Đề tài: "Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và
vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường"
Đặt vấn đề:
Học thuyết giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến vĩ đại của Mác. Dựa vào học thuyết giá trị thặng dư, Mác là người đầu tiên đã phân tích một các khoa học, sâu sắc, có ý nghĩa cả về kinh tế và chính trị nguồn gốc của lợi nhuận. Trước Mác, các nhà cổ điển Anh từ A. Smith đến Ricardo đều mới dừng lại ở lý thuyết tiền công mà chưa đưa ra được một luận chứng về nguồn gốc của lợi nhu
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận. Sang thế kỷ 20, nhiều nhà kinh tế học đã đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau, song tựu chung đều nhằm biện hộ cho lợi nhuận, khẳng định sự tồn tại đương nhiên và hợp lý của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Phạm trù giá trị thặng dư không phải riêng có của chủ nghĩa tư bản, nó tồn tại như là một bước tiến của xã hội mà ở đó năng suất lao động vượt khỏi lao động tất yếu của họ, nó là nguồn gốc của tích luỹ dễ mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh doanh, là nguồn gốc của sự giàu có văn minh.
Mác đã cho chúng ta phương pháp luận có tính phướng hướng vận dụng những tư tưởngvà nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dư vào thực tiễn xã hội mới.
Vận dụng lý luận của Mác vào thực tiễn xã hội mới, có nội dung kinh tế -xã hội mới, cần phải xem xét lợi nhuận là một thực tế hiển nhiên, có ý nghĩa kinh tế hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vấn đề tối đa hoá lợi nhuận mang tính quyết định thái độ ứng xử của doanh nghiệp trên thị trường. Vì thế, lợi nhuận có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết 3 vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào?
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế mới, nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần (trong đó có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa), khái niệm lợi nhuận, khái niệm bóc lột mang nội dung mởi mẻ, khác hơn nhiều; vì thế không tránh khỏi những sai lầm tồn tại trong việc thực hiện phân phối thu nhập, phân phối lợi nhuận cần giải quyết.
Vì vậy cần phải nhận thức đúng bản chất của lợi nhuận và ý nghĩa của nó trong đời sống kinh tế.
II- Nội dung:
A- Lý luận về lợi nhuận.
1. Quá trình phát triển lý luận về lợi nhuận.
Mác là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh lý luận về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong đó đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư. Nhưng trong lịch sử thế giới thì chủ nghĩa trọng thương là học thuyết kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản nhằm nghiên cứu và giải thích về mặt lý luận nhưng vấn đề về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới cố gắng nhận thức chủ nghĩa tư bản và tìm ra nguồn gốc đầu tiên c ủa sự làm giàu tư bản đó là lợi nhuận thương nghiệp, như Marl đánh giá "cái đó một phần do tư bản thương nghiệp là hình thái tồn tại tự do đầu tiên của tư bản nói chung.... nó xuất phát từ những hiện tượng bề ngoài của quá trình lưu thông, khi những hiện tượng đó trở thành độc lập trong sự vận động của tư bản thương nghiệp". Những người trọng thương cho rằng, lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt như chiến tranh. Người này thu được lợi thì sẽ làm cho kẻ khác bị thiệt đi. Dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác. Trong trao đổi phải có một bên được, một bên thua. Đó chính là hạn chế của chủ nghĩa trọng thương mà sau này Mác đã chỉ rõ: việc trao đổi không ngang giá không tạo ra giá trị thặng dư hay lợi nhuận, đó chỉ là sự làm giàu của một nhà tư bản cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm giàu của toàn bộ giai cấp tư sản. Như Mác nói là toàn bộ các nhà toàn bộ của một nước không thể làm giàu trên lưng giai cấp của mình".
Do xuất phát từ hiện tượng bề ngoài của quá trình lưu thông nên chủ nghĩa trọng thương có hạn chế về nhận thức nguồn gốc của lợi nhuận và vì thế với việc nghiên cứu lý luận chuyển từ quá trình lưu thông sang lĩnh vực sản xuất; lợi ích kinh tế của giai cấp tư sản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất, thời kỳ tích luỹ ban đầu của chủ nghĩa tư bản và thời kỳ sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu thì chủ nghĩa trọng thương cũng bắt đầu tan rã và sụp đổ.
