Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong các sáng tác trước năm 1945

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM -----------**&**----------- LÊ THỊ QUỲNH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRONG CÁC SÁNG TÁC TRƢỚC NĂM 1945 Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Lê Hồng My Thái Nguyên năm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC A- PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................

pdf134 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1731 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong các sáng tác trước năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
............................. 1 0.1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 5 0.2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 6 0.2.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về Nhất Linh ....................................... 6 0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh ............... 9 0.3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................. 10 0.4. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 11 0.4.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại ........................................................ 11 0.4.2. Phƣơng pháp so sánh .......................................................................... 11 0.4.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp ....................................................... 12 0.4.4. Phƣơng pháp lịch sử ........................................................................... 12 0.4.5. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành ................................................... 12 0.4.6. Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả ......................................................... 12 0.4.7. Phƣơng pháp hệ thống ........................................................................ 13 0.5. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 13 0.6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 13 0.7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 13 B - NỘI DUNG ........................................................................................... 15 Chƣơng 1: GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH ................................................................. 15 1.1. GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT ......................................... 15 1.1.1. Khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật" ..................................................... 15 1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật ......................................................... 16 1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH .............................................................. 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1.2.1. Những biến đổi trong đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX ........................................................................................................ 19 1.2.1.1. Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây ................................................ 19 1.2.1.2. Sự phổ biến và phát triển của chữ quốc ngữ .................................... 21 1.2.1.3. Khát vọng xây dựng một nền quốc văn mới của tầng lớp trí thức tân học đầu thế kỷ XX ................................................................... 23 1.2.2. Hành trình đến với văn học của Nhất Linh ......................................... 28 1.2.2.1. Nhất Linh - người nghệ sĩ đa tài, say mê văn học ............................ 28 1.2.2.2. Chuyến du học ở Pháp - Những thay đổi trong quan niệm xã hội và văn chương của Nhất Linh ..................................................... 31 1.2.2.3. Chủ trương “Tự sức mình làm ra những sáng tác có giá trị về văn chương”, "làm giàu văn sản trong nước”. ................................. 33 Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NHẤT LINH TRƢỚC VÀ SAU KHI THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ................................................... 39 2.1. