Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-----------**&**-----------
LÊ THỊ QUỲNH
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH
TRONG CÁC SÁNG TÁC TRƢỚC NĂM 1945
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Lê Hồng My
Thái Nguyên năm 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................
134 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1731 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong các sáng tác trước năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
............................. 1
0.1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 5
0.2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 6
0.2.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về Nhất Linh ....................................... 6
0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh ............... 9
0.3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................. 10
0.4. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 11
0.4.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại ........................................................ 11
0.4.2. Phƣơng pháp so sánh .......................................................................... 11
0.4.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp ....................................................... 12
0.4.4. Phƣơng pháp lịch sử ........................................................................... 12
0.4.5. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành ................................................... 12
0.4.6. Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả ......................................................... 12
0.4.7. Phƣơng pháp hệ thống ........................................................................ 13
0.5. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 13
0.6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 13
0.7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 13
B - NỘI DUNG ........................................................................................... 15
Chƣơng 1: GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT CỦA NHẤT LINH ................................................................. 15
1.1. GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT ......................................... 15
1.1.1. Khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật" ..................................................... 15
1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật ......................................................... 16
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH .............................................................. 19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.2.1. Những biến đổi trong đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ
XX ........................................................................................................ 19
1.2.1.1. Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây ................................................ 19
1.2.1.2. Sự phổ biến và phát triển của chữ quốc ngữ .................................... 21
1.2.1.3. Khát vọng xây dựng một nền quốc văn mới của tầng lớp trí
thức tân học đầu thế kỷ XX ................................................................... 23
1.2.2. Hành trình đến với văn học của Nhất Linh ......................................... 28
1.2.2.1. Nhất Linh - người nghệ sĩ đa tài, say mê văn học ............................ 28
1.2.2.2. Chuyến du học ở Pháp - Những thay đổi trong quan niệm
xã hội và văn chương của Nhất Linh ..................................................... 31
1.2.2.3. Chủ trương “Tự sức mình làm ra những sáng tác có giá trị
về văn chương”, "làm giàu văn sản trong nước”. ................................. 33
Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT NHẤT LINH TRƢỚC VÀ SAU KHI
THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ................................................... 39
2.1. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRƢỚC KHI
THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (TRONG "NHO PHONG" VÀ
"NGƢỜI QUAY TƠ") ................................................................................... 39
2.1.1. Ngôn ngữ trong "Nho phong" và "Người quay tơ "mang đậm
dấu ấn ngôn ngữ văn xuôi trung đại ...................................................... 39
2.1.1.1. Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn xuôi trung đại .......................... 39
2.1.1.2. Ngôn ngữ "Nho phong” và "Người quay tơ” mang đậm dấu
ấn ngôn ngữ văn xuôi trung đại ........................................................... 41
2.1.2. Ngôn ngữ văn học của buổi giao thời ................................................. 48
2.1.2.1. Tính chất giao thời trong dùng từ, đặt câu ....................................... 48
2.1.2.2. Bước đầu có sự kết hợp giữa ngôn ngữ trần thuật và ngôn
ngữ nhân vật ......................................................................................... 51
2.1.2.3. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, chưa được cá tính hóa ................ 55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.2. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRONG GIAI
ĐOẠN THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (TỪ "ĐOẠN TUYỆT"
ĐẾN "BƢỚM TRẮNG") .............................................................................. 57
2.2.1. Ngôn ngữ trong "Đoạn tuyệt" và "Lạnh lùng" – “một lối văn
giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối v ă n thật có tính cách
An Nam" ............................................................................................... 58
2.2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật giản dị, mạch lạc, trong sáng .......................... 59
2.2.1.2. Ngôn ngữ miêu tả sinh động, tinh tế, giàu chất tạo hình .................. 66
2.2.1.3. Ngôn ngữ nhân vật bước đầu được cá tính hoá, phù hợp
tính cách nhân vật ................................................................................. 76
2.2.2. Ngôn ngữ trong "Đôi bạn" và "Bƣớm trắng" mang tính hƣớng
nội, đặc tả đời sống nội tâm nhân vật .................................................... 80
2.2.2.1. Ngôn ngữ kể chuyện nhập vào nội tâm nhân vật .............................. 81
2.2.2.2. Ngôn ngữ miêu tả gắn với cảm xúc, tâm trạng nhân vật ................. 85
2.2.2.3. Ngôn ngữ nhân vật biểu hiện chiều sâu nội tâm ............................... 88
Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐẶC SẮC TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT CỦA NHẤT LINH ............................................................... 100
3.1. TẠO SẮC THÁI NGÔN NGỮ CỦA TẦNG LỚP THỊ DÂN TRUNG
LƢU ............................................................................................................100
3.2. CÓ NHỮNG KẾT HỢP TỪ MỚI TẠO CẢM GIÁC ÊM ÁI NGỌT
NGÀO .........................................................................................................105
3.3. DÙNG NHIỀU TÍNH TỪ DIỄN TẢ NHỮNG CẢM GIÁC MONG
MANH .........................................................................................................108
3.4. NHỮNG SO SÁNH ĐẸP, BAY BỔNG, TINH TẾ VÀ GỢI CẢM ..............112
C - KẾT LUẬN ......................................................................................... 121
PHỤ LỤC ................................................................................................. 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 128
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
A- PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
0.1.1. Ngôn ngữ“là yếu tố thứ nhất của văn học” (M. Go-rơ-ki)
[69;215], “là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng
tạo, phong cách, tài năng của nhà văn" [69; 215]. Từ ngôn ngữ nghệ
thuật đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn là con đƣờng tiếp nhận văn
học phù hợp với bản chất của nghệ thuật ngôn từ.
0.1.2. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945, Tự lực văn
đoàn là "nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền
văn học Việt Nam hiện đại" (Hoàng Xuân Hãn). Trong Tự lực văn đoàn,
Nhất Linh là ngƣời sáng lập, ngƣời điều hành, đồng thời cũng là cây bút
trụ cột của nhóm. Mặc dù sáng tác không nhiều, nhƣng Nhất Linh đã
"vạch ra một con đường riêng", cách tân mạnh bạo trong các sáng tác cả
về nội dung và nghệ thuật, góp phần tạo danh tiếng cho tổ chức văn học
này. Nhất Linh và Tự lực văn đoàn "đã có những đóng góp lớn vào nghệ
thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào câu văn
của dân tộc với lối văn trong sáng và rất Việt Nam" (Huy Cận).
0.1.3. Sự nghiệp văn học của Nhất Linh đã đƣợc nhiều ngƣời quan
tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, trong số những công trình nghiên cứu về sự
nghiệp văn học của Nhất Linh đã công bố, chƣa có công trình nào tập
trung tìm hiểu sâu vào ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. Vấn đề này,
cách đây hơn 50 năm, đã đƣợc gợi ra: "Vấn đề ngôn ngữ Nhất Linh là
một điểm thiết tưởng cần phải được để ý và đề cao" (Nguyễn Văn Trung,
Tạp chí Văn số 14, 15.7.1964); nhƣng sau nhiều năm trôi qua, việc
nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh vẫn chƣa có sự tiến triển
đáng kể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất
Linh trong các sáng tác trước năm 1945" nhằm đi sâu nghiên cứu quá
trình vận động trong ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh và thấy đƣợc những
đóng góp của nhà văn đối với quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học
dân tộc.
0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tên tuổi và sự nghiệp văn học của Nhất Linh gắn liền với một tổ
chức văn học đã từng hoạt động sôi nổi, góp phần làm thay đổi diện mạo
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Chính vì vậy, sự nghiệp văn học
“vang bóng một thời” của Nhất Linh đã trở thành một đối tƣợng nghiên
cứu văn học trong nhiều thập niên qua.
0.2.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về Nhất Linh
Trong qua trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tập hợp đƣợc trên 60
tài liệu nghiên cứu về Nhất Linh từ những nguồn khác nhau: giáo trình,
sách nghiên cứu; bài báo, tranh, ảnh trên mạng Internetr.v.v…
Những tài liệu về Nhất Linh tập trung vào các nội dung sau:
- Thứ nhất: Cuộc đời, sở thích, tính cách của Nhất Linh và mối
quan hệ của nhà văn với gia đình, đồng nghiệp, bạn bè.
- Thứ hai: Những hoạt động chính trị của Nguyễn Tƣờng Tam
(Nhất Linh) trong khoảng 20 năm cuối đời.
- Thứ ba: Sự nghiệp văn chƣơng của Nhất Linh (tác phẩm, bài phê
bình, nghiên cứu…).
Qua những tài liệu đã tập hợp đƣợc về Nhất Linh, có thể nhận xét
khái quát nhƣ sau:
Về cá tính và con đƣờng chính trị của Nguyễn Tƣờng Tam (Nhất
Linh) có nhiều nhận định, đánh giá chƣa thống nhất, có khi trái ngƣợc
nhau. Song, về sự nghiệp văn chƣơng của Nhất Linh thì hầu hết các ý
kiến đều khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà văn đối với Tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
lực văn đoàn và đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam thời kì
từ nửa đầu thế kỉ XX đến tháng 8/1945. Tiêu biểu là ý kiến của các nhà
nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Trƣơng Chính, Bạch Năng Thi,
Phạm Thế Ngũ, Đỗ Đức Hiểu, Trần Thanh Mại.v.v.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại (xuất
bản lần đầu năm 1942) đã đánh giá Nhất Linh ở nhiều phƣơng diện và
khẳng định thành công về thể loại tiểu thuyết của nhà văn: "Đọc Nhất
Linh từ trước đến nay, người ta thấy tiểu thuyết của ông tiến hoá rất
mau. Từ cái còn cổ lỗ như Nho phong, tiểu thuyết của ông đã đi vào loại
tình cảm, rồi đi thẳng lối tiểu thuyết luận đề, là một lối văn rất mới ở
nước ta. Đến nay trong loại tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết của Nhất
Linh vẫn là những tiểu thuyết chiếm địa vị cao hơn cả" [70;234].
Trƣơng Chính quan tâm nhiều hơn tới các tác phẩm của Nhất Linh
(Gánh hàng hoa, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Tối tăm). Ông đánh giá chung
về các tác phẩm đó với những lời trân trọng: "Cả hình thức và nội dung
thoát hẳn khỏi cái sáo cũ ngày trước và vạch ra một con đường riêng
khiến người đọc không thể không thích được" [44; 233].
Phan Cự Đệ đã viết một công trình nghiên cứu công phu với tựa
đề: Tự lực văn đoàn - con người và văn chương; và viết lời giới thiệu
cho các tác phẩm Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh khi tái bản.
Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn, ông khẳng định: "Ngòi bút của Nhất Linh rất có tài miêu tả những
mối tình đầu trong sáng, đượm chút ngập ngừng, e thẹn, kín đáo và ý
nhị" [44;66].
Nguyễn Hoành Khung đã giới thiệu, đánh giá khái quát về sự
nghiệp sáng tác của Nhất Linh và đƣa ra những so sánh về nghệ thuật
miêu tả nhân vật giữa tác phẩm Lạnh lùng và Đôi bạn: "Với Lạnh lùng,
Nhất Linh không còn gò cốt truyện, dàn nhân vật nhằm minh hoạ cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
một luận đề nữa, mà đã đưa ngòi bút đi sâu hơn vào việc phân tích tâm
lí (...) và đạt tới một trình độ tiểu thuyết già dặn, thành thục. Đến Đôi
bạn (…) tác phẩm đào sâu tâm tư, khát vọng của một lớp thanh niên;
không luận đề, không tuyên ngôn, nhưng Đôi bạn lại như tác phẩm được
ấp ủ, gửi gấm tâm sự, phô diễn tâm trạng nhiều nhất của nhà văn" [47;
32].
Các tác giả Bạch Năng Thi, Bùi Xuân Bào, Thế Phong, Nguyễn
Hữu Hiếu, Hoàng Xuân Hãn, Phạm Thế Ngũ, Đặng Duy Diễn, Đỗ
Đức Hiểu, Trần Hữu Tá,… đều có bài nghiên cứu con ngƣời và văn
chƣơng của Nhất Linh. Họ đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội
dung và nghệ thuật trong sáng tác của ông và khẳng định Nhất Linh là
"văn tài tiêu biểu của Tự lực văn đoàn" [44; 171].
Nhiều tác giả khác nhƣ Hà Minh Đức,Trần Đình Hƣợu, Lê Chí
Dũng, Trịnh Hồ Khoa, Lê Thị Đức Hạnh,… khi nghiên cứu về văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX và Tự lực văn đoàn đều có ý kiến đánh giá về
Nhất Linh. Các tác giả đã nêu ra những điểm hạn chế trong cuộc đời, sự
nghiệp chính trị của ông, nhƣng cũng thấy đƣợc những tiến bộ trong tƣ
tƣởng nghệ thuật và cách viết của nhà văn.
Gần đây, xuất hiện nhiều hơn các chuyên luận, luận văn, luận án
về Nhất Linh, tiêu biểu nhƣ: Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá
văn học (Vu Gia, NXB Văn hoá thông tin, H.1995); Tiểu thuyết của
Nhất Linh trước cách mạng tháng Tám (Luận án phó tiến sĩ khoa học
ngữ văn của Vũ Thị Khánh Dần, 1996); Nhất Linh con người và tác
phẩm (Lê Cẩm Hoa biên soạn, NXB Văn học; H. 2000); Nhất Linh -
cây bút trụ cột của Tự Lực văn đoàn (Mai Hƣơng tuyển chọn, NXB
Văn hoá thông tin; H. 2000); Truyện ngắn Nhất Linh trước năm 1945
(luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Song Bình, H. 2004); Nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong tiểu thuyết "Bướm trắng" của Nhất Linh (luận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
văn thạc sĩ của Hà Đình Sơn, H. 2006); Nghệ thuật xây dựng nhân vật
từ "Đôi bạn" đến "Bướm trắng" (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị
Mai Hƣơng, TN. 2008).v.v…
Các tác giả đã xác định rõ vai trò và đóng góp của Nhất Linh trong
Tự lực văn đoàn và trong quá trình hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết Việt
Nam
0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh
Hiện nay chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về ngôn ngữ
nghệ thuật của Nhất Linh. Tuy nhiên, một số tác giả khi tìm hiểu về Nhất
Linh cũng đã đƣa ra một số những nhận xét về ngôn ngữ nghệ thuật của
ông.
