Ngôn từ nghệ thuật trong xình ca cao lan

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ------------------------ TRIỆU THỊ LINH NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG XÌNH CA CAO LAN Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn 11 1.1. Cơ sở lí thuyết 11 1.2. Cơ sở thực tiễn 21 Chương 2: Ngôn từ nghệ thuật của xình ca xét về mặt hình thức 31 2.1. Kết

pdf122 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Ngôn từ nghệ thuật trong xình ca cao lan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu xình ca 31 2.2. Thể, vần và nhịp điệu trong xình ca 49 Chương 3: Ngôn từ nghệ thuật xình ca xét về mặt nội dung 62 3.1. Các biện pháp tu từ thường gặp trong xình ca 62 3.2. Sự thể hiện thời gian, không gian nghệ thuật và một vài biểu 75 tượng thường gặp qua ngôn từ xình ca. KẾT LUẬN 102 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN 104 QUAN ĐẾN LUẬN VĂN TÀI LIỆU THAM KHẢO 105 PHỤ LỤC Một số khúc xình ca được ghi bằng chữ Hán, chữ Nôm Cao Lan. Một số hình ảnh về phong tục và hát xình ca của đồng bào Cao Lan. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Sán Chay là một trong 54 dân tộc thiểu số ở Việt Nam, có số dân là 147.315 người (1999), gồm 2 nhóm chính: Cao Lan và Sán Chỉ (1) . Nhóm Cao Lan (còn được gọi bằng tên khác: Hờn Bán, Chùng,…) hiện cư trú ở các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh…, nhưng tập trung đông nhất ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (27.869 người). Theo một số nhà nghiên cứu và lời kể của đồng bào, người Cao Lan vốn từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) sang Việt Nam, cách đây khoảng 300-500 năm. Dân tộc Sán Chay nói chung và người Cao Lan nói riêng, với vốn văn hoá văn nghệ truyền thống phong phú và độc đáo của họ, đang góp phần làm nên sự đa dạng văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong xình ca Cao Lan có thể góp phần giới thiệu và tôn vinh những nét bản sắc văn hoá của nhóm người này. 1.2. Xình ca là dân ca của người Cao Lan, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Theo truyền thuyết, đây là lời hát của Bà chúa thơ ca Lằu Slam khi đối đáp với người yêu và nỗi lòng của cô gái Lằu Slam khi tìm tình yêu trong tuyệt vọng. Người Cao Lan ghi nhớ và truyền lại các bài xình ca bằng văn bản chữ “Nôm Cao Lan” (và cho đến nay bằng cả chữ tự chế trên cơ sở chữ Quốc ngữ). Tương truyền một bộ sách xình ca được hát trong 36 ngày đêm chưa hết... (1) Trong Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam (Tổng cục thống kê ban hành ngày 2/3/1979), tên dân tộc này được ghi là Sán Chay, Cao Lan - Sán Chỉ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Có thể nói, xình ca là một trong những nét đặc sắc, độc đáo làm nên văn hoá truyền thống Cao Lan. Ngôn từ trong xình ca không chỉ là hình thức, là chất liệu nghệ thuật, mà còn là tâm huyết và tài năng của rất nhiều nghệ sĩ dân gian Cao Lan trong sáng tạo, trau chuốt tiếng mẹ đẻ không ngừng. Vì vậy, nghiên cứu ngôn từ trong xình ca sẽ góp phần phát hiện ra nguyên cớ sự hấp dẫn đặc biệt của xình ca về mặt ngôn từ, cũng như tìm hiểu cái hay cái đẹp trong tiếng Cao Lan. 1.3. Là một người con của đồng bào Cao Lan, tác giả của luận văn này rất băn khoăn trước tình trạng nhiều nét văn hoá cổ truyền của dân tộc mình - trong đó có xình ca và cả ngôn ngữ - đang bị mai một, pha tạp, không được coi trọng đúng mức, từ đó có nguyện vọng tìm hiểu nhằm bảo tồn và phát triển vốn văn hoá của dân tộc mình, trước hết là vốn văn nghệ truyền thống trong đó có xình ca, từ góc nhìn ngôn ngữ học. Nghiên cứu Ngôn từ nghệ thuật trong xình ca Cao Lan còn phục vụ cho việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường Cao đẳng Sư phạm Tuyên Quang - nơi tác giả đang công tác. 2. LỊCH SỬ SƢU TẦM NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HOÁ NGƢỜI CAO LAN, VỀ XÌNH CA VÀ NGÔN NGỮ TRONG XÌNH CA CAO LAN 2.1. Nghiên cứu về văn hoá Sán Chay (nói chung) và ngƣời Cao Lan (nói riêng) Các mặt trong văn hoá Sán Chay (nói chung) và của người Cao Lan (nói riêng) là những đề tài khoa học được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có không ít những công trình sưu tầm nghiên cứu, những hội thảo khoa học ở các cấp, những bài báo, báo cáo..., bàn về những vấn đề này. Sự nghiên cứu và thảo luận chủ yếu về văn hoá truyền thống Sán Chay và quan hệ giữa hai nhóm Cao Lan và Sán Chỉ trong dân tộc Sán Chay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: - Hợp tuyển Văn học dân gian các dân tộc Tày - Nùng - Sán Chay, Nxb Văn hoá dân tộc, 1994. - Phù Ninh - Nguyễn Thịnh (1999), Văn hoá truyền thống Cao Lan, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. - Khổng Diễn (2003), Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. - Lâm Quý (2003), Văn hoá Cao Lan, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Cho đến nay, vấn đề quan hệ giữa hai nhóm Cao Lan và Sán Chỉ trong dân tộc Sán Chay vẫn chưa có được ý kiến thống nhất: Đây là các nhóm của một dân tộc hay là hai dân tộc riêng biệt? Câu hỏi này đã được đặt ra và nhận được nhiều ý kiến bàn luận rất khác nhau, đặc biệt trong Hội nghị xác định thành phần dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chí) ở Bắc Giang (ngày 29-30/3/2004) do Viện Khoa học - Xã hội Việt Nam và Uỷ ban Nhân dân tỉnh Bắc Giang chủ trì. Trong các tài liệu về dân tộc Sán Chay nói chung và người Cao Lan nói riêng, đều thấy có khẳng định người Cao Lan có nguồn gốc từ Trung Quốc sang đã nhiều đời, sống rải rác ở phía bắc Việt Nam, là một cộng đồng người cấu kết chặt chẽ, còn lưu giữ được những nét văn hoá đặc sắc, đặc biệt là kho tàng văn nghệ dân gian rất phong phú. 2.2. Nghiên cứu về văn nghệ dân gian và XCCL Trong kho tàng văn nghệ dân gian Cao Lan, xình ca là mảng văn nghệ đặc sắc nhất, giá trị nhất. Xình ca được xem như cái làm nên nét “bản sắc văn hoá” của người Cao Lan, vì thế cũng được các nghệ nhân Cao Lan và các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Ở Tuyên Quang, những cụ già Cao Lan như bà Nịnh Thị Nhân (63 tuổi), ông Tiểu Văn Học (66 tuổi - thôn cây Thị, xã Đội Bình, huyện Yên Sơn), ông Vương Hùng Tá (58 tuổi - thôn Dân Chủ, xã Đội Bình, huyện Yên Sơn), ông Sầm Văn Dừn (63 tuổi - thôn Mãn Hoá, xã Đại Phú, huyện Sơn Dương), ông Trần Văn Tố (67 tuổi, thôn Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn)... được tôn vinh là các nghệ nhân hát xình ca. Vì yêu làn điệu dân ca của dân tộc mình nên họ đã sưu tầm, ghi chép lại các quyển sách hát viết bằng chữ Hán và "dịch" ra để tiện cho việc dạy các con cháu. Ông Sầm Văn Dừn còn sáng tác và dàn dựng nhiều tác phẩm mang đậm những nét văn hoá truyền thống dân tộc Cao Lan... Có thể nói, những nghệ nhân Cao Lan đã có ý thức và có công rất lớn trong việc bảo vệ, lưu truyền lại xình ca cho thế hệ sau. Tuy nhiên họ chỉ mới chủ yếu dừng lại ở việc bảo tồn và lưu truyền xình ca bằng cách dạy tự phát truyền miệng. Trên cơ sở lòng nhiệt tình của các nghệ nhân, cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, việc sưu tầm, biên soạn, dịch xình ca đã được tổ chức tiến hành với quy mô khá rộng ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi có đồng bào Cao Lan sinh sống như Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Giang, Phú Thọ... Một số công trình và bài báo về văn nghệ dân gian Cao Lan đã được công bố như: - Phương Bằng (1981), Dân ca Cao Lan, Nxb Văn hóa, Hà Nội. - Lâm Quý (2003), Ngày xuân đi hát "Xình ca", Báo Tân Trào số tết 158+159. - Lê Hồng Sinh (2003), Khảo sát đặc điểm truyện thơ Cao Lan "Kó Lau Slam", Luận văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, Hà Nội. - Nịnh Văn Độ (2003), Bảo tồn hát xình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, Đề tài nghiên cứu, Sở Văn hóa Thông tin, Tuyên Quang. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 - Lâm Quý (2003), Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. - Đặng Đình Thuận (2005), Văn hoá dân gian của dân tộc Cao Lan, Nxb Khoa học xã hội, 2005. - Phạm Thị Kim Dung (2005), Khảo sát đặc điểm Xình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, Luận văn tốt nghiệp, trường Đại học Sư phạm 1, Hà Nội. - Ngô Văn Trụ (2006), Dân ca Cao Lan, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. - Trịnh Thành Công (2005), "Đi tìm câu hát xình ca", Báo Tuyên Quang số tết Xuân Ất Dậu. - Triệu Thị Linh (2006), “Đặc điểm thi pháp truyện cổ tích về người mồ côi của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang”, Luận văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2006. - Triệu Thị Linh (2007), “Cách biểu thị thời gian nghệ thuật trong cổ tích Cao Lan”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 11. - Triệu Thị Linh (2007), "Một số biểu tượng trong xình ca Cao Lan", Hội thảo ngữ học trẻ - Xuân 2008. Về xình ca Cao Lan, các tác giả đã có công sưu tầm những đêm hát, những câu hát còn rải rác trong dân gian, tập hợp và biên soạn lại khá công phu. Nhà thơ Lâm Quý đã sưu tầm được 9 đêm, dịch văn học trọn vẹn Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất gồm 266 câu. Tác giả Ngô Văn Trụ sưu tầm biên soạn được gần 1000 câu hát lẻ in trong cuốn Dân ca Cao Lan. Tác giả Phương Bằng cũng sưu tầm được gần 500 câu hát... Từ tư liệu sưu tầm, biên soạn, các nhà nghiên cứu đã xác định số lượng và kết cấu những đêm hát, nội dung của mỗi đêm. Các tác giả Lâm Quý, Ngô Văn Trụ đã bước đầu phân tích được bối cảnh diễn ra đêm hát, giai điệu lời hát; phân tích ý nghĩa một số câu hát... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Trong luận văn tốt nghiệp "Khảo sát đặc điểm xình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang", tác giả Phạm Thị Kim Dung đã đặt xình ca trong hoàn cảnh văn hoá truyền thống Cao Lan để thấy được vai trò, vị trí của xình ca đối với đời sống tinh thần của cộng đồng này. Tác giả đã khảo sát, rút ra đặc điểm của xình ca trên ba phương diện: diễn xướng, nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Trong luận văn, tác giả cũng đã phân tích cách dùng đại từ nhân xưng và tính từ trong xình ca, từ đó rút ra kết luận: "XCCL có nhiều điểm đắc sắc trong nghệ thuật biểu hiện: từ hình thức diễn xướng đến việc sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ, kết cấu, biểu tượng nghệ thuật, các thủ pháp tu từ…" [7;tr.94]. Trong luận văn thạc sĩ “Khảo sát đặc điểm truyện thơ Cao Lan “Kó Lằu Slam”", tác giả Lê Hồng Sinh đã phân tích những nét đặc sắc về nghệ thuật trong truyện thơ “Kó Lằu Slam”, đồng thời miêu tả về xình ca như một phần không thể thiếu để kết tinh thành truyện thơ này: “Lời của truyện thơ được đặt theo thể thơ có trong xình ca. “Kó Lằu Slam” dường như lấy cảm hứng từ tục hát ví đầu xuân” [37; tr.41] . 