Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường

Lời nói đầu Trong giai đoạn phát triển hiện nay, Việt Nam vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực cũng như trên Thế giới. Vì cơ chế sản xuất tập trung bao cấp trước đây chúng ta chưa thực sự coi lợi nhuận với tư cách là hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh. Mà sản xuất chỉ để phục vụ Nhân dân chứ không vì mục đích lợi nhuận. Cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận không được tiến hành trên cơ sở căn cứ khoa học và khách quan. Điều đó gây ra

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự bất bình đẳng giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh, hay nói đúng hơn là bất bình đẳng của người lao động, làm mất đi động lực thúc đẩy của đòn bẩy lợi nhuận. Tạo ra một tư tưởng ỷ lại ngày càng lớn của các doanh nghiệp, mất đi tính chủ động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh... làm cho nền kinh tế chậm phát triển. Ngày nay trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội chúng ta đang vận hành theo cơ chế, nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì lợi nhuận chính là quan tòa công minh nhất để đánh giá sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ doanh nghiệp đó sẽ loại khỏi thị trường, ngược lại doanh nghiệp sẽ tiếp tục phát triển ngày càng lớn mạnh. Như vậy lợi nhuận chính là sự sống còn của doanh nghiệp, là động lực phát triển của doanh nghiệp cũng như phát triển kinh tế đất nước. Vì đây là lần đầu tiên em viết về một bản đề án có tính quan trọng như vậy, nên trong đề án không tránh khỏi những thiếu sót khuyết điểm. Em rất mong nhận được sự đánh giá phê bình của các thầy giáo bộ môn, đồng thời em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS Nguyễn An Ninh đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình. Cũng như đã cung cấp cho em phần lớn kiến thức, phương pháp luận và những tài liệu tham khảo cần thiết để hoàn thành bản đề án này một cách tốt nhất. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn. Phần I Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận I. Các quan điểm trước Mac về lợi nhuận: 1. Quan điểm của trường phái trọng thương: Trường phái này ra đời từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII trong điều kiện chế độ phong kiến tan giã, thời kỳ tích lũy nguyên thủy Tư bản ở Tây Âu. Họ là những nhà kinh tế học đầu tiên đi tìm nguồn gốc của lợi nhuận trong lưu thông. Họ đã sống trong thời đại Tư bản tư nhân và ngoài hình thức đó ra họ không biết bất cứ một hình thái Tư bản nào khác, họ cũng không biết một hình thức lợi nhuận nào khác ngoài lợi nhuận Thương nghiệp. Vì Tư bản Thương nghiệp chỉ hoạt động trong lưu thông nên không lấy gì làm lạ khi họ chỉ chú ý đến lưu thông. Theo họ lợi nhuận Thương nghiệp là kết quả do lưu thông, mua bán, trao đổi sinh ra, Đó là kết quả của việc mua rẻ bán đắt mà có. 2. Quan điểm của trường phái trọng nông : Trường phái Chủ nghĩa trọng nông xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII, tức là thời kỳ chuyển từ Chủ nghĩa phong kiến sang Chủ nghĩa tư bản. Cũng là lúc trường phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế từ lĩnh vực lưu thông sang linh vực sản xuất. Đây là một bước tiến bộ so với trường phái trọng thương. Tư tưởng của họ là: sản phẩm thặng dư và cả lợi nhuận nữa đều chỉ được tạo ra trong nông nghiệp. Vì vậy họ chỉ coi lao động trong nông nghiệp là lao động sản xuất, còn mọi lao động khác không những trong Thương nghiệp và cả trong Công nghiệp đều bị họ coi là lao động không sinh lợi. 3. Quan điểm của trường phái cổ điển Anh: Các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh như: Adam Smith và David Ricardo đều phân tích về lợi nhuận trong lao động. Trên thực tế họ đã coi lợi nhuận là kết quả của lao động thặng dư. Nhưng họ không trình bày nguyên lý dó một cách rõ ràng, chưa nêu ra được một lí luận hoàn chỉnh về lợi nhuận. Adam Smith coi ngày lao động của công nhân được chia làm hai phần: một phần bù lại tiền lương cho công nhân phần còn lại là lợi nhuận. Nhưng lại kết luận lợi nhuận là do Tư bản đầu tư sinh ra và cạnh tranh bình quân hoá tỷ xuất lợi nhuận. Còn David Ricardo coi giá trị hàng hoá do công nhân tạo ra luôn luôn lớn hơn tiền lương và lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền lương. Ông thấy được mâu thuẫn giữa tiền lương và lợi nhuận: tiền lương tăng thì lợi nhuận tăng tức là giữa công nhân và tư sản có mâu thuẫn về lợi ích. Nhưng hạn chế của Ricardo là không phân biệt được lợi nhuận và giá trị thặng dư. II. Học thuyết giá trị thăng dư: 1. Sự tạo ra giá trị thăng dư: Trong nền sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích của nhà Tư bản. Mà giá trị sử dụng được sản xuất chỉ vì nó là vật mang giá trị trao đổi. Nhà Tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi, nghĩa là hàng hóa. Hơn nữa nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hóa có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà tư bản bỏ tiền ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất để tạo ra giá trị thăng dư. Chi phí tư bản chủ nghĩa để sản xuất, gồm có hai phần đó là: chi phí về tư bản bất biến và tư bản khả biến, tức là chi phí về tư liệu sản xuất và tiền lương công nghiệp. Đối với tư bản hàng hóa đáng giá bao nhiêu là tính theo tư bản đã tư phí. Đối với xã hội hàng hóa đáng giá bao nhiêu là tính theo lao động đã hao phí. Bởi vậy những chi phí để sản xuất ra hàng hóa thấp hơn giá trị của hàng hóa ấy, tức là thấp hơn những chi phí sản xuất trong thực tế. Chỗ chênh lệch giữa chi phí sản xuất thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thăng dư mà nhà tư bản chiếm không. Để hiểu rõ hơn quá trinh này, ta nghiên cứu bài toán sau đây: Giả định để sản xuất 10 kg sợi cần 10 kg bông, giá trị 10 kg bông là 10000đ. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2000đ. Giá trị sức lao động trong một ngày của công nhân là 6000đ, trong một giờ lao động công nhân tạo ra một giá trị là 1000đ, cuối cùng ta giả định rằng: “Trong quá trình sản xuất toàn bộ bông biến thành sợi”. Vậy nếu người công nhân làm việc trong 6 giờ thì không tạo ra giá trị thặng dư. Tuy nhiên sức lao động mà tư bản phải trả khi mua và giá trị sức lao động có thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau mà tư bản đã tính đến trước khi mua sức lao động trong ngày của công nhân ấy. Việc sử dụng sức lao động của công nhân đó trong ngày tuỳ thuộc vào nhà tư bản. Trên thực tế nhà tư bản bắt công nhân phải làm việc hơn 6 giờ, giả sử 12 giờ trong một ngày. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa: Giá trị của sản phẩm mới (10 kg sợi): Tiền mua bông là 10000đ Giá trị của bông được chuyển vào sợi 10000đ Hao mòn máy móc 2000đ Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi 2000đ Tiền mua sức lao động của công Giá trị lao động của công nhân tao ra trong12h nhân trong 1 ngày 6h là: 6000đ lao động là: 1000đ x 12 = 12000đ ----------------------------------------- --------------------------------------------------------- 18000đ 24000đ Như vậy toàn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao động là 18000đ. Trong 12h lao động, công nhân tạo ra một sản phẩm mới (10 kg sợi) có giá trị bằng 24000đ, lớn hơn giá trị ứng trước của nhà tư bản: 24000 - 18000 = 6000đ. Vậy 18000đ ứng trước chuyển hóa thành 24000đ, đem lại một giá trị thặng dư là 6000đ. Vậy tiền đã biến thành tư bản. Phần giá trị mới dôi ra so với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư. Thông qua việc nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trên, ta thấy rằng: Giá trị sản phẩm mới được sản xuất ra có hai phần: - Giá trị cũ: Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà được bảo tồn và duy chuyển vào giá trị cua sản phẩm mới (24000đ) - Giá trị mới : Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động (6000đ) Như vậy, giá trị thặng dư là giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. 