Vũ Ngọc Phan cho rằng lời văn Nhất Linh: "nửa giản dị, nửa đài
điếm" [44; 170].
Trƣơng Chính trong bài "Nhất Linh" đã so sánh: "Lối hành văn
của Nhất Linh là một lối hành văn rất thi vị, thi vị ở ý mà ít ở lời. Nhất
Linh không đẽo gọt, trau chuốt câu văn của mình như Khái Hưng nhưng
tự nó có nhịp điệu , tự nó đã du dương vì ý bao hàm ở trong là một ý
thơ" [44; 239].
Vu Gia cũng có nhận xét về ngôn ngữ của Nhất Linh ở một số tác
phẩm nhƣ Bướm trắng: "Ông vẫn duy trì được lối viết trong sáng, giàu
chất thơ, chất hoạ vốn đã quen thuộc trong nhiều tác phẩm trước, nhưng
đến Bướm trắng đã thể hiện một phẩm chất nghệ thuật mới, tuy đôi chỗ
còn gượng gạo, thiếu tự nhiên, nhưng tác giả đã khai thác tinh tế những
tầng, những lớp, những ngóc ngách tâm lí éo le, khuất khúc của con
người" [43; 379]; hay Lạnh lùng: "Ông thường dùng một câu mà tả hết
mọi tâm hồn. Con mắt ông Nhất Linh quan sát quen đến nỗi một nhân
vật chỉ vụt qua truyện mà ông cũng vẽ được hoàn toàn. Theo với óc nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xét chặt chẽ của ông , lời văn của ông cũng thu hình lại, chắc đẹp vì đã
thực thà như tâm hồn ông tả".
Bạch Năng Thi trong bài Nhất Linh - tác giả tiêu biểu đã đƣa ra
những lời đánh giá về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh: "... lời văn
ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, vừa giản dị, vừa chọn lọc (…) Văn Nhất
Linh vừa rành mạch, trong sáng, vừa có nhạc điệu, có hình ảnh. Nó diễn
tả được những cảm giác tinh vi. Nó sử dụng các so sánh cụ thể, có khả
năng tạo hình và gợi cảm ".
Trong công trình nghiên cứu "Những cách tân trong nghệ thuật
văn xuôi Tự lực văn đoàn", Trịnh Hồ Khoa cũng đã nêu ra ý kiến xác
đáng: " Văn Nhất Linh ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, giản dị nhưng
không thiếu chất thơ. Giống con người Nhất Linh, văn ông tế nhị, có
chừng mực, trang nhã, tả rất đạt những tâm tình thanh sạch…" .
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mai Hƣơng - ĐHSP Thái
Nguyên - 2008, có đề cập đến một số thủ pháp xây dựng nhân vật, trong
đó có nhắc đến đặc điểm về ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nhất Linh
trong hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Song Bình - ĐHSP Hà Nội -
2004, có chỉ ra một số đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn
của Nhất Linh.
Nhìn chung các nhà nghiên cứu mới đã đƣa ra những nhận xét
khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh hoặc đề cập đến một số
đặc điểm ngôn ngữ trong một vài tác phẩm chính. Song những nhận xét
của ngƣời đi trƣớc cũng đã gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề tài này.
0.3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Quá trình sáng tác của Nhất Linh trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn thứ
nhất là trƣớc năm 1930 với các tác phẩm: Nho phong, Người quay tơ; giai
đoạn thứ hai là thời gian tham gia Tự lực văn đoàn, với các tác phẩm tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
biểu nhƣ: Đoạn tuyệt, Đôi bạn…và giai đoạn thứ ba là những tác phẩm
đƣợc viết sau cách mạng tháng Tám năm 1945 nhƣ: Xóm Cầu Mới, Dòng
sông Thanh Thuỷ.
Để phù hợp với điều kiện và mục đích nghiên cứu, đề tài chỉ tập
trung vào ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nhất
Linh ở giai đoạn sáng tác trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945:
Nho phong - Tiểu thuyết - 1924
Người quay tơ - Truyện ngắn - 1926
Nắng thu - Truyện dài - 1934
Đoạn tuyệt - Tiểu thuyết - 1934
Lạnh lùng - Tiểu thuyết - 1936
Tối tăm - Truyện ngắn - 1936
Hai buổi chiều vàng - Truyện ngắn - 1937
Đôi bạn - Tiểu thuyết - 1939
Bướm trắng - Tiểu thuyết - 1941
Các tác phẩm viết chung với Khái Hƣng không nằm trong đối tƣợng
nghiên cứu của đề tài vì theo chúng tôi đã có sự hoà lẫn về ngôn ngữ nghệ
thuật của hai tác giả. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi cũng
không mở rộng tới số tác phẩm Nhất Linh viết sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945.
0.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
0.4.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp thống kê, phân loại. Phƣơng pháp
này giúp nhận diện những lớp từ, kiểu câu, những biện pháp tu từ … mà
Nhất Linh sử dụng trong các sáng tác.
0.4.2. Phƣơng pháp so sánh
Để thấy rõ sự chuyển biến của ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh
trong quá trình sáng tác và cá tính sáng tạo của nhà văn, chúng tôi sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dụng phƣơng pháp so sánh: so sánh ngôn ngữ của chính nhà văn qua các
giai đoạn sáng tác và so sánh ngôn ngữ của ông với các nhà văn khác
cùng thời, trong cùng khuynh hƣớng nhƣ Hoàng Ngọc Phách, Thạch
Lam, Khái Hƣng hoặc khác khuynh hƣớng nhƣ Ngô Tất Tố, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao.
0.4.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Chúng tôi phân tích những đặc điểm cơ bản trong cách dùng từ,
đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ… của Nhất Linh, từ đó tổng hợp đi
đến những nhận xét khái quát.
0.4.4. Phƣơng pháp lịch sử
Ngôn ngữ bao giờ cũng mang dấu ấn văn hoá của thời đại, khi
nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh, chúng tôi luôn đặt
trong hoàn cảnh xã hội văn hoá cụ thể. Việc vận dụng phƣơng pháp này
giúp chúng tôi thấy đƣợc bƣớc chuyển trong ngôn ngữ nghệ thuật Nhất
Linh qua quá trình sáng tác và những đóng góp của ông trong việc hiện
đại hoá ngôn ngữ văn học dân tộc.
0.4.5. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
Vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật có mối liên quan đến nhiều lĩnh vực
khoa học khác nhƣ lý luận văn học, ngôn ngữ học, thi pháp học, tâm lý
học,… Do đó chúng tôi vận dụng tổng hợp phƣơng pháp nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học. Chúng sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau để soi sáng các
khía cạnh của vấn đề.
0.4.6. Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả
Muốn tìm hiểu đƣợc ngôn ngữ nghệ thuật phải đặt đối tƣợng
nghiên cứu trong mối quan hệ với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
nhà văn. Chúng tôi đặc biệt coi trọng và vận dụng triệt để phƣơng pháp
nghiên cứu tác giả trong quá trình nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của
Nhất Linh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
0.4.7. Phƣơng pháp hệ thống
Ngôn ngữ nghệ thuật là một hệ thống cấu trúc bao gồm nhiều yếu
tố quan hệ chặt chẽ với nhau, nó lại nằm trong những chỉnh thể trọn vẹn
khác là văn bản nghệ thuật và thế giới nghệ thuật của nhà văn, là dòng
văn học, trào lƣu văn học nhà văn có mặt. Vì vậy các vấn đề cụ thể đƣợc
triển khai trong luận văn đều đƣợc đặt trong mối quan hệ hệ thống.
Chúng tôi luôn coi trọng phƣơng pháp hệ thống khi tiến hành nghiên cứu
đối tƣợng.
0.5. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Ứng dụng lí thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật vào nghiên cứu ngôn
ngữ nghệ thuật của Nhất Linh, đề tài nhằm đạt đƣợc các mục đích sau:
1. Phân tích, đánh giá các bước chuyển biến của ngôn ngữ nghệ
thuật Nhất Linh trong quá trình sáng tác ( trước1945).
2. Tìm hiểu một số nét đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất
Linh
3. Rút ra kết luận về những đóng góp của Nhất Linh đối với quá
trình phát triển của ngôn ngữ văn học nước nhà và chỉ ra hạn chế (nếu
có).
0.6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên về ngôn ngữ nghệ thuật
của Nhất Linh.
- Công trình góp phần khẳng định rõ hơn cá tính sáng tạo và vai
trò cách tân văn học của Nhất Linh.
- Góp thêm một tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập về nhà văn
Nhất Linh và về ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học Việt Nam hiện đại.
0.7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chƣơng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chương I: Giới thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật và những yếu tố cơ
bản chi phối ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh.
Chương II: Sự vận động trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh
(trƣớc và sau khi tham gia Tự Lực văn đoàn).
Chương III: Một số đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất
Linh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
B - NỘI DUNG
Chƣơng 1
GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH
1.1. GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
1.1.1. Khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật"
Theo cuốn Lí luận văn học (Phƣơng Lựu chủ biên), Ngôn ngữ
nghệ thuật là: "…một hệ thống các phương thức, quy tắc thông báo
bằng tín hiệu thẩm mĩ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật. Người ta
có thể nói "ngôn ngữ ba lê", "ngôn ngữ chèo", "ngôn ngữ điện ảnh".
Cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của sáng tác văn học trên cấp
độ đó" [55; 185/186]. Khái niệm này đã nêu ra cách hiểu khái quát về
ngôn ngữ nghệ thuật nhƣng chƣa chỉ ra đƣợc những nét riêng của ngôn
ngữ nghệ thuật với tƣ cách là phƣơng tiện biểu hiện của các sáng tác văn
học - loại hình nghệ thuật ngôn từ. Vì thế khái niệm "Ngôn ngữ nghệ
thuật" cần đƣợc khu biệt rõ hơn.
Theo chúng tôi "Ngôn ngữ nghệ thuật" là ngôn ngữ đƣợc sử dụng
một cách nghệ thuật trong các tác phẩm văn học, đó là ngôn ngữ mang
tính hình tƣợng, tính biểu cảm và thể hiện rõ cá tính sáng tạo của nhà
văn. Trong thực tế, thuật ngữ này thƣờng đƣợc dùng tƣơng đƣơng với
các thuật ngữ: Ngôn từ nghệ thuật, Ngôn ngữ văn học, Lời văn nghệ
thuật.
Bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ mang tính toàn
vẹn, cụ thể, sinh động, có tính thẩm mĩ trong các tác phẩm văn học, chứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
không phải là ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp khác hoặc ngôn
ngữ với tƣ cách đối tƣợng chuyên biệt của ngôn ngữ học.
1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật
* Trong hoạt động sáng tạo:
Với nhà văn: ngôn ngữ chính là công cụ, là chất liệu để nhà văn
xây dựng hình tƣợng văn học và giao tiếp nghệ thuật, qua đó gửi gắm ý
đồ nghệ thuật của mình. Ngôn ngữ nghệ thuật có "cội nguồn từ ngôn ngữ
nhân dân", nhƣng đƣợc chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của
nhà văn, trở thành phƣơng tiện biểu hiện nghệ thuật. Nhà nghiên cứu
Phan Cự Đệ nhận thấy: "Ngôn ngữ khoa học không mấy khi có nhiệm vụ
tái hiện lại mối quan hệ tình cảm giữa người nói với đối tượng được nói
đến. Còn ngôn ngữ nghệ thuật thì bao giờ cũng tìm cách truyền các quan
điểm của nghệ sĩ vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy cái lối nhìn
sự vật, cách nhận thức và cảm quan về thế giới của anh ta, nói tóm lại là
ngôn ngữ đó mang dấu ấn của cá tính và phong cách nghệ sĩ. Đặc điểm
nói trên tạo nên sức rung cảm, thuyết phục và thu hút đặc biệt của ngôn
ngữ nghệ thuật" [32; 343].
Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật đối với hoạt động sáng tạo của
nhà văn cũng đƣợc các tác giả cuốn "Từ điển thuật ngữ văn học" khẳng
định: "Ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện
cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn" [69; 215]. Thông
qua ngôn ngữ nghệ thuật, mỗi nhà văn có điều kiện bộc lộ tài năng và cá
tính sáng tạo độc đáo của mình.
Với các thời kì, các trào lưu văn học: ngôn ngữ nghệ thuật chịu sự
chi phối của môi trƣờng văn hoá xã hội. Kho ngôn ngữ là của toàn dân,
đƣợc bồi đắp qua các thời kỳ lịch sử, nhƣng cách sử dụng nhƣ thế nào lại
phụ thuộc vào nhãn quan ngôn ngữ của mỗi thời đại, mỗi trào lƣu văn
học. Ngôn ngữ nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hoá của thời đại, mỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
một trào lƣu văn học, mỗi một thể loại văn học có những nét riêng trong
sử dụng ngôn ngữ. Trong những đặc điểm chung về thời đại, về trào lƣu
sáng tác, mỗi nhà văn với cá tính, với vốn sống, trình độ văn hoá và quan
điểm thẩm mĩ của mình lại tạo ra phong cách ngôn ngữ riêng. Vì thế
ngôn ngữ nghệ thuật cũng góp phần tạo ra diện mạo phong phú, đa dạng
của một nền văn học.