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRƢỚC KHI THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (TRONG "NHO PHONG" VÀ "NGƢỜI QUAY TƠ") ................................................................................... 39 2.1.1. Ngôn ngữ trong "Nho phong" và "Người quay tơ "mang đậm dấu ấn ngôn ngữ văn xuôi trung đại ...................................................... 39 2.1.1.1. Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn xuôi trung đại .......................... 39 2.1.1.2. Ngôn ngữ "Nho phong” và "Người quay tơ” mang đậm dấu ấn ngôn ngữ văn xuôi trung đại ........................................................... 41 2.1.2. Ngôn ngữ văn học của buổi giao thời ................................................. 48 2.1.2.1. Tính chất giao thời trong dùng từ, đặt câu ....................................... 48 2.1.2.2. Bước đầu có sự kết hợp giữa ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật ......................................................................................... 51 2.1.2.3. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, chưa được cá tính hóa ................ 55 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2.2. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRONG GIAI ĐOẠN THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (TỪ "ĐOẠN TUYỆT" ĐẾN "BƢỚM TRẮNG") .............................................................................. 57 2.2.1. Ngôn ngữ trong "Đoạn tuyệt" và "Lạnh lùng" – “một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối v ă n thật có tính cách An Nam" ............................................................................................... 58 2.2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật giản dị, mạch lạc, trong sáng .......................... 59 2.2.1.2. Ngôn ngữ miêu tả sinh động, tinh tế, giàu chất tạo hình .................. 66 2.2.1.3. Ngôn ngữ nhân vật bước đầu được cá tính hoá, phù hợp tính cách nhân vật ................................................................................. 76 2.2.2. Ngôn ngữ trong "Đôi bạn" và "Bƣớm trắng" mang tính hƣớng nội, đặc tả đời sống nội tâm nhân vật .................................................... 80 2.2.2.1. Ngôn ngữ kể chuyện nhập vào nội tâm nhân vật .............................. 81 2.2.2.2. Ngôn ngữ miêu tả gắn với cảm xúc, tâm trạng nhân vật ................. 85 2.2.2.3. Ngôn ngữ nhân vật biểu hiện chiều sâu nội tâm ............................... 88 Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐẶC SẮC TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH ............................................................... 100 3.1. TẠO SẮC THÁI NGÔN NGỮ CỦA TẦNG LỚP THỊ DÂN TRUNG LƢU ............................................................................................................100 3.2. CÓ NHỮNG KẾT HỢP TỪ MỚI TẠO CẢM GIÁC ÊM ÁI NGỌT NGÀO .........................................................................................................105 3.3. DÙNG NHIỀU TÍNH TỪ DIỄN TẢ NHỮNG CẢM GIÁC MONG MANH .........................................................................................................108 3.4. NHỮNG SO SÁNH ĐẸP, BAY BỔNG, TINH TẾ VÀ GỢI CẢM ..............112 C - KẾT LUẬN ......................................................................................... 121 PHỤ LỤC ................................................................................................. 123 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 128 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên A- PHẦN MỞ ĐẦU 0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 0.1.1. Ngôn ngữ“là yếu tố thứ nhất của văn học” (M. Go-rơ-ki) [69;215], “là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn" [69; 215]. Từ ngôn ngữ nghệ thuật đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn là con đƣờng tiếp nhận văn học phù hợp với bản chất của nghệ thuật ngôn từ. 0.1.2. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945, Tự lực văn đoàn là "nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học Việt Nam hiện đại" (Hoàng Xuân Hãn). Trong Tự lực văn đoàn, Nhất Linh là ngƣời sáng lập, ngƣời điều hành, đồng thời cũng là cây bút trụ cột của nhóm. Mặc dù sáng tác không nhiều, nhƣng Nhất Linh đã "vạch ra một con đường riêng", cách tân mạnh bạo trong các sáng tác cả về nội dung và nghệ thuật, góp phần tạo danh tiếng cho tổ chức văn học này. Nhất Linh và Tự lực văn đoàn "đã có những đóng góp lớn vào nghệ thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào câu văn của dân tộc với lối văn trong sáng và rất Việt Nam" (Huy Cận). 0.1.3. Sự nghiệp văn học của Nhất Linh đã đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, trong số những công trình nghiên cứu về sự nghiệp văn học của Nhất Linh đã công bố, chƣa có công trình nào tập trung tìm hiểu sâu vào ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. Vấn đề này, cách đây hơn 50 năm, đã đƣợc gợi ra: "Vấn đề ngôn ngữ Nhất Linh là một điểm thiết tưởng cần phải được để ý và đề cao" (Nguyễn Văn Trung, Tạp chí Văn số 14, 15.7.1964); nhƣng sau nhiều năm trôi qua, việc nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh vẫn chƣa có sự tiến triển đáng kể. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong các sáng tác trước năm 1945" nhằm đi sâu nghiên cứu quá trình vận động trong ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh và thấy đƣợc những đóng góp của nhà văn đối với quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học dân tộc. 0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Tên tuổi và sự nghiệp văn học của Nhất Linh gắn liền với một tổ chức văn học đã từng hoạt động sôi nổi, góp phần làm thay đổi diện mạo văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Chính vì vậy, sự nghiệp văn học “vang bóng một thời” của Nhất Linh đã trở thành một đối tƣợng nghiên cứu văn học trong nhiều thập niên qua. 0.2.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về Nhất Linh Trong qua trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tập hợp đƣợc trên 60 tài liệu nghiên cứu về Nhất Linh từ những nguồn khác nhau: giáo trình, sách nghiên cứu; bài báo, tranh, ảnh trên mạng Internetr.v.v… Những tài liệu về Nhất Linh tập trung vào các nội dung sau: - Thứ nhất: Cuộc đời, sở thích, tính cách của Nhất Linh và mối quan hệ của nhà văn với gia đình, đồng nghiệp, bạn bè. - Thứ hai: Những hoạt động chính trị của Nguyễn Tƣờng Tam (Nhất Linh) trong khoảng 20 năm cuối đời. - Thứ ba: Sự nghiệp văn chƣơng của Nhất Linh (tác phẩm, bài phê bình, nghiên cứu…). Qua những tài liệu đã tập hợp đƣợc về Nhất Linh, có thể nhận xét khái quát nhƣ sau: Về cá tính và con đƣờng chính trị của Nguyễn Tƣờng Tam (Nhất Linh) có nhiều nhận định, đánh giá chƣa thống nhất, có khi trái ngƣợc nhau. Song, về sự nghiệp văn chƣơng của Nhất Linh thì hầu hết các ý kiến đều khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà văn đối với Tự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên lực văn đoàn và đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam thời kì từ nửa đầu thế kỉ XX đến tháng 8/1945. Tiêu biểu là ý kiến của các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Trƣơng Chính, Bạch Năng Thi, Phạm Thế Ngũ, Đỗ Đức Hiểu, Trần Thanh Mại.v.v. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại (xuất bản lần đầu năm 1942) đã đánh giá Nhất Linh ở nhiều phƣơng diện và khẳng định thành công về thể loại tiểu thuyết của nhà văn: "Đọc Nhất Linh từ trước đến nay, người ta thấy tiểu thuyết của ông tiến hoá rất mau. Từ cái còn cổ lỗ như Nho phong, tiểu thuyết của ông đã đi vào loại tình cảm, rồi đi thẳng lối tiểu thuyết luận đề, là một lối văn rất mới ở nước ta. Đến nay trong loại tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết của Nhất Linh vẫn là những tiểu thuyết chiếm địa vị cao hơn cả" [70;234]. Trƣơng Chính quan tâm nhiều hơn tới các tác phẩm của Nhất Linh (Gánh hàng hoa, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Tối tăm). Ông đánh giá chung về các tác phẩm đó với những lời trân trọng: "Cả hình thức và nội dung thoát hẳn khỏi cái sáo cũ ngày trước và vạch ra một con đường riêng khiến người đọc không thể không thích được" [44; 233]. Phan Cự Đệ đã viết một công trình nghiên cứu công phu với tựa đề: Tự lực văn đoàn - con người và văn chương; và viết lời giới thiệu cho các tác phẩm Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh khi tái bản. Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, ông khẳng định: "Ngòi bút của Nhất Linh rất có tài miêu tả những mối tình đầu trong sáng, đượm chút ngập ngừng, e thẹn, kín đáo và ý nhị" [44;66]. Nguyễn Hoành Khung đã giới thiệu, đánh giá khái quát về sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh và đƣa ra những so sánh về nghệ thuật miêu tả nhân vật giữa tác phẩm Lạnh lùng và Đôi bạn: "Với Lạnh lùng, Nhất Linh không còn gò cốt truyện, dàn nhân vật nhằm minh hoạ cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên một luận đề nữa, mà đã đưa ngòi bút đi sâu hơn vào việc phân tích tâm lí (...) và đạt tới một trình độ tiểu thuyết già dặn, thành thục. Đến Đôi bạn (…) tác phẩm đào sâu tâm tư, khát vọng của một lớp thanh niên; không luận đề, không tuyên ngôn, nhưng Đôi bạn lại như tác phẩm được ấp ủ, gửi gấm tâm sự, phô diễn tâm trạng nhiều nhất của nhà văn" [47; 32]. Các tác giả Bạch Năng Thi, Bùi Xuân Bào, Thế Phong, Nguyễn Hữu Hiếu, Hoàng Xuân Hãn, Phạm Thế Ngũ, Đặng Duy Diễn, Đỗ Đức Hiểu, Trần Hữu Tá,… đều có bài nghiên cứu con ngƣời và văn chƣơng của Nhất Linh. Họ đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của ông và khẳng định Nhất Linh là "văn tài tiêu biểu của Tự lực văn đoàn" [44; 171]. Nhiều tác giả khác nhƣ Hà Minh Đức,Trần Đình Hƣợu, Lê Chí Dũng, Trịnh Hồ Khoa, Lê Thị Đức Hạnh,… khi nghiên cứu về văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX và Tự lực văn đoàn đều có ý kiến đánh giá về Nhất Linh. Các tác giả đã nêu ra những điểm hạn chế trong cuộc đời, sự nghiệp chính trị của ông, nhƣng cũng thấy đƣợc những tiến bộ trong tƣ tƣởng nghệ thuật và cách viết của nhà văn. Gần đây, xuất hiện nhiều hơn các chuyên luận, luận văn, luận án về Nhất Linh, tiêu biểu nhƣ: Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học (Vu Gia, NXB Văn hoá thông tin, H.1995); Tiểu thuyết của Nhất Linh trước cách mạng tháng Tám (Luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn của Vũ Thị Khánh Dần, 1996); Nhất Linh con người và tác phẩm (Lê Cẩm Hoa biên soạn, NXB Văn học; H. 2000); Nhất Linh - cây bút trụ cột của Tự Lực văn đoàn (Mai Hƣơng tuyển chọn, NXB Văn hoá thông tin; H. 2000); Truyện ngắn Nhất Linh trước năm 1945 (luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Song Bình, H. 2004); Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết "Bướm trắng" của Nhất Linh (luận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên văn thạc sĩ của Hà Đình Sơn, H. 2006); Nghệ thuật xây dựng nhân vật từ "Đôi bạn" đến "Bướm trắng" (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mai Hƣơng, TN. 2008).v.v… Các tác giả đã xác định rõ vai trò và đóng góp của Nhất Linh trong Tự lực văn đoàn và trong quá trình hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết Việt Nam 0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh Hiện nay chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh. Tuy nhiên, một số tác giả khi tìm hiểu về Nhất Linh cũng đã đƣa ra một số những nhận xét về ngôn ngữ nghệ thuật của ông. Vũ Ngọc Phan cho rằng lời văn Nhất Linh: "nửa giản dị, nửa đài điếm" [44; 170]. Trƣơng Chính trong bài "Nhất Linh" đã so sánh: "Lối hành văn của Nhất Linh là một lối hành văn rất thi vị, thi vị ở ý mà ít ở lời. Nhất Linh không đẽo gọt, trau chuốt câu văn của mình như Khái Hưng nhưng tự nó có nhịp điệu , tự nó đã du dương vì ý bao hàm ở trong là một ý thơ" [44; 239]. Vu Gia cũng có nhận xét về ngôn ngữ của Nhất Linh ở một số tác phẩm nhƣ Bướm trắng: "Ông vẫn duy trì được lối viết trong sáng, giàu chất thơ, chất hoạ vốn đã quen thuộc trong nhiều tác phẩm trước, nhưng đến Bướm trắng đã thể hiện một phẩm chất nghệ thuật mới, tuy đôi chỗ còn gượng gạo, thiếu tự nhiên, nhưng tác giả đã khai thác tinh tế những tầng, những lớp, những ngóc ngách tâm lí éo le, khuất khúc của con người" [43; 379]; hay Lạnh lùng: "Ông thường dùng một câu mà tả hết mọi tâm hồn. Con mắt ông Nhất Linh quan sát quen đến nỗi một nhân vật chỉ vụt qua truyện mà ông cũng vẽ được hoàn toàn. Theo với óc nhận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên xét chặt chẽ của ông , lời văn của ông cũng thu hình lại, chắc đẹp vì đã thực thà như tâm hồn ông tả". Bạch Năng Thi trong bài Nhất