2. Lợi nhuận: Giá trị của hàng hóa sản xuất trong xã hội Tư bản chủ nghĩa bao gồm ba bộ phận: Một là giá trị của tư bản bất biến (c) (một phần giá trị của máy móc, nhà xưởng, giá trị của nhiên liệu, nhiên liệu ... ). Hai là giá trị của tư bản khả biến (v). Ba là giá trị thặng dư (m): lượng giá trị của hàng hóa là do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa quyết định. Nhưng nhà tư bản không hao phí lao động của bản thân vào sản xuất hàng hóa, mà chỉ bỏ tư bản vào đấy mà thôi. Chi phí tư bản chủ nghĩa để sản xuất hàng hóa, gồm có những chi phí về tư bản bất biến và tư bản khả biến (c+v), tức là chi phí về tư liệu sản xuất và tiền lương công nhân. Đối với nhà tư bản, hàng hóa đáng giá bao nhiêu là tính theo tư bản đã chi phí. Đối với xã hội, hàng hóa đáng giá bao nhiêu là tính theo lao động đã hao phí. Bởi vậy những chi phí tư bản chủ nghĩa để sản xuất hàng hóa, thấp hơn giá trị thực tế (c+v+m) mà người công nhân đã tạo ra trong qua trình sản xuất. Chỗ chênh lệch giữa giá trị hay chi phí sản xuất thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giá trị thặng dư (m) mà nhà tư bản chiếm không. Khi nhà tư bản bán hàng hóa do xí nghiệp của mình sản xuất ra, thì giá trị thặng dư biểu hiện thành một số thừa ngoài chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi xác định mức thu nhập của xí nghiệp, nhà tư bản so sánh số thừa đó với tư bản đã ứng trước tức là tổng tư bản đã bỏ vào sản xuất. Giá trị thặng dư khi so sánh với tổng tư bản thì biểu hiện thành hình thức lợi nhuận. Vì giá trị thặng dư đem so sánh không phải với mình tư bản khả biến mà với toàn bộ tư bản cho nên chỗ khác nhau giữa tư bản bất biến dùng vào việc mua tư liệu sản xuất và tư bản khả biến dùng vào việc mua sức lao động bị xóa mờ đi. Do đó mà sinh ra cái vỏ bề ngoài giả dối khiến cho người ta tưởng nhầm rằng: lợi nhuận do tư bản tạo ra. Nhưng sự thật nguồn gốc của lợi nhuận chính là giá trị thặng dư và giá trị thặng dư chỉ là do lao động của công nhân sáng tạo trong quá trình sử dụng sức lao động, mà giá trị của nó biểu hiện ở tư bản khả biến. Lợi nhuận là giá trị thặng dư so sánh với số tư bản đã bỏ vào sản xuất, nhìn bề ngoài giá trị thặng dư có vẻ như là kết quả của số tư bản ấy. Vì vậy Mac gọi lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Và như vậy hình thức lợi nhuận đã che dấu quan hệ bóc lột bằng cách tạo ra quan niệm sai lầm: lợi nhuận là do chính bản thân tư bản tạo ra. Chính các hình thức của quan hệ sản xuất tư bản đã làm lu mờ và che dấu thực chất bóc lột của nhà tư bản. Nếu gọi lợi nhuận là p, thì công thức: Giá thành = c+v+m = k+m sẽ chuyển hóa thành, Gía thành = k+p hay giá trị hàng hóa = chi phí sản xuất + lợi nhuận. Vậy cứ thoạt nhìn người ta thấy rằng p và m cùng là một. Tuy nhiên giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư không phải là hoàn toàn thống nhất mà giữa chúng có sự khác nhau: Về mặt chất: giá trị thăng dư phản ánh nguồn gốc sinh ra từ tư bản lưu động, là biểu hiện của lao động thặng dư, còn lợi nhuận được xem là do toàn bộ tư bản ứng trước tạo ra. Giá trị thặng dư là biểu hiện của quan hệ giai cấp, còn lợi nhuận biểu hiện mối quan hệ giữa vật với vật. Về mặt lượng: nếu hàng hóa bán đúng giá trị của nó thì người ta đã thực hiện được một lợi nhuận rồi. Lợi nhuận đó bằng giá trị thừa ra ngoài chi phí sản xuất, tức là bằng toàn bộ giá trị thặng dư chứa đựng trong giá trị của hàng hóa (m = p). Nhưng nhà tư bản có thể bán hàng hóa dưới giá trị của nó mà vẫn có lợi nhuận. Bởi vì chừng nào giá bán của hàng hóa còn cao hơn chi phí sản xuất của nó, dù giá bán thấp hơn giá trị của nó thì bao giờ cũng thực hiện được một lượng giá trị thặng dư