Cùng với sự vận động và phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa, chính trị kinh tế học cổ điển Anh ra đời, thể hiện những tiến bộ trong lý luận. Họ đã nghiên cứu để vạch ra bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và có những bước tiến đáng kể trong lý luận về lợi nhuận. W. Petty đi sâu giải thích nguồn gốc đầu tiên của thu nhập tư bản chủ nghĩa ông rút ra là công nhận được v (tiền lương) số còn lại là lợi nhuận của địa chủ. Petti hiểu r (địa tô) là một khoản thặng dư do nhà kinh doanh bàn rút được ngoài số thời gian lao động tất yếu, nó ngang với sản phẩm thặng dư nhưng ông vẫn đồng nhất m với hình thái của nó: đồng nhất m với r và không rút ra được lợi nhuận của kinh doanh ruộng đất. Adam Smith tiến xa hơn Petti ông đã có quan niệm đúng; tiền lương (v), lợi nhuận (P) và địa tô (R ) là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập. Theo A.Smith lợi nhuận là "khoản khấu trừ thứ hai" vào sản phẩm của lao động. Ông phân tích lợi nhuận trên cơ sở cho rằng ngày lao động của công nhân được chia thành hai phần: một phần bù lại v và phân kia là p tính theo số tư bản đầu tư Mác đánh giá cao A.Smith đã "nêu được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư, đẻ ra từ lao động..." thấy được p, r, z chỉ là hình thái khác nhau của m. Đó cũng là thành tựu của kinh tế chính trị học tư bản trong thời kỳ tiến bộ của nó.
Khác với chủ nghĩa trọng nông, A.Smith cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Smith cho rằng lợi nhuận tăng hay giảm tuỳ thuộc vào sự giàu có tăng hay giảm của xã hội, ông thừa nhận sự đối lập giữa tiền công và lợi nhuận, đồng thời nhận ra " khuynh hướng thường xuyên đi đến chỗ ngang nhau" của tỷ suất lợi nhuận trên cơ sơ cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận giảm dần. Theo ông tư bản đầu tư càng nhiều thì p' càng thấp: tư bản lớn thu được lợi nhuận lớn nhưng với p' nhỏ. Theo Marl thì tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp là tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan như: m', sự tiết kiệm tư bản bất biển, cấu tạo hữu cơ của tư bản, tốc độ chu chuyển tư bản.
Smith có những hạn chế là không thấy được sự khác nhau giữa m và p, cho rằng p do toàn bộ tư bản bỏ ra, vì vậy nhầm lẫn những nhân tố ảnh hưởng đến m', ông còn cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực lưu thông đều đề ra p như nhau, coi p trong phần lớn trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản (nhầm lẫn p do công nhân sáng tạo ra - nhầm lẫn z và p); ông cho p là một trong những nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như mọi giá trị trao đổi.
Các nhà cổ điển Anh, tư Adam Smith đến Ricardo, đều có những bước tiến mới nhưng vẫn gặp "khủng hoảng" trong lý luận. Ricardo có những bước tiến xa so với Smith. Ông đã tìm thấy sự bóc lột công nhân là nguồn gốc của lợi nhuận, nguồn gốc p là do lao động tạo ra xác định. Ông cũng thấy được sự đối lập trong sự vận động lên xuống giữa v và p. Ông tiến gần tới lợi nhuận bình quân nhưng vì không hiểu giá cả sản xuất nên không giải quyết được.
Kinh tế tư sản cổ điển Anh đều gặp phải thất bại, chưa đưa ra được một luận chứng thực sự khoa học về nguồn gốc của lợi nhuận; song trường phái kinh tế chính trị học cổ điển Anh được coi là một nguồn gốc của chủ nghĩa Marl mà bản thân Ricando đã đạt tới đỉnh cao nhất, được Mác đánh giá cao, được Mác coi là "cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển". Trong lĩnhvực kinh tế, "một chuỗi của cải mà D.Ricardo không vượt qua được phải chờ đến Mác mới giải quyết được. Song lý luận của Ricardo đã đạt gần tới chân lý mà sau này được Mác kế thừa phát triển trở thành hoàn thiện khoa học.
Robvt Owen, người đại diện cho chủ nghĩa xã hội không tưởng lại phê phán lợi nhuận, coi đó là một cái gì đó không đúng đắn bất công, làm tăng giá cả và là nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng thừa. Prondhon lại nêu ra một công thức nổi tiếng "quyền sở hữu, đấy là của ăn cắp".