Linh - tác giả tiêu biểu đã đƣa ra những lời đánh giá về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh: "... lời văn ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, vừa giản dị, vừa chọn lọc (…) Văn Nhất Linh vừa rành mạch, trong sáng, vừa có nhạc điệu, có hình ảnh. Nó diễn tả được những cảm giác tinh vi. Nó sử dụng các so sánh cụ thể, có khả năng tạo hình và gợi cảm ". Trong công trình nghiên cứu "Những cách tân trong nghệ thuật văn xuôi Tự lực văn đoàn", Trịnh Hồ Khoa cũng đã nêu ra ý kiến xác đáng: " Văn Nhất Linh ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, giản dị nhưng không thiếu chất thơ. Giống con người Nhất Linh, văn ông tế nhị, có chừng mực, trang nhã, tả rất đạt những tâm tình thanh sạch…" . Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mai Hƣơng - ĐHSP Thái Nguyên - 2008, có đề cập đến một số thủ pháp xây dựng nhân vật, trong đó có nhắc đến đặc điểm về ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nhất Linh trong hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Song Bình - ĐHSP Hà Nội - 2004, có chỉ ra một số đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Nhất Linh. Nhìn chung các nhà nghiên cứu mới đã đƣa ra những nhận xét khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh hoặc đề cập đến một số đặc điểm ngôn ngữ trong một vài tác phẩm chính. Song những nhận xét của ngƣời đi trƣớc cũng đã gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề tài này. 0.3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU Quá trình sáng tác của Nhất Linh trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là trƣớc năm 1930 với các tác phẩm: Nho phong, Người quay tơ; giai đoạn thứ hai là thời gian tham gia Tự lực văn đoàn, với các tác phẩm tiêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên biểu nhƣ: Đoạn tuyệt, Đôi bạn…và giai đoạn thứ ba là những tác phẩm đƣợc viết sau cách mạng tháng Tám năm 1945 nhƣ: Xóm Cầu Mới, Dòng sông Thanh Thuỷ. Để phù hợp với điều kiện và mục đích nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung vào ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nhất Linh ở giai đoạn sáng tác trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945: Nho phong - Tiểu thuyết - 1924 Người quay tơ - Truyện ngắn - 1926 Nắng thu - Truyện dài - 1934 Đoạn tuyệt - Tiểu thuyết - 1934 Lạnh lùng - Tiểu thuyết - 1936 Tối tăm - Truyện ngắn - 1936 Hai buổi chiều vàng - Truyện ngắn - 1937 Đôi bạn - Tiểu thuyết - 1939 Bướm trắng - Tiểu thuyết - 1941 Các tác phẩm viết chung với Khái Hƣng không nằm trong đối tƣợng nghiên cứu của đề tài vì theo chúng tôi đã có sự hoà lẫn về ngôn ngữ nghệ thuật của hai tác giả. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi cũng không mở rộng tới số tác phẩm Nhất Linh viết sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. 0.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 0.4.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp thống kê, phân loại. Phƣơng pháp này giúp nhận diện những lớp từ, kiểu câu, những biện pháp tu từ … mà Nhất Linh sử dụng trong các sáng tác. 0.4.2. Phƣơng pháp so sánh Để thấy rõ sự chuyển biến của ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh trong quá trình sáng tác và cá tính sáng tạo của nhà văn, chúng tôi sử Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên dụng phƣơng pháp so sánh: so sánh ngôn ngữ của chính nhà văn qua các giai đoạn sáng tác và so sánh ngôn ngữ của ông với các nhà văn khác cùng thời, trong cùng khuynh hƣớng nhƣ Hoàng Ngọc Phách, Thạch Lam, Khái Hƣng hoặc khác khuynh hƣớng nhƣ Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao. 0.4.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp Chúng tôi phân tích những đặc điểm cơ bản trong cách dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ… của Nhất Linh, từ đó tổng hợp đi đến những nhận xét khái quát. 0.4.4. Phƣơng pháp lịch sử Ngôn ngữ bao giờ cũng mang dấu ấn văn hoá của thời đại, khi nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh, chúng tôi luôn đặt trong hoàn cảnh xã hội văn hoá cụ thể. Việc vận dụng phƣơng pháp này giúp chúng tôi thấy đƣợc bƣớc chuyển trong ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh qua quá trình sáng tác và những đóng góp của ông trong việc hiện đại hoá ngôn ngữ văn học dân tộc. 0.4.5. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành Vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật có mối liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học khác nhƣ lý luận văn học, ngôn ngữ học, thi pháp học, tâm lý học,… Do đó chúng tôi vận dụng tổng hợp phƣơng pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Chúng sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau để soi sáng các khía cạnh của vấn đề. 0.4.6. Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả Muốn tìm hiểu đƣợc ngôn ngữ nghệ thuật phải đặt đối tƣợng nghiên cứu trong mối quan hệ với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Chúng tôi đặc biệt coi trọng và vận dụng triệt để phƣơng pháp nghiên cứu tác giả trong quá trình nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 0.4.7. Phƣơng pháp hệ thống Ngôn ngữ nghệ thuật là một hệ thống cấu trúc bao gồm nhiều yếu tố quan hệ chặt chẽ với nhau, nó lại nằm trong những chỉnh thể trọn vẹn khác là văn bản nghệ thuật và thế giới nghệ thuật của nhà văn, là dòng văn học, trào lƣu văn học nhà văn có mặt. Vì vậy các vấn đề cụ thể đƣợc triển khai trong luận văn đều đƣợc đặt trong mối quan hệ hệ thống. Chúng tôi luôn coi trọng phƣơng pháp hệ thống khi tiến hành nghiên cứu đối tƣợng. 0.5. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Ứng dụng lí thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật vào nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh, đề tài nhằm đạt đƣợc các mục đích sau: 1. Phân tích, đánh giá các bước chuyển biến của ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh trong quá trình sáng tác ( trước1945). 2. Tìm hiểu một số nét đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh 3. Rút ra kết luận về những đóng góp của Nhất Linh đối với quá trình phát triển của ngôn ngữ văn học nước nhà và chỉ ra hạn chế (nếu có). 0.6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh. - Công trình góp phần khẳng định rõ hơn cá tính sáng tạo và vai trò cách tân văn học của Nhất Linh. - Góp thêm một tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập về nhà văn Nhất Linh và về ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học Việt Nam hiện đại. 0.7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm ba chƣơng: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Chương I: Giới thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật và những yếu tố cơ bản chi phối ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh. Chương II: Sự vận động trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh (trƣớc và sau khi tham gia Tự Lực văn đoàn). Chương III: Một số đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên B - NỘI DUNG Chƣơng 1 GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH 1.1. GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT 1.1.1. Khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật" Theo cuốn Lí luận văn học (Phƣơng Lựu chủ biên), Ngôn ngữ nghệ thuật là: "…một hệ thống các phương thức, quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mĩ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật. Người ta có thể nói "ngôn ngữ ba lê", "ngôn ngữ chèo", "ngôn ngữ điện ảnh". Cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của sáng tác văn học trên cấp độ đó" [55; 185/186]. Khái niệm này đã nêu ra cách hiểu khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật nhƣng chƣa chỉ ra đƣợc những nét riêng của ngôn ngữ nghệ thuật với tƣ cách là phƣơng tiện biểu hiện của các sáng tác văn học - loại hình nghệ thuật ngôn từ. Vì thế khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật" cần đƣợc khu biệt rõ hơn. Theo chúng tôi "Ngôn ngữ nghệ thuật" là ngôn ngữ đƣợc sử dụng một cách nghệ thuật trong các tác phẩm văn học, đó là ngôn ngữ mang tính hình tƣợng, tính biểu cảm và thể hiện rõ cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong thực tế, thuật ngữ này thƣờng đƣợc dùng tƣơng đƣơng với các thuật ngữ: Ngôn từ nghệ thuật, Ngôn ngữ văn học, Lời văn nghệ thuật. Bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ mang tính toàn vẹn, cụ thể, sinh động, có tính thẩm mĩ trong các tác phