trị thặng dư, cho nên Mác nói: "Các nhà tư bản đều nhìn nhau bằng hai con mắt thiện cảm và ác cảm".
Trong phân phối lợi nhuận, Mác nói: "Các nhà tư bản quan hệ với nhau như là những người cổ đông của công ty cổ phần, trong đó lợi nhuận chia cho mỗi thành viên được phân đều theo mỗi 100" Tư bản quyển III, tập I trang 239
. Các nhà tư bản hoạt động thu được lợi nhuận bình quân: công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng, kinh doanh ruộng đất.
1.4.2.1. Lợi nhuận công nghiệp:
Người tư bản công nghiệp là nhà tư bản thuê nhân công, đã trực tiếp rút giá trị thặng dư ở người công nhân. Lao động thặng dư tức là lao động không được trả công của công nhân đã nhập vào gọi là lợi nhuận. Nhưng nhà tư bản không bỏ túi hết toàn bộ lợi nhuận. Sự lũng đoạn của đất đai làm cho địa chủ có thể chiếm hữu một phần giá trị thặng dư dưới danh hiệu là địa tô. Mặt khác, ngay cả việc chiếm hữu công cụ lao động cũng làm nhà tư bản thuê nhân công có khả năng tạo ra giá trị thặng dư, việc này khiến nhà tư bản tài chính đòi một phần khác của giá trị thặng dư dưới danh hiệu là lợi tức. Cuối cùng nhà tư bản công nghiệp cũng chẳng được bao nhiêu.
1.4.2.2. Lợi nhuận thương nghiệp.
Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, hay nói cách khác là tư bản kinh doanh hàng hoá.
Lợi nhuận thương nghiệp nhìn vẻ ngoài dường như lợi nhuận thương nghiệp do lưu thông hàng hoá mà có, xét về thực chất, lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. nhà tư bản công nghiệp nhường lợi nhuận vì tư bản thương nghiệp đảm bảo một khâu của quá trình tái sản xuất, tiêu thụ được một lượng lớn hàng hoá của tư bản công nghiệp, góp phần mở rộng thị trường làm cho công nghiệp phát triển. Hơn nữa, tư bản thương nghiệp kinh doanh hàng hoá có tư bản ứng trước do đó phải có lợi nhuận.
Nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và bán lại đúng bằng giá trị. Vậy, lợi nhuận thương nghiệp là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua.
Thực chất đây là hình thức phân chia lợi nhuận giữa tư bản thương nghiệp và tư bản công nghiệp theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp đã che dấu thêm một bước quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
1.4.2.3. Lợi tức cho vay:
Lợi tức là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản hoạt động, nhà công nghiệp hoặc thương nhân phải trả cho người sở hữu tư bản đã cho hắn vay tư bản đó, một khi hắn không sử dụng tư bản của chính mình mà lại sử dụng tư bản đi vay. Nếu nhà tư bản sử dụng tư bản của mình, thì không có việc phải phân chia lợi nhuận, toàn bộ lợi nhuận là thuộc về hắn. Nhưng vì nhà tư bản đi vay, không có tư bản để hoạt động nên phải đi vay. Chính vì vậy, anh ta phải trích một phần lợi nhuận thu được để trả cho nhà tư bản cho vay. Số tiền trích ra để trả đó gọi là lợi tức.
Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân, mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng.
Nhà tư bản cho vay không phải là nhà tư bản hoạt động. Do đó nó không tham gia bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận. Lợi tức vận động theo quy luật tỷ suất lợi tức.
Z'
=
Z
Tư bản cho vay
x 100%
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân: tỷ suất lợi nhuận bình quân cao thì tỷ suất lợi tức cao, tỷ suất lợi nhuận bình quân thấp thì tỷ suất lợi tức cũng thấp. Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân thành lợi tức và thu nhập của doanh nghiệp. Quan hệ cung cầu về tư bản cho vay cũng ảnh hưởng đến tỷ suất lợi tức, cầu tư bản cao thì tỷ suất lợi tức cao và ngược lại. Ta thấy giới hạn tối đa của tỷ suất lợi tức Z'≤P' nghĩa là tỷ suất lợi tức lớn nhất chỉ có thể bằng tỷ suất lợi nhuận.
1.4.2.4. Lợi nhuận ngân hàng.
Ngân hàng tư bản chủ nghĩa là tổ chức kinh doanh tư bản iền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Lợi tức gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay, hình thành lợi nhuận ngân hàng.
Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác của kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận bình quân.
Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động. Do đó lợi nhuận ngân hàng được phân chia theo tỷ suất lợi nhuận bình quân.
1.4.2.5. Địa tô tư bản chủ nghĩa.
Tư bản kinh doanh trong nông nghiệp thu được lợi nhuận bình quân, tư bản kinh doanh ruộng đất là nhà tư bản hoạt động. Do đó lợi nhuận của họ vận động theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ. Ngoài lợi nhuận bình quân, nhà tư bản còn thu được một phần lợi nhuận siêu ngạch nằm ngoài lợi nhuận bình quân phải trả cho địa chủ dưới hình thức địa tô tư bản, vậy địa tô tư bản xét về bản chất là phần giá trị thặng dư siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất trả cho địa chủ dưới hình thái địa tô.