Với các thể loại văn học: mỗi thể loại có đặc điểm ngôn ngữ riêng.
Ngôn ngữ của thể loại trữ tình mang đậm dấu ấn cảm xúc chủ quan của
nhà nghệ sĩ. Sự lựa chọn từ ngữ, phƣơng thức tu từ trong tác phẩm trữ
tình bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự
đồng cảm hay phê phán của chủ thể trở nên nổi bật. Mỗi câu thơ dƣờng
nhƣ đều có những từ chứa đựng sức nặng của tình cảm. Ngƣời xƣa gọi
đó là "thi nhãn" tức là những tiêu điểm để từ đó nhìn thấu tâm hồn tác
giả. Còn thể loại tự sự tái hiện đời sống thông qua việc miêu tả sự kiện, ở
loại này tác giả có thể đứng ngoài kể, cũng có thể để cho nhân vật tự kể.
Vì thế ngôn ngữ của thể loại tự sự là ngôn ngữ mang tính khách quan:
"lời tự sự là lời miêu tả, trần thuật theo lối kể lể, phân tích, chỉ ra các
thuộc tính một cách khách quan" [55; 365].
Giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ tiểu thuyết, còn nhận thấy sự khác
biệt nhƣ sau: "Nếu như trong thơ, ngôn ngữ trước hết cần phải đẹp, cao
cả và trang trọng thì trong tiểu thuyết, ngôn ngữ trước hết cần phải
chính xác, có khả năng tái tạo lại các đối tượng trong hình thái cá thể,
không lắp lại của nó" [32; 349].
Không chỉ có sự khác nhau trong ngôn ngữ giữa các thể loại, mà
ngay trong cùng một thể loại ở mỗi thời đại khác nhau lại có cách sử
dụng ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ tự sự trung đại khác với ngôn ngữ
tự sự hiện đại. Thậm chí trong cùng một thể loại, ở cùng một hoàn cảnh
lịch sử, nhƣng ở những phƣơng pháp sáng tác khác nhau thì ngôn ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nghệ thuật cũng có những điểm khác nhau. Ngôn ngữ tiểu thuyết hiện
thực cũng khác với ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn. Ngôn ngữ của tiểu
thuyết hiện thực giản dị, chân thật, "mỗi từ đều phải dễ hiểu đối với
người đánh xe ngựa chở các cuốn sách từ nhà in đi" (Tônxtôi)" [32;
325]; đồng thời phải mang tính điển hình nghĩa là phản ánh đúng tính
cách, gắn liền với tâm lí xã hội và hoàn cảnh sinh sống của nhân vật,
phản ánh đúng cái điển hình trong cuộc sống.
Còn "trong tiểu thuyết lãng mạn, dấu ấn chủ quan của nghệ sĩ bộc
lộ rất rõ trong màu sắc ngôn ngữ, trong lối nói cường điệu và phóng đại,
lối nói trang trọng gây hưng phấn, lối dùng các biện pháp tu từ, lối dùng
một thứ văn giàu nhạc điệu…" [32; 347].
Tóm lại, ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ mang đặc trƣng ngôn
ngữ thời đại, ngôn ngữ thể loại, trào lƣu mà còn thể hiện rõ cá tính sáng
tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật sẽ
giúp các nhà nghiên cứu khám phá sâu hơn về về thế giới nghệ thuật và
phong cách nghệ thuật của nhà văn trên nền chung của một thời đại, một
trào lƣu văn học, một thể loại văn học.
* Với hoạt động tiếp nhận văn học:
Trong hoạt động tiếp nhận, ngôn ngữ nghệ thuật cũng có vai trò
quan trọng. Đó là "yếu tố đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc đối
với tác phẩm" [49; 148]; là "hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại
nội dung tác phẩm" [17; 308]. Và từ yếu tố trực tiếp, đầu tiên, duy nhất
ấy mà ngƣời đọc có thể tìm hiểu, khám phá tƣ tƣởng nghệ thuật, thế giới
hình tƣợng…đã đƣợc nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
Tiếp nhận văn học dù với mục đích nào thì cũng đều phải bắt đầu
từ ngôn ngữ nghệ thuật, bởi vì "cả hình tượng nhân vật, bức tranh phong
cảnh, cốt truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật về thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
giới và con người… chỉ được nắm bắt nhờ những hình thức của ngôn từ"
[40; 170].
Ngôn ngữ nghệ thuật chứa đựng trong đó cả thế giới nghệ thuật
mà nhà văn đã sáng tạo, từ nhân vật đ._.ến không gian, thời gian, chi tiết,
cốt truyện, kết cấu… không một bình diện nào nằm ngoài ngôn ngữ nghệ
thuật. Chính vì thế muốn nắm bắt đƣợc thế giới nghệ thuật ấy của nhà
văn, ngƣời đọc không thể không đi sâu khám phá ngôn ngữ trong tác
phẩm.
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của một tác giả hay của một thể
loại, một trào lƣu văn học là một phƣơng diện quan trọng trong nghiên
cứu văn học.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT CỦA NHẤT LINH
1.2.1. Những biến đổi trong đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
1.2.1.1. Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây
Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX có sự biến đổi sâu sắc từ xã hội
phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến trong cuộc tiếp xúc với
phƣơng Tây. Những thay đổi này một mặt nằm trong kế hoạch khai thác
thuộc địa tàn bạo mà thực dân Pháp đã vạch ra. Mặt khác theo hƣớng
tích cực, với vai trò là "công cụ vô thức của lịch sử", nó lại có tác dụng
đƣa Việt Nam dần thoát khỏi sự trì trệ ngàn năm của chế độ phong kiến
lạc hậu, dần bƣớc vào con đƣờng hiện đại Tây phƣơng. Sự thay đổi ấy
kéo theo sự biến đổi trong ý thức, tâm lý ngƣời dân, mà văn học là sự thể
hiện tập trung và cao độ nhất.
Song song với quá trình biến đổi ấy là sự xuất hiện của các đô thị
theo mô hình Tây phƣơng. Các đô thị mọc lên đã làm thay đổi hẳn cơ
cấu giai cấp, những tầng lớp mới đƣợc hình thành đã tạo nên sự đa dạng
và phức tạp cho đời sống chính trị xã hội của đất nƣớc. Trƣớc kia, trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xã hội Việt Nam có bốn hạng "tứ dân": Sĩ - Nông - Công - Thƣơng. Thì
thời điểm này có thêm những ông thông, ông phán làm việc cho Pháp,
công nhân làm việc trong các công xƣởng, hầm mỏ, nông dân bị phá sản,
mất hết ruộng đất phải lên thành phố kiếm sống. Tại đây có thể gặp đƣợc
đủ hạng ngƣời, từ lƣu manh, thất nghiệp đến lớp bình dân nghèo, tầng
lớp trung lƣu và cả giới thƣợng lƣu tƣ sản đua nhau thanh lịch, học theo
kiểu cách, lối sống phƣơng Tây. Họ phải quen với cuộc sống khác xƣa:
"Chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây.
Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp(…). Nói làm sao
cho xiết những điều thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới chúng
ta. Cho đến những nơi hang cùng, ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn
giữ nguyên hình ngày trước. Nào dầu Tây, diêm Tây, nào vải Tây, chỉ
Tây, kim Tây, đinh Tây" [76; 16].
Lối sống coi trọng vật chất, hàng hoá, tiền bạc phá vỡ các quan
hệ luân thƣờng. Nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa ở thành thị đã làm con
ngƣời trở thành những cá nhân. Mà "trong một xã hội cá nhân trở thành
thực tế, thì luân thường - những quan hệ đạo lí bất biến - quá đơn giản,
chật hẹp, không thể chứa đựng nổi sự phức tạp đa dạng sự biến động
của thực tế cuộc sống. Ân tình không thể giải quyết hết các quan hệ.
Người ta phải tìm thế giới xã hội cách khác, có thái độ khác và chờ đợi
văn học đưa lại cho mình những cái khác trước" [36; 24].
Lối sống thay đổi đã tạo nên sự thay đổi trong tƣ tƣởng, tình cảm,
tâm lí của con ngƣời thời đại. Điều đó đòi hỏi văn học cũng phải thay đổi
từ tƣ tƣởng, quan niệm thẩm mĩ đến hình thức thể hiện. Quan niệm "văn
dĩ tải đạo", "thi dĩ ngôn chí" của văn học trung đại không còn phù hợp
với nhu cầu thƣởng thức của tầng lớp công chúng chủ yếu của văn học
lúc này nữa (tầng lớp thị dân). Trong cuộc sống mới , thế lực đồng tiền
lên ngôi, con ngƣời cá nhân cần khẳng định và tự tôn, ngƣời ta chờ đợi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
và mong muốn một nền văn học sát với cuộc sống hiện thực đang diễn ra
hàng ngày: "Người ta cần hiểu rõ, hiểu kĩ cuộc sống với tất cả những chi
tiết đầy đủ, những chi tiết cụ thể trong cuộc sống bình thường thế tục.
Người ta muốn nếm trải cái có thật (hay có thể có thật), chứ không phải
được khích lệ bằng những tấm gương trung hiếu, minh hoạ bằng đạo
nghĩa… Người ta cũng muốn xúc cảm, muốn mở mang như những con
người cá nhân, chứ không phải xúc động như khi chiêm ngưỡng tấm
gương cao cả của các vị thánh xuất chúng" [36; 24 / 25].
Khát vọng đó của tầng lớp công chúng đã trở thành nhu cầu, thành
thị hiếu văn học, đòi hỏi nền văn học mới đáp ứng. Điều đó cũng góp
phần lí giải tại sao những đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh
lại gắn với tầng lớp công chúng đông đảo này.
1.2.1.2. Sự phổ biến và phát triển của chữ quốc ngữ
Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ là một cuộc cách mạng trong hệ
thống ngôn ngữ - văn tự của dân tộc ta. Trong thời kì phong kiến, chữ
Hán là văn tự chính thống đƣợc điển phạm hoá và hành chính hoá. Với
tƣ cách là văn tự vay mƣợn, lại đƣợc coi là "chữ thánh hiền", chữ Hán
chỉ đƣợc phổ biến trong phạm vi hạn hẹp của tầng lớp Nho sĩ theo đòi
"cửa Khổng. sân Trình". Hơn nữa nó không dựa trên cơ sở ngôn ngữ (lời
ăn tiếng nói) dân tộc, nên cũng không thể đƣa ra phổ biến rộng rãi trong
nhân dân. Chữ Nôm tuy là sáng tạo của nhân dân ta nhƣng lại lấy cơ sở
Hán tự mà cải biên đi, dùng ghi âm tiếng Việt nên cũng không thực thích
hợp. Chính điều đó đã tạo nên tính chất bó hẹp của văn học cổ điển trong
sáng tạo và thƣởng thức.
Sang tới chữ quốc ngữ, tình hình lại khác hẳn. Với ƣu điểm dễ
đọc, dễ viết, chữ quốc ngữ đã nhanh chóng đƣợc phổ biến trong nhân
dân. Bất cứ ngƣời dân bình thƣờng nào cũng có thể học và tự ghi chép
lại lời ăn, tiếng nói hàng ngày. Nhiệm vụ "văn - ngữ nhất thể" mà văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
học Việt Nam thực hiện trong quá trình hiện đại hoá đầu thế kỷ XX
không thể thực hiện đƣợc nếu không có sự xuất hiện của chữ quốc ngữ.
Ngƣợc dòng thời gian, có thể thấy chữ quốc ngữ đã có một lịch sử
dài lâu nhƣng suốt ba thế kỷ trƣớc nó không có điều kiện phát triển. Năm
1651, với việc cuốn Từ điển An Nam - La tinh - Bồ Đào Nha do cố đạo
A.de Rhode soạn đƣợc in ở Vatican, Roma, đƣợc coi là mốc ra đời của
chữ quốc ngữ. Tuy nhiên thứ văn tự này chỉ tồn tại trong phạm vi những
ngƣời công giáo. Mãi hơn 200 năm sau, năm 1862 thực dân Pháp chiếm
ba tỉnh miền Đông Nam Bộ và ra tờ "Gia Định báo" (1865 - 1909), nhằm
ban bố những chính sách với dân thuộc địa. Từ đây, chữ quốc ngữ mới
bắt đầu đƣợc phổ biến rộng rãi.
Cùng với quá trình mở rộng xâm lƣợc và đặt nền bảo hộ của thực
dân Pháp trên xứ An Nam, thứ văn tự mới cũng đƣợc mở rộng phạm vi
sử dụng. Ngƣời Pháp đã sớm nhìn thấy những mặt mạnh của của loại
văn tự này so với chữ Hán trong việc truyền bá những chính sách cai trị:
tính dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đánh vần, ghi âm. Mặt khác, nhằm nhanh
chóng xoá bỏ những ảnh hƣởng của chế độ phong kiến xứ thuộc địa mà
một trong số đó, đầu bảng là Hán văn nên trong thời kì đầu, Pháp ra sức
ủng hộ chữ quốc ngữ. Nghị định ngày 6/4/1878 viết : "Kể từ
ngày1/1/1882 không một tuyển dụng nào được thi hành, không một
thăng trật nào cho phép trong ngạch phủ, huyện. tổng đối với bất cứ ai ở
trong tình trạng không viết được chữ quốc ngữ" [48; 34]. Tiếp theo đó,
ngày 18/ 9/1924, Nghị định của toàn quyền Đông Dƣơng cho phép dạy
chữ quốc ngữ ở ba năm đầu trong sáu năm cấp tiểu học
Tuy nhiên, công lao hàng đầu trong việc phổ biến rộng rãi chữ
quốc ngữ đầu thế kỉ XX, qua đó hình thành nền quốc văn mới, phải kể
đến những nhà Nho yêu nƣớc cùng các trí thức có đầu óc tiên tiến "như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trần Quý Cáp, Nguyễn Phan Lãng, Nguyễn Quyền, Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng:
"Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách Âu Mỹ, sách Chi na
Chữ kia, chữ nọ dịch ra tỏ tường"
(Trần Quý Cáp)
(…) Và trong sáu chương trình của Văn minh tân học sách thì việc
học và dạy quốc ngữ ở vị trí số 1. Số 1, bởi nó có tầm quan trọng nhất
đối với việc xây dựng một nền văn hoá mới, để thay cho toàn bộ nền văn
chương học thuật cũ" [Dẫn theo giáo sƣ Phong Lê, Tạp chí Hán Nôm
số 5 (66) - 2004].