Song thế kỷ 20, nhiều nhà kinh tế học đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau, song tựu chung đều nhằm biện hộ cho lợi nhuận, khẳng định sự tồn tại đưong nhiên và hợp lý của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Theo A.Marshall thì lợi nhuận là tiền công trả cho năng lực điều hành và tổ chức hoạt động kinh doanh.
F.H.Knight, đưa ra luận thuyết: "lợi nhuận là kết quả của sự không chắc chắn. J.F.Weston đệ tử của Knight đã định nghĩa: tính không chắc chắn là kết quả của sự khác biệt giữa thu nhập thực tế nhận được và thu nhập mong muốn.
Quan điểm của J.schompeter lại hoàn toàn khác, ông này cho rằng lợi nhuận là kết quả của mọi sự cách tân, cụ thể là sự đổi mới của chức năng sản xuất, của sản phẩm, của công nghệ và phương pháp tổ chức sản xuất....
Vậy thực chất nguồn gốc của lợi nhuận là gì? Cơ sở khoa học của vấn đề và ý nghĩa kinh tế của phạm trù lợi nhuận trong thực tiễn như thế nào, cần phải đi vào nghiên cứu lý luận của Marx Tư bản quyển I tập I
cơ sở lý luận của mọi khoa học.
2. Lý luận của chủ nghĩa Mác.
2.1. Lợi nhuận và quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư.
Mác nghiên cứu lợi nhuận bắt đầu từ phạm trù giá trị thặng dư.
Theo Mác, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, xét về mặt lý thuyết là quá trình hình thành giá trị nó bao gồm 2 giai đoạn: một giai đoạn tái sinh giá trị cũ (bao gồm giá trị đã tiêu dùng: giá trị tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động), một giai đoạn sản xuất ra giá trị mới Kinh tế chính trị Mác -Lênin tập 1
giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân tạo ra, là giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động. Việc sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là việc sản xuất ra giá trị, kéo dài quá hạn một điểm nào đó. Nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do tư bản trả tiền, lại được thay thế bằng một vật ngang giá mới, thì chỉ có sản xuất giá trị giản đơn thôi, khi quá trình lao động vượt qua các điểm đó thì có sản xuất giá trị thặng dư.
Có người cho rằng nhà tư bản thu được giá trị thặng dư là do không trả đúng giá trị sức lao động. Marx đã chứng minh điều ngược lại, nhà tư bản vẫn trả đúng giá trị sức lao động (tiền lương v) và vẫn thu được phần thặng dư ra ngoài giá trị sức lao động m. Tai sao vậy? Theo Marx, giá trị của sức lao động và giá trị mà nó có thể tạo ra là hai lượng khác nhau đó là do công dụng đặc biệt của hàng hoá Tư bản quyển 3 tập 1
sức lao động "công dụng là nguồn sinh ra giá trị, và là nguồn sinh ra một giá trị nhiều hơn giá trị bản thân nó.
Như vậy, sức lao động đang hoạt động không những chỉ tái sản xuất ra giá trị nhiều hơn thế nữa. Các giá trị thặng dư đó là các phần trội hơn của giá trị sản phẩm so với giá trị những nhân tố đã tiêu dùng của sản phẩm đó, tức là so với giá trị của những tư liệu sản xuất và sức lao động. Từ đó, Marx rút ra công thức: GT = c+v+m
(Giá trị = giá trị cũ c + giá trị mới (v+m)
Giá trị hàng hoá biểu thị bằng công thức trên, nếu trừ đi giá trị thặng dư m, thì chỉ còn lại cái ngang giá , tức là giá trị nằm trong hàng hoá, thay thế cho giá trị tư bản c+v đã chỉ ra dưới hình thái các yếu tố sản xuất.
Đối với nhà tư bản, họ không phải hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá, họ bỏ ra tư bản để mua tư liệu sản xuất và thuê công nhân nên họ chỉ quan tâm đến bộ phận tư bản họ phải tiêu dùng. Nên, đối với các nhà tư bản thì chi phí hàng hoá tính theo chi phí về tư bản. Chi phí mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá và chi phí của bản thân việc sản xuất hàng hoá đó là hai lượng hoàn toàn khác nhau. Marx gọi đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) và công thức GT = c + v+m chuyển hoá thành CT = k + m (giá trị hàng hoá = chi phí sản xuất + giá trị thặng dư).