chứa đựng trong đó. Như vậy lợi nhuận là một phạm trù trong lưu thông. Nhà tư bản thu được lợi nhuận nhiều hay ít phụ thuộc vào giá trị hàng hóa. Lợi nhuận xoay quanh giá trị thặng dư cũng như giá cả dao động quanh giá trị nhưng tổng giá trị thặng dư bằng tổng lợi nhuận cũng như tổng giá trị bằng tổng giá cả Tóm lại sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng giống như sự khác nhau giữa giá trị và giá trị trao đổi. Lợi nhuận là sự biểu hiện tức là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư 3. Tỷ suất lợi nhuận: Đối với người chủ xí nghiệp thì mức lãi của xí nghiệp tư bản chủ nghĩa cao hay thấp là do tỷ suất lợi nhuận quyết định và là điều kiện sống còn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá. Tỷ suất lợi nhuận là biểu hiện tỷ số giữa giá trị thặng dư và tòan bộ tư bản ứng trước (P’=m/k), với k = c + v Ví dụ: Nếu tư bản ứng truớc là 20000 dollar, nếu lợi nhuận hàng năm là 40000 dollar, thì tỷ suất lợi nhuận là: 40000/20000.100%= 200%. Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận được hoàn thành ở sự chuyển hóa tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận. Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận đã nằm trong việc chia giá trị của hàng hóa thành chi phí sản xuất kinh tế tăng thêm ngoài chi phí sản xuất, nhưng sự chuyển hóa đó được thực hiện một cách độc lập và đặc thù trong tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận biểu hiện tỷ số giữa số tăng thêm nói trên với toàn bộ tư bản. Do đó, nó củng cố ấn tượng cho rằng lợi nhuận là con đẻ của Chủ nghĩa Tư bản. Dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa, mức bóc lột lao động của người khác mang hình thức mức tăng giá trị biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, như vậy sẽ không tránh khỏi việc phải chuyển tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận bởi vì cả bản thân giá trị lẫn mức tăng giá trị đều chỉ có thể hiện trong lưu thông. Nhưng trong lưu thông còn có sự khác nhau giữa tư bản khả biến và tư bản bất biến, giá trị của hàng hóa chia ra thành chi phí sản xuất và số tăng thêm ngoài chi phí sản xuất. Do đó trong biểu thức về mức độ tỷ số giữa giá trị thặng dư với tư bản khả biến (m/v+c), đã chứa đậy sự chuyển hóa tỷ số ấy thành tỷ số giữa giá trị thặng dư với tổng tư bản (m/c+v) hay (m/k), trên thực tế các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm nhiều hơn đến tỷ suât lợi nhuận. Bởi vì tỷ suất lợi nhuận cho biết nhà tư bản đầu tư vào đâu thì có lợi. Đối với nhà tư bản nếu P’= 100% thì đầu tư được ở khắp nơi, nếu p’= 200% thì sẽ bất chấp cả pháp luật và nếu p’= 300% thì treo cổ nhà tư bản vẫn cứ làm. Do đó, tỷ suất lợi nhuận không chỉ là mục tiêu theo đuổi mà còn là động lực chính, là yếu tố để cạnh tranh, là sự thèm khát vô hạn của các nhà tư bản. Trên thực tế thì tỷ suát lợi nhuận cao hay thấp tùy thuộc vào nhiều nhân tố khách quan như tỷ suất giá thặng dư, tiết kịệm tư bản bất biến, tốc độ chu chuyển.... bởi thế, các nhà tư bản đầu tư ở Việt Nam đang tập trung vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, thu được lợi nhuận nhanh. 4. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân: Trong cạnh tranh dành chỗ đầu tư có lợi nhất, các nhà tư bản cạnh tranh với nhau kịch liệt. Họ muốn đầu tư vào những ngành sản xuất có triển vọng thu được nhiều lợi nhuận hơn trong khi theo đuổi lợi nhuận cao, tư bản chuyển từ ngành này sang ngành khác, kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân và tiến hành phân phối lao động và tư bản sản xuất giữa các ngành sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản suất Tư bản chủ nghĩa, có hai hình thức cạnh tranh chủ yếu la cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành: Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hoá nhằm thu được lợi nhuận siêu nghạch. Cạnh tranh trong nội bộ ngành bụôc các xí nghiệp phải tìm cách giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Kết quả là làm cho điều kiện sản xuất trung bình trong một ngành thay đổi, giá trị của hàng hoá giảm xuống. Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn ử các ngành sản xuất khác nhau, có những điều kiện khác nhau. Do đó tỷ suất lợi nhuận cũng khác nhau. Các nhà tư bản chọn nganh co tỷ suất lợi nhuận cao để đầu tư. Ví dụ: Giả sử trong xã hội có 3 ngành: ngành da, ngành dệt và ngành chế tạo máy móc, với số tư bản bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ thì khác nhau. Tư bản ứng trước trong mỗi ngành là 100 đơn vị (thí dụ là 100 triệu dollar). Tư bản của ngành da gồm có 70 đơn vị là tư bản bất biến và 30 đơn vị là tư bản khả biến; tư bản của ngành dệt gồm có 80 đơn vị là tư bản bất biến và 20 đơn vị tư bản khả biến; tư bản của ngành chế tao máy móc gồm có 90 đơn vị tư bản bất biến và 10 đơn vị tư bản khả biến. Giả thiết tỷ suất giá trị thặng dư trong cả ba ngành đếu như nhau: đều là 100%. Như thế thì giá trị thặng dư tạo ra trong ngành da sẽ là 30 đơn vị, trong ngành dệt là 20 và trong ngành chế tạo máy móc là 10. Giá trị của hàng hóa trong ngành thứ nhất là 130, trong ngành thứ hai là 120, trong ngành thứ ba là 110 và trong toàn bộ cả ba ngành là 360 đơn vị Nếu hàng hóa bán ra theo giá trị của nó thì tỷ suất lợi nhuận trong ngành da là 30%, trong ngành dệt là 20%, trong ngành chế tạo máy móc là 10%. Phân phối như thế sẽ rất có lợi đối với các nhà tư bản ngành da nhưng không có lợi đối với những nhà tư bản thuộc ngành chế tạo máy móc. Khi ấy các chủ xí nghiệp ngành chế tạo máy móc sẽ đi tìm nơi đầu tư có lợi hơn và họ thấy ngành da là nơi có lợi hơn cả. Thế là họ chuyển tư bản từ ngành chế tạo máy móc sang ngành da. Kết quả là số lượng hàn hóa sản xuất trong ngành da sẽ tăng lên, sự cạnh tranh tất nhiên sẽ sâu sắc thêm và bắt buộc các chủ xí nghiệp của ngành này phải giảm giá của hàng hóa của họ xuống, điều đó có nghĩa là làm giảm tỷ xuất lợi nhuận. Trái lại trong ngành chế tạo máy móc số lượng hàng hóa sản xuất ra cũng ít hơn và sự thay đổi tương quan giữa cung và cầu sẽ giúp cho các chủ xí nghiệp nâng cao được giá hàng của họ lên và do đó tỷ suất lợi nhuận cũng tăng lên. Tình trạng sụt giá trong ngành da và lên giá trong ngành chế tạo máy móc, sẽ tiếp diễn cho đến khi nào tỷ suất lợi nhuận trong cả ba ngành sấp xỉ bằng nhau mới thôi. Điều đó sẽ xảy ra khi mà hàng hóa của cả ba ngành đều bán theo giá 120 đơn vị (130+120+110)/3. Lợi nhuận bình quân của mỗi ngành trong những ngành ấy sẽ là 20 đơn vị. Lợi nhuận là một lợi nhuận bằng nhau của những số tư bản bằng nhau bỏ vào các ngành sản xuất khác nhau. Việc bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận và việc biến giá trị thành giá cả sản xuất càng che giấu thêm quan hệ bóc lột, càng che dấu thêm nguồn gốc làm giàu thực sự của tư bản. Thật ra sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân có nghĩa la phân phối lại giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản trong các ngành sản xuất khác nhau. Nhà tư bản thuộc ngành có cấu tạo hữu cơ cao chiếm đoạt một phần giá trị thặng dư do các ngành có cấu tạo hữu cơ thấp tạo ra. Bởi vậy công nhân không chỉ bị các nhà tư bản thuê mình bóc lột mà còn bị toàn thể giai cấp tư bản bóc lột. Toàn bộ giai cấp tư bản đều quan tâm đến việc nâng cao mức độ bóc lột công nhân vì điều đó làm tăng thêm tỷ suát lợi nhuận bình quân. Như Mác đã vạch rõ: tỷ suất lợi nhuận bình quân thay đổi tùy theo mức độ bóc lột của toàn bộ tư bản đối với toàn bộ lao động. III. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận: 1. Quan điểm của các nhà kinh tế tư bản hiện đại về lợi nhuận Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng: lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí. Trong đó doanh thu của một hãng là số tiền mà nó kiếm được qua việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ trong một giai đoạn nhất định. Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất là điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hóa cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn cho các chi phí đầu vào ít nhất và bán hàng hóa với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi ra không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích lũy để phát triển sản xuất, củng cố tăng cường vị trí của mình trên thị trường. 2. Lý luận về máy móc tạo ra lợi nhuận: Ngày nay, để thu được nhiều lợi nhuận, nhà tư bản sẽ không đầu tư nhiều vốn để thuê lao động mà mua những máy móc hiện đại tự động khi mà lợi nhuận thu được phải tương xứng với lọi nhuận bình quân xã hội, mặc dù giá trị được tạo ra trong đó có giá trị thặng dư nhỏ hơn nhiều so với giá trị của hàng hóa. Vì vậy lợi nhuận nhà tư bản thu được trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật, tự động hóa là sự chuyển hóa giá trị trặng dư được tạo ra trong xã hội dưới hình thức giá trị thặng dư siêu nghạch được san đi bù lại giữa các nhà tư bản Việc áp dụng rộng rãi máy móc hiện đại, tự động trong điều kiện ngày nay đã không khiến người đặt câu hỏi rằng: “ Phải chăng trong các dây chuyền sản xuất tự động đó không còn bóc lột giá trị thặng dư và chính máy móc đã sáng tạo ra lợi nhuận? ” và “Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay, máy móc có tạo ra lợi nhuận hay không? ” Trước hết. Ta cần khẳng định rằng, máy móc và hệ thống máy móc dù có tinh vi, hiện đại đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người. Con người không thể chế tạo ra một động cơ vĩnh cửu. Trong dây chuyền sản xuất tự động, giá trị thặng dư được tạo ra không chỉ là sản phẩm của lao động quá khứ mà vẫn cần tới lao động hiện tại. Mác viết rằng: “ Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu với tư cách là lao động được nhập vào quá trình sản xuất nữa mà là chủ yếu với tư cách một loại lao động trong đó có người ngày càng đứng sang bên cạnh với chức năng giám sát điều khiển, sáng tạo mà máy móc không thể làm nổi ”. Lợi nhuận siêu nghạch mà nhà tư bản thu được khi áp dụng máy móc hiện đại hơn so với các nhà tư bản khác chẳng qua chỉ là sự phân phối lại giá trị thặng dư sẵn có trên toàn xã hội. Do áp dụng máy móc hiện đại nên lao động ở đây có năng suất lao động cao hơn nên giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn đó là một yếu tố quan trọng, Song trên thị trường giá bán hàng hóa cùng loại vẫn theo giá trị thị trường nên nhà tư bản có máy móc hiện đại hơn sẽ thu được nhiều lợi nhuận siêu nghạch hơn. Thực tế trên quy mô thị trường thế giới, các nước tư bản phát triển sản xuất bằng máy móc hiện đại và đem bán hàng hóa tại các nước kinh tế chậm phát triển đã thu được lợi nhuận khổng lồ khó có thể hình dung được. Lượng lợi nhuận siêu nghạch mà một nhà tư bản thu được là do phần lợi nhuận của các nhà tư bản khác mất đi mà thôi. Nếu mọi cơ sở sản xuất đều trang bị máy móc hiện đại như nhau thì hiện tượng lợi nhuận siêu nghạch sẽ biến mất và người tiêu dùng được lợi vì giá cả hàng hóa được hạ thấp. Nhưng khi chỉ cần một nhà tư bản nào đó áp dụng máy móc hiện đại hơn và thu được lợi nhuận siêu nghạch thì dẫn đến sự cạnh tranh để rồi sớm hay muộn sẽ làm triệt tiêu lợi thế cá biệt, triệt tiêu lợi nhuận siêu nghạch. Tóm lại, nguồn gốc của lợi nhuận cũng như lợi nhuận siêu nghạch vẫn là giá trị thặng dư do lao động sáng tạo của công nhân mà ra và bị nhà tư bản chiếm không, đúng như Mác đã nhận định và chứng minh. IV. các hình thức của lợi nhuận. Như ta đã biết, giá trị thặng dư lợi nhuận không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có chung nguồn gốc từ lao động mà ra. Giá trị thặng dư là phần giá mà nhà tư bản bóc lột không công của người công nhân còn lợi nhuận là số tiền thu được sau khi bán sản phẩm trên thị trường