2.3. Nghiên cứu tiếng Cao Lan và ngôn ngữ trong xình ca Nhìn chung, cho đến nay những nghiên cứu về tiếng Cao Lan ở Việt Nam không nhiều và chưa đầy đủ. Hầu như không thấy một công trình nào miêu tả tiếng Cao Lan ở diện đồng đại. Các tác giả A.G. Haudricout, Jereld Edmondson và David Strecker... đã có một số thảo luận về quan hệ cội nguồn của tiếng Cao Lan. Trong Hội nghị xác định thành phần dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chí) ở Bắc Giang (ngày 29-30/3/2004), hầu hết các báo cáo tham luận đều nhắc đến sự khác biệt giữa tiếng Cao Lan và Sán Chí (hai nhóm trong “dân tộc” Sán Chay) và cố gắng lí giải, đánh giá sự khác biệt này. Báo cáo của tác giả Nguyễn Văn Lợi “Quan hệ Cao Lan - Sán Chí xét về mặt ngôn ngữ” đã góp phần trả lời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 các câu hỏi: Nguồn gốc, quá trình phát triển, mối quan hệ lịch sử giữa tiếng Cao Lan và Sán Chí như thế nào; Hiện nay các ngôn ngữ này đang hành chức ra sao; Quan niệm và nguyện vọng của những người sử dụng tiếng Cao Lan và Sán Chí như thế nào? Trả lời được những câu hỏi này có thể giúp cho việc xác định mối quan hệ giữa người Cao Lan và người Sán Chí. Về ngôn ngữ trong xình ca, trong cuốn Văn hoá Cao Lan tác giả Lâm Quý nhận định: Đây là “thứ tiếng cổ dùng trong cúng bái và hát ví thuộc ngữ hệ Hán - Tạng, thổ ngữ Quảng Đông - Trung Quốc” [34; tr.166]. Xình ca có hai loại, ca bậc và ca ý, tương ứng với mỗi loại thì ngôn ngữ cũng có đặc điểm riêng. “Ca ý” nghĩa là “lời hát nhỏ”, lời hát tâm tình của đôi người yêu thương nhau, được sáng tạo một các bất chợt” nên lời ca có vần có điệu, dễ nhớ người hát có thể ứng đối ở nhiều tình huống khác nhau, có thể thay đổi giọng, lời ca cho phù hợp. “Ca bậc” nghĩa là “hát lớn”, “hát cho cả dân bản cùng nghe, nhờ thế lời ca được ghi chép vào sách thành chương, mục có tình chất qui định bắt buộc” [34; tr.188-192]. Tác giả Lâm Quý cũng thống kê tập một của xình ca gồm trên 500 cặp bài hát bằng 1.000 bài theo thể thơ tứ tuyệt (4 câu, 7 chữ), với trên 4.000 câu thơ 7 chữ [34; tr.193]. Tác giả Ngô Văn Trụ nhận xét: “Ở một số trường hợp, câu thứ nhất chỉ có 3, 4 chữ, 4 câu chỉ gồm 24, 25 chữ, do vậy khi hát, người ta phải dùng lời láy để ngân nga”[44; tr.2]. Về ý nghĩa của lời ca, những người già Cao Lan thường khen rằng ý tứ trong lời đối đáp của xình ca rất thâm sâu, nhiều hình ảnh ví von bất ngờ, thú vị. Tuy nhiên, cảm nhận cũng như nghiên cứu về ngôn từ xình ca là một công việc không dễ dàng. Ông Nịnh Văn Độ - một người con của đồng bào Cao Lan đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 tâm sự: “Suốt quãng đời của tôi...tôi say sưa tìm hiểu về xình ca mà vẫn chưa cảm nhận được hết cái hay cái đẹp của lời ca trong xình ca dân tộc mình”[8; tr.5]. Như đã liệt kê ở trên (mục 2.2), trong Hội thảo Ngữ học trẻ - Xuân 2008 (do Hội ngôn ngữ học Việt Nam tổ chức), tác giả của luận văn này đã trình bày báo cáo về một khía cạnh nhỏ của NTNT trong XCCL - "Một số biểu tượng trong xình ca Cao Lan". Quả thật, NTNT của XCCL cho đến nay vẫn là một ẩn số, một vấn đề khoa học chưa được chuyên luận nào trình bày đầy đủ và sâu sắc. Đây là hướng gợi mở tích cực để tác giả luận văn này tiếp cận xình ca từ góc độ ngôn ngữ học, với hi vọng hiểu rõ hơn cách tổ chức văn bản và các tầng ý nghĩa sâu sắc, thú vị của lời ca, cách biểu đạt bằng ngôn từ độc đáo của các nghệ nhân Cao Lan. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN 3.1. Mục đích - Chỉ ra đặc trưng NTNT của xình ca xét về mặt hình thức, như: kết cấu một đêm hát, khúc hát, thể thơ, nhịp điệu, cách gieo vần... - Chỉ ra đặc trưng NTNT của xình ca xét về mặt ngữ nghĩa, như các phép tu từ: ẩn dụ, so sánh, nhân hoá; cách biểu thị thời gian, không gian nghệ thuật... - Qua tìm hiểu các đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của ngôn từ xình ca, có được một số nhận xét về những giá trị của NTNT trong xình ca, đồng thời chỉ ra được phần nào những nét đặc trưng trong văn hoá như cách ứng xử, cách cảm, cách nghĩ... của người Cao Lan. 3.2. Nhiệm vụ - Tập hợp các tài liệu đã có, sưu tầm thêm, dịch các tư liệu về XCCL. - Miêu tả một số cách sử dụng NTNT đáng chú ý trong XCCL. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 - Khái quát được những nét đặc trưng chính của NTNT trong XCCL. 4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN 4.1. Về lí luận - Cung cấp những cứ liệu cho việc khái quát hoá các đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong thi pháp dân ca: tính cách điệu hoá, cách gieo vần, các đặc điểm cú pháp như đối và điệp, sự chuyển nghĩa theo những cách khác nhau. - Từ việc chỉ ra đặc trưng của NTNT trong XCCL, giúp thêm kinh nghiệm và cách thức cho việc tìm hiểu văn bản văn nghệ dân gian cổ, cũng như việc biên dịch, sưu tầm các văn bản này có hiệu quả và sâu sắc hơn. 4.2. Về thực tiễn - Góp phần bảo tồn và phát triển vốn nghệ thuật truyền thống của người Cao Lan, trong đó có xình ca và ngôn ngữ của họ. - Khuyến khích và tạo cơ sở, đề xuất hướng tiếp tục đi sâu nghiên cứu các mặt khác trong ngôn ngữ cũng như vốn văn nghệ truyền thống của người Cao Lan. - Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng trong giảng dạy về văn nghệ dân gian các dân tộc thiểu số nói chung và về XCCL nói riêng. 5. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Đối tƣợng Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là ngôn từ trong văn bản "Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất" của tác giả Lâm Quý, Nxb Văn hoá Dân tộc phát hành năm 2003. Đêm hát thứ nhất này có 8 chương, 266 khúc hát. Phần một của tác phẩm được viết bằng chữ Nôm - Cao Lan, phần hai được tác giả dịch văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 học ra tiếng Việt. Chúng tôi đã tiến hành dịch nghĩa từng đơn vị từ của 266 khúc hát này để hiểu và phân tích sâu hơn về ngôn từ trong xình ca. Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu còn là ngôn từ của xình ca trong các văn bản: "Dân ca Cao Lan", Nxb Văn hoá dân tộc, phát hành năm 2006 được tác giả Ngô Văn Trụ sưu tầm và biên soạn, với 898 khúc hát; "Dân ca Cao Lan", Nxb Văn hoá dân tộc, phát hành năm 1981, tác giả Phương Bằng sưu tầm và biên soạn, với 665 khúc hát... Việc mở rộng đối tượng nghiên cứu trên nhiều văn bản khác nhau là để có cái nhìn tổng thể về XCCL, từ đó có những nhận định về đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của xình ca. 5.2. Phƣơng pháp - Điền dã: sưu tầm, ghi âm và ghi chép về văn hoá truyền thống Cao Lan, phiên dịch (dịch nghĩa từng từ và dịch văn học ra tiếng Việt) các bản xình ca. - Miêu tả: với các thủ pháp phân tích và tổng hợp, trên cơ sở các văn bản xình ca (nguyên bản và bản dịch). - Thống kê: tính xác suất một số hiện tượng ngôn từ đáng chú ý trong các văn bản XCCL. 6. BỐ CỤC LUẬN VĂN Ngoài Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn gồm các chương mục sau: Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lí thuyết 1.2. Cơ sở thực tiễn CHƢƠNG 2: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT CỦA XÌNH CA XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC 2.1. Kết cấu xình ca 2.2. Thể, vần và nhịp điệu Chƣơng 3: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT XÌNH CA XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 3.1. Các biện pháp tu từ thường gặp trong xình ca 3.2. Sự thể hiện thời gian, không gian nghệ thuật và một vài biểu tượng thường gặp qua ngôn từ xình ca. Trong Phụ lục có một số khúc xình ca được ghi bằng chữ Hán, chữ Nôm Cao Lan...; một số hình ảnh về phong tục và hát xình ca của đồng bào Cao Lan. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN 1.1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1.1. Ngôn ngữ - Ngôn ngữ văn học - Ngôn từ nghệ thuật 1.1.1.1. Ngôn ngữ Theo cách hiểu chung nhất, ngôn ngữ là “hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà những người trong một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau” [53; tr.683]. Khi nói đến ngôn ngữ, người ta thường hiểu đó là ngôn ngữ tự nhiên của con người (đối lập với ngôn ngữ nhân tạo và ngôn ngữ của động vật). Đây có thể được xem là phương tiện quan trọng nhất được dùng trong giao tiếp giữa các thành viên của cộng đồng, đồng thời cũng là phương tiện để tư duy, để diễn đạt và truyền lại các giá trị văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khi bàn về ngôn ngữ nói chung, còn có thể nói đến các hình thức giao tiếp khác: bằng động tác của cơ thể, màu sắc... Tuy nhiên, hình thức phổ biến nhất của ngôn ngữ trong xã hội loài người là ngôn ngữ âm thanh (ngôn ngữ được nói ra bằng lời, thành tiếng) và chữ viết (hình thức đường nét ghi lại, phản ánh, đại diện cho ngôn ngữ thành tiếng). Trong luận văn, khái niệm "ngôn ngữ" có chỗ được gọi là ngôn từ. Ngôn từ được hiểu chính là ngôn ngữ ở dạng nói hay viết thành văn. Trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, khi nói về ngôn ngữ và tình hình sử dụng ngôn ngữ ở một cộng đồng thiểu số như Cao Lan, không thể không nhắc đến các khái niệm “ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các tộc người” (ở người Cao Lan hiện nay là tiếng Việt và trước đây là tiếng Hán); “ngôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 ngữ dân tộc/tộc người” (ở người Cao Lan đó là tiếng Cao Lan); “tiếng mẹ đẻ”: ngôn ngữ con người học được trong những năm đầu của đời mình, thường là công cụ tư duy và quan trọng nhất của mỗi người (ở người Cao Lan đó là tiếng Cao Lan)... 1.1.1.2. Ngôn ngữ văn học Hiện nay có hai cách hiểu về ngôn ngữ văn học: 1, là hình thức ngôn ngữ trùng với “ngôn ngữ văn hoá” (ngôn ngữ toàn dân tộc có hệ thống chuẩn thống nhất, được sử dụng trong mọi lĩnh vực đời sống văn hoá, chính trị, xã hội) [53;tr.683]; 2, là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác văn học. Trong cách hiểu thứ hai này, ngôn ngữ được xem là yếu tố quan trọng nhất của văn học. Hai cách hiểu trên không hoàn toàn đồng nhất, nhưng có điểm chung là chú ý đến ngôn ngữ ở phương diện sử dụng trong đời sống xã hội. Mặt khác, khi đã được dùng để sáng tác văn học, thì ngôn ngữ của một cộng đồng thường được khẳng định những ưu điểm (chẳng hạn như “chuẩn mực” về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) và có khả năng sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực đời sống. Tuy nhiên trong thực tế, một ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác văn học (văn học hiểu theo nghĩa chung nhất, là “nghệ thuật dùng ngôn ngữ và hình tượng để thể hiện đời sống và xã hội con người” [52; tr.1079]), chưa hẳn đã có được những ưu điểm và được "sử dụng trong mọi lĩnh vực đời sống”. Đây là trường hợp trong cộng đồng Cao Lan ở Việt Nam. Ở người Cao Lan, tiếng Cao Lan được sử dụng trong đời sống hàng ngày và phần nào đã được sử dụng trong văn nghệ dân gian (xình ca là một loại sáng tác như vậy). Tuy nhiên, hình thức “ngôn ngữ văn học” này chưa được xác định là “chuẩn mực”, cũng chưa được sử dụng rộng rãi mà chỉ trong phạm vi gia đình và làng bản. Hình thức trong văn nghệ dân gian Cao Lan này cũng chưa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 được ghi nhận bằng thứ chữ viết ai cũng đọc được, cho nên không có điều kiện phổ biến. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, nên hiểu ngôn ngữ văn học của người Cao Lan theo cách thứ hai (đó là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác văn học). Tuỳ theo phạm vi sử dụng, trong ngôn ngữ văn học có ba dạng thức khác nhau, đó là: ngôn từ hội thoại, ngôn từ chuyên môn và ngôn từ nghệ thuật. 