Tất cả họ - những nhà làm cách mạng văn tự mới đầu thế kỉ XX -
đã tạo ra những ảnh hƣởng cực kì to lớn cho hậu thế và cho ngay chính
thời kì đó. Một là mở đầu cho một ngành mới là báo chí, hai là mở đầu
cho một nghề mới là nghề in ấn - nghề trọng yếu trong xã hội hiện đại,
ba là khơi nguồn cho các loại hình văn học khác nhau phát triển. Với tất
cả những lí do trên, sự xuất hiện và phổ biến của chữ quốc ngữ đã tạo
một nền tảng quan trọng, là tiền đề trực tiếp cho nền quốc văn mới hình
thành. Sống trong giai đoạn lịch sử đang có những biến chuyển mạnh mẽ
ấy, cũng nhƣ nhiều trí thức tân học đƣơng thời, Nhất Linh không chỉ tiếp
nhận đƣợc những thành tựu do sự phát triển của chữ quốc ngữ đem lại,
mà còn khao khát xây dựng một nền quốc văn mới bằng chữ quốc ngữ.
1.2.1.3. Khát vọng xây dựng một nền quốc văn mới của tầng lớp trí
thức tân học đầu thế kỷ XX
Những năm đầu thế kỉ XX, văn học viết bằng chữ Hán lặng lẽ dần
rồi tàn lụi, văn học Việt Nam đã đƣợc chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ
của văn học quốc ngữ. Tuy nhiên, nói một cách đầy đủ hơn về mặt hệ
thống ngôn ngữ đƣợc sử dụng thì "có thể coi văn học mới như một nền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
văn học kế thừa trực tiếp văn học Nôm của văn học dân tộc mười thế kỉ
trước" [36; 213]. Nhƣng những thành tựu của văn học chữ Nôm, thời kỳ
trung đại chủ yếu ở địa hạt thơ ca, còn văn xuôi không phát triển: "Nền
văn học truyền thống của ta căn bản là một nền văn học văn vần. Văn
xuôi cũng phải có nhạc điệu, tiết tấu hoặc là viết theo thể biền ngẫu,
hoặc là phải viết chen vào những đoạn văn vần. Văn xuôi viết bằng tiếng
nói thông tục không phát triển" [36; 32]. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các
nhà văn hiện đại là phải xây dựng ngôn ngữ văn xuôi mới: "Sự hình
thành văn xuôi mới , văn xuôi hiện đại được coi là sự kiện quan trọng
nhất của ngôn ngữ văn học Việt Nam thế kỷ XX" [34; 819].
Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, phong trào sáng tác văn xuôi
bằng chữ quốc ngữ đã đạt đƣợc những thành tựu bƣớc đầu. Có thể kể đến
các tác phẩm: Truyện thầy Lazazo Phiền (năm 1887) của P.J.B. Nguyễn
Trọng Quản, tác phẩm đƣợc coi là "cuốn tiểu thuyết bằng Quốc ngữ viết
theo phương Tây sớm hơn cả ở miền Nam" [34; 12]; tiểu thuyết chƣơng hồi
Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (năm 1910) của Trƣơng Duy Toản,
Hoàng Tố Oanh hàm oan (năm 1910) của Trần Chánh Chiểu, Giấc mộng
con của Tản Đà (1915) và một loạt truyện ngắn của Phạm Duy Tốn,
Nguyễn Bá Học.v.v.
Tuy nhiên văn xuôi trong khoảng 20 năm đầu thế kỉ XX còn rơi vào
hai hƣớng: Một là dấu ấn của văn xuôi truyền thống còn đậm đặc trong các
sáng tác của những nhà Nho, những trí thức chịu ảnh hƣởng Hán học nhƣ
truyện của Phan Bội Châu, truyện của Tản Đà. Hai là văn xuôi có thiên
hƣớng vay mƣợn về cốt truyện, phóng tác, phỏng theo một cuốn sách có
giá trị nào đó của phƣơng Tây. Chẳng hạn nhƣ Hồ Biểu Chánh có nhiều
cuốn tiểu thuyết viết theo lối này nhƣ Chúa Tàu kim quy (phỏng theo Bá
tƣớc Monto Crito của Alexandre Du mas), Không gia đình (phỏng theo
Sans famili của Hectơ Malot), Ngọn cỏ gió đùa (phỏng theo Những ngƣời
khốn khổ của Victor Huygo).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nói nhƣ Kiều Thanh Quế "Văn học chữ quốc ngữ chậm tiến bộ!... Sự
chậm tiến ấy là do chúng ta - những ông đồ nho không chịu nhìn xa trông
rộng - những ông đồ Tây chỉ biết ca tụng cái hay, cái giỏi của Tây phương,
rập khuôn theo người phương Tây, quên thuần phong mỹ tục nước nhà…"
[43; 33].
Tinh thần Hán Việt là nguồn gốc của lịch sử, của văn minh dân
tộc. Trên tinh thần ấy, cụ Nguyễn Bá Trạc, một nhà nho uyên thâm, có
thiện cảm với phái tân học, đã nói trong bài duyễn thuyết ở hội Trí Tri
(Hà Nội), ngày 7.10.1920: "…muốn bảo tồn quốc tuý cũng có thể lấy
chữ quốc ngữ mà bảo tồn, không cần phải Hán tự. Nhưng mà chữ Hán
thật là tài liệu tốt cho văn quốc ngữ (…). Tôi xin khuyên các ngài tân
học đã thành tài nên nghiên cứu cho thâm Hán học. Các ngài sẽ là
những bậc văn học chủ công ở trong thời đại mới mẻ này, học thuật Thái
tây nhờ có các ngài mà truyền bá trong nước ta, quốc dân cũng lấy làm
cảm ơn các ngài lắm (…). Tôi chỉ trông rằng sau này sẽ có một ngày kia,
học mới, học cũ cùng chung đúc lại một lò, mà thành ra một nền văn học
riêng của Việt Nam ta, thế thì con đường học vấn của ta vinh hạnh biết
dường nào! Nhưng mà, muốn cho đạt được sự ao ước ấy thì đương trông
mong ở các ngài vậy" [43; 34].
Nhƣ thế, bƣớc vào thập niên 20 của thế kỷ XX các cây bút cựu
học không còn đảm đƣơng nổi trọng trách mà lịch sử giao cho. Và nhiệm
vụ đó đƣợc trao cho "những người tân học yêu quê hương, yêu tiếng
Việt, đặc biệt phần lớn họ sinh vào thế kỉ XX, chính họ "đã nhận lãnh
phiên gác mới", làm sáng lên nền văn chương quốc ngữ " [43;35].
Những năm 20 của thế kỉ trƣớc đã dấy lên một phong trào sôi nổi
cổ động "xây đắp nền quốc văn mới", rất nhiều nhà văn hƣởng ứng.
Trong văn xuôi, một loạt tiểu thuyết viết theo lối mới đã ra đời nhƣ Giọt
máu chung tình (1920 - Tân Dân Tử), Cành lê điểm tuyết (1921 - Đặng
Trần Phất), Oan kia theo mãi (1922 - Lê Hoằng Mƣu)… Đặc biệt Tố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tâm của Hoàng Ngọc Phách (viết từ 1922, đăng nhiều kì ở tập kỷ yếu
của hội Cao đẳng ái hữu, rồi đến năm 1925 mới xuất bản), đó là tác
phẩm cho thấy "sự tác động mãnh liệt của lối văn chương mới của Trung
Quốc và văn chương lãng mạn phương Tây với ông Hoàng Ngọc Phách"
[43; 38].
Lúc này có nhiều dòng tiểu thuyết đƣợc xuất hiện. Tiểu thuyết xã
hội đƣợc xuất bản ở Sài Gòn nổi trội nhiều tác giả nhƣ Nguyễn Chánh
Sắc, Lê Hồng Minh, Phú Đức, Bửu Đình, Phạm Minh Kiên, Hồ Biểu
Chánh. Tiểu thuyết lịch sử của Trƣơng Duy Toản, Nguyễn Tử Siêu và
Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm.
Luồng gió văn hoá phƣơng Tây đã ùa vào Việt Nam, đem đến biết
bao sự mới mẻ, hấp dẫn và chính nó đã tạo một lực đẩy to lớn cho nền
văn hoá và văn học Việt Nam trên đƣờng hiện đại hoá. Nhƣng đồng thời,
ngƣời ta có thể nhìn thấy và lo lắng về một cuộc "xâm lăng văn hoá" từ
phƣơng Tây. Vấn đề xây dựng một nền quốc văn mới thực sự Việt Nam,
đang trở thành một thách thức với những ngƣời trí thức, những nhà văn,
nghệ sĩ đƣơng thời.
Nguyễn Tƣờng Tam lúc này đang là một thanh niên tràn đầy nhiệt
huyết, cũng đã hƣởng ứng tích cực phong trào xây đắp nền quốc văn mới.
Hồi tƣởng về những ngày tháng ấy, Tú Mỡ đã kể: "Tôi quen anh Tam từ
khi anh với tôi cùng làm sở Tài chính. Khi ấy anh chưa sang Pháp du học
nhưng đã rất để ý đến quốc văn. Khi ấy sở Tài chính còn ở Bờ Hồ, trong
sở chúng tôi bày ra nhiều trò chơi có ích cho sự tiến thủ về mặt luyện tập
quốc văn " [43; 42].
Tuy nhiên để thực hiện đƣợc khát vọng xây dựng một nền quốc
văn "đậm tính cách An Nam" không phải là điều dễ dàng. Trong buổi
đầu của cuộc tiếp xúc Á - Âu, câu văn quốc ngữ phát triển theo hai
hƣớng. Xu hƣớng thứ nhất là "câu văn biền ngẫu gần gũi với câu văn
của thể phú", "cấu trúc đăng đối, diễn đạt kiểu cách, lạm dụng vốn từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ngữ Hán Việt" [34; 819], do ảnh hƣởng của câu văn trong văn học trung
đại còn nặng nề.
Xu hƣớng thứ hai là sự áp dụng cứng nhắc những mẫu câu của
ngôn ngữ Pháp vào ngôn ngữ Việt tạo ra những câu văn ngắn gọn tới
mức "cộc lốc", không chút nghệ thuật nhƣ kiểu Hoàng Tích Chu: "Canh
khuya, buồn. Thân gái, cực. Dặm trường, khổ".
Sự hình thành ngôn ngữ văn xuôi ở nƣớc ta đầu thế kỉ XX có sự
đóng góp tích cực của báo chí. Nhà nghiên cứu Đinh Văn Đức đã nhận
thấy: "Ở nước ta (…), ngôn ngữ văn học, nhất là văn xuôi đầu thế kỉ XX,
lại thừa hưởng thành tựu ngôn ngữ báo chí mà trưởng thành. Nhiều nhà
văn đã trưởng thành từ nhà báo, những áng văn xuôi mới hay nhất đã
từng xuất hiện trên báo chí trước khi được in thành sách. Lối văn trọng
sự thật, gãy gọn vốn là đặc trưng của ngôn ngữ thông tấn đã là tiền đề
cho ngôn ngữ trong các sáng tác văn xuôi mới với các thể loại khác
nhau…" [34; 820].
Những năm đầu thế kỉ XX là thời kì dựng nghiệp của báo chí Việt
Nam, nhất là báo chí quốc ngữ. Rất nhiều tờ báo đƣợc ra đời, đặc biệt từ
năm 1910 trở đi, báo chí càng phát triển, có thêm những xu hƣớng mới,
ngoài nhiệm vụ thông tấn, còn có các tạp chí dành cho học thuật và
chuyên khảo nhƣ: Đông Dƣơng tạp chí (1913), Nam Phong tạp chí
(1917), Đại Việt tạp chí (1918), An Nam tạp chí (1926),… Báo chí lúc
này đã thiên về văn chƣơng, có lối diễn đạt của ngôn ngữ văn chƣơng.
Nhiều tờ báo đã có những chuyên mục văn nghệ, đăng các tác phẩm văn
học, cả các tác phẩm dịch thuật văn học nƣớc ngoài. Có thể nói báo chí đã
trở thành "bà đỡ" cho văn chƣơng mới đang thành hình. Đúng nhƣ Mã
Giang Lân khẳng định: "Quá trình chuyển từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ
bắt buộc tất cả những nhóm nhà văn, dù tân học hay cựu học, đều phải
trải qua một quá trình "tập làm văn" bằng tiếng mẹ đẻ, hay nói cách
khác: đặt nền tảng xây dựng một thứ ngôn ngữ văn học mới bằng tiếng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Việt. Báo chí chính là môi trường thuận lợi cho những thể nghiệm đó"
[48; 150].
Có lẽ chính vì nhận thấy vai trò quan trọng của báo chí trong sự
phát triển văn học dân tộc, mà sau này Nhất Linh- Nguyễn Tƣờng Tam
đã bắt đầu từ con đƣờng báo chí để thực hiện khát vọng văn chƣơng.