Giá trị thặng dư siêu ngạch trong nông nghiệp là một hình thức tương đối dài và ổn định vì nó dựa trên tính chất kiên cố của ruộng đất và độ màu mỡ của đất đai. Do tính độc quyền kinh doanh ruộng đất mà giá trị thặng d siêu ngạch không bình quân hoá, lợi nhuận siêu ngạch này phải chuyển hoá thành địa tô siêu ngạch.
1.4.3. Quá trình chuyển hoá từ giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất.
Tiền đề của giá cả sản xuất là sự tồn tại của một tỷ suất lợi nhuận chung, mà tỷ suất lợi nhuận chung này lại giả định rằng, bản thân các tỷ suất lợi nhuận trong mỗi khu vực sản xuất riêng biệt ấy đều bằng k/m và đều phải được xuất phát từ giá trị hàng hoá. Như vậy giá cả sản xuất của hàng hoá là bằng chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân.
Giá cả sản xuất = K + P.
Giá trị biến thành giá cả sản xuất cần có các điều kiện: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển, sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác. Trước khi xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá xoay quanh giá trị hàng hoá. Bây giờ giá cả hàng hoá lại xoay quanh giá cả sản xuất. ở một số ngành giá cả sản xuất và giá trị có thể không bằng nhau, nhưng toàn xã hội thị trường giá cả sản xuất bằng tổng giá trị hàng hoá. Như vậy, trong mối quan hệ này giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường.
Thực chế hoạt động quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
1.4.4. ý nghĩa về lý luận lợi nhuận của Mác.
Lý luận lợi nhuận của Mác nằm trong lý luận giá trị thặng dư. Lý luận giá trị thặng dư được trình bày trong bộ "Tư bản" là hòn đá tảng của học thuyết Các Mác. Nhờ có học thuyết này mà toàn bộ bí mật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được vạch trần mà nó trở thành một trong hai căn cứ để biến chủ nghĩa xã hội không trưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong lý luận của mình, Các Mác đã không những kế thừa những hạt nhân hợp lý của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển mà còn phát triển nó một cách xuất sắc. Các nhà cổ điển đã chuyển việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Nhưng do không hiểu được điểm của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cho nên họ không thể giải quyết được cả vấn đề tư bản lẫn vấn đề lợi nhuận. Mác sau khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa như là sự thống nhất giữa giai đoạn sản xuất tư bản chủ nghĩa, ông quy được lợi nhuận thành giá trị thặng dư, tức là nghiên cứu lợi nhuận dưới hình thái chung nhất của nó. Sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng giống như sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị trao đổi. Lợi nhuận là sự biểu hiện, tức "hình thái biến tướng" của giá trị thặng dư.
Chương II
Vai trò của lợi nhuận
trong nền kinh tế thị trường
2.1. Theo đuổi mức lợi nhuận nhuận cao là mục đích của mọi nền kinh tế.
Lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Hai thời đại kinh tế khác nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế tự nhiên là loại hình kinh tế tiến hành sản xuất sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của người sản xuất. Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển, lao động thủ công chiếm địa vị thống trị, loài người đã sử dụng kiểu tổ chức kinh tế này để giải quyết các nhu cầu của từng gia đình, một công xã hay trong quy mô nhỏ, không cho phép mở rộng quan hệ với các đơn vị khác. Vì vậy nó có tính bảo thủ, trì trệ, bị giới hạn ở nhu cầu hạn hẹp, kỹ thuật thủ công hết sức lạc hậu, khép kín.
Khi sự phân công lao động xã hội đã được mở rộng. Mỗi người sản xuất chỉ chuyên sản xuất một hay một số loại sản phẩm. Lúc này năng suất lao động bắt đầu tăng lên nhưng mỗi người để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình, họ cần nhiều loại sản phẩm. Vì vậy đòi hỏi họ phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau. Hơn nữa, do sự cách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất, do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất qui định. Trong điều kiện này, người sản xuất tự quyết định lấy công việc sản xuất của mình, nó chia rẽ những người sản xuất với nhau. Nếu người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì họ phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở thành hàng hoá, nền kinh tế hàng hoá xuất hiện.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường Giáo trình kinh tế chính trị Mác Lênin. NXB Giáo dục 1998. Tr.68
. Kinh tế hàng hoá bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá giản đơn ra đời khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước chuyển dịch thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Nền kinh tế hàng hoá dựa trên phân công lao động xã hội, sản xuất được chuyên môn hoá do đó năng suất lao động cao hơn, có nhiều sản phẩm hơn, hiệp tác hoá ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó, nó xoá bỏ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế tự nhiên, đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động. Nền kinh tế hàng hoá được điều tiết bởi cơ chế thị trường hay vận động theo cơ chế thị trường. Hơn nữa tính tách biệt kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Muốn vậy, buộc họ phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu của xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng... kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, gắn sản xuất với thị trường kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định. Kinh tế thị trường cũng trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn thị trường sơ khai, hay giã man). Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển diễn ra theo tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Sự phát triển của kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển khi nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường sẽ kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng hoá, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Sự phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35004.doc