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hoá (c +v) (c+ v+ m); nó không phản ánh đúng hao phí lao động xã hội cần thiết sản xuất ra hàng hoá, và nó không tạo ra giá trị hàng hoá, như Marx viết "phạm trù chi phí sản xuất không có quan hệ gì với sự hình thành giá trị hàng hoá cũng như không có quan hệ gì với quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị".
Phạm trù chi phí sản xuất đã làm mất đi sự khác nhau giữa c và v; chi phí lao động bị che lấp bởi chi phí tư bản, bộ phận v nguồn gốc tạo ra m được nhập vào trong toàn bộ tư bản ứng trước l + v nên người ta thấy dường như l sinh ra m. Việc hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã che đậy thực chất bốc lột tư bản chủ nghĩa, bóc lột sức lao động. Hoạt động của nhà tư bản là bỏ chi phí sản xuất (k) và thu được tiền lãi sau khi đem sản phẩm được sản xuất bán ra ngoài thị trường, tức là thu được lợi nhuận. Vì thế họ không quan tâm đến giá trị thặng dư mà chỉ quan tâm đến lợi nhuận và quan niệm lợi nhuận là do toàn bộ tư bản (chi phí sản xuất) sinh ra.
"Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, mang hình thái biến tướng là lợi nhuận".
Đối với nhà tư bản, số giá trị tăng thêm là kết quả của quá trình sản xuất mà tư bản đã tiến hành, vậy số thăng ra đó là do bản thân tư bản sinh ra. Đối với tư bản đã chi phí vào sản xuất thì hình như giá trị thặng dư đều do những yếu tố giá trị khác nhau của tư bản đó, tức là tư liệu sản xuất và lao động sinh ra, vì những yếu tố ấy đều gia nhập như nhau vào trong việc cấu thành ra chi phí sản xuất. Vì vậy họ cho rằng lợi nhuận sinh ra vì một số giá trị được dùng làm tư bản, không phân biệt đó là lượng bất biến hay khả biến.
Ký hiêụ lợi nhuận là p; công thức GT = k +m chuyển hoá thành GT = k +p.
Thoạt nhìn ta thấy rằng lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng là một: lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần biến hoá của giá trị thặng dư, hình thái mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất nhiên phải đẻ ra. Vì trong sự hình thành chi phí sản xuất, như nó nổi lên ở bề ngoài hiện tượng, không thể thấy được sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến, cho nên nguồn gốc của sự thay đổi giá trị xảy ra trong quá trình sản xuất phải chuyển từ một bộ phận khả biến của tư bản sang toàn bộ tư bản. Vì ở một cực, giá cả sức lao động biểu hiện ra dưới hình thái biến tường là tiền công nên ở cực đối lập, giá trị thặng dư biểu hiện ra dưới hình thái biến tường là lợi nhuận thực chất, về định lượng, p chỉ bằng m trong trường hợp hàng hoá được bán theo giá trị của nó. Khi đó, lợi nhuận bằng phần giá trị thừa ra ngoài chi phí sản xuất, tức là bằng toàn bộ m chứa đựng trong giá trị hàng hoá. Điều đó không có nghĩa là phải có sự lừa bịp (mua rẻ, bán đắt) thì mới thu được lợi nhuận, trái lại dù giá bán thấp hơn giá trị, chừng nào giá bán còn cao hơn chi phí sản xuất của nó) thì vẫn thực hiện một bộ phận m chứa đựng trong nó, tức là có lợi nhuận.
Lợi nhuận mà nhà tư bản có được là do chở hẳn bán cái mà hẳn không phải trả tiền. Lao động thặng dư chứa đựng trong hàng hoá không tổn phí gì cho nhà tư bản cả, mặc dầu nó cũng làm cho người công nhân phải tốn kém lao động như phần lao động được trả công. "Giá trị thặng dư, hay lợi nhuận chính là phần giá trị thăng ra của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần thăng dư của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được trả công.
Tỷ số giữa phần thặng dư đó với tổng số tư bản đã ứng ra m/k hay m/c+v chính là tỷ suất lợi nhuận; khác với tỷ suất giá trị thặng dư m/v.
Giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư là một cái gì tương đối không thể nhìn thấy được, còn tỷ suất lợi nhuận và do đó lợi nhuận lại lộ ra ở bề mặt của hiện tượng mà nhà tư bản quan tâm.
Đối với nhà tư bản cá biệt, rõ ràng việc duy nhất mà thặng dư mà họ thu được khi bán hàng, với tổng tư bản mà họ ứng ra để sản xuất, trái lại họ không những không quan tâm đến tỷ số đích xác giữa phần thặng dư đó với một bộ phận riêng biệt của tư bản và mối quan hệ bên trong của các phần thừa ra ấy với những bộ phận này mà còn có lợi trong việc che đậy các tỷ số đó và mối quan hệ bên trong đó.
Mặt khác, phần thặng dư của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất là do quá trình sản xuất trực tiếp sinh ra, nhưng nó chỉ được thực hiện trong quá trình lưu thông. Thành thử đối với nhà tư bản cá biệt, giá trị thặng dư mà bản thân họ thực hiện được vừa do những sự lừa bịp lẫn nhau lại vừa do sự bóc lột trực tiếp lao động quyết định. Cho nên nếu chỉ nhìn ở bên ngoài lưu thông (như chủ nghĩa trọng thương) thì chỉ nhận thấy được hiện tượng cá biệt, sự việc lại càng dễ có vẻ như là lợi nhuận do quá trình lưu thông sinh ra.
Cho nên chúng ta phải đi từ bản chất bên trong của vấn đề và tìm ra thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
2.2. Thực chất của lợi nhuận (tỷ suất lợi nhuận) là sự che dấu quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Như trên ta đã nói, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khác nhau giữa tư bản bất biến c và tư bản khả biến v. Vì thế tất cả các yếu tố của tư bản đều cùng có vẻ là nguồn sinh ra giá trị dư ra (lợi nhuận) nên quan hệ tư bản chủ nghĩa đã bị thần bi hoá.
Khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận một lần nữa càng che dấu thực chất quan hệ bóc lột và nguồn gốc của nó.
Vì trong tỷ suất lợi nhuận, giá trị thặng dư được tính so với tổng số tư bản và vì giá trị thặng dư được đem đối chiếu với tổng tư bản xem đó là cái thước tính, vì vậy mà hình như bản thân giá trị thặng dư lại do toàn bộ tư bản đẻ ra, hơn nữa lại do tất cả các bộ phận của tổng tư bản đẻ ra một cách ngang nhau, nên trong khái niệm lợi nhuận, người ta không còn thấy sự khác nhau hữu cơ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Vì lẽ đó, giá trị thặng dư một khi đã biến thành lợi nhuận thì quả thật tự nó đã xoá bỏ nguồn gốc của nó và đã mất tính chất cuả nó, thành thử người ta không nhận ra nó nữa.
Trong thực tế, người ta biết giá trị thặng dư là bao nhiêu, nhưng biết nó dưới hình thái là số thặng dư của giá bán hàng hoá so với chi phí sản xuất của hàng hoá, còn phần thặng dư ấy do đâu mà có thì vẫn là một điểm bí ẩn, do bóc lột lao động trong quá trình sản xuất, do lừa bịp những người mua trong quá trình sản xuất, do lừa bịp những người mua trong quá trình lưu thông hay là do cả hai việc đó?
Do đó, dưới hình thái biến tướng là lợi nhuận, nguồn gốc của nó và điều bí ẩn về sự tồn tại của nó bị che lấp và lu mờ.
Mặt khác, đối với nhà tư bản, họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có, thể hiện ra ở sự không nhất trí về lượng giữa p và m nên càng che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Thực tế, xét trên toàn bộ giai cấp tư sản thì lợi nhuận mà nhà tư bản thực hiện được là do sự bóc lột trực tiếp lao động quyết định. Còn phần thặng dư do bán được hàng cao hơn giá trị của nó, chỉ nói lên sự làm giàu của tư bản cá biệt, nói lên sự trao đổi hay làm lợi cá nhân Tư bản quyền 3 tập III
, còn như Mác nói "các nhà tư bản của một nước không thể làm giàu trên lưng giai cấp mình".
* Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và sự che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa của các phạm trù trên.
Như đã nói ở phần trên, trước Mác, Ricardo cũng đã tiến tới gần lợi nhuận bình quân như vì không hiểu giá cả sản xuất nên không giải quyết được.