1.2.2. Hành trình đến với văn học của Nhất Linh
1.2.2.1. Nhất Linh - người nghệ sĩ đa tài, say mê văn học
Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tƣờng Tam, sinh ngày 13 tháng 9
năm 1906 tại phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dƣơng, là con thứ ba trong gia
đình có sáu anh em trai và một ngƣời em gái. Nhƣ các anh em khác trong
gia đình, Nhất Linh đƣợc ăn học chu đáo, bản thân ông cũng rất chăm
học. Cha ông là công chức nhà nƣớc bảo hộ, nhƣng mất sớm (năm ông 12
tuổi), ngƣời mẹ tần tảo nuôi bảy đứa con ăn học. Sau khi cha mất, gia đình
lâm vào cảnh khó khăn, ông phải bỏ học hai năm, năm 1920 mới thi vào
trƣờng Bƣởi. Sau ba năm trung học, đỗ bằng Thành Chung, ông xin làm
thƣ kí ở sở Tài chính Hà Nội.
Theo Phạm Thế Ngũ, Nhất Linh là ngƣời năng khiếu "đa dạng đủ
vẻ, Pháp văn và khoa học giỏi, lại có tài vẽ, thích làm thơ văn quốc âm"
[44; 9]. Việc đi làm ở sở Tài chính Hà Nội chỉ là công việc tạm bợ trong
khi chờ đợi chuẩn bị công việc lâu dài và tại đây ông đã gặp gỡ, chơi
thân với thầy kí trẻ Hồ Trọng Hiếu - tức nhà thơ Tú Mỡ sau này. Tháng
11 năm 1925, chia tay ngƣời bạn thân thiết Hồ Trọng Hiếu, Nguyễn
Tƣờng Tam vào học trƣờng Cao đẳng Y khoa, có lẽ muốn tìm một nghề
nghiệp có địa vị hơn. Song cuối năm đó, nhà nƣớc bảo hộ mở trƣờng
Cao đẳng Mỹ thuật, vì tiếng gọi quyến rũ của "nàng Mỹ thuật", ông lại
bỏ trƣờng thuốc, thi vào trƣờng Mỹ thuật. Với tài hội họa bẩm sinh của
mình, Nguyễn Tƣờng Tam đã đỗ đầu, vào học và đƣợc hoạ sƣ ngƣời
Pháp - Victor Tardieu hết sức dìu dắt. Khả năng hội hoạ cùng những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
kiến thức thu nhận đƣợc từ ngành học này đã có ảnh hƣởng khá rõ đến
ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh sau này. Những bức hoạ ngôn từ tinh
tế về thiên nhiên có khả năng nói thay tâm trạng con ngƣời trong tác
phẩm, chỉ có thể có đƣợc từ nhà văn có năng khiếu hội họa tài hoa.
Tƣ chất nghệ sĩ là nét nổi bật ở con ngƣời Nhất Linh, ngoài làm
văn, viết thơ, vẽ tranh, ông còn mê sáo trúc. Sau này khi chán nản, mệt
mỏi trong hoạt động chính trị, ông đã tìm đến Đà Lạt say sƣa kiếm lan,
thổi sáo cho lan nghe, đắm chìm trong thế giới thanh khiết. Chính những
phẩm chất nghệ sĩ đó đã tạo cho văn phong Nhất Linh chất thơ, chất
nhạc hiếm có, làm say lòng biết bao chàng trai, cô gái trong giai đoạn Tự
lực văn đoàn. Tuy nhiên trong những phẩm chất nghệ sĩ ấy thì niềm say
mê văn học với ông là hơn cả.
Nhất Linh ham đọc sách từ nhỏ, thói quen này ông giữ tới lúc lâm
chung. Trong tác phẩm Viết và đọc tiểu thuyết, ông cho biết đã đọc độ
vài ba trăm cuốn tiểu thuyết Việt, ba bốn chục truyện Tầu, năm sáu trăm
truyện trinh thám Anh, Mĩ và khoảng ngần ấy tác phẩm khác của Anh,
Mĩ, Pháp. Thủa nhỏ "độ 10,11 tuổi thường cùng các bạn trong nhà trọ
góp tiền thuê truyện Tàu để đọc to cho nhau nghe vào giờ nghỉ" [15; 97].
Những tác phẩm đƣợc đọc đã tạo cho Nhất Linh một niềm say mê văn
học từ rất sớm. Ông nói rằng từ lúc 13, 14 tuổi đã từng viết một vài
truyện ngắn nhƣng không bao giờ cho đăng. Tới khoảng những năm
1921, 1922 - khi 15, 16 tuổi - ông đã từng làm thơ Đƣờng luật đƣợc đăng
trên báo Trung Bắc tân văn của Nguyễn Văn Vĩnh (bài Vịnh Tây Hồ).
Khi học trung học, từ năm đầu ban Thành Chung, Nhất Linh đã
tham gia bình luận truyện Kiều trên báo Nam Phong. Theo ông: "Truyện
Kiều thực là một tấm gương luân lí thiên cổ". Và: "Ngẫu nhiên Kiều, kể
đã hơn 100 năm rồi, cũng chưa có sách nào hay bằng. Cái đặc tài của
cụ Nguyễn Du về đường văn chương như vậy ở nước ta thật là không ai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
(…). Nói đến cái hay của Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được" (Nhất
Linh) [43; 36].
Không ngạc nhiên khi với quan điểm "Ta chỉ nên nhận rằng văn
chương Kiều có thể làm cái mẫu rất tốt cho văn chương quốc ngữ, và
người nào làm văn cũng nên theo cách làm văn trong truyện Kiều" [43;
36], hai tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tƣờng Tam: tiểu thuyết Nho
phong (1924) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1926) có sự ảnh hƣởng
truyện Kiều nói riêng và văn học cổ điển nói chung rất rõ. Đó là tƣ tƣởng
đạo nghĩa phu phụ, lối kể truyện của văn xuôi trung đại, câu văn đăng
đối du dƣơng.
Nhất Linh có khát vọng về một sự nghiệp văn chƣơng hơn ngƣời,
ông không muốn sống cuộc đời của một công chức nhà nƣớc bảo hộ
"Sáng vác ô đi, tối vác về". Ông đã từng tâm sự với Hồ Trọng Hiếu: "Tôi
không có ý trở thành ông tham, ông đốc… như ai. Nguyện vọng tha thiết
của tôi là được viết văn, làm báo, sống bằng ngòi bút của mình, sống
bằng nghề tự do ngoài vòng kiềm toả" [43; 522].
Niềm say mê văn học cộng với tƣ chất nghệ sĩ và khát vọng dùng
ngòi bút để hoạt động văn học nghệ thuật đã hình thành từ rất sớm trong
con ngƣời Nhất Linh. Chính điều đó đã thôi thúc ngƣời thanh niên
Nguyễn Tƣờng Tam tìm lối đi mới cho mình.
Theo Trƣơng Bảo Sơn, trong con ngƣời Nhất Linh có hai khuynh
hƣớng: "nghệ sĩ" và "cách mạng". Khuynh hƣớng nghệ sĩ thì đã rõ. Còn
khuynh hƣớng cách mạng là sự quan tâm của Nhất Linh với các vấn đề
xã hội. Ông "muốn san bằng mọi bất công trong xã hội loài người".
Trong thời gian học ở trƣờng Mỹ thuật, Nhất Linh đã nhiều lần vác giá
vẽ về những vùng nông thôn, tận mắt chứng kiến cuộc sống lam lũ khổ
cực của ngƣời nông dân. Chàng hoạ sĩ trẻ đã nhận ra đƣợc "hai vẻ đẹp"
trái ngƣợc: một bên là ngƣời dân với những kiếp: Nghèo, Nô lệ, Đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đường xó chợ. Cuộc sống lam lũ của ngƣời dân quê đã làm cho ngƣời
thanh niên ấy xúc động và thấy rằng không thể nào vui riêng với cái vui
của ngƣời nghệ sĩ. Thêm vào đó, sự sôi động của thời cuộc khoảng 1925
- 1926 càng kích thích Nguyễn Tƣờng Tam cái chí làm việc ích lợi cho
nƣớc, cho dân. Muốn thực hiện đƣợc chí đó, Nguyễn Tƣờng Tam phải
xuất ngoại, mong tìm học hỏi lấy những kiến thức và phƣơng tiện cần
thiết. Năm 1927, khi tìm đƣợc cơ hội, ông ném cây cọ, bỏ giá vẽ xin đi
Tây du học.
1.2.2.2. Chuyến du học ở Pháp - Những thay đổi trong quan niệm xã
hội và văn chương của Nhất Linh
Năm 1927, đƣợc sự giúp đỡ của Hội du học bảo hộ - một tổ chức
của các quan đại thần Huế - Nhất Linh đã sang Pháp du học. Với tài
năng nhiều mặt, Nhất Linh đã theo học ban Khoa học, trong vòng 24
tháng giật đủ ba chứng chỉ để trở thành Cử nhân lý hoá. Nguyễn Tƣờng
Tam đã giải thích về việc muốn trở thành nhà văn, nhƣng lại đi học lấy
bằng "cách trí": "…sang Pháp chủ yếu là nghiên cứu nghề làm báo, để
khi về sẽ mở một tờ báo thể tài mới, khác hẳn các báo. Còn cái bằng cử
nhân khoa học? Chỉ là cứu cánh để phòng xa, nếu làm báo thất bại sẽ ra
làm giáo sư cũng tốt" [43; 526].
Quả đúng nhƣ vậy, trƣớc khi đi du học, ông đã nung nấu một con
đƣờng nghệ thuật khác hẳn với đƣơng thời và cũng nhìn thấy vai trò
quan trọng của báo chí với đời sống và văn chƣơng. Do vậy, trong những
tháng ngày du học, ngoài việc học ở nhà trƣờng, ông còn để ý đến đời
sống xã hội Pháp, những nét mới của văn chƣơng nghệ thuật, nhất là vai
trò tiền phong của báo chí, tiếng nói hữu quyền của nhà ngôn luận. Ông
đặc biệt đi sâu nghiên cứu đời sống văn học phƣơng Tây, cách điều hành
một tờ báo ở Pháp, từ việc tổ chức, sắp xếp bài vở đến nghệ thuật trình
bày. Trƣơng Bảo Sơn kể về Nhất Linh: "Có tiền, anh chỉ mua sách, mua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
báo, say mê đọc, nghiền ngẫm nghệ thuật viết văn của họ, hầu có thể áp
dụng vào văn chương Việt Nam, để cải tiến nghệ thuật viết văn Việt
Nam. Trong khi ấy anh học thêm và tốt nghiệp cử nhân lý hoá" [43;
187].
Những kiến thức đƣợc trực tiếp thâu nhận từ nền văn hoá phƣơng
Tây nói chung và văn học Pháp nói riêng đã giúp Nhất Linh có những
thay đổi trong quan niệm về xã hội và văn chƣơng. Ông đã sớm nhận ra
những trì trệ trong xã hội Việt Nam đƣơng thời (tất nhiên cả trong văn
học) và mong muốn xây dựng một nền văn học mới. Ông không còn ca
ngợi tƣ tƣởng đạo nghĩa phu - phụ theo quan niệm của lễ giáo phong
kiến nhƣ trong các tác phẩm: Nho phong, Người quay tơ, Bạch Liên,…
viết trƣớc đây. Ông nhìn thấy rõ những mâu thuẫn gay gắt giữa con
ngƣời cá nhân với đại gia đình phong kiến, giữa ý thức hệ tƣ sản với lễ
giáo phong kiến. Ông mong muốn giải phóng phụ nữ ra khỏi chế độ đại
gia đình, tránh cho phụ nữ nỗi tình duyên ép buộc, cảnh mẹ chồng, nàng
dâu, cảnh goá bụa lạnh lùng. Và với tƣ tƣởng của một trí thức tiểu tƣ sản,
ông chủ trƣơng cải cách xã hội. "Phải cải cách vì xã hội chưa hợp lý:
Còn những cô Loan bị mẹ cha gả bán, những cô Nhung giam cầm trong
goá bụa, những bà Phán Lợi tàn ác mà không biết, (…). Còn những
cảnh "'tối tăm", những nơi "bùn lầy nước đọng" những "xã hội quê bao
giờ cũng khốn nạn, cũng nghèo xơ xác như bây giờ"…[43; 89]. Những
quan điểm mới mẻ về xã hội đó của ông đã đƣợc gửi gắm qua những
hình tƣợng nghệ thuật trong các tác phẩm về sau này nhƣ Loan, Dũng
trong Đoạn tuyệt, Nhung trong Lạnh lùng, Doãn trong Hai vẻ đẹp,…
Theo Nhất Linh, để cải thiện cuộc sống của ngƣời nông dân, phải
làm cho họ có học thức, hiểu biết, không để họ "sống mãi trong đêm tối
vì không ai soi sáng họ, dạy họ biết một cách sống khác". Và ông rất có
ý thức đấu tranh bằng văn nghệ cho những quan niệm xã hội của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ông thấy rằng không thể viết nhƣ trƣớc mà phải đổi mới cách viết. Đúng
nhƣ Phạm Thế Ngũ nhận xét: "Năm 1930, Nguyễn Tường Tam 24 tuổi
trở về nước, với trong đầu óc một chân trời mới, những quan niệm thay
đổi hẳn về xã hội và văn chương. Con người Nho phong đã nhường chỗ
cho nhà "cách mạng xã hội". Nhà văn chỉ biết khâm phục truyện Kiều
thấy cần phải đổi mới cái không khí văn học do phái Nam Phong thổi ra
từ trên 10 năm nay" [44; 11].
Từ Pháp trở về, Nhất Linh đã đem theo những hiểu biết về nền
văn học phƣơng Tây, đặc biệt văn học Pháp và những kiến thức mới mẻ
về khoa học, về xã hội, về nghề báo,… Đó chính là những cơ sở cho sự
thay đổi về quan điểm sáng tác, ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm
mới của ông.
1.2.2.3. Chủ trương “Tự sức mình làm ra những sáng tác có giá trị về
văn chương”, "làm giàu văn sản trong nước”.