1.1.1.3. Ngôn từ nghệ thuật NTNT là một dạng trong ngôn ngữ văn học, là "khái niệm chỉ loại hình ngôn ngữ dùng để biểu đạt nội dung hình tượng của các tác phẩm ngôn từ (sáng tác lời truyền miệng và văn học viết)" [52; tr.1090]. Xét về mặt chất liệu, NTNT bao gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ được sử dụng đạt tới mức nghệ thuật, đó là các hình thức ngôn ngữ bóng bẩy thường được sử dụng trong tác phẩm văn học như ví von, ẩn dụ, khoa trương, tượng trưng, nhân hoá… Đồng thời, NTNT cũng bao gồm cả những yếu tố như phương thức tổ chức, cách gieo vần, ngắt nhịp, sử dụng thể thơ, tạo dựng kết cấu… Như vậy, NTNT là sự thể hiện của ngôn ngữ chung một cách khéo léo và năng động, nhằm phản ánh đầy đủ, sinh động và gợi cảm mọi hình tượng, đồng thời truyền đạt được tư tưởng, tình cảm của người nói, người viết. Xét về mặt tính chất, NTNT được các nhà nghiên cứu xác định là mang nhiều đặc trưng của ngôn ngữ nói chung, ngôn ngữ nghệ thuật nói riêng. Tác giả Đinh Trọng Lạc cho rằng có bốn đặc trưng là: "tính cấu trúc; tính hình tượng; tính cá thể hoá; tính cụ thể hoá" [20]. Tác giả Đào Thản nhấn mạnh ba đặc trưng cơ bản của NTNT là: "tính tạo hình; tính truyền cảm; tính cá thể hoá" [20]. Khi bàn về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật, tác giả Nguyễn Thế Lịch xác định có bảy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 đặc trưng là: "tính hình tượng; tính biểu cảm; tính cụ thể; tính cá thể hoá; tính chính xác; tính hàm súc; tính phóng đại; tính cách điệu [20]... Có thể nói, từ ngôn ngữ chung đến NTNT là cả một quá trình, bắt đầu là sự tìm kiếm, thu nạp những yếu tố ngôn ngữ chung, để rồi lựa chọn mài giũa chúng, phát triển thành NTNT. Đó là con đường sáng tạo theo qui luật của cái đẹp khiến NTNT không ngừng được hoàn thiện. Tác giả Trần Đình Sử cho rằng "đặc trưng thứ nhất của lời văn là tính hình tượng từ trong nội dung của lời nói" [20]. Trong các tác phẩm văn nghệ nói chung, XCCL nói riêng, ngôn từ là chất liệu chính để xây dựng hình tượng. Chắc hẳn, cùng với việc sáng tác theo khuôn mẫu có tính chất qui ước của dân ca nói chung, các TGDG Cao Lan đã có những sáng tạo riêng trong sử dụng ngôn từ để xây dựng hình tượng nghệ thuật, để xình ca có được sức sống lâu bền và hấp dẫn. 1.1.2. DÂN CA - XÌNH CA 1.1.2.1. Dân ca Theo cách hiểu phổ biến nhất, dân ca là bài hát lưu truyền trong dân gian. Trong cách định nghĩa mang tính thuật ngữ thì dân ca là “một loại hình sáng tác dân gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với nhau trong diễn xướng” [9; tr.91]. Căn cứ vào đặc điểm âm nhạc, làn điệu có thể chia dân ca thành hai loại chính: loại đa điệu và loại đơn điệu. Đa điệu là loại có nhiều làn điệu như dân ca quan họ Bắc Ninh (có khoảng 200 làn điệu khác nhau). Đơn điệu như hát ví, giặm Nghệ Tĩnh, hát trống quân, hát đúm...Ở loại dân ca đa điệu, “khi hát đối đáp, người ta thường yêu cầu phải đổi giọng (nghĩa là bên nam hát làn điệu nào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 thì bên nữ cũng phải hát đúng làn điệu ấy). Còn ở loại đơn điệu thì khi hát đối đáp, đôi bên chỉ đối nhau bằng lời, bằng ý” theo một điệu nhất định [9; tr.33]. Xình ca Cao Lan có thể được coi là loại dân ca đơn điệu. Khi nói đến dân ca, người ta thường nghĩ đến đồng thời ba yếu tố cơ bản cấu thành nó: lời ca, âm nhạc và phương thức diễn xướng. Dân ca các dân tộc thiểu số, theo đặc điểm diễn xướng của văn hoá dân gian nói chung, luôn gắn bó mật thiết với sinh hoạt xã hội (như lao động sản xuất, giao duyên, phong tục, nghi lễ, sinh hoạt ngày thường...) và mang đậm dấu ấn của từng cộng đồng. Với những nét đặc sắc trong kết cấu ngôn ngữ, trong cách sử dụng ngôn ngữ để xây dựng hình tượng nghệ thuật, tạo nên nhịp điệu với cách thức diễn xướng..., đi kèm với ý nghĩa sâu sắc của lời ca, XCCL đã được lưu truyền trong dân gian và có sức sống tới ngày nay. 1.1.2.2. Xình ca Cho đến nay, chưa có định nghĩa đủ rõ xình ca (còn viết là “xịnh ca”, “sịnh ca”, “sình ca”) là gì. Nhưng khi nghiên cứu xình ca, nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến khái niệm này. Theo tác giả Lâm Quý thì xình ca là tác phẩm thơ ca dân gian mang tính sử thi về một cuộc thiên di đầy vất vả gian lao của tộc người Cao Lan di cư từ nội địa các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc sang Việt Nam sinh sống từ cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII vì nhiều lí do như giặc giã, đời sống khó khăn [34; tr.12]. Trong lời nhà xuất bản cuốn “Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất” có đoạn viết: “Đây là tác phẩm thơ ca dân gian cổ của người dân tộc Cao Lan được ghi chép bằng chữ Hán Nôm Cao Lan và lưu truyền trong đồng bào từ nhiều đời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 nay” [34; tr.2]. Xuất phát từ ý nghĩa của chính từ này (xình ca nghĩa là xướng lên (để đối đáp) - ca, hát), có thể hiểu “xình ca” là một tên gọi chung chỉ dân ca Cao Lan, nhưng chủ yếu là hát giao duyên. Xình ca hay xịnh ca, hay sịnh ca, sình ca? Căn cứ vào cách ghi phổ biến hiện nay và “giọng” của người Cao Lan khi phát âm từ này, đồng thời căn cứ vào sự tương ứng kí hiệu của chữ Quốc ngữ, theo chúng tôi, nên viết là xình ca. 1.1.3. KẾT CẤU - NHỊP ĐIỆU - VẦN 1.1.3.1. Kết cấu Hiểu theo cách chung nhất, kết cấu là "sự phân chia và bố trí các phần, các chương, các mục theo hệ thống nhất định để thể hiện nội dung của tác phẩm" [53; tr.485]. Kết cấu đảm nhiệm chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, triển khai hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lí hệ thống tính cách nhân vật, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả..., kết cấu tạo ra "tính toàn vẹn của tác phẩm như một hiện tượng thẩm mĩ" [9; tr.131-132]. Trong kết cấu XCCL, những khái niệm như "chương hát", "bài hát", "khúc hát", "câu hát", "lời hát" cần được hiểu một cách thống nhất. Theo cách hiểu chung nhất, Chương là một "phần của sách có nội dung tương đối trọn vẹn" [53; tr.203]. Chương hát xình ca cũng tương tự là một bộ phận được chia ra và được đặt trong quan hệ với tổng thể đêm hát, có nội dung tương đối hoàn chỉnh. Trong chương hát có một đơn vị (trên chữ viết được ghi thành 4 "dòng thơ", mỗi "dòng" 7 chữ) được các tác giả trước đây gọi bằng nhiều tên khác nhau như: "câu", "bài" [34; tr.193], "bài", "câu", "lời ca" [48; tr.121-124]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Theo cách hiểu chung nhất, câu là "đơn vị cơ bản của lời nói, do từ tạo thành, có một ngữ điệu nhất định, diễn đạt một ý trọn vẹn" [53; tr.137], đồng vì vậy để dễ dàng trong miêu tả chúng tôi đề nghị một "dòng" thơ như trong XCCL (trên chữ viết là một dòng) nên gọi là một câu. Nếu hiểu "lời" là một "chuỗi âm thanh phát ra trong không khí nói mang một nội dung trọn vẹn nhất định" [53; tr.582], thì một đến hai "dòng" thơ có thể gọi là "lời". Như vậy, không nên gọi cả 4 "dòng" thơ 7 chữ hoặc những hình thức tương tự là "lời hát", "câu hát", vì như vậy rất đại khái và khó phân định từ nó ra những đơn vị nhỏ hơn. Khái niệm "bài" chỉ "công trình sáng tác hoặc biên tập, có nội dung tương đối hoàn chỉnh, nhưng không dài" [53; tr.40] có thể phù hợp với đơn vị đang xét (4 "dòng thơ" mỗi "dòng" 7 chữ). Tuy nhiên đối chiếu vào những văn bản XCCL sưu tầm và dịch của các tác giả Lâm Quý, Ngô Văn Trụ, Phương Bằng…, chúng tôi thấy rằng XCCL còn bao gồm cả những "cụm ca" [44;tr.14], gồm có từ một đến nhiều "bài" hợp thành. Vì vậy, đơn vị ở trong một chương hát (thường gồm 4 dòng thơ 7 chữ) có thể được gọi là một "khúc hát" - là "phần có độ dài nhất định được tách ra khỏi một vật để thành một đơn vị riêng" [53; tr.512]. Có thể một khúc hát là một bài xình ca hoàn chỉnh, có thể nhiều khúc hát mới hợp thành một bài, nhiều bài hợp thành một chương, nhiều chương làm nên một đêm hát. Hình thức và biện pháp kết cấu của xình ca Cao Lan như thế nào, xin được phân tích kĩ hơn ở chương sau. 1.1.3.2. Nhịp điệu (tiết tấu, tiết điệu) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Theo cách hiểu chung nhất, nhịp điệu là "sự nối tiếp và lặp lại một cách đều đặn, tuần hoàn các độ dài thời gian bằng nhau làm nền cho nhạc" [53;tr.714]. Đặc điểm nổi bật của thơ và ca là ngôn từ có nhịp điệu. Từ yêu cầu nhịp điệu, văn bản thường được tổ chức thành từng dòng, từng khổ, từng câu, từng khúc. Sau đây là nhận xét về nhịp điệu trong thơ: "Cứ nhìn những khổ thơ tương đối như nhau, sắp xếp nối tiếp nhau với._. những khoảng cách nhất định, người đọc đã nhận ra một nhịp điệu hài hoà nào đó. Sự hài hoà về thị giác đó sẽ được củng cố hơn nữa với sự hài hoà âm thanh, nhịp điệu khi đọc" [52;tr.1686]. Cơ sở của khái niệm này là từ Hy Lạp “Rhythmós”, có nghĩa là “tính nhịp nhàng, đều đặn”. Từ điển giải thích thuật ngữ văn học định nghĩa “Sự lặp lại đều đặn các đơn vị lời nói giống nhau, được dùng để thực hiện các chức năng cấu trúc, cấu tạo văn bản và chức năng cảm xúc - biểu cảm” [46. tr.292] được xem là "tiết điệu", hay còn gọi là "tiết tấu". Có thể xem nhịp điệu như đặc trưng của một tác phẩm nghệ thuật có hình thức thể hiện là lời ca. Đó là “lặp lại cách quãng đều đặn và có thay đổi của các hiện tượng ngôn ngữ, hình ảnh, môtip... nhằm thể hiện sự cảm nhận thẩm mĩ về thế giới” [9; tr.205]. Nhịp điệu, tiết tấu tạo ra cảm giác vận động nhịp nhàng có qui luật, chống lại sự đơn điệu, đơn nhất của tác phẩm. Tác giả Mã Giang Lân khẳng định rằng "nhịp điệu là linh hồn của thơ ca, vần và nhịp điệu còn gắn liền với thể" [18; tr.20]. Ở mỗi thể, nhịp điệu được sử dụng khác nhau, chẳng hạn trong thơ: thơ 2 chữ - nhịp 2/2 giống đồng dao; thơ 3 chữ - nhịp 1/2; thơ 4 chữ - nhịp 2/2; thơ 5 chữ - nhịp 3/2 và 2/3; thơ 6 chữ - nhịp 2/2/2 và 2/4; thơ 7 chữ - nhịp 2/2/3, nhịp 3/2/2, nhịp 4/3, nhịp 3/4; thơ 8 chữ - nhịp 3/2/5. Thơ lục bát chủ yếu ngắt nhịp 2, có khi ngắt nhịp 1, nhịp 3… hoặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 hỗn hợp cho thích ứng với nội dung cảm xúc; thơ tự do - nhịp được sử dụng linh hoạt, phong phú. Trong cấu trúc ngôn ngữ của các tác phẩm nghệ thuật dân gian nói chung, XCCL nói riêng đều có những yếu tố ngôn ngữ được lặp lại, luân phiên tạo thành nhịp điệu. Chức năng của nhịp điệu không chỉ là cấu trúc, cấu tạo văn bản mà còn được sử dụng để tạo cảm xúc và sự gợi cảm. 1.1.3.3. Vần Nói đến nhịp điệu trong thơ ca, không thể không nhắc đến vần. Theo cách hiểu chung nhất, vần được sử dụng trong thơ ca là hiện tượng lặp lại một (hoặc các) bộ phận của âm tiết ở một (hoặc những) vị trí nhất định trong câu, để tạo nên nhịp điệu. Đồng thời, vần có vai trò liên kết các câu trong khúc ca hay bài thơ. Phân biệt theo vị trí gieo vần, ta có vần chân và vần lưng; phân biệt theo mức độ hoà âm, ta có vần chính và vần thông. Trong thơ, vần chân là vần được gieo vào cuối dòng thơ, có tác dụng đánh dấu sự kết thúc dòng thơ và tạo nên mối liên kết giữa các dòng thơ, có các dạng vần liền, vần ôm, vần cách. Vần lưng là vần “được gieo vào giữa dòng thơ”. Vần thông "được tạo nên bởi sự hoà phối âm thanh giữa các tiếng được gieo vần”. Còn vần chính cũng được tạo bởi “sự hoà phối âm thanh ở mức độ cao giữa các tiếng được gieo vần” nhưng trong đó “bộ phận vần cái (kể từ nguyên âm chính đến cuối âm tiết) hoàn toàn trùng hợp” [9; tr.362-364]. 