Chính "cửa ải" này Ricardo đã không vượt qua được và chờ đến Mác mới được giải quyết.
Mác nhận thấy rằng những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản xuất khác nhau, lúc đầu rất khác nhau. Mác phân tích rằng vì những tư bản đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau có cấu tạo hữu cơ khác nhau, vì có những tư bản bằng nhau lại sử dụng những số lượng lao động rất khác nhau nên tuỳ theo tỷ số phần trăm khác nhau của bộ phận khả biến so với tổng tư bản một lượng nhất định mà những tư bản bằng nhau chiếm hữu được những lượng lao động thặng dư rất khác nhau.
Nhưng do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng đi thành một tỷ suất lợi nhuận chung, đó chính là con số bình quân của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó.
Từ đó Mác đưa ra khái niệm lợi nhuận bình quân: "lợi nhuận mà một nhà tư bản có một lượng nhất định thu được, căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận chung, không kể cấu thành hữu cơ của nó như thế nào, gọi là lợi nhuận bình quân".
Quá trình "san bằng" các tỷ suất lợi nhuận khác nhau thành một tỷ suất lợi nhuận chung, được Mác mô tả như sau:
Cùng một lượng tư bản đầu tư, nhưng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên hình thành ra những tỷ suất lợi nhuận rất khác nhau. Nhà tư bản không bằng lòng đứng yên ở những ngành, lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp mà đổ xô vào những ngành, lĩnh vực sản xuất khác nhau, tuỳ theo tình trạng tỷ suất lợi nhuận hạ xuống ở chỗ này và tăng lên ở chỗ kia nên tư bản đã tạo nên một tỷ lệ giữa cung và cầu, mà sự tự do di chuyển tư bản từ ngành (hay lĩnh vực) này sang ngành (hay lĩnh vực) khác làm cho lợi nhuận bình quân trong các lĩnh vực sản xuất khác nhau đều trở thành bằng nhau.
Qua sự phân tích quá trình hình thành và phát triển cho thấy quyết định tỷ suất lợi nhuận chung là do hai nhân tố:
1. Do cấu thành hữu cơ của tư bản trong các khu vực sản xuất khác nhau và vì thế, do các tỷ suất lợi nhuận khác nhau của các khu vực sản xuất cá biệt.
2. Do cách phân phối tổng tư bản xã hội cho các khu vực khác nhau đó, tức là do lượng tương đối của tư bản đầu tư trong mỗi khu vực cá biệt, và vì vậy mà có một tỷ suất lợi nhuận riêng biệt, tức là do các bộ phận tương đối của khối lượng tổng tư bản xã hội đã được mối khu vực sản xuất cá biệt thu hút.
Việc hình thành lợi nhuận bình quân làm xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất: "giá cả của một hàng hoá, bằng chi phí sản xuất của nó cộng thêm phần lợi nhuận bình quân hàng năm của tổng tư bản đã sử dụng vào việc sản xuất hàng hoá, tuỳ theo điều kiện chu chuyển tư bản, giá cả đó gọi là giá cả sản xuất".
Giá cả sản xuất của hàng hoá đã phát triển thành một hình thái chuyển hoá của giá trị. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất; quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá xoay quanh giá trị hàng hoá, nhưng khi xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá lại xoay quanh giá cả sản xuất. ở mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị có thể không bằng nhau, nhưng giá cả sản xuất của tổng sản phẩm xã hội phải bằng tổng giá trị của nó. Và đối với những tư bản có cấu thành trung bình hay gần như trung bình, giá cả sản xuất hoàn toàn nhất trí hay gần như nhất trí với giá trị.
Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Như phần trên đã nói tới, giá trị thặng dư và lợi nhuận, nếu xét về mặt khối lượng là bằng nhau (nếu hh bán theo giá trị của nó), nhưng giờ đây khi đã hình thành một tỷ suất lợi nhuận chung thì không những tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư mà cả lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng là những lượng thực sự khác nhau, vì thế càng che lấp nguồn gốc của lợi nhuận, che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Khi lợi nhuận "san bằng" thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất hình thành, với sự chuyển hoá giá trị thành giá cả sản xuất thì bản thân cái cơ sở của sự quy định giá trị cũng bị che lấp đi. Do đó, nhà tư bản quên mất khái niệm về giá trị và họ không trông thấy tổng lao động đã hao phí trong việc sản xuất hàng hoá mà chỉ thấy phần hao phí mà họ bỏ tiền ra trả dưới hình thức tư liệu sản xuất, cho nên nhà tư bản thấy lợi nhuận như là một cái gì đứng ngoài giá trị nội tại của hàng hoá . Và nếu nhà tư bản bán hàng hoá của mình theo giá cả sản xuất thì họ thu được một số tiền ngang với giá trị của tư bản mà họ đã tiêu dùng trong sản xuất và thu được một lợi nhuận tỷ lệ với số tư bản đã ứng ra với tư cách là một bộ phận nhất định của toàn bộ tư bản xã hội.