* Ý tưởng táo bạo, mới mẻ về văn chương
Về nƣớc năm 1930, trong lúc chờ thực hiện hoài bão văn chƣơng
của mình, chàng cử nhân trẻ làm giáo sƣ dạy ở trƣờng trung học Thăng
Long, đồng thời không quên theo dõi tình hình báo chí đƣơng thời.
Những kiến thức thâu lƣợm đƣợc từ nhiều tờ báo ở Pháp đã giúp Nhất
Linh nhận thấy loại báo trào phúng rất hợp với sở thích mọi ngƣời, điều
này ở Việt Nam lại chƣa có. Nhất Linh nộp đơn xin ra báo Tiếng Cười
và tích cực chuẩn bị mọi thứ cho tờ báo tƣơng lai, từ bài vở cho đến nhân
sự toà soạn. Tú Mỡ đã kể:
"Anh thuê một căn nhà nhỏ trong ấp Thái Hà, lấy nơi tĩnh mịch để
làm việc. Ở đó, tôi đã gặp mặt anh em trong toà soạn tương lai của tờ
báo, lúc đầu chỉ có năm người: anh Nguyễn Tường Tam, anh Nguyễn
Tường Long, anh Nguyễn Tường Lân và hai người ngoài là anh Trần
Khánh Giư và tôi - Hồ Trọng Hiếu(…) chủ trương sáng tác theo một tôn
chỉ đúng đắn: cải tạo xã hội cũ, đả phá mọi phong tục tập quán hủ bại,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xây dựng một đời sống mới tiến bộ, vui vẻ trẻ trung (…). Chúng tôi có
một đường lối sáng tác thuần tuý Việt Nam, lời văn bình dân trong sáng,
dễ hiểu" [43; 529 / 530].
Những hồi ức trên của Tú Mỡ đã tái hiện quãng thời gian sơ khai
của Tự lực văn đoàn. Có thể khẳng định rằng, trong quá trình chuẩn bị cho
báo Tiếng Cƣời với năm thành viên này, trong suy nghĩ của Nhất Linh đã
hình dung ra một nhóm nhà văn "vừa là đồng nghiệp, vừa là anh em",
hoạt động theo một tôn chỉ, một mục đích, cùng mong đóng góp vào sự
tiến bộ của văn học nƣớc nhà. Nhƣng báo Tiếng Cười không đƣợc phép
xuất bản vì không đủ tiền.
Nhƣng Nhất Linh không chịu đầu hàng. Năm 1932, tờ Phong Hoá
của mấy bạn đồng nghiệp cùng dạy học ở trong trƣờng ra đời, do Phạm
Hữu Ninh - ngƣời sáng lập trƣờng Thăng Long - làm quản lý, Trần
Khánh Dƣ - giáo sƣ Thăng Long - làm chủ bút. Phong Hoá mới ra đời
đã đƣợc nhiều ngƣời chú ý, nhƣng cái tôn chỉ "xét trong hai nền văn hoá
cái gì tốt đẹp thì thâu góp làm văn hoá nước nhà" của ông Phạm Hữu
Ninh chìm vào trong cái luận điệu dung hoà của thời đại, tờ báo không
đem lại điều gì mới mẻ và đi xuống. Nguyễn Tƣờng Tam thấy đây là
một cơ hội tốt để làm một thử nghiệm. Nhất Linh tập hợp bạn bè, đồng
nghiệp, ngƣời thân và tuỳ vào khả năng từng ngƣời, ông phân công từng
ngƣời đảm nhiệm những vị trí và công việc thích hợp. Tiếp đó, ông điều
đình với Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai (ngƣời chính thức có
giấy phép) để đứng ra làm lại tờ báo. Ngày 22 tháng 9 năm 1932, ._.ôi bạn).
- "…Nét chữ tươi như hoa đào, già dặn như cành mai cỗi"
(Nửa chừng xuân)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- "Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm như vừa tắm ở suối" (Dưới bóng
hoàng lan).
So sánh có khi đƣợc dùng để gợi hình hơn cho đối tƣợng đƣợc so
sánh:
- "Hôm ấy vào hạ tuần, trăng vừa mọc, trông như cặp sừng trâu
treo ngược trên đỉnh đồi" (Hồn bướm mơ tiên).
- "… Khói ở các nhà toả ra như mấy vết mực tàu đương lan trên
tờ giấy trắng ướt đẫm nước" (Đôi bạn).
- Có khi so sánh dùng để tăng tính sinh động cho đối tƣợng cần biểu
hiện:
- "Chàng lấy vợ cũng như người khác chơi cây cảnh" (Lạnh
lùng).
- "Và liền lúc đó, ba tiếng trống đánh dồn dập, hấp tấp, bất thần
như cái thức giấc hoảng hốt, kinh hãi của người đương chập chờn ngủ
gật" (Nửa chừng xuân).
Có một điều thú vị là ngƣời ta hay so sánh cái trừu tƣợng với cái
không trừu tƣợng để ngƣời đọc có thể hình dung, tƣởng tƣợng ra cái trừu
tƣợng kia là gì, thì các nhà văn Tự lực văn đoàn nhiều khi lại làm ngƣợc
lại. Họ lấy cái cụ thể để so sánh với cái trừu tƣợng hoặc lấy hai cái trừu
tƣợng so sánh với nhau để tạo ra những liên tƣởng mới.
- "Đêm khuya nữa… chậm chạp và thong thả, bác hàng quà, đi
nhẹ như chân ma… Tiếng rao buồn thảm, yếu ớt và uể oải như hàm một
nỗi thất vọng khôn cùng" [Thạch Lam].
- "Hoa kim liên sắc vàng thắm như một nụ cười thân yêu" [Khái
Hƣng].
- "Ở đâu vẳng lại tiếng ru em trong vắt như ánh nắng" [Nhất
Linh].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- "Trước mặt hai người, về phía bên kia cánh đồng, ánh đèn nhà
ai mới thắp, yếu ớt trong sương, trông như một nỗi nhớ xa xôi đương
mờ dần" [Nhất Linh].
Đây là kiểu so sánh biểu hiện sự tinh tế trong tâm hồn ngƣời nghệ
sĩ, họ phải thực sự rung động trƣớc cảnh vật, con ngƣời, thực sự cảm
thấy đằng sau những cái tƣởng nhƣ không thể có sự liên hệ ấy một mối
quan hệ gần gũi. Trong các nhà văn Tự lực văn đoàn, Nhất Linh là ngƣời
hay sử dụng nhất cách so sánh này. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ của
Nhất Linh có một vẻ riêng bay bổng và lãng mạn.
Trong so sánh, nét riêng của ngôn ngữ tác giả thể hiện chủ yếu ở
cách dùng chuẩn so sánh và tƣơng quan so sánh, qua đó bộc lộ cái nhìn
độc đáo của nhà văn. Lấy tƣơng quan so sánh làm tiêu chí, chúng tôi
nhận thấy Nhất Linh thƣờng sử dụng hình thức so sánh tâm trạng, cảm
giác của con ngƣời với sự vật, tâm trạng đang trong trạng thái hoạt động.
Những so sánh kiểu này rất gợi hình, gợi cảm:
- "Nàng thấy hạnh phúc của nàng đẹp đẽ như ánh lửa lấp lánh
trong cốc rượu đương sóng sánh trên tay nàng" (Lạnh lùng).
- "Một luồng khói pháo thơm đưa thoảng qua cửa sổ đem lại cho
Dũng những cảm tưởng dịu dàng êm ái như ngọn gió xuân dịu dàng đem
mùa xuân tới" (Đôi bạn).
- "Một mùi thơm tựa như mùi cốm non phảng phất lẫn với bụi, với
gió, với ánh nắng" (Đôi bạn).
- "Ngoài kia, ánh nắng vàng buổi chiều như tiếc ngày cuối cùng
của một năm, còn lảng vảng trên các ngọn đồi, chòm cây, lướt thướt trên
những cánh đồng cỏ màu xanh già" (Đoạn tuyệt).
"Chàng sung sướng chỉ vì thấy mình như con chim thoát khỏi
lồng, nhẹ nhàng trong một sự tự do không bờ bến" (Bướm trắng).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Kiểu so sánh này, không chỉ gợi lên rất rõ cảm giác đƣợc nói đến
(dù là những cảm giác rất mong manh, mơ màng), mà còn có khả năng
gợi lên trong ngƣời đọc rất nhiều liên tƣởng. Các sự vật đƣợc đem ra để
so sánh không trong trạng thái tĩnh tại, mà đang hoạt động, biến đổi, vì
thế ngƣời đọc tuỳ theo cảm nhận của mình mà có thể có những liên
tƣởng khác nhau, những cảm xúc khác nhau. Tất cả những so sánh đó
đều gợi lên những hình ảnh thật đẹp, lãng mạn và bay bổng, bộc lộ
những cảm giác tế vi của con ngƣời. Qua những so sánh đó Nhất Linh đã
thể hiện những rung động sâu xa với con ngƣời và tạo vật. Các so sánh
của ông đều nhấn mạnh đến cảm giác tinh nhạy của con ngƣời trƣớc
cuộc đời, thể hiện những quan sát kĩ lƣỡng, sự gắn bó với cuộc sống đến
từng cảm giác.
Để miêu tả cảnh vật thiên nhiên, Nhất Linh cũng rất hay dùng
phƣơng thức so sánh giữa sự vật với sự vật, có điều thú vị là những sự
vật đem ra để so sánh ấy cũng không ở trong một trạng thái tĩnh tại,
chẳng hạn:
- "…Khói ở các nhà toả ra như vết mực tàu đương lan trên tờ giấy
trắng ướt đẫm nước" (Đôi bạn).
- "Thỉnh thoảng Trương phải cúi đầu cho khỏi chạm vào cành
cây; dưới một cái ao gần đây, bóng một cành tre in ngược, ngọn trúng
vào giữa một đám sao trông như một cây bông vừa toả hoa lấp lánh"
(Bướm trắng).
Hoặc có khi sự tĩnh tại chỉ là tạm thời, trong khoảnh khắc:
- "Trên một cây bàng nhỏ, những lộc mới đâm, màu xanh non hơi
phơn phớt hồng, trông như một đàn bướm ở đâu bay về đậu yên" (Đôi
bạn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- "Dưới chân nàng một vùng cỏ bóng loáng ánh nắng, trông nắng
in trên nền trời như hình một con chim trắng giương giương đôi cánh
sắp bay" (Đôi bạn).
Qua cách so sánh này, ta thấy cảnh vật hiện lên rất sống động, rất
đẹp - một vẻ đẹp trong trẻo, lãng mạn. Đồng thời chứng tỏ khả năng liên
tƣởng phong phú, sự tài tình của nhà văn kiêm hoạ sĩ Nhất Linh trong
việc nắm bắt những vẻ đẹp linh động của ngoại cảnh. Những so sánh đó
cũng thể hiện một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, sự gắn bó thiết tha với
cuộc đời, với con ngƣời và tạo vật, kể cả ở những so sánh rất cụ thể, rất
thực tế, chẳng hạn: "Ở ngoài vườn, tiếng ếch nhái ran lên từng loạt,
thỉnh thoảng có tiếng chẫu chuộc kêu nghe lõm bõm như tiếng chân rút
mạnh của một người lội trong bùn" (Đôi bạn). Phải là ngƣời gắn bó với
cuộc sống nơi thôn quê, hay để ý quan sát và suy tƣởng mới có hình ảnh
so sánh chính xác và độc đáo đến vậy.
Các so sánh của Nhất Linh dù gắn với hiện thực hay bay bổng
lãng mạn cũng đều có nét chung là rất đẹp, gợi cảm và tinh tế, khác với
so sánh của Thạch Lam bình dị và chân chất. Thạch Lam rất hay sử dụng
so sánh cảm giác của tâm hồn với một sự vật bình dị hoặc yếu ớt thanh
mảnh, chẳng hạn:
- "Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời này, cuộc đời một cô hàng
xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia
như một tấm vải thô sơ" (Cô hàng xén).
- "Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi, không biết, như
chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" (Hai đứa
trẻ).
- "Tất cả những cái đó bây giờ xa quá. Tâm trí tôi giãn ra, như
một cây tre uốn cong trở lại cái thẳng thắn lúc thường" (Sợi tóc).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Những hình ảnh: "Tấm vải thô" cuộc đời đƣợc dệt lên bằng toàn
sợi khó nhọc (Cô hàng xén), ngọn đèn con của chị Tí và đêm đen nơi
phố huyện (Hai đứa trẻ), cây tre uốn cong lại thẳng (Sợi tóc) là những
hình ảnh rất đỗi bình dị, thân thuộc với cuộc sống con ngƣời vùng quê.
Những so sánh này đã gợi nên trong lòng ngƣời đọc bao xót xa thƣơng
cảm cho những cuộc đời tăm tối, khó nhọc.
Trong tác phẩm của Nhất Linh còn xuất hiện những so sánh giữa
đặc điểm, tính chất, hoạt động của ngƣời với đặc điểm, tính chất, hoạt
động của sự vật mang màu sắc nhục cảm, để tôn vinh cái đẹp hình thể
của con ngƣời, thể hiện những xúc cảm mãnh liệt, những khao khát thầm
kín trong tâm hồn những ngƣời đang yêu:
- "Chàng như trông thấy trước mặt bàn tay hơi rung rung của
Loan, hôm nào, cời những quả đậu non trong rá, chàng nhớ đến cái cảm
tưởng ngây ngất được thấy đôi môi Loan mềm và thơm như hai cánh hoa
hồng…" (Đôi bạn).
- "Lụa áo Trương thấy mềm như da người và một mùi thơm hơi
cay - không giống hẳn mùi thơm của nước hoa xông lên ngây ngất"
(Bướm trắng).
- "Lần đầu chàng nhận thấy vẻ đẹp của cái cổ tròn màu trắng dịu
và nom như một búp hoa ngọc lan sắp nở" (Bướm trắng).