so với số tiền bỏ vào sản xuất. Có thể nói chính giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột sức lao động. Trước Mac các nhà khinh tế học đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa đủ lý luận để chứng mình mà chủ yếu là biểu hiện quan điểm của mình trong vấn đề thu nhập, tiền lương. Chỉ có Mac mới chứng minh và xây dựng lý thuyết giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh, khoa học và các vấn đề có liên quan. Có thể nói lý thuyết giá trị thặng dư là phát minh vĩ đại của Mac mà như Lê nin nói đó là “ hòn đá tảng” trong học thuyết kinh tế. Tuy nhiên chúng ta phải hiểu rằng Mac không phải là người phát minh ra giá trị thặng dư, càng không phải là người làm ra nó. Chính người tìm ra gá trị thặng dư là nhà tư bản và người lao động làm ra giá trị thặng dư điều đó là rất rõ dàng nhưng nó được che dấu bởi lợi nhuận và nó tồn tại trong xã hội bởi các hình thức sau: 1. Lợi nhuận công nghiệp: Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và phần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân giả sử là 8h được chia ra làm hai phần: một phần làm ra tương đương với số tiền lương của sông nhân ấy và một phần là gía trị thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên nhà tư bản công nghiệp luôn tìm cách làm tăng phần thời gian lao động thặng dư như: tăng giờ làm, tăng năng suất lao động (giảm thời gian lao động tất yếu). Thời gian lao động thặng dư càng nhiều thì lợi nhuận mà nhà tư bản thu được càng cao. Như vậy lợi nhuận công nghiệp là hình thái gần nhất dễ thấy nhất của giá trị thặng dư. Vì vậy lợi nhuận công nghiệp là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất. 2. Lợi nhuận thương nghiệp : Trong lưu thông trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, làm cho hàng hoá tiêu thụ được nhanh hơn. Tư bản thương nghiệp thực hiện khâu tiêu thụ cho tư bản công nghiệp. Vì thế họ phải thu được một phần lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp có được. Về thực chất lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản công nghiệp. Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư là vì: nhà tư bản thương nghiệp rất am hiểu thị trường, khách hàng…do đó giúp cho hàng hoá được tiêu thụ nhanh dẫn đến tốc độ chu chuyển nhanh hơn nên nhà tư bản công nghiệp rảnh tay để sản xuất. Do có vai trò quan trọng như vậy nên nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá nhưng điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thưong nghiệp bán giá cao hơn giá trị mà là do họ mua hàng hoá thấp giá trị và khi bán đúng giá trị. 3. Lợi tức cho vay: Nhà tư bản muốn hoạt động nhưng bản thân họ không đủ vốn hoặc không có nhiều vốn nên họ phải đi vay để có vốn đem vào sản xuất. Một nhà tư bản có tiền nhưng chưa đến kỳ sử dụng hoặc chưa sử dụng nên họ cho vay và nhận được một khoản tiền ứng với số tiền cho vay từ tay nhà tư bản đi vay gọi là lợi tức. Lợi tức cho vay là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay ứng với món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng, lợi tức cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: sự cấp thiết, hoàn cảnh lịch sử, sự thoả thuận của giữa các nhà tư bản… đối với nhà tư bản thì tiền không thể chết trong két sắt mà nó phải đựơc đẻ ra liên tục. 4. Lợi nhuận ngân hàng: Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Tuy nhiên tư bản ngân hàng khác tư bản cho vay ở chỗ: Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động ngoài nguồn vốn nhàn rỗi còn có kim loai quý, chứng khoán … Lợi nhuận ngân hàng là phần lợi nhuận thu được ứng với số tiền mà ngân hàng chung vốn với nhà tư bản để tham gia sản xuất. Ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà sản xuất. Một đất nước phát triển thì hệ thống ngân hàng phải phát triển bởi vì vai trò của ngân hàng trong cơ chế thị trưòng là yếu tố đặc biệt quan trọng. 