Cho nên bây giờ nếu xét một ngành sản xuất cá biệt, lợi nhuận người ta đem cộng vào chi phí sản xuất, thực tế được quyết định không phải do những giới hạn của quá trình sáng tạo ra giá trị tiến hành ở trong ngành sản xuất, tức không tuỳ thuộc vào điều kiện của khu vực sản xuất riêng biệt, mà được quyết định do những điều kiện nằm ở bên ngoài, nó chỉ là con số bình quân mà mỗi phần trăm của tư bản bỏ ra đã thu được.
Qua phân tích trên cho thấy, các phạm trù tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất đã che đậy không cho người ta thấy rõ vai trò thực sự của tư bản khả biến (giá trị sức lao động) trong việc làm giàu của nhà tư bản, đồng thời làm thần bí hoá toàn bộ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
3. Làm rõ hơn sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và phân phối giá trị thặng dư (lợi nhuận) trong điều kiện tư bản chủ nghĩa hiện đại.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản hiện đại có nhiều biểu mới nhưng bản chất bóc lột giá trị thặng dư không vì thế mà không còn, những cái móc trong sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Tỷ suất giá trị thặng dư ngày càng tăng một cách tinh vi bằng phương pháp nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
- Không chỉ bóc lột công nhân lao động giản đơn mà chủ yếu là bóc lột công nhân và người lao động có lao động trí tuệ cao (lao động quản lý và lao động kỹ thuật).
- Bóc lột các nước kém phát triển thông qua xuất khẩu hàng hoá, xuất khẩu tư bản, xuất khẩu kỹ thuật, xuất khẩu ô nhiễm môi trường... theo nhiều cách khác nhau.
Phương pháp bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày nay dù có bị những tiến bộ kỹ thuật hiện đại, những nhà máy tự động không người làm lu mờ đi đến đâu cũng chỉ là những hình thức hiện đại của giá trị thặng dư tương đối mà thôi.
Có người cho rằng ngay nay công nhân ở các nước tư bản phát triển cũng mua cổ phiếu và trở thành cổ đông cùng sở hữu với người chủ, đại bộ phận người lao động đã hữu sản hoá, vì thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thay đổi, khái niệm giá trị thặng dư không đúng nữa. Nhưng dù thế nào không thể nhầm lẫn hiện tượng và bản chất bởi vì những người lao động có một số ít cổ phiếu không thể đồng nhất với nhà tư bản thực lợi nắm trong tay một khối lượng lớn cổ phiếu, hơn nữa, số lợi từ việc có cổ phiếu đó chỉ là một phần giá trị thặng dư do chính lao động của họ tạo ra.
Còn về vấn đề phân phối lợi nhuận: Trong hệ thống tham dự phân phối lợi nhuận trước đây. Mác cho rằng chỉ có giai cấp sở hữu ruộng đất và giai cấp tư sản tham dự phân phối . Nhưng trong chủ nghĩa tư bản đương đại, một bộ phận không nhỏ giai cấp công nhân có cổ phần và trở thành cổ đông của các Công ty cổ phần, họ cũng là một thành phần tham dự phân phối lợi nhuận (mặc dù số lợi nhuận không lớn). Tất nhiên sự xuất hiện hiện tượng này , lý thuyết phân phối lợi nhuận của Mác không vì thế mà hoàn toàn không có ý nghĩa nếu xét về thực chất và theo quy luật số lớn chiếm trong tổng lợi nhuận.