- " Quả na phơi nắng suốt ngày, những múi na âm ấm và thơm
phảng phất như môi người yêu" (Đôi bạn).
- "Hoa mộc thơm như cô con gái quê mới dậy thì" (Lạnh lùng).
Dù có dùng phƣơng thức so sánh nào thì các hình ảnh so sánh của
Nhất Linh cũng đều có nét chung là rất đẹp, gợi lên trong lòng ngƣời
những cảm giác trong sáng, lãng mạn. Đây là nét khác với Thạch Lam
khi ông sử dụng những so sánh tƣơng tự nhƣ vậy, chẳng hạn:
- "Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da
mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô… Mẹ con bác ở một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
căn nhà cuối phố, một cái nhà lụp xụp như những căn nhà khác… Mùa
rét thì rải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một
cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc" (Nhà mẹ Lê).
- "Nhưng đến mùa rét… Dưới manh áo rách nát thịt chúng nó
thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết " (Nhà mẹ Lê).
Có thể thấy rằng "chuẩn so sánh ở đây dưới mức bình thường, là:
quả trám khô bị rút hết nước nhăn nheo đến thảm hại; là ổ chó, thịt trâu
chết. Nhưng có lẽ không gì có thể gợi ra hình ảnh mẹ con bác Lê trúng
hơn những sự vật tầm thường này" [20; 90]. Những so sánh này đã thể
hiện một cách xác thực thân phận thấp hèn và cuộc đời cơ cực, đắng cay
của họ, thể hiện một cái nhìn hiện thực của Thạch Lam về cuộc sống.
Qua cách so sánh của Thạch Lam, ta có thể nhận ra điểm giống và
khác nhau khá rõ trong cách sử dụng ngôn từ giữa hai nhà văn vừa là
đồng nghiệp, vừa là anh em này. Bên cạnh những so sánh nhằm làm tăng
giá trị gợi hình và biểu cảm nhƣ các nhà văn khác trong Tự lực văn đoàn,
Nhất Linh còn rất hay sử dụng kiểu so sánh mang đậm chất ẩn dụ, chúng
là những so sánh thực sự độc đáo, thực sự là điểm nhấn cho tác phẩm,
buộc ngƣời đọc phải tìm hiểu, phải khám phá xem vì sao tác giả lại so
sánh nhƣ vậy. Chẳng hạn trong Đôi bạn, tác giả đã để Dũng ví tình yêu
của mình với Loan "như một ngôi sao nhỏ ở một góc trời chỉ riêng đẹp,
riêng quý với chàng chính vì chàng đã chọn nó và không cho ai biết".
Cách so sánh ấy vừa gợi đƣợc vẻ đẹp, lung linh kì diệu của tình yêu
Dũng giành cho Loan, vừa biểu tƣợng cho tình yêu ấy mong manh, xa
vời, suốt đời Dũng khao khát nhƣng không thể nào với tới đƣợc.
Một lần nữa, cũng trong tác phẩm này, Dũng lại có một ý tƣởng so
sánh rất thú vị: "những con đom đóm bay qua ao bèo lúc tắt lúc sáng
như những ngôi sao lạc biết thổn thức". Để hiểu đƣợc hết ý nghĩa của so
sánh này, chúng ta không thể chỉ đọc riêng nó mà phải liên hệ với các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
câu khác trong truyện. Khi Dũng có câu ví này là lúc chàng đang đi cùng
Loan vào một buổi tối mà trong lòng đang ngập tràn cảm xúc yêu thƣơng
dành cho Loan. Cảm xúc ấy dâng trào mãnh liệt nhƣ đã lên đến đỉnh cao,
nhƣng Dũng lại không đủ can đảm nói ra. Những con đom đóm nhắc lại
kỷ niệm thời thơ ấu bên Loan - cô bạn nhỏ hàng xóm và nhƣ trƣớc Dũng
ví tình yêu của mình với ngôi sao, thì nay kỷ niệm tuổi thơ lại càng làm
cho tình yêu ấy thêm đậm đà. Cái nhấp nháy của con đom đóm chính là
ngôi sao tình yêu trong lòng chàng bởi nó cũng đang nhấp nháy vì thổn
thức, vì xúc động, vì rạo rực - một nỗi rạo rực kín đáo. "Ngôi sao lạc " ấy
cũng xa vời, cũng không thể bắt đƣợc nhƣ đom đóm không bị đánh lừa
sà xuống cùng hai ngƣời - tình yêu của Dũng cũng vậy, thổn thức nhƣng
thật buồn!
Nhất Linh đã sáng tạo ra nhiều so sánh hết sức độc đáo, nhiều ẩn
ý. Trong Bướm trắng, lúc gặp Thu buổi đầu, ý nghĩ so sánh đầu tiên ập
đến trong Trƣơng đó là sự kiêu hãnh của Thu chỉ làm cho sắc đẹp của
nàng "ý vị hơn lên như chất chua của một quả mơ". Quả mơ ấy hấp dẫn
thật, nhƣng để có thể thƣởng thức đƣợc nó thì ngƣời ta cũng phải nếm
trải rất nhiều vị chua của nó. Còn Thu nhận ra tình yêu của mình với
Trƣơng khiến cho cuộc sống của nàng khác biệt hơn trƣớc, nhiều dƣ vị
hơn trƣớc, nhƣng trong cái dƣ vị ngọt ngào không phải là không có chút
gợn lòng vì những dƣ vị buồn, có lẽ không phải vô tình Nhất Linh để cho
nàng ví đời sống hiện tại của nàng so với những cái đã qua "có vị hơn…,
đậm đà hơn, một vị hương âm thầm không rõ rệt, ấm áp như hương thơm
đọng trong quả cam mới hái ngoài nắng vào chưa bóc vỏ".
Những so sánh này của Nhất Linh thật sắc sảo, tinh tế, vừa mang
lại sự sinh động gợi hình, vừa ẩn chứa trong đó biết bao cảm xúc, để
ngƣời đọc phải suy nghĩ, liên tƣởng, chiêm nghiệm mới có thể khám phá
ra. Không phải giản đơn chỉ là so sánh, Nhất Linh còn để một khoảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trống cho ngƣời đọc nhận biết ý nghĩa của so sánh đó, để đồng cảm, sẻ
chia cùng nhân vật sâu sắc hơn.
So sánh là thủ pháp thƣờng thấy trong văn học. Nó có tác dụng
làm phong phú các hình ảnh, cảm giác… cho tác phẩm. Các nhà văn
mƣợn nó để thể hiện, phát huy khả năng tƣởng tƣợng, liên tƣởng vốn đã
nhiều màu vẻ của mình, giúp chúng ta có ấn tƣợng, cảm nhận đậm nét
hơn những điều nhà văn đang truyền đạt. Bằng tài năng của mình, Nhất
Linh đã tạo đƣợc những nét riêng trong cách sử dụng thủ pháp nghệ
thuật này, thể hiện cá tính sáng tạo, cách nhìn riêng của ông về con
ngƣời, về cuộc sống.
Để thực hiện khát vọng "đi sâu vào tâm hồn ngƣời đời", Nhất Linh
đã tạo ra đƣợc những cách dùng từ mới mẻ, tinh tế, giàu khả năng biểu
cảm, gợi hình. Các phép tu từ của ông đã diễn tả thành công những tâm
trạng, những trạng thái cảm xúc mong manh đầy biến ảo, phức tạp,
không dễ nắm bắt trong nội tâm con ngƣời, đó là điều mà không phải
nhà văn nào cũng có thể làm đƣợc. Những đặc sắc trong cách dùng từ
của Nhất Linh đã khẳng định tài năng của ông trong sáng tạo từ ngữ, góp
phần đƣa ngôn ngữ văn học dân tộc đạt đến độ trong sáng, tinh tế, phong
phú.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
C - KẾT LUẬN
1. Nhất Linh là vị “chủ soái” vững vàng của nhóm Tự lực văn
đoàn - tổ chức văn học có vị trí quan trọng trong quá trình hiện đại hoá
nền văn học dân tộc vào những năm 30 của thế kỷ XX. Không chỉ điều
hành mọi hoạt động của Văn đoàn, mà ông còn đi đầu trong sáng tác
theo những tôn chỉ mà tổ chức đã đề ra. Với sự chủ động, sáng tạo trong
sử dụng ngôn ngữ, Nhất Linh đã tuân thủ và thực hiện đƣợc tôn chỉ của
Văn đoàn là "xây dựng một lối văn giản dị, ít chữ nho, một lối văn thật
có tính cách An Nam".
2. Lớn lên trong môi trƣờng văn hoá xã hội Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XX với nhiều biến động phức tạp, Nhất Linh đã tiếp nhận và
cộng hƣởng đƣợc khát vọng mãnh liệt của lớp nhà văn cùng thế hệ
trong việc xây dựng một nền quốc văn mới. Ông cũng đã tiếp thu đƣợc
những thành tựu của ngôn ngữ văn chƣơng tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ
của lớp nhà văn trƣớc qua văn chƣơng và báo chí đƣơng thời. Song, yếu
tố quan trọng nhất tác động đến ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là
chuyến du học ở Pháp. Sau chuyến đi Pháp, không chỉ quan điểm về
cuộc đời và nghệ thuật thay đổi mà ngôn ngữ nghệ thuật của ông cũng có
sự đổi mới rõ rệt.
3. Về phƣơng diện ngôn ngữ nghệ thuật, Nhất Linh luôn tích cực,
chủ động cách tân, sáng tạo. Từ Nho phong và Người quay tơ đến các
tác phẩm viết trong giai đoạn tham gia Tự lực văn đoàn, ngôn ngữ nghệ
thuật của Nhất Linh đã thoát dần tính “biền văn”, “sáo ngữ” để chuyển
sang ngôn ngữ văn xuôi hiện đại. Trong các sáng tác ở giai đoạn Tự lực
văn đoàn, ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh vận động theo hƣớng ngày
càng đi sâu vào biểu hiện nội tâm nhân vật. Nếu nhƣ ở Đoạn tuyệt và
Lạnh lùng, ngôn ngữ mới chỉ miêu tả đƣợc tâm trạng từ cái nhìn bên
ngoài; thì đến Đôi bạn và Bướm trắng, ngôn ngữ đã nhập đƣợc vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dòng nội tâm của nhân vật, đã chạm đƣợc cả tới những vùng "mờ tối",
"khuất khúc", cả phần tiềm thức, bản năng. Qua các tác phẩm, ngôn ngữ
nghệ thuật của Nhất Linh đã chuyển tải đƣợc quan điểm sáng tác và
cảm xúc thẩm mĩ của nhà văn.
Tuy chƣa đạt đến đỉnh cao trong việc thể hiện những trạng thái nội
tâm căng thẳng, giằng xé đau đớn, nhƣng ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất
Linh đã rất thành công khi miêu tả những trạng thái cảm xúc nhẹ nhàng,
mong manh và đầy biến ảo của tâm hồn. Nhất Linh đã góp phần đƣa
ngôn ngữ văn học dân tộc đạt đến độ trong sáng, tinh tế và uyển chuyển.
Nét đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là ở hệ
thống từ ngữ phong phú, mới mẻ; những hình ảnh so sánh đẹp, giàu tính
biểu cảm; cách diễn đạt tinh tế những rung động nội tâm sâu kín hoặc
những xúc cảm mơ hồ, mong manh. Nhất Linh đã đem đến cho văn học
đƣơng thời một lối văn mới mẻ, cuốn hút, làm say lòng ngƣời đọc - một
lối văn đặc biệt thích hợp với tầng lớp thanh niên trí thức thành thị nhiều
mơ mộng, lãng mạn.
4. Do “vùng thẩm mĩ” gắn với tầng lớp trung lƣu thành thị, nên
ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là thứ ngôn ngữ thi vị hoá cuộc sống,
thiếu hơi thở khoẻ khoắn, sôi động của cuộc đời rộng lớn; thiếu chất
sống “tƣơi ròng” của thực tế so với ngôn ngữ văn xuôi hiện thực cùng
thời. Điểm hạn chế của ngòi bút Nhất Linh cũng là hạn chế của ngôn ngữ
văn xuôi Tự lực văn đoàn và ngôn ngữ văn học lãng mạn đƣơng thời nói
chung,
5. Song, nhìn một cách khái quát, trong giai đoạn sáng lập và
tham gia nhóm Tự lực văn đoàn, với tƣ cách nhà văn, Nhất Linh đã có
nhiều tìm tòi, sáng tạo và thành công. Nói một cách hình tƣợng, ông là
một trong số không nhiều nhà văn đã bƣớc vững vàng từ "phòng chờ" lên
"chuyến tàu" văn học của thời kì mới; và chính ông cũng góp phần tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nội lực lớn giúp "con tàu" tăng tốc, nhanh chóng tiến thẳng vào quỹ
đạo hiện đại. Nhất Linh xứng đáng đƣợc ghi danh đối với quá trình hiện
đại hoá nền văn học Việt Nam.