1.1.4. So sánh - Ẩn dụ - Nhân hoá 1.1.4.1. So sánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Có thể hiểu so sánh là: "Phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có những dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm thuộc tính của hiện tượng kia" [9; tr.237]. So sánh thường có hai vế. Một vế là đối tượng cần được biểu đạt một cách hình tượng. Vế kia là đối tượng được dùng để so sánh. Hai vế này thường được nối liền với nhau bởi các từ so sánh: như, bằng, hơn, kém... Phương thức so sánh đem lại hiệu quả cao đối với nghệ thuật biểu đạt bằng ngôn từ, vì vậy được dùng phổ biến trong dân ca các dân tộc thiểu số , trong đó có XCCL. 1.1.4.2. Ẩn dụ "Ẩn dụ là cách lấy tên gọi của một đối tượng này để lâm thời biểu thị một đối tượng khác, trên cơ sở thừa nhận ngầm một nét giống nhau nào đấy giữa hai đối tượng" [9; tr.11]. Có thể hiểu, ẩn dụ là so sánh ngầm, nghĩa là trong cấu trúc so sánh có ẩn từ so sánh và cái được so sánh. Để nhận diện ẩn dụ, cần phải có căn cứ vào tiêu chí ngôn ngữ và phi ngôn ngữ: - Tiêu chí ngôn ngữ gồm có ngữ cảnh hẹp (những yếu tố, những quan hệ cụ thể của câu chữ có mặt trong ngôn bản) và ngữ cảnh rộng (hoàn cảnh giao tiếp). - Tiêu chí phi ngôn ngữ: gồm tính lôgic và thói quen thẩm mĩ hay giá trị truyền thống văn hóa... Có thể nói, ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa hữu hiệu để thực hiện việc trao đổi thông tin ngầm, đưa đẩy, bóng gió, lời ít mà ý nhiều... Vì vậy ca dao, dân ca các dân tộc và xình ca của người Cao Lan thường sử dụng phương thức này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 1.1.4.3. Nhân hoá Hiểu một cách chung nhất, nhân hoá hay nhân cách hoá là "một biến thể của ẩn dụ, ở đó người ta chuyển đổi ý nghĩa của các từ ngữ chỉ thuộc tính của con người sang đối tượng khác không phải con người" [53; tr.704]. "Tác dụng chủ yếu của nhân hoá đối với sự biểu đạt là miêu tả và trữ tình"[53; tr.704]. Việc đưa ra các sự vật hiện tượng không phải là con người sang thế giới loài người đã tạo nên một không khí mới, sinh động, làm cho chúng trở lên gần gũi hơn, dễ hiểu hơn. Nhân hoá là một cách biểu đạt trữ tình, là cách nói năng hình ảnh mà người Cao Lan hay sử dụng, đặc biệt trong xình ca. 1.1.5. Biểu tƣợng nghệ thuật Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm "biểu tượng". Theo nghĩa rộng nhất, "biểu tượng là một loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa mặt hình thức cảm tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người, được gọi là cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang tính có lí do, tính tất yếu" [12]. Hiểu đơn giản hơn, biểu tượng là "hình ảnh tượng trưng" hay hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thể hiện quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng của người sáng tạo ra nó, ví dụ hình ảnh "chim bồ câu" là biểu tượng của hoà bình. Để tạo nên các biểu tượng, từ ngữ phải được khai thác chủ yếu ở nét nghĩa biểu cảm, nghĩa bóng. Từ hình ảnh trở thành biểu tượng phải trải qua một quá trình biến đổi ý nghĩa. Quá trình chuyển hoá này diễn ra trong một phạm vi khác nhau: đời sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 văn hoá, nghệ thuật, văn học… Vì vậy, khi nghiên cứu về biểu tượng cần phân biệt rõ các khái niệm: "biểu tượng văn hoá", "biểu tượng nghệ thuật", "biểu tượng NTNT". - Biểu tượng văn hoá: "Những thực tế vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành động, ý niệm,…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp, một hệ thống đặc trưng cho những nền văn hoá nhất định" [12] là những biểu tượng văn hoá. Biểu tượng văn hoá bao gồm cả những biến thể vật thể (trong các ngành nghệ thuật như kiến trúc, hội hoạ, điêu khắc,…) và phi vật thể (tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, văn học). - Biểu tượng nghệ thuật: là các biến thể loại hình của biểu tượng văn hoá trong những ngành nghệ thuật khác nhau như hội hoạ, âm nhạc, văn học… - Biểu tượng NTNT: là các biểu tượng nghệ thuật được thể hiện dưới dạng tín hiệu ngôn ngữ trong văn học, còn gọi là "từ - biểu tượng" (word-symbols) [12]. Nếu như biểu tượng chỉ là hình ảnh cảm tính của con người về các hình thức vật chất cụ thể ở hiện thực khách quan, thì biểu tượng ngôn từ là sự tín hiệu hoá các hình thức vật chất cụ thể ấy qua hệ thống âm thanh ngôn ngữ. Có thể nói, "ngôn từ đã mở ra cho biểu tượng những quan hệ mới, những khả năng mới, những khả năng kết hợp còn đang tiềm ẩn hoặc không xuất hiện trong thực tế khách quan, hiện thực hoá và phát triển ý nghĩa của một biểu tượng trong một năng lực biểu hiện to lớn" [12]. Cấu trúc NTNT trong các tác phẩm nghệ thuật nói chung, xình ca nói riêng có thể xem như một tổng thể các tín hiệu thẩm mĩ, trong đó vai trò quan trọng thuộc về các "từ - biểu tượng" với tư cách là những điểm nhấn trong tổng thể cấu trúc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.2.1. Một vài đặc điểm tiếng Cao Lan Như đã nói ở phần Mở đầu (mục 2.3), cho đến nay những nghiên cứu về tiếng Cao Lan không nhiều và không phong phú, đặc biệt chưa thấy có một chuyên luận nào miêu tả tiếng Cao Lan ở diện đồng đại. Tuy nhiên, qua các tài liệu đã công bố, có thể phác hoạ một số nét chung về tiềng Cao Lan như sau: Xét về quan hệ cội nguồn, tiếng Cao Lan là một ngôn ngữ thuộc nhóm Tai Bắc (ở Việt Nam có các đại diện là: Giáy, Bố Y, Pu Nà...) của nhánh Tày - Thái (gồm các nhóm Tai Bắc, Tai Tây Nam, Tai Trung Tâm) của chi Tai (gồm các nhánh Tày Thái và Đồng Thuỷ) của ngữ hệ Tai - Kađai (gồm các chi Tai, Hlai - Lê và Kađai). Trong các tài liệu lịch sử, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy tiếng Cao Lan rất gần với các ngôn ngữ thuộc nhóm Tai Trung Tâm (Tày, Nùng, Thu Lao) và giả định rằng đây là kết quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ (với các ngôn ngữ thuộc Tai Trung Tâm) khi người Cao Lan di chuyển xuống phía Nam. Trong tiếng Cao Lan cũng có nhiều yếu tố và hiện tượng ngữ âm như ở tiếng Hán, và điều này cũng được giải thích bằng ảnh hưởng của tiếng Hán mà cộng đồng người Cao Lan từng sử dụng như ngôn ngữ thứ hai. Như vậy, có một điểm đáng chú ý khi xét về quan hệ cội nguồn: Ở trạng thái hiện nay, tiếng Cao Lan và tiếng Sán Chí (tiếng nói của hai cộng đồng thuộc “dân tộc” Sán Chay) không có điểm chung: tiếng Cao Lan thuộc ngữ hệ Tai - Kađai, còn tiếng Sán Chí thuộc ngữ hệ Hán - Tạng (người Sán Chí đang nói bằng một phương ngữ tiếng Hán). Trạng thái ngôn ngữ phổ biến ở vùng đồng bào Cao Lan hiện nay là đa ngữ, trong đó chủ yếu là song ngữ (Cao Lan - Việt). Đa số người Cao Lan nói Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 được tiếng Việt. Ở một số nơi, đồng bào còn nói được tiếng Tày, tiếng Hoa. Một số người già Cao Lan biết chữ Hán. Trạng thái đa/song ngữ kể trên, bên cạnh khía cạnh tích cực (là giúp cho các dân tộc hiểu nhau) còn có cả mặt trái, vì đó là trạng thái đa/song ngữ tự nhiên và không bình đẳng. Người Cao Lan, đặc biệt là lớp trẻ, trong khi cố gắng sử dụng thành thạo ngôn ngữ khác (chủ yếu là tiếng Việt) thì lại quên đi một phần, hoặc hoàn toàn tiếng mẹ đẻ của mình. Đây cũng là trường hợp của người Sán Chí (quên hoàn toàn tiếng dân tộc mình chuyển sang nói tiếng Hán), và điều này có thể lặp lại ở người Cao Lan. Chưa có tài liệu nào giúp ta hình dung được đầy đủ và sâu sắc về tiếng Cao Lan hiện nay (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, tiếng địa phương, chữ viết...). Sau đây là một số nhận xét rút ra từ các tài liệu đã có: - Xét về cấu trúc, tiếng Cao Lan là một ngôn ngữ rất gần với các ngôn ngữ Tày - Thái ở Việt Nam (Tày, Nùng, Giáy, Thái...), với một số đặc điểm: đơn tiết (các “tiếng” được phát âm tách rời, thường trùng với các đơn vị nhỏ nhất có nghĩa là từ và hình vị ); có thanh điệu (thường được chi nhận là 6 thanh); hệ thống các phụ âm giữ chức năng âm đầu tương đối phong phú, các âm cuối có đối lập giữa các âm mũi và không mũi, hệ thống nguyên âm có đối lập không đều đặn giữa các âm dài/ngắn; đơn/đôi... - Trong từ vựng tiếng Cao Lan, có sự phân biệt giữa các từ ngữ “thuần” Cao Lan được sử dụng hàng ngày kết hợp với các từ vay mượn mới đây từ tiếng Việt; Các từ ngữ “cổ” mang sắc thái trang trọng được dùng trong cúng bái và xình ca, phần lớn là các từ có nguồn gốc từ tiếng Hán. - Người Cao Lan có một hệ thống chữ cổ - chữ “Nôm Cao Lan”, được hình thành trên cơ sở chữ Hán (là chữ khối vuông ghi ý), theo cách vừa biểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 đạt ý vừa biểu đạt âm Cao Lan (giống như chữ “Hán Nôm” của người Việt). Chữ này được dùng trong các sách cúng, ghi gia phả, một số tác phẩm thơ ca dân gian. Nhà thơ Lâm Quý, người Cao Lan , tác giả cuốn Văn hoá Cao Lan nhận xét rằng thứ chữ này “rất khó đọc và khó hiểu nghĩa”, “đại đa số quần chúng nhân dân khi nghe đọc là hiểu, còn không tự đọc và viết được” [34 ;tr 172-173]. Cách “sáng tạo” ra chữ Cao Lan như thế lại lặp lại một lần nữa: Người ta đã dùng các kí hiệu của hệ thống chữ Quốc ngữ kết hợp với một vài cải tiến để ghi tiếng Cao Lan. Kết quả là một loại chữ Cao Lan ra đời, với các chữ cái và nguyên tắc tương tự như chữ Quốc ngữ. Nhà thơ Lâm Quý nhận xét rằng: “Loại chữ này rất phổ thông. Chỉ cần đọc thông viết thạo chữ Quốc ngữ là có thể viết thư, thông tin cho nhau bằng tiếng Cao Lan trong cộng đồng dân tộc mình”[34; tr.176-177]. Ông cho biết rất nhiều bài ca dao, dân ca, tục ngữ, vở kịch... đã được chi chép lại bằng chữ này, chẳng hạn sau đây là một bài thơ bộ đội viết ra để trêu các cô gái Cao Lan (1) : Slính nung slính Nhớ em lắm Slính nung slam tọn mấy kêu ngoài Nhớ em ba bữa không ăn cơm Slính nung slam tọn mấy kêu láu Nhớ em ba bữa không uống rượu Mấy đáy au nung tụp láu thai... Không được lấy em (anh) đập đầu chết... Trong các bản xình ca do Lâm Quý, Ngô Văn Trụ sưu tầm được , ở phần tiếng Cao Lan cũng được ghi bằng loại “chữ” này. 1.2.2. Xình ca trong vốn văn nghệ dân gian Cao Lan Đồng bào Cao Lan không chỉ biết lao động chăm chỉ để tạo cho mình cuộc sống ấm no, mà họ còn rất chú trọng xây dựng một kho báu văn nghệ dân gian Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 vô cùng phong phú, đa dạng và hấp dẫn. Đó là kho tàng truyện cổ tích, tục ngữ, ca dao, dân ca, hội họa..., cùng với những lễ hội dân gian tưng bừng, những vũ điệu nhịp nhàng uyển chuyển theo tiếng trống tang sành...Tất cả đã tạo nên một đời sống văn hoá tinh thần của người Cao Lan thật trí tuệ mà tình cảm, gần gũi, vui vẻ, cởi mở. 1.1.2.1. Truyện dân gian Truyện dân gian Cao Lan có nội dung phong phú, phản ánh quan niệm về nguồn gốc vũ trụ, loài người như "Truyện quả bầu", "Sự tích bàn chân người"; phản ánh quá trình lao động sản xuất, chinh phục tự nhiên của người Cao Lan như "Sự tích hạt lúa", "Ba chàng khổng lồ", "Chàng khổng lồ gánh núi"; truyện ngợi ca tình yêu thương, lòng kính trọng, hiếu thảo của con cái với cha mẹ như: "Láu Đoi", "Sự tích con bìm bịp", "Chiếc hũ vàng"; lại có truyện ngợi ca tinh thần đấu tranh chống áp bức và giặc ngoại xâm: "Lâm Khê", "Cây trám", "Chuyện kể về người mồ côi"; truyện lí giải về loài vật như "Sự tích con bìm bịp", "Truyện hươu, rùa, cua"... Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện dân gian của người Cao Lan rất đa dạng mộc mạc, giản dị, có lúc thâm trầm, sâu sắc nhiều khi lại dí dỏm, vui tươi. Dân gian Cao Lan còn lưu truyền một truyện đặc sắc kể về bà Chúa thơ ca của người Cao Lan - "Kó Lằu Slam". Đây được xem là: tác phẩm mang chất tự sự của truyện cổ. Truyện này có nguồn gốc từ các đêm hát ví và lấy thể của xình ca để sáng tác, vì vậy gắn bó chặt chẽ với những đêm hát của các chàng trai, cô (1) Để tiện trình bày và dễ theo dõi, các ví dụ bằng tiếng Cao Lan dẫn trong luận văn sẽ được ghi bằng chữ này (mượn các kí hiệu chữ Quốc ngữ để ghi, với một số cải tiến) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 gái Cao Lan. Cụ thể, truyện gồm nhiều chương hát về Lằu Slam (hát mời, hát tiễn và kể về chuyện tình của Lằu Slam). Vì vậy, nghiên cứu về xình ca trước hết phải tìm hiểu tích truyện này. Bao trùm lên những truyện cổ tích Cao Lan là tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc, là khát vọng có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, con người sống với nhau nhân ái, thủy chung. Tiếc rằng, mảng tự sự dân gian này chưa thực sự được các nhà khoa học quan tâm sưu tầm, nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc. 1.2.2.2. Múa - Âm nhạc - Hội họa XCCL không có múa phụ hoạ và có ít âm nhạc đệm, nếu có chỉ dùng sáo, hoặc gõ phách khi hát đố. Cùng với múa và âm nhạc, hội hoạ cũng là một nét đẹp văn hoá của đồng bào Cao Lan. Tranh vẽ Cao Lan vừa thể hiện thế giới tâm linh và tín ngưỡng của người xưa, vừa mang khát vọng về cuộc sống ấm no của con người nơi trần thế. Ví dụ như các bức tranh vẽ thần Nông, thần Đất, thần Sông, thần bà Mụ...Đặc biệt là bức tranh “Vương ca” mô phỏng về bà Lằu Slam và cảnh sinh hoạt ca hát của dân tộc Cao Lan có liên quan đến Bà Chúa thơ ca này của họ. 1.2.2.3. Tục ngữ - Ca dao (dân ca) Dân tộc nào cũng có tục ngữ - ca dao để mọi người trong cộng đồng thưởng thức, tiếp thu những lời dạy, những đức tính tốt đẹp, những kinh nghiệm ứng xử trong cuộc sống. Đặc trưng của tục ngữ - ca dao là ngắn gọn, cô đúc, có quy luật vần điệu dễ nhớ, dễ bắt chước làm theo trong đời sống hàng ngày. Tục ngữ - ca dao Cao Lan không ngoài đặc trưng đó. Tục ngữ Cao Lan đã đúc rút kinh nghiệm trong cuộc sống, lao động sản xuất; nhắc nhở những điều sai, khuyên răn, dạy bảo những điều hay lẽ phải cho mọi người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 Cho đến nay, ta chỉ biết người Cao Lan có một loại bài hát ru (ru con và ru em) với làn điệu du dương, dịu dàng. Bên cạnh đó, trẻ em Cao Lan có nhiều bài hát đồng dao rất hay, được sáng tác tự nhiên khi vui chơi. Những ý tứ thâm sâu trong tục ngữ, những vần điệu nhịp nhàng của bài hát ru và đồng dao, có thể được tìm thấy trong xình ca... 1.2.3. Xình ca Cao Lan XCCL có từ bao giờ? Điều này chưa ai có thể nói rõ được. Theo lời kể của các cụ già Cao Lan thì xình ca được lưu truyền từ xa xưa cho đến ngày nay. Làn điệu này tương truyền do nàng Lằu Slam sáng tạo ra, vì thế nó gắn liền với truyện thơ “Kó Lằu Slam” và truyền thuyết “Truyện tình nàng Lưu Tam”. Truyền rằng, khi mới biết nói, cô bé Lằu Slam “thần đồng” này đã nói lên những lời thơ, bảy tuổi đã hát ra những bài hát, đọc những lời đồng dao cho trẻ chăn trâu trong làng vui hát trong những đêm trăng. Lời hát có câu: Pá phoom dòm dòm pây khựt phứ Ông trăng dòm dòm đi vén mây Mệt phứ tèo tèo háy bôn heo... Mây bay bay trời cao cao... Mười sáu tuổi, Lằu Slam đã trở thành cô gái xinh đẹp, hát ví hay, đối đáp giỏi làm mê hồn các chàng trai trong vùng. Trong đám hội làng ném còn, hát ví, nàng đem lòng yêu chàng trai nghèo tên là Dừn. Chị dâu ép gả Lằu Slam cho nhà giàu. Nàng phải giả làm người câm điếc suốt ba năm...Trong lòng nàng luôn nhớ người tình cũ, ấp ủ hàng nghìn lời ca nhưng không được hát ra thành lời. Cuối cùng, Lằu Slam đi hết núi này đến bản nọ để tìm người yêu. Những lời ca tình yêu nhớ nhung được sáng tác trong suốt mấy chục năm ròng...Người đời chép lại bằng chữ Nôm với hàng thuyền sách, hát 36 ngày đêm không hết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 Chuyện kể rằng, khi biết chàng Dừn đã chết, Lằu Slam tựa vào gốc thông hát lên những lời thương tiếc và cũng trút hơi thở cuối cùng ở đó...Hồn nàng nhập vào gốc cây, từ đó cây thông này xanh mướt, quanh năm bốn mùa vi vu trong gió, hát mãi những bài xình ca tình yêu da diết. Nhân vật huyền thoại Lằu Slam đã được đồng bào Cao Lan tôn là “Bà Chúa thơ ca”. Mỗi dịp vui xuân, đám hát ví đều có những lời ca mời hồn nàng về nhập cuộc, để con trai con gái hát hay và đối đáp thông minh. Sau cuộc vui lại có những lời hát tiễn nàng về cõi Phật. Người Cao Lan coi xình ca là “kho báu trí tuệ” và “kho tàng tình cảm” của mình. Đời sống của người Cao Lan xưa gắn bó với xình ca. Xình ca gần gũi, thân thiết như bếp lửa, như nếp nhà sàn, như ruộng nương...Xình ca đã được gìn giữ và lưu truyền bằng việc ghi chép, tập hợp thành sách, và chủ yếu vẫn là nhờ truyền miệng. XCCL có nhiều loại: - Xình ca Thsăn lèn (hát năm mới): đó là những bài hát chúc nhau an khang thịnh vượng trong những ngày đầu năm mới âm lịch. - Xình ca Thsao bạo (hát đối đáp hay còn gọi là giao duyên): đây là loại xình ca được nhiêu người ưa thích. Nội dung những bài ca này là những lời yêu thương, nhớ nhung, hờn giận... - Xình ca Kên láu (hát đám cưới). - Xình ca Tò tèn (hát đố): người hát phải thuộc những bài có sẵn, phải nhanh trí nghĩ ra câu đố và trả lời được câu đố của bạn hát… Hai môi trường diễn xướng cơ bản của xình ca là trong nhà sàn và ngoài trời. Xình ca trong nhà sàn thường diễn ra vào ban đêm (mùa xuân hoặc lúc nông nhàn). Trai gái hát theo các tập sách ghi chép của người già truyền lại. Tương truyền xình ca Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 có mười hai tập, ứng với mỗi tập là một đêm hát với nội dung khác nhau. Hai bên hát phải cùng nhau hát theo các chương có tính chất bắt buộc. Người Cao Lan gọi đó là “ca bậc” - hát lớn để mọi người cùng nghe. Đêm hát tổ chức ở đâu, chủ nhà trải chiếu hoa, chuẩn bị ấm chè, miếng trầu mời khách. Một đêm hát thường bắt đầu khoảng từ tám, chín giờ tối đến sáng hôm sau. Những đêm hát xình ca trong nhà có nội dung rất phong phú. Dường như người Cao Lan hát về tất cả mọi điều xung quanh cuộc sống lao động và đời sống tinh thần của họ. Những điều gần gũi như ngày tháng trong năm, các nông cụ, thiên nhiên, quá trình di cư..., đến cả những điều xa xôi như vũ trụ, công chúa, hoàng tử, các vị thần thánh... rồi cả những vấn đề thuộc về tâm linh như can chi ngũ hành trong bát quái, kiện cáo số mệnh, con người chết vào tháng nào sẽ đi hướng nào, số mệnh cung tuổi hợp hôn, xem ngày giờ làm nhà, lấy vợ, đặt mồ mả, thờ cúng tổ tiên... Nhưng trên tất cả, xình ca vẫn hấp dẫn bởi những chương hát về tình yêu đôi lứa với tất cả cung bậc tình cảm, hát về khát vọng được cùng nhau trao đổi tâm tình, xây đắp hạnh phúc, đi đến hôn nhân. Ngoài những đêm hát bên bếp lửa nhà sàn, trai gái Cao Lan còn hát ở nhiều không gian khác nhau (ở chợ phiên, trên nương, trong rừng, suối nước...), gọi chung là xình ca ngoài trời. Đây là không gian diễn xướng phóng khoáng để trai gái Cao Lan tự do đặt lời, ứng khẩu đối đáp mà không cần sách. Vì thế, đặc trưng của lời xình ca hát ngoài trời là không cố định, bắt buộc, người hát có thể tự thay đổi, thêm bớt sao cho phù hợp với hoàn cảnh và với bạn hát, với tình cảnh của hai bên. Bao giờ họ cũng đứng thành tốp hát tập thể, rồi từng cặp từng đôi “ưng nhau” mới tách ra hát riêng. Loại xình ca này còn được gọi là "cao shềnh" (hát giao duyên). Nội dung chủ yếu của nó là hỏi thăm, trao đổi tâm tình, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 bày tỏ yêu đương, đố chữ, đố vật, trêu đùa nhau...Tuy vậy, xình ca dạng “ứng khẩu biến hoá” này cũng phải tuân theo các bước sau: - Vèo ca: hát để gọi bạn đến. - Sạo ca: hát dạo đầu (hỏi tên, tuổi, họ hàng, quê quán để làm quen). - Mầng ca: hát thề thốt (bày tỏ tình cảm, hẹn ước)… Những bài hát tình yêu này được gọi chung là “ca ý”. Những ý tứ yêu đương luôn tiềm ẩn trong đầu những chàng trai cô gái ở tuổi đang yêu, nhưng sẽ thành kỉ niệm khi họ đã có vợ có chồng… Có thể khẳng định rằng, xình ca là mảng văn nghệ dân gian còn giữ lại được nhiều nhất những giá trị quý báu của văn hoá truyền thống Cao Lan, trong đó có vốn ngôn ngữ của cộng đồng này. Có thể xem NTNT trong xình ca như chìa khoá để chúng ta mở cánh cửa bước vào thế giới đa chiều, phong phú về đời sống xã hội và đặc biệt tinh thần của người Cao Lan, được phản ánh qua XCCL. TIỂU KẾT Được thể hiện chủ yếu qua truyền khẩu, được ghi lại qua chữ viết sau này, NTNT trong XCCL mang những đặc trưng của ngôn ngữ văn nghệ dân gian nói chung: vừa bị ràng buộc bởi các khuôn mẫu truyền thống, vừa được ứng tác sáng tạo tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và mục đích cụ thể của cuộc xướng ca, đồng thời có thể có những đặc điểm riêng của một hình thức cụ thể của một cộng đồng. Xuất phát từ quan niệm như vậy, việc chỉ ra các cơ sở lí thuyết và thực tiễn trong nghiên cứu xình ca Cao Lan là nhằm hình dung đối tượng này trong những phổ niệm về ngôn ngữ trong văn bản văn nghệ dân gian và các phương thức chuyển nghĩa, những cách liên kết văn bản thường gặp, đồng thời xác định bước Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 đầu những điểm đáng chú ý trong xình ca của cộng đồng này. Các khái niệm được xác định là: ngôn ngữ, ngôn ngữ văn học, ngôn từ nghệ thuật, so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, biểu tượng, nhịp điệu, vần, xình ca..., có vai trò định hướng khi xem xét những đặc trưng của NTNT trong xình ca về hình thức và ngữ nghĩa ở những chương sau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 CHƢƠNG 2 NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT CỦA XÌNH CA XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC 2.1. KẾT CẤU XÌNH CA Xình ca là vốn quý trong văn hoá dân gian cổ truyền Cao Lan. Kết cấu của xình ca vừa có nét tương đồng với dân ca trữ tình của các tộc người trên đất nước ta, vừa có những đặc điểm riêng. Trong giới hạn của luận văn, xin được tìm hiểu kết cấu của xình ca trên hai phương diện chính: Hình thức kết cấu và biện pháp kết cấu. 2.1.1. Các dạng kết cấu Do ảnh hưởng của thể tứ tuyệt (Trung Quốc) nên những khúc hát xình ca giao duyên bao giờ cũng có bốn câu hát, mỗi câu 7 chữ. Trường hợp đặc biệt là những khúc có 3 câu mỗi câu 7 chữ, hoặc bốn câu, câu đầu 3 chữ, ba câu sau mỗi câu 7 chữ. Như vậy, câu hát xình ca không quá dài, trong khi hát, người hát thường phải thêm những từ đưa đẩy “ư...ờ...” để ngân nga. Khúc hát chỉ có bốn câu hát và chỉ gồm 28 chữ là một khúc hát ngắn nên đa số các bài xình ca phải gồm từ hai khúc trở lên. Xình ca được hát vào ban đêm và xình ca được hát trong nghi lễ (hát trong đám cưới, đám tang...) được ghi chép vào sách in thành tập, khi hát người hát phải cầm sách hoặc học thuộc lòng từng câu rồi hát theo. Vì thế, một khúc hát đến cả tập sách thường có tính công thức, khuôn mẫu, bắt buộc người hát phải ghi nhớ. Nếu không thuộc và không hát được sẽ bị chê cười... Bên cạnh kết cấu cố định, bắt buộc, XCCL còn có những khúc hát giao duyên, đối đáp có kết cấu khá linh hoạt. Từ mẫu gốc có sẵn, câu hát, khúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 hát có thể được thay đổi ít nhiều sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Lại có cả những câu hát, khúc hát được sáng tác nhất thời với yêu cầu phải ứng đối nhanh, thông minh, nên người ta khi hát phải nghĩ ra lời mới để đối đáp với nhau. Một số bài xình ca còn có cấu trúc tựa như một câu chuyện kể, mà cốt truyện được trình bày qua lời đối đáp của bên nam và bên nữ. Đó là những tích truyện cổ gắn liền đời sống văn hóa, tinh thần của người Cao Lan như Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, Nàng Lằu Slam... Có những truyện gắn với các biến cố lịch sử của tộc người như kể về cuộc bơi thuyền vượt biển, về quá trình di cư đầy gian khổ của người Cao Lan từ Trung Quốc sang Việt Nam. Trong số những bài xình ca trên, bài hát kể về Lằu Slam có cấu trúc cốt truyện rõ nét nhất. Chuyện bắt đầu giới thiệu về "quê quán Lằu Slam ở Tây Châu", "nhà ở hướng Tây", vì nàng làm ra nhiều thơ hay nên bị ganh ghét đẩy xuống vực, nàng leo lên vực bằng dây rừng, rồi lại đến chuyện Lằu Slam đi tìm người yêu, chuyện nàng tắm suối bị bọn trẻ trâu nhìn trộm. Kết thúc bài xình ca là chuyện Lằu Slam chết bên gốc cây thông… Yếu tố cốt truyện trong một bài xình ca làm cho những câu hát, khúc hát trong bài liên kết chặt hơn, tình tiết chuyện phát triển theo những khúc hát cứ liên tiếp nhau, khiến cho người nghe có cảm giác như nghe một câu truyện cổ có kết cấu chặt chẽ, cốt truyện li kì. Ví dụ đoạn cuối câu chuyện về Lằu Slam như sau: Lằu Slam cáo kích mục tàu tặng Lênh pén lủy nhừ tun dắt chăng Pắt slặn ngo họn Lằu Slam mòi Dắt pin hay mép dắt pin hằng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 Lấy cọ họn nhàu hai nhờn cáng Lău Slam pắt tỉnh slấy ngoày ngoày Cấy to co sì cáng cú lêu Ậy ắc họn nhàu kịch slấy màu. Sồng phéc mộc Dơu cọ mò phằn và sắc háo Phông sui thin dính Lằu Slam ca. (Lằu Slam ghếch chân lên gốc cây / Quấn cho gọn lại đôi xà cạp / Hở ra cặp đùi trắng hây hây / Xâu vào đôi cá đang thở ngớp / Nép vào đôi bên một chãng cây / Đôi lời đồng dao trẻ chăn trâu / Thấy thế bèn chơi hát đôi câu / Một chốc vô tâm làm lộ hết / Của báu dành cho mối tình đầu / Bao nhiêu lời hát bay đâu hết / Để mắng đàn trẻ em mục đồng / Tựa ngồi buồn bã nơi gốc thông / Sống làm gì nữa chết cho xong / Dưới gốc thông già phần mộ ai / Cỏ hoa, bướm lượn vẽ vòng chơi / Người đời thương cảm người dưới ấy/Gió reo thông vút tiếng ca vui). Khi nói đến kết cấu của một bài dân ca, người ta thường nói đến hai dạng kết cấu đặc trưng là một chiều và đối đáp. XCCL cũng được sáng tác theo hai dạng này. Có thể hiểu kết cấu một chiều là kết cấu liên kết một lượt lời ca do một chủ thể phát ngôn diễn xướng. Trong XCCL, kết cấu một chiều được sử dụng để liên kết những câu hát, khúc hát liên tiếp của bên nam, hoặc bên nữ khi diễn xướng mà không có lời đáp. Kết cấu một chiều được sử dụng ở những bài hát “mời trầu”, “dâng tổ” trong xình ca đám cưới, bài “lời khuyên” của ông mòi (ông mối) sau đám cưới, toàn bộ xình ca đám tang, và số bài hát mang tính tự sự diễn xướng trong 12 đêm hát giao duyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Ở lễ “dâng tổ” và “mời trầu” của đám cưới người Cao Lan, có hai bài sáng tác theo dạng kết cấu một chiều gồm trên 40 khúc hát, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt bốn câu bảy chữ, có trường hợp câu đầu ba chữ. Lời do bên nhà trai hát: Kênh cụ slốc ông su tặng tàu Xin bẩm các cụ ngồi bàn đầu Tạm pu phân phát pá lang đau Bạn bè chú rể được phát tiếp trầu cau Chú công chóc slin tù phát lêu Trưởng họ chú cô đã phát hết Lài vằn phát hấy mùn tài tàu. Xin được quay ra tiếp khắp nhà. Sau tất cả các nghi lễ trong đám cưới, người Cao Lan còn có một bài hát riêng do ông mòi hát khuyên răn cô dâu làm tròn bổn phận và trách nhiệm với gia đình chồng. Bài hát gồm nhiều khúc hát nối tiếp tạo thành lượt lời dàn trải. Kết cấu một chiều độc lập làm cho bài hát nghe như bài giảng về đạo lí: ... Em chưa có chồng em chưa biết Lấy chồng ba năm em sẽ biết Bao nhiêu cơm cháy cũng là em ăn Bao nhiêu việc khó cũng là em làm. Xình ca đám tang có số lượng ít hơn xình ca đám cưới, đến nay chỉ sưu tầm được một bài gồm năm khúc hát có kết cấu một chiều, bài hát này do say phù (thầy cúng) hát lúc căn dặn linh hồn người chết về với tổ tiên. Những câu hát trong năm khúc hát mang tính trần thuật khá rõ nét, ._. không gian là một phương diện làm nên chỉnh thể của KGNT trong xình ca Cao Lan. Chúng đều là không gian gắn bó với những quan niệm, đời sống của người dân và thể hiện những cung bậc trong tình yêu đôi lứa. KGNT đã góp phần xây dựng nên một thế giới nghệ thuật phong phú, đa dạng trong xình ca. 3.2.3 Biểu tƣợng “phƣợng hoàng”, “cây cầu”, “bông hoa” Những biểu tượng đẹp như “phượng hoàng”, “con rồng”, “cây cầu”, “con đường”, “bông hoa”, “dải thắt lưng”...đã góp phần không nhỏ làm nên sức hấp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 dẫn đặc biệt của xình ca về mặt ngôn từ. Ở đây chỉ xin chọn ba biểu tượng tiêu biểu làm đối tượng nghiên cứu: "phượng hoàng", "cây cầu" và "bông hoa" - những biểu tượng có tần số xuất hiện cao nhất trong xình ca. 3.2.1 Phùng vùng (“phƣợng hoàng”) Xét từ góc độ thế giới hiện thực thì phượng hoàng thuộc thế giới động vật. Nó thường xuất hiện với hình ảnh con rồng tạo nên cặp đôi rồng - phượng, biểu tượng cho sự cao đẹp, quyền quý. Nếu như rồng là hình ảnh tưởng tượng của dân gian, không có trong đời thực, thì chim phượng hoàng lại gắn bó mật thiết và gần gũi với đời sống của người Cao Lan xưa. Ông Trần Minh Quang (75 tuổi) ở xóm Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang kể lại rằng: “Trước còn là trẻ chăn trâu, tôi vẫn thấy phượng hoàng bay qua ruộng từ núi Là sang núi Nghiêm. Bộ lông nó đẹp lắm, cái mỏ quặp vào. Nó vẫn thường vào các ngõ nhặt quả cọ ăn…”. Có lẽ vì thế mà từ đời thực, phượng hoàng thường xuyên xuất hiện trong lời xình ca, với hơn 80 lần/366 câu hát. Các chàng trai cô gái Cao Lan mượn hình ảnh “đôi phượng hoàng” để nói với bạn hát những cung bậc tình yêu trong lòng của mình. Đó là nỗi buồn của chàng trai khi ngỏ ý muốn được “cùng gối đầu” với cô gái nhưng không được đáp lời, nhìn đôi phượng mà cất lời hát rằng: Dắt tọi phùng vùng phơi cụ thin (một đôi- phượng hoàng- bay- qua- bầu trời) Phùng vùng phơi cụ tá mùn tàu (phượng hoàng- bay- qua- từ- ô cửa đầu tiên) Phùng vùng hòm sư tếc phạo mồi (phượng hoàng- ngậm- như-quý-ngậm- mồi) Vằn sềnh mù hới phịt nhằn châu (hồn- tình- không đi- tạm biệt -người- huyện) (Một đôi phượng hoàng bay qua bầu trời /Đôi phượng hoàng bay từ ô cửa đầu tiên /Phượng hoàng ngậm con mồi quý như ngậm bông hoa bay tới đích / Như tình yêu ra đi không tạm biệt anh). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 Có khi chàng trai lại tự so sánh mình với “phượng hoàng” và buồn vì không tìm thấy “rồng” - là cô gái: Xíp tìu su nhợp xịnh su xịnh (sắp xếp - để - thì - nhập vào - hát- thì -hát) Phùng vùng phây cụ slứt san tàu (phượng hoàng - đi- qua- lướt - đầu- núi) Nìn phùng cao phây tý lợc từy (phượng hoàng- cao- đi - một ít-sà xuống - đất) Pàu săn mù hấy lùng slăm sàu (lặng mình- không có- rồng - tim- buồn). (Nhập vào cuộc hát thì anh hát /Phượng hoàng bay lướt qua đầu núi /Phượng hoàng bay cao rồi sà xuống mặt đất /Lặng mình không thấy có rồng nên tim buồn). Có thể thấy, trong một đêm hát, người Cao Lan thường sử dụng rất nhiều lần từ phùng vùng, vì đây chính là “từ - biểu tượng”. Có những khúc ca bốn câu thì biểu tượng “phượng hoàng” lặp lại ba hoặc bốn lần. Trong XCCL, loài chim này luôn ở tư thế sải rộng cánh bay và gắn với những không gian rộng lớn như bầu trời, ngọn núi, đại dương, châu, phủ... Trong văn hoá truyền thống của người Cao Lan, “phượng hoàng” là biểu tượng của hạnh phúc trong hôn nhân, cho sự kết duyên của đôi trai gái. Lễ cúng tổ tiên nhà gái của chàng rể Cao Lan xưa nay bao giờ cũng phải có một đôi gà phượng hoàng nhỏ. Đôi gà này được tạo thế bay, dán giấy vàng vào mỏ và chân, đầu cánh dán giấy đỏ xanh sao cho thật giống đôi phượng hoàng. Người Cao Lan gọi đó là tọi cạy tù chông (đôi gà trống). Nét văn hoá này in dấu ấn khá đậm trong xình ca. Những lời xình ca kể về đôi trai gái trao tín vật tình yêu cho nhau, và trong giây phút thiêng liêng ấy có đôi phượng hoàng chứng giám: Tưi slính slầy (tôi - không muốn - dời xa) Cao san mấy tụi phùng vùng phơi (cao- núi- mấy- đôi - phượng hoàng- bay) Làng dịu cùng nình tạo sáu sắc (anh-im lặng-cùng-em-trao-ngón tay-tín vật) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 Slính slầy tạo sáu di nàn slầy (không muốn-dời-trao-ngón tay- là -chán- dời). (Tôi không muốn dời xa / Trên núi cao có mấy đôi phượng hoàng đang bay/ Chàng im lặng cùng em trao tín vật/ Đã đeo tín vật vào ngón tay rồi không muốn dời xa nữa). Có thể nói, ngoài đời thực chim phượng hoàng vốn thân thiết, gắn bó với cuộc sống và văn hoá của người Cao Lan, vì thế, trong xình ca, phượng hoàng là một biểu tượng vừa cao đẹp vừa gần gũi. Phượng hoàng thường là biểu tượng cho chàng trai với những trạng thái tình cảm khác nhau (buồn, sầu, thất vọng, hy vọng...). Phượng hoàng biểu tượng cho sự đính ước kết đôi... Tựu trung lại, biểu tượng này thể hiện khát vọng về tình yêu, hôn nhân của người Cao Lan xưa. Trên cơ sở phân tích trên, xin được khái quát ý nghĩa của biểu tượng này trong xình ca như sau: Nghĩa thực Nghĩa biểu tƣợng phượng hoàng - chàng trai đa tình - đính ước kết đôi 3.2.2 Kìu (“cây cầu”) Người Cao Lan thường cư trú ở những thung lũng hay chân núi, nơi có đất rừng bằng phẳng, có suối nước to, nhỏ hoặc gần bờ sông, bờ hồ nên cái cầu có vị trí khá quan trọng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ. Trong thực tế, cái cầu dù lớn hay nhỏ đều là vật nối khoảng cách giữa hai bờ sông, hai làng, thậm chí để nối giữa nhà này với nhà kia, từ ruộng bên này đến ruộng bên ấy. Cái cầu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 thuộc về thế giới các vật thể nhân tạo, là phương tiện để đi lại, trao đổi, giao lưu phục vụ đời sống hàng ngày. Trong xình ca, cây cầu xuất hiện với nhiều nét nghĩa biểu tượng độc đáo, thể hiện sự liên tưởng của người Cao Lan về nó trong quan hệ với nhiều mặt đời sống, đặc biệt trong tình cảm con người. Người Cao Lan quan niệm rằng con người sống hay chết đã có Nam Tào ở cõi âm quyết định. Số mệnh ở cõi dương đã hết, Nam Tào sẽ gạch sổ trừ tên. Có thể thấy trong XCCL cây cầu số mệnh nối hai cõi: Tợp kích cụ kìu dính tênh tàng (bước-chân - qua - cầu- nhẹ - nhàng- đường) Lồng vùng sui táy mờn lênh san (Long vương- nước-bên-dưới- chết -trên núi) Phềnh chú su dình cấy phéc lụi (người già- thọ- cõi dương-mấy trăm - tuổi) Hò nhằn căn pù nhợp dăm căn (nào-người-định mệnh-nhập về-cõi âm - gian). (Bước chân qua cầu rất nhẹ nhàng /Long vương dưới nước mà chết trên núi/ Người già hưởng thọ ở cõi dương được mấy trăm tuổi / Con người về cõi âm là do định mệnh rồi). Trở thành vật nối giữa hai không gian trong thế giới tâm linh của người Cao Lan, chứng tỏ rằng biểu tượng cây cầu đã trở thành linh thiêng. Đồng thời, với biểu tượng này, người Cao Lan đã làm cho bước chân đi từ cõi dương về cõi âm (vốn đáng sợ) trở nên nhẹ nhàng hơn. Hoặc “cây cầu” trở thành một biểu tượng khác. Chẳng hạn, người Cao Lan có câu xình ca rằng: Tặp kìu nhợp mùn mùng châu phấn (bắc-cầu- vào-cửa- nhìn - huyện tỉnh) Sung nhi nhợp hợc mùng cầu cun (hai - bé/nhỏ- vào - học - nhìn - làm - quan) Chai chin nhợp dừn mùng kéc chí (kiêng- mọi thứ -vào -được- nhìn - ăn -giấy) Cao sênh kít ậy mùng sềnh sun(trao đổi- tình yêu-kết bạn ấy- nhìn- thành hai). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 (Bắc cây cầu để đến cửa huyện, tỉnh lớn/ Đôi bạn nhỏ đi học mong được làm quan/ Giữ gìn mọi điều để được vào, được viết nhiều giấy/ Trao tình kết bạn mong thành đôi). Người Việt có câu ca rằng: “Muốn sang thì bắc cầu Kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. So sánh “cầu Kiều” trong ca dao người Việt và “cây cầu” trong xình ca Cao Lan thì thấy: mục đích “bắc cầu” hoàn toàn giống nhau - đều vì muốn học lấy cái chữ. Nhưng người Cao Lan ngày xưa còn muốn “hợc mùng cầu cun” - học không phải chỉ để “hay chữ” mà để rồi làm quan. Và mục đích thứ hai bắc cầu là để “cao sênh kít ậy” (trao tình kết bạn). Hành động “bắc cầu” thể hiện sự chủ động của người Cao Lan khi tìm đến thầy, tìm đến bạn. Khi sử dụng hình ảnh cây cầu với ý nghĩa biểu tượng cho những nguyện vọng ấy, người Cao Lan thường mượn tích Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài của Trung Quốc. Chắc hẳn, những chàng trai Cao Lan khi đến trường vừa có ước vọng giỏi giang đỗ đạt làm quan, vừa mong mình có được mối tình đẹp như Anh Đài và Sơn Bá. “Cây cầu” không còn là vật nối giữa hai khoảng cách địa lí cụ thể nào nữa, đi vào lời xình ca nó trở thành “cầu tình”: Ú a slin tá sời kìu tằu (con - quạ - nối - nhau - từ đi -cầu đầu) Phếch sích lai sìu phơi sừng châu (trắng-lại-buổi chiều- bay- trên- huyện) Phơi sừng phụn chao hau va sái (bay-cao- nửa-bay đi, bay lại - hoa -nhị hoa) Phốc slínhphận quay cùn tưi dàu (có phúc-nhớ-thân phận-về-cùng- tôi buồn). (Con quạ nối nhau bay đi từ phía đầu cầu / (Đàn con gì đó) trắng buổi chiều lại bay trên huyện/ Bay đi bay lại đan xen nhau trông giống như bông hoa/Có phúc nhớ thân phận mình thì quay về cùng buồn với tôi). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 “Phía đầu cầu” là nơi tình yêu bắt đầu và cũng là nơi chàng trai cảm nhận được sự lẻ loi, buồn sầu. Qua khảo sát gần 80 lần xuất hiện của biểu tượng “cây cầu”, có thể nhận thấy người Cao Lan không hay nói về “cuối cầu”, “chân cầu” mà chỉ hay nói đến kìu (trên cầu), kìu tàu (đầu cầu). Tình yêu bắt đầu và kết thúc đều ở “đầu cầu”, hẹn hò ở “đầu cầu”, tỏ tình nơi “đầu cầu”. Đây là cách nói, là thói quen, là sự ưa chuộng sử dụng từ “đầu cầu” của người Cao Lan. Một số ít trường hợp các TGDG khai thác biểu tượng cầu ở nét nghĩa biểu vật (là cây cầu có thực) nhưng vòng vo rồi lại đi đến chuyện tình yêu: Tợp kích cụ kìu chi súi dính (bước-chân- qua - cầu - biết- nước- cái bóng) Kìu cao súi lẩng họn mù chăn (cầu-cao-nước-động-nhìn-không thấy-hình thật). (Bước chân qua cầu nhìn xuống xem bóng mình/Cầu cao nước động rung rinh nên nhìn xuống mà không thấy hình). Hôm nay qua cầu nhìn xuống nước Cầu cao nước sóng chẳng rõ hình Không tiền mua gương gạo cũng đổi Lấy một gương soi đôi bóng hình. Có thể nói, biểu tượng “cây cầu” trong xình ca mang nhiều ý nghĩa phong phú và độc đáo: biểu tượng cho số mệnh con người, cho khát vọng học hành làm quan, cho ước muốn kết bạn trao tình. Ngoài ra, biểu tượng này còn làm cầu nối giữa những lời xình ca và những người say hát... Phân tích 78 lần xuất hiện của biểu tượng “cây cầu” trong xình ca, xin được khái quát ý nghĩa của biểu tượng này như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 Nghĩa thực Nghĩa biểu tƣợng cây cầu - số mệnh con người - học hành thăng quan - giao duyên 3.2.3 Va (“bông hoa”) Có thể nói “hoa” là một biểu tượng văn hoá của nhân loại có tính phổ quát cao. Trong tôn giáo, điêu khắc, hội hoạ... người ta thường coi hoa là sự thể hiện của những gì cao đẹp. “Hoa” là một biểu tượng văn hoá của nhân loại - vấn đề đó đã mặc nhiên được thừa nhận. Tuy nhiên ở đây chỉ xin nói đến “hoa” với ý nghĩa là một biểu tượng trong NTNT XCCL. Trong xình ca “hoa” có rất nhiều dạng cụ thể: va (hoa), mờu tan (hoa mò), pục chí (hoa chuối), lin (hoa sen), tú va (con hoa)... Qua khảo sát trên 366 câu hát, có thể nhận thấy biểu tượng hoa được sử dụng nhiều gấp đôi hai biểu tượng “cây cầu” và “phượng hoàng”. Từ hoa được xuất hiện với nghĩa gốc là: "một bộ phận trọng yếu của loài cây kết thành quả, cơ quan sinh sản của nhiều thực vật có mầu thường có hương, một số dùng làm cảnh” [12] rất ít. Khi đặt trong ngữ cảnh cụ thể, từ hoa thường được chuyển nghĩa để trở thành biểu tượng cho cái đẹp (cái đẹp nói chung và vẻ đẹp người con gái nói riêng) và tình yêu. Các ví dụ: Mờu tan va hai tú tú slặn (hoa - mò – hoa –nở – con con -xoè ra) Thin slặn vằn mềnh nhịt chệnh chăn(trời-xoè ra- hồn-sáng- đêm-đúng - thật) Căm di slinh phồng vằn sác lợc (cầm - là - linh thiêng -hồn- thể xác - kéo lên) Xíp tìu hai sênh vằn mờn săn (sắp xếp - để- nở- tình yêu- hồn- vạn- thân thể). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 (Bông hoa mò con con đã nở xoè ra /Đúng thật là hồn hoa đã xoè ra dưới trời ngày đêm /Cầm lấy hồn hoa linh thiêng mà ngắt lên /Hồn hoa nở như sắp được cho hàng vạn hồn tình yêu nở). Chàng trai Cao Lan ví bạn hát như bông hoa đã nở xoè ra. Slinh phồng (hồn hoa) linh thiêng đáng trân trọng hay đó chính là cách nói hình ảnh ngợi ca tâm hồn của nàng - người Cao Lan xinh đẹp và tâm hồn trong trắng như hoa mò. Đây quả là lời tỏ tình khéo léo, đáng yêu của chàng trai. Có thể nói, cách dùng biểu tượng “hoa” để đưa đẩy, hỏi thăm, tỏ tình... làm cho lời xình ca rất hình ảnh, sinh động mà vẫn mộc mạc đậm chất Cao Lan. Biểu tượng cho cái đẹp và tình yêu, “hoa” cũng mang nhiều ý nghĩa ứng với các dạng khác nhau: người con gái đẹp giản dị như “hoa mò”, tâm hồn đẹp như “hoa sen”, tình yêu say đượm rực rỡ như “hoa chuối”: Pục chí tồng pầy tồng sự lùm (hoa chuối- nhỏ- cùng- bắp bi -cùng-thật - múi) Chiu chí tồng cồng tồng sự va(chuối tiêu-nhỏ-cùng- hết- cùng- thật -hoa) Pằng dơu tồng sun các cán ốc (bạn - cùng - thôn - khác – gian- nhà) Phu say tồng chắm các di nà (vợ -chồng - cùng - gối - khác- cha- mẹ). (Hoa chuối cùng quả bắp bi thành một múi / Chuối tiêu nhỏ cùng một hoa chuối mà ra/ Bạn cùng thôn nhưng khác gian nhà /Vợ chồng cùng chăn gối nhưng khác cha mẹ). Trong kết cấu một đêm xình ca, sau lời mở đầu chào chủ nhà, già bản, đôi trai gái phải hỏi họ nhau, không trùng họ thì hát, nếu trùng họ thì không hát nữa. Vì thế, lời chàng trai nói rằng những quả chuối tiêu nhỏ từ hoa chuối sinh ra, nhưng muốn nên vợ chồng thì phải khác cha mẹ, ý muốn cô gái cho biết mình họ nào. Cách hỏi họ bằng hình tượng như thế cũng thường được thể hiện qua cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 hỏi “thôn”,“bản”, “đường vào nhà”... Trong nhiều bài XCCL, “hoa” là cái cớ để họ nói chuyện làm quen, tìm hiểu nhau, thậm chí trêu ghẹo, trêu tức, làm cao... Chàng trai mở lời rằng: Nhìn thấy “hoa sen” nở bên đường, anh định mua lấy một bông để hát cùng với hoa sen. Và cô gái đáp: Dơu tú slin va mấy cáng cạ (có- con -liền hoa - không - nói - giá) Dơu tú nháu va mấy cạ ngằn (có-con - sen - hoa -không - giá - tiền) Lìn va chộng táy slam sin lộc ( hoa sen- trồng-dưới -ba - nghìn-sáu) Nháu va chộng táy lộc phặn ngằn (hoa sen- trồng- dưới - sáu -phân -tiền). (Bông hoa không nói giá được/ Bông hoa sen này không có giá tiền/ Hoa sen không dưới ba nghìn sáu/ Hoa sen không dưới sáu phân tiền). Trong lời ca có gì đó như làm cao và hàm ý thách thức của cô gái. Hoa sen không dưới sáu phân tiền và ba nghìn sáu (đắt lắm!), ý rằng anh không đủ tiền để mua, chưa đủ tài để hát được với em đâu. “Hoa” biểu trưng cho tình yêu, mà tình yêu luôn đem đến cho con người nhiều cảm xúc đan xen, có đắng cay, ngọt ngào, niềm vui và cả nỗi buồn. Một bãi nở đầy hoa với gió lùa rung rinh có khi lại là không gian buồn vì chàng trai đi hát một mình: Su xịnh chếch co sừng cắn sliu(đi- hát- một mình- trên cao- vội vàng - hết) Va hai chắt phạ phông lài dìu (hoa - nở- nhiều - bãi- gió- lùa - rung rinh) Va hai chắt phạ phông lài tá (hoa - nở -nhiều- bãi -gió- lùa - bên nọ bên kia) Hấy tưy hòm său chiu cụ chiu (cho- tôi- ngậm- buồn- (ý là từ trẻ đến già)) (Một mình vội vàng đi hát trên núi cao/ Hoa nở đầy bãi gió lùa rung rinh/ Hoa nở đầy bãi gió lùa hoa nghiêng bên này bên kia/Cho tôi buồn mãi không thôi). Xin được khái quát ý nghĩa biểu tượng của “hoa” trong xình ca như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 Nghĩa thực Nghĩa biểu tƣợng bông hoa - cái đẹp - tình yêu Có thể nói, việc sử dụng biểu tượng quen thuộc, gần gũi như “hoa”, “phượng hoàng”, “cây cầu”...với tần số cao làm cho ngôn từ nghệ thuật trong xình ca mang đậm chất mộc mạc, giản dị song cũng vô cùng sinh động và mang tính ẩn dụ cao...Nhờ các ý nghĩa biểu trưng phong phú của những biểu tượng này, các chàng trai cô gái Cao Lan đã gửi đến bạn hát của mình rất nhiều “điều khó nói ” một cách trực tiếp. Đó là những cung bậc tình cảm đa chiều của họ khi yêu, là khát vọng được yêu và đính ước kết đôi, là mong muốn được học hành đỗ đạt, là nếp nghĩ, cách nhìn cuộc sống xung quanh... Những biểu tượng trong XCCL được sử dụng khéo léo còn mang lại “hiệu quả kép”. Chúng làm cho lời xình ca thêm ấn tượng và gần gũi với người hát người nghe, vì thế sức sống của xình ca lâu bền hơn trong dân gian. Đồng thời qua những biểu tượng này, chúng ta có cơ hội hiểu thêm về cách cảm, cách nghĩ, cách bày tỏ tình yêu của các chàng trai cô gái Cao Lan, về những quan niệm và nét đẹp văn hoá của người Cao Lan từ xa xưa thể hiện qua NTNT trong xình ca. TIỂU KẾT Có ba biện pháp tu từ thường được sử dụng trong XCCL, là: so sánh, ẩn dụ và nhân hóa. Với biện pháp so sánh, có hai cách tiêu biểu là sử dụng các từ so sánh sì (là/ như), mấy (không, chẳng bằng), sì hơn (hơn) và ẩn từ so sánh. Hai vế trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 cấu trúc so sánh được xây dựng bằng những sự vật hiện tượng gần gũi với đời sống người Cao Lan. Cái so sánh (vế B) luôn phong phú hơn cái được so sánh (vế A). Hai vế A - B còn tạo thành những cặp song hành, thể hiện mơ ước được kết đôi và sự gắn bó hòa hợp của đôi lứa yêu nhau. Với biện pháp ẩn dụ, trong XCCL có hai loại: ẩn dụ tu từ qua từ ngữ và ẩn dụ tu từ qua phát ngôn. Biện pháp ẩn dụ nhằm biểu thị các nhân vật trữ tình thông qua các sự vật hiện tượng của thế giới tự nhiên phong phú, đa dạng. Đồng thời cách ẩn dụ còn giúp biểu đạt được các sự tình, trạng thái, cảnh huống và thế giới nội tâm của nhân vật trữ tình xoay quanh câu chuyện tình yêu. Có hai hình thức trong biện pháp nhân hóa là: 1. Dùng từ ngữ chỉ tính chất, hành động của con người để biểu thị tính chất, hành động của đối tượng không phải là người. 2. Coi những đối tượng vốn không phải là người như con người để trò chuyện, tâm tình. Tác dụng của nhân hóa đối với sự biểu đạt trong XCCL là miêu tả và trữ tình. Miêu tả làm cho đối tượng được miêu tả hiện lên chân thực, sinh động, qua đó nhân vật trữ tình đã bộc lộ những tâm trạng, cảm xúc của mình. So sánh, ẩn dụ, nhân hóa cho thấy cách cảm, cách nghĩ và lối nói của người Cao Lan được thể hiện một phần qua ngôn ngữ xình ca. TGNT trong XCCL được tạo dựng nên với sự đan xen giữa hai dòng thời gian hiện thực và tâm lí. Trong đó, dòng thời gian quá khứ của những câu chuyện kể chiếm dung lượng lớn, xen kẽ với thời gian hiện tại của cuộc diễn xướng. KGNT trong XCCL được tạo nên với hai hình thức không gian là siêu nhiên và hiện thực - cặp không gian này thống nhất với nhau tạo nên chỉnh thể của KGNT. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 Trong số các biểu tượng thường gặp qua từ ngữ của xình ca, “phượng hoàng” biểu tượng cho chàng trai đa tình và sự đính ước kết đôi; "cây cầu" biểu tượng cho số mệnh con người, sự học hành thăng quan và giao duyên; "bông hoa" biểu tượng cho cái đẹp và tình yêu. TGNT, KGNT và những biểu tượng trong XCCL có chất liệu từ ngôn ngữ đời sống, vì thế luôn gắn bó gần gũi và thể hiện sâu sắc những quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng tình cảm của người dân Cao Lan. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 KẾT LUẬN 1. Trong vốn văn nghệ dân gian Cao Lan, xình ca là một hình thức dân ca đặc sắc và độc đáo nhất. Người Cao Lan coi xình ca như kho báu trí tuệ và tình cảm của mình, gắn bó và gần gũi với đời sống của họ như bếp lửa, nhà sàn… Tương truyền những bài hát ví do nàng Lằu Slam sáng tạo ra, được dân gian lưu truyền, ghi chép lại thành những tập sách hát 36 ngày đêm không hết. Ngôn từ trong xình ca không chỉ là hình thức, là chất liệu nghệ thuật mà còn là tâm huyết và tài năng của rất nhiều nghệ sĩ dân gian Cao Lan trong trau chuốt, sáng tạo không ngừng đối với tiếng mẹ đẻ. 2. Khi nghiên cứu xình ca dưới góc độ ngôn ngữ học, việc xác định các cơ sở lí thuyết (với các khái niệm ngôn ngữ, ngôn ngữ văn học, ngôn từ nghệ thuật, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, vần, nhịp điệu) và đặt xình ca trong cái nhìn khái quát về văn nghệ dân gian Cao Lan là nhằm mục đích: Hình dung đối tượng này trong phổ niệm về ngôn ngữ của các văn bản văn nghệ dân gian với các phương thức chuyển nghĩa, những cách liên kết văn bản thường gặp. Từ đó có cơ sở để xác định những điểm đáng chú ý về đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật trong xình ca về hình thức và ngữ nghĩa. 3. Về hình thức, xình ca Cao Lan có kết cấu tương đối đa dạng: Kết cấu cố định, không cố định và có cốt truyện. Trong đó, kết cấu không cố định, biến đổi linh hoạt được ưa dùng, vì nó phù hợp với lối ứng đối thông minh, nhanh trí của người Cao Lan trong hát giao duyên. Hai dạng đặc trưng của xình ca là đối đáp và một chiều được đan xen nhau. Biện pháp chính trong kết cấu xình ca là đối chiếu và trùng điệp. Xình ca chịu ảnh hưởng sâu sắc của thể thất ngôn tứ tuyệt nên hầu hết khúc hát có dạng bốn câu, mỗi câu bảy tiếng. Bên cạnh đó một số ít khúc hát có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 dạng biến thể của tứ tuyệt với sự biến đổi theo hướng lược bớt đi số tiếng trong câu thứ nhất hoặc số câu trong khúc hát. Cách gieo vần, ngắt nhịp trong xình ca chịu ảnh hưởng của thể. Nhịp truyền thống 4/3 giữ vai trò chủ đạo, số ít câu hát được ngắt nhịp 3/, 4/3. Vần đ- ược tổ chức phong phú và khá chặt chẽ. Hai dạng vần chân và vần lưng được sử dụng chủ yếu. Trong đó, vần chân có dạng vần liền, vần cách; vần lưng gồm vần chuỗi (vần gieo cùng dòng) và bắt vần chân ở câu hát trước linh hoạt với vần lưng ở các tiếng trong câu hát sau. 4. Về ngữ nghĩa, xình ca Cao Lan đã phản ánh sâu sắc chân thực đời sống sinh hoạt và tình cảm cùng những quan niệm, triết lí, cách tư duy, lối nói… của đồng bào Cao Lan qua những biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, nhân hoá) phong phú. Thời gian nghệ thuật trong xình ca được tổ chức đan xen nhiều dòng, nhiều nhánh: hiện thực và tâm lí, quá khứ và hiện tại, nhưng chủ đạo vẫn là thời gian quá khứ xa xưa. Không gian trong xình ca được tạo nên bởi hai cặp không gian siêu nhiên và hiện thực. Không gian siêu nhiên mang đến cho thế giới nghệ thuật của xình ca màu sắc huyền bí, linh thiêng, còn không gian hiện thực mở ra trong mối liên hệ chặt chẽ giữa thiên nhiên và đời sống con người từ nhiều góc độ, chủ yếu là không gian diễn xướng của xình ca. Các tên gọi vật thực như phùng vùng “phượng hoàng”, kìu “cây cầu”, va “bông hoa” có chất liệu từ hiện thực, được sử dụng trong xình ca trở thành những biểu tượng với ý nghĩa chỉ cái đẹp là trung tâm, cùng con người với những ước mơ khát vọng tình yêu, con người và những quan niệm triết lí sâu sắc. 5. Đối với một cộng đồng như Cao Lan, việc gìn giữ và phát triển ngôn ngữ cùng với các thành tố văn hoá khác là một việc cần thiết. Xình ca chính là nơi lưu giữ nhiều nhất những giá trị trong ngôn ngữ và văn hóa của cộng đồng này. Hi vọng nghiên cứu ban đầu về ngôn từ nghệ thuật của xình ca sẽ là gợi mở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 tích cực cho các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nghiên cứu ngôn ngữ nói chung và đặc biệt chính là người Cao Lan nói riêng, hướng họ quan tâm sâu sắc đến xình ca, tiếp tục tìm hiểu những khía cạnh ngôn ngữ học khác nữa, để khẳng định những giá trị của xình ca, để những khúc hát duyên dáng và sâu sắc này đ- ược lưu truyền mãi trong đời sống đồng bào Cao Lan. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN 1. Triệu Thị Linh (2007), “Cách biểu thị thời gian nghệ thuật trong cổ tích Cao Lan”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 11. 2. Triệu Thị Linh (2007), "Một số biểu tượng trong xình ca Cao Lan", Hội thảo ngữ học trẻ - Xuân 2008. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phương Bằng (1981), Dân ca Cao Lan, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 2. Võ Bình (1985), Vần trong thơ lục bát, Tạp chí Ngôn ngữ số 1. 3. Nguyễn Ngọc Chiến (2003), Chuyên đề đám cưới, đám tang của người Cao Lan ở Tuyên Quang, Sở Văn hóa Thông tin Tuyên Quang. 4. Trịnh Thành Công, "Sầm Dừn và những làn điệu sình ca về tình yêu đôi lứa", Tập kỷ yếu 40 năm Báo Tuyên Quang. 5. Trịnh Thành Công (2005), "Đi tìm câu hát xình ca", Báo Tuyên Quang số tết Xuân Ất Dậu. 6. Phạm Thị Kim Cúc (2000), Đặc điểm dân ca giao duyên dân tộc Giáy Lào Cai, Luận án thạc sỹ khoa học Ngữ văn, Hà Nội. 7. Phạm Thị Kim Dung (2005), Khảo sát đặc điểm xình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, Luận văn tốt nghiệp, trường Đại học Sư phạm 1, Hà Nội. 8. Nịnh Văn Độ (2003), Bảo tồn hát xình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, Đề tài nghiên cứu, Sở Văn hóa Thông tin, Tuyên Quang. 9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2002), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Trịnh Thị Hà (2004), Đặc điểm ngôn ngữ trong bài ca đám cưới của người Mường - Thanh Hoá , Luận văn thạc sĩ khoa học, trường Đại học Vinh. 11. Mai Thị Hồng Hải (2003), Dân ca xường của người Mường ở Thanh Hoá - tiếp cận từ góc độ văn học dân gian, Luận án Tiến sĩ, trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 12. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2006), "Tìm hiểu những nhân tố tác động tới quá trình biến đổi ý nghĩa của biểu tượng trong ngôn ngữ nghệ thuật", Tạp chí Ngôn ngữ, số 10. 13. Nguyễn Thị Huế (1978), "Qua việc tìm hiểu diễn xướng một số dân ca vùng trung châu Bắc bộ", Tạp chí Văn hóa, số 1. 14. Nguyễn Việt Hùng (2006), "Tính hai mặt của không gian nghệ thuật Truyện cổ tích", Tạp chí Văn hoá dân gian số 1 (103), 2006. 15. Đỗ Đức Hiển, Nguyễn Huệ Chi, Từ điển Văn học, Nxb Thế giới. 16. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 17. Đinh Trọng Lạc (1997), Phong cách học Tiếng Việt, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội. 18. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu Thơ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 19. Nguyễn Văn Lợi (2004), "Quan hệ Cao Lan - Sán Chí xét về mặt ngôn ngữ”, báo cáo khoa học tại hội nghị xác định thành phần dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chí) ở Bắc Giang. 20. Nguyễn Thế Lịch (1998), Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4. 21. Đặng Văn Lung (1973), "Về các hình thức sinh hoạt dân ca", Tạp chí Văn hóa, số 5. 22. Đặng Văn Lung (1977), "Ý nghĩa của việc nghiên cứu diễn xướng dân gian", Tạp chí Văn hóa số 6. 23. Hoàng Kim Ngọc (2004), So sánh và Ẩn dụ trong ca dao trữ tình của người Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118 24. Nguyễn Hoài Nguyên (2007), Nhịp điệu câu thơ mới bảy chữ, Ngữ học trẻ. 25. Phan Đăng Nhật (1997), Cố gắng phân loại văn học dân gian các dân tộc ít người như nó vốn tồn tại trong cuộc sống, Tạp chí Văn hóa số 7. 26. Phan Đăng Nhật (1997), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam - Nxb Văn hóa. 27. Lê Kim Nhung (1998), Vai trò của điệp vần trong thơ lục bát, Ngữ học trẻ. 28. Phù Ninh, Nguyễn Thịnh (1999), Văn hoá truyền thống Cao Lan, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 29. Bùi Mạnh Nhị (1998), "Thời gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình", Tạp chí Văn hóa, số 4. 30. Vũ Ngọc Phan (1977), "Những bước tìm hiểu văn học dân gian Việt Nam", Tạp chí Văn hóa số 6. 31. Lê Trường Phát (1997), Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội. 32. Hoàng Việt Quân (2001), Lâm Quý hoa của núi, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 33. Lâm Quý (2000), "Người Cao Lan có một Bà chúa thơ ca", Tạp chí văn hóa Dân gian tập 8, Yên Bái. 34. Lâm Quý (2003), Văn hóa Cao Lan, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 35. Lâm Quý (2003), Ngày xuân đi hát "Xình ca", Báo Tân Trào số tết 158+159. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 36. Lâm Quý (2003), Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 37. Lê Hồng Sinh (2003), Khảo sát đặc điểm truyện thơ Cao Lan "Kó Lau Slam", Luận văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, Hà Nội. 38. Trần Đình Sử (1987), Lí luận Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 39. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 40. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ Nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 41. Nguyễn Thái (2002), Một vài nét so sánh tính đồng nhất của dân tộc Sán Chay và không đồng nhất của dân tộc Bố Y trên bình diện văn hoá - Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 42. Hà Văn Thư (1996), Về văn hoá văn nghệ các dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 43. Đặng Đình Thuận (2005), Văn hoá dân gian của dân tộc Cao Lan, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 44. Ngô Văn Trụ (2006), Dân ca Cao Lan, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 45. Vũ Anh Tuấn (1991), Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa một số típ truyện kể dân gian Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam, Luận án Thạc sĩ khoa học, Hà Nội. 46. Nguyễn Như Ý, chủ biên (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. Hà Nội. 47. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 120 48. Sở Văn hóa Thông tin Tuyên Quang (2007), Bước đầu tìm hiểu Dân ca dân tộc Tày, Sán Dìu, Cao Lan. 49. Dân ca Giáy (1977) Nxb Văn hóa dân tộc. 50. Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc (1994), Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 51. Tư liệu của Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Tuyên Quang. 52. Từ điển Văn học (2006), Viện Ngôn ngữ. 53. Từ điển Tiếng Việt (2006), Viện Ngôn ngữ. 54. Văn học dân gian Việt Nam (2001), Nxb Giáo dục, Hà Nội. ----------- ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9366.pdf
Tài liệu liên quan