Ngày nay, với sự điều tiết giá trị thặng dư của Nhà nước tư sản qua thuế và sử dụng nó thông qua quỹ phúc lợi... cũng tạo nên một số thu nhập nào đó đối với người lao động. Bên cạnh đó, trong điều kiện quốc tế hoá, việc phân phối giá trị thặng dư cũng diễn ra trên phạm vi quốc tế dưới các hình thức lợi nhuận, lợi tức, địa tô giữa các quốc gia có liên quan. Quan hệ phân phối giá trị thặng dư ngày nay rất phức tạp và đa dạng. Cần tiếp tục nghiên cứu và phát triển Học thuyết giá trị thặng dư trong thời đại ngày nay.
.
4. Vấn đề phân phối sản phẩm thặng dư ở chủ nghĩa xã hội.
ở xã hội xã hội chủ nghĩa, mọi cá nhân thành viên trong xã hội đều có quyền đối với tất cả những tư liệu sản xuất đó. Về nguyên tắc sản phẩm thặng dư thuộc về người sáng tạo ra nó, tức thuộc về cá nhân chủ sở hữu sức lao động, đồng thời là thành viên sở hữu tư liệu sản xuất. Nhưng cá nhân đó, bản thân lại là kết quả của những quan hệ sản xuất. Những quan hệ sản xuất thống nhất quy định sự phân chia kết quả lao động được sáng tạo ra. Vì vậy, phân chia giá trị thặng dư ở chủ nghĩa xã hội như sau:
- Một phần sản phẩm thặng dư được đóng góp vào quỹ xã hội dùng cho các chi phí chung về quản lý, chi phí đảm bảo cuộc sống cho những người không có khả năng lao động, những chi phí thoả mãn những nhu cầu chung...
- ở chủ nghĩa xã hội vẫn phải tăng cường đầu tư mở rộng phát triển sản xuất bằng cách phát triển nhân tố tư liệu sản xuất nên một phần giá trị thặng dư dùng để tích luỹ phát triển sản xuất.
- Phần còn lại được dùng cho cá nhân với mục tiêu nâng cao năng lực lao động.
Sự phân chia trên chỉ ra mặc dù về nguyên tắc toàn bộ sản phẩm thặng dư thuộc về cá nhân, thành viên tạo ra nó, nhưng không phải tất cả toàn bộ sản phẩm thặng dư được tiêu dùng riêng. Cá nhân chỉ tiêu dùng riêng một phần sản phẩm thặng dư sau khi đã trừ đi những khoản đóng góp chung cho xã hội. Theo các diễn đạt của Mác "mặc dầu cái mà người sản xuất, đứng về mặt cá nhân, thì bị tước mất, nhưng đứng về mặt thành viên xã hội thì người ấy lại lấy lại được một cách trực tiếp hay gián tiếp".
II- Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Trên đây, chúng ta đã nghiên cứu về bản chất, nguồn gốc của lợi nhuận; vấn đề bóc lột thặng dư trong chủ nghĩa tư bản; vấn đề phân phối sản phẩm thặng dư ở chủ nghĩa tư bản và ở chủ nghĩa xã hội . Sau đây, chúng ta đi tìm hiểu vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, vì sao lợi nhuận được coi là mục đích kinh tế cao nhất, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trước hết, lợi nhuận với tư cách là thu nhập của nhà kinh doanh nên nó là động lực khiến các nhà kinh doanh tìm cách phát triển sản xuất để thu được lợi nhuận cao.
Như ta biết, con người bao giờ cũng ở vào vị trí trung tâm, là nhân tố hàng đầu và quyết định đối với xã hội. Xét về mặt kinh tế, động lực của hành vi con người là nhu cầu vật chất hay lợi ích vật chất, cho nên đảm bảo lợi ích cá nhân là động lực kinh tế trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
Trong nền kinh tế thị trường, cái mà nhà sản xuất kinh doanh quan tâmc trước hết là lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh được thể hiện chủ yếu ở lợi nhuận nhiều hay ít. Lợi nhuận - là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với phí tổn sản xuất.
Trong lịch sử đã có nhiều nhà kinh tế học quan niệm rằng lợi nhuận chính là sự trả công cho những ai dám "mạo hiểm" vay vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh và dám chấp nhận rủi ro, thậm chí phá sản. Để đạt được lợi nhuận tất yếu các nhà sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhau, tìm mọi cách giảm chi phí để thu lợi nhuận cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu nhập là tiền lương, còn khoản thu nhập khác, đó là lợi nhuận và phần này ngày càng tăng lên và ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34997.doc