PHỤ LỤC 1
Nhất Linh thời Tự Lực Văn Đoàn
PHỤ LỤC 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Một bức họa của Nhất Linh
PHỤ LỤC 3
KHẢO SÁT CÁC CHỮ TRONG TÁC PHẨM NHO PHONG
KHÁC VỚI QUY TẮC CHÍNH TẢ HIỆN NAY
STT
Cách viết
trong tác phẩm
Trang văn bản
sử dụng
Cách viết
hiện nay
1 dau 2,52 rau
2 suềnh soàng, xuềnh soàng 3,108 xuềnh xoàng
3 xuốt (ngày, đêm, đời, tháng) 3,7,10,21,22,27,28,39,
41,44,47,48,52,105,108,
109,110,112,119,121
suốt
4 truyện (nói truyện) 4,7,12,14,15 chuyện
5 Danh (túp danh) 8 gianh
6 Dàn (thiên lí) 9 Giàn
7 Sinh (sinh đẹp, sinh quá) 9,109 xinh
8 Sinh sắn 16 Xinh xắn
9 rầm (mƣa rầm) 10,33 dầm
10 Rong (rong đèn) 120 Dong
(chongđèn)
11 Chán (bóp chán) 12,35,98 Trán
12 Giáng (ngƣợng ngùng) 12,19,26,80,104,120 dáng
13 trải (tóc) 13 chải
14 rứt (rứt tình, rứt tay) 13, 17 dứt
15 Soá (trắng soá) 13, 39, 53 xoá
16 Sa (sa lắc sa lơ) 13 xa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
STT
Cách viết
trong tác phẩm
Trang văn bản
sử dụng
Cách viết
hiện nay
17 rời (rời tay) 13 dời
18 Trõng (cái trõng, lều trõng) 14,92 chõng
19 trấn (cửa trấn song) 16,37 chấn
20 xẫm (tối xẫm) 19 sẫm
21 Dũ (ủ dũ) 19 rũ
22 Soay (soay sở) 21,102,111 xoay
23 Soàng (áo soàng) 21 xoàng
24 rỗ (cúng rỗ) 23 giỗ
25 xuông (canh xuông) 23,108 suông
26 dơm dớm 26 rơm rớm
27 Sanh sao, xanh sao 27,57,105,114,122 Xanh xao
28 Soãi (tay bỏ soãi) 27 xoãi
29 Sé (sé ruột, sé gan) 27,79 xé
30 Soa (đầu) 27 xoa
31 Suôi (xong suôi, suôi gió…) 32,78,89,102 xuôi
32 Giã (giã rời) 32 Rã rời
33 dắp (dắp bụng) 34 rắp
34 giở (giở dang, hay giở…) 37,38,55,56,59 dở
35 xụt (xụt sùi) 114 sụt
36 dốn (cắt dốn) 108 rốn
37 Giòng (giòng chữ, giòng
dõi, giòng nƣớc…)
40, 53, 55, 78, 113 dòng
38 Xiêng (xiêng năng) 41 siêng
39 giỗ (dạy giỗ) 42 dỗ
40 Chơn (ăn trắng mặc chơn) 44 trơn
41 sấu sa 44 xấu xa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
STT
Cách viết
trong tác phẩm
Trang văn bản
sử dụng
Cách viết
hiện nay
42 tróng (tróng thành, tróng mạnh) 45, 60, 103 chóng
43 dộn (bận dộn) 47 rộn
44 Say (say thóc) 47 xay
45 Xút (xút kém) 52, 101 sút
46 Dun (dun rủi) 54 Run rủi
47 Dƣơm dƣớm 54, 62, 80 Rƣơm rƣớm
48 Xa xút 56, 84 Sa sút
49 Giao (giao cắt) 56 Dao
50 Giòng rã, giòng giã 60, 69, 84 Ròng rã
51 sếp (thu sếp) 61 xếp
52 Giƣơng (cái giƣơng) 62 rƣơng
53 Soã (tóc soã) 63 xoã
54 Chơ chẽn 66 Trơ trẽn
55 dủ (dủ đi) 66, 88, 91 rủ
56 Giò (giò la) 79 Dò
57 Chôi (chôi bập bềnh) 68 trôi
58 Sách (sách gói) 74 xách
59 Trài (thuyền trài) 75, 77, 79, 84 chài
60 Trông (trông chênh) 76 Chông chênh
61 Giòng giòng 117 Ròng ròng
62 Cháp (cái cháp) 89, 90 tráp
63 Chƣng (sáng chƣng) 90 trƣng
64 chống (vác cờ vác chống) 91 trống
65 chạc (chạc năm sáu mƣơi) 92 trạc
66 rễ (rễ chịu) 92 dễ
67 trậm (trậm quá) 93 chậm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
STT
Cách viết
trong tác phẩm
Trang văn bản
sử dụng
Cách viết
hiện nay
68 Chơi (ma chơi) 95 trơi
69 Sô (sô đẩy) 95 Xô
70 sƣớng (sƣớng danh) 95,96,97,98,119,120,121 xƣớng
71 dật (dật mình) 98 giật
72 trống (trống lại) 101 chống
73 sốc (sốc vác) 103 xốc vác
74 trí (ngã trí) 103 chí
75 Dàn dụa 105 Ràn rụa
76 xuốt (sáng xuốt) 109 suốt
77 chằn chọc 118 trằn trọc
78 Chôi ( trôi chẩy) 119 Trôi
79 Trói (trói lọi) 120 Chói
80 Rong (trống rong) 120 giong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tác phẩm của Nhất Linh
1. Nho phong - Nghiêm Hàm ấn quán xuất bản, Hà Nội, 1926
2. Người quay tơ - Đời nay xuất bản, Sài Gòn, 1968.
3. Anh phải sống- Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1994
4. Gánh hàng hoa- Nhất Linh, Khái Hƣng, Nxb Tổng Hợp, 1998
5. Đời mưa gió- Nhất Linh, Khái Hƣng, Nxb Đại học và giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1991
6. Nhất Linh truỵện ngắn, (Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu), Nxb
Văn học, Hà Nội ,2000
7. Nắng thu - in trong Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, Tập II,
Nxb KHXH Hà Nội, 1989
8. Đoạn tuyệt - In trong Tuyển tập tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội, 1999
9. Đi Tây - Nxb Đời nay, Sài Gòn, 1968
10. Lạnh Lùng - In trong Tuyển tập tiểu thuyết Tự lực văn đoàn - tập 1;
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1999
11. Thế rồi một buổi chiều, Đời nay xuất bản, Sài Gòn, 1968
12. Đôi Bạn, Nxb Đại học và giáo dục Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1991
13. Bướm trắng , Nxb Văn học Hà nội , 1996
14. Dòng sông thanh thuỷ - 3 tập , Nxb Đời nay , 1961
15. Viết và đọc tiểu thuyết , Nxb Đời nay , Sài Gòn , 1972
16. Xóm cầu mới - Nxb Phƣợng Giang, Sài Gòn , 1973
* Tác phẩm văn học và các sách - báo - tạp chí khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17. Vũ Tuấn Anh (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc Gia, Hà Nội.
18. Phạm Thị Phƣơng Anh (2006), Đặc trưng ngôn ngữ tiểu thuyết Tự lực
Văn đoàn, luận văn thạc sĩ khoa học văn học, Hà
Nội.
19. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc Gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Song Bình (1998), Truyện ngắn Nhất Linh trước năm 1945,
luận văn thạc sĩ khoa học văn học, Hà Nội.
21. Nam Cao (1971), Sống mòn, tiểu thuyết in lần thứ ba, NXB
Văn học, Hà Nội.
22. Ân Thị Vân Chi (1998), Độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết Cửa
biển của Nguyên Hồng, luận văn thạc sĩ khoa học
văn học, Hà Nội.
23. Nguyễn Huệ Chi (1989), Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
24. Nguyễn Huệ Chi (1996), Hoàng Ngọc Phách đường đời và đường
văn, NXB Văn học, Hà Nội.
25.Phong Lê , Huệ Chi (1960), "Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930 -
1945 nhân đọc cuốn Lƣợc thảo lịch sử văn học
Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn", Tạp chí văn
học, (số 5).
26. Trƣơng Chính (1939), Dưới mắt tôi, Nxb Thuỵ Ký, Hà Nội.
27. Trƣơng Chính (1989), "Tự lực văn đoàn", Báo người giáo viên
nhân dân (số đặc biệt 27 -28 - 29 - 30 - 31 tháng
7).
28. Vũ Thị Khánh Dần (1997), Tiểu thuyết của Nhất Linh trước cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
mạng tháng Tám, Luận án PTS, viện Văn học;
Hà Nội.
29. Nguyễn Đức Đàn (1958), "Mấy ý kiến về Nhất Linh và Khái Hƣng
- hai nhà văn tiêu biểu trong Tự lực văn đoàn",
Tập san Văn- Sử- Địa, (số 46).
30. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương
Tây hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
31. Đặng Anh Đào (1994), "Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học
Việt Nam 1930-1945", Tạp chí văn học (số 7).
32. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập I,
NXB ĐH& THCN, Hà Nội.
33. Phan Cự Đệ (1981), Những đặc trưng thẩm mĩ của ngôn ngữ
tiểu thuyết, NXB Giáo dục, Hà Nội.
34. Phan Cự Đệ
(Chủ biên)
(2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn
đề lịch sử và lý luận, NXB Giáo dục, Hà Nội.
35. Hà Minh Đức (1999), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
36. Lê Chí Dũng
Trần Đình Hƣợu
1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời,
NXB ĐH & GDCN, Hà Nội.
37.GN Popelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học- Tập II,
Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê NgọcTrà dịch,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
38. Lê Cẩm Hoa
(Tuyển chọn và giới thiệu)
(2000), Nhất Linh con người và tác phẩm, NXB
Văn học, Hà Nội.
39. Nguyễn Công Hoan (2000), Bước đường cùng, NXB Đồng Nai.
40. Nguyễn Văn Hạnh (1999), Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
41. Đỗ Đức Hiểu (1990), "Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ";
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tạp chí ngôn ngữ (số 4), quý VI, Hà Nội.
42. Nguyễn Hữu Hiếu (1994), "Mấy suy nghĩ về nhà văn Nhất Linh -
Nguyễn Tƣờng Tam", Tạp chí văn học (số 4).
43. Mai Hƣơng
(Tuyển chọn)
(2000), Nhất Linh- cây bút trụ cột của Tự lực văn
đoàn, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
44. Mai Hƣơng
(Tuyển chọn)
(2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học
dân tộc, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Mai
Hƣơng
(2008), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu
thuyết của Nhất Linh từ Đôi bạn đến Bướm
trắng, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Thái
Nguyên.
46. Khái Hƣng (1999) Hồn bƣớm mơ tiên, Tuyển tập Tự lực văn
đoàn, (Tập II), NXB Hội nhà văn.
47. Khái Hƣng (1999) Nửa chừng xuân, Tuyển tập Tự lực văn
đoàn, (Tập II), NXB Hội nhà văn.
48. Nguyễn Hoành Khung (1983), Tự lực văn đoàn, Từ điển văn học, (Tập
II), Nxb KHXH, Hà Nội.
49. Nguyễn Hoành Khung (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 -
1945), tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội
50. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội
nhà văn Hà Nội.
51. Phong Lê (2004), "Chữ viết và yêu cầu xây dựng một nền
quốc văn mới ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ
XX", Tạp chí Hán Nôm, số 5, (66).
52. Phạm Quang Long (1990), "Tự lực văn đoàn - một kiểu tƣ duy văn
học", Tạp chí khoa học, (số 2), Trƣờng Đại học
tổng hợp Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Phƣơng Lựu (Chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55.Phƣơng Lựu (Chủ biên) (2006), Lý luận văn học , Nxb Giáo dục Hà Nội.
56. Phƣơng Lựu (1995), Tìm hiểu lí luận văn học phương Tây
hiện đại, NXB văn học, Hà Nội.
57. Phƣơng Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm
văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
58. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB
Văn học, Hà Nội.
59. Nguyễn Đăng Mạnh
(Sƣu tầm, tuyển chọn)
1998), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng tập 1, NXB
Văn học, Hà Nội.
60. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), "Quá trình hiện đại hoá văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX", Tạp chí văn học (số
5).
62. Nam Mộc (1962), "Sai lầm chủ yếu trong cuốn Viết và đọc
tiểu thuyết của Nhất Linh", Tạp chí văn học (số
7).
63. Tú Mỡ (1988), "Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn",
Tạp chí văn học (số 5, 6).
64. Tôn Thảo Miên
(Tuyển chọn)
(2007), Truyện ngắn Thạch Lam tác phẩm và lời
bình, NXB Văn học, Hà Nội.
65. Lê Hồng My (2004), Lời văn nghệ thuật trong văn xuôi
Nguyên Hồng, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ, ĐHSP Thái Nguyên.
66. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, trƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
67. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại -
những vấn đề văn xuôi tự sự, NXB Giáo dục, Đà
Nẵng.
68. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,
tập 2, NXb Giáo dục, Hà Nội
69. Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi
(đồng chủ biên)
(1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
70.Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Tập I, NXB Văn học -
Hội nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ
Chí Minh
71. Hoàng Ngọc Phách (1988), Tố Tâm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Hà Đình Sơn (2006), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu
thuyết "Bướm trắng" của Nhất Linh, luận văn
thạc sĩ ngữ văn, Hà Nội.
73. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb GD, Hà Nội.
74. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
75. Hoài Thanh, Hoài Chân (2006), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà
Nội.
76. Bích Thu (Tuyển chọn) (1999, Nam Cao - về tác gia và tác phẩm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
77. Ngô Văn Thƣ (2005), Tiểu thuyết của Khái Hưng, luận văn tiến
sĩ khoa học ngữ văn, Hà Nội.
78. Phạm Thị Thƣ (2008) Quan niệm văn chương của Xuân Diệu
trước 1945, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Thái Nguyên
79. Trần Thị Trâm (2003), Hoàng Ngọc Phách - ngƣời đổi mới tiểu
thuyết, NXB Thanh niên, Hà Nội.
80.Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam giai
đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
81. Hoàng Tiến (1994), Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ
viết đầu thế kỷ XX, NXB Lao động, Hà Nội.
82. Lê Thị Dục Tú (1996), Quan niệm về con ngƣời trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn, NXB Thanh niên, Hà
Nội.
83. Nguyễn Thị Thuý
Toàn
(2004), Ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn
Thạch Lam, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn,
Hà Nội.
84. Ngô Tất Tố (2000), Tắt đèn, NXB Đồng Nai.
85. Trần Đăng Xuyền 2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính
sáng tạo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Trần Đăng Xuyền (2002), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9365.pdf