5. Địa tô: Tư bản không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn mở rộng cả trong nông nghiệp. Địa chủ có nhiều ruộng đất còn nhà tư bản cần ruộng để kinh doanh. Nhà tư bản kinh doanh ruộng đất phải thu thêm một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận binh quân, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định, lâu dài và nhà tư bản phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa. Như vậy địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lai sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh danh ruộng đất. Phần II Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường I. Nền kinh tế thị trường và ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến việc thu lợi nhuận: 1. Khái niệm kinh tế thị trường và ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến việc thu lợi nhuận: Kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hoàn toàn do trao đổi và lưu thông hàng hóa làm người phân phối các nguồn lợi chủ yếu; lấy lợi ích vật chất cung cầu thị trường làm và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế, nó là phuơng thức vận hành kinh tế xã hội. Kinh tế thị trường là phương thức, phương tiện, công cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả, tự nó không mang tính giai cấp xã hội không tốt mà cũng không xấu tất cả là do người sử dụng nó. Theo quan niệm này, kinh tế thị trường là vật “ trung tính ”, là công cụ sản xuất ai sử dụng cũng được, Kinh tế thị trường là một loại kinh tế - xã hội - chính trị, nó in đậm dấu ấn của lực lượng sản xuất xã hội, làm chủ thị trường kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế hoạt động, có chủ thể của quá trình đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong nền kinh tế thị trường không phải chỉ là cá nhân riêng lẻ, đó là những tập đoàn xã hội những giai cấp. Sự tác động qua lại giữa cá chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này cũng thể có lợi cho người khác, có hại cho tầng lớp này giai cấp khác. Cho nên kinh tế có mặt tích cực, mặt tiêu cực nhất định. Không thể nhấn mạnh một trong hai mặt đó. 2. ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến việc thu lợi nhuận Cơ chế thị trường tạo ra sự cân đối giữa giá cả và sản xuất. Giá cả trên thị trường là mệnh lệnh của người sản xuất, của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nắm bắt đúng thị trường thì lợi nhuận doanh nghiệp sẽ được đảm bảo và doanh nghiệp tiếp tục theo kịp thị trường. Giá cả luôn luôn biến đổi nên đòi hỏi cần có một hệ thống thông tin nhạy cảm để nắm bắt chính xác và từ đó có thể phản ứng kịp thời. Cơ chế thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà tư bản di chuyển sang ngành có lợi nhuận cao, các nhà sản xuất không chỉ quan tâm đến lợi nhuận của ngành mình đang sản xuất mà phải nghiên cứu cả các ngành sản xuất khác. Tiếng gọi của lợi nhuận sẽ quyết định họ nên sản xuất cái gì?, cơ chế thị trường tạo điều kiện cho họ di chuyển tư bản của mình sang ngành có lợi nhuận hoặc tỷ suất lợi nhuận cao. Chính cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp, các nhà sản xuất phải vươn lên không ngừng cả về lượng và chất nghĩa là họ phải tìm tòi trong thị trường ngành nào có lợi nhuận cao từ đó quyết định chuyển đổi sản xuất. Cơ chế thị trường làm cho các nhà sản xuất cạnh tranh nhau; người sản xuất nào đưa ra thị trường sản phẩm chất lưọng tốt hơn, số lượng nhiều hơn và chi phí sản xuất thấp hơn mới giành được thắng lợi trên thị trường, mới thu được nhiều lợi nhuận. Lợi nhuận có thu được hay không sẽ quyết định doanh nghiệp tồn tại hay loại khỏi thị trường. Cạnh tranh làm cho các nhà sản xuất, các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới sản phẩm để đưa ra sản phẩm có chất lượng tốt, chi phí sản xuất thấp đồng thời đó còn là yếu tố l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35243.doc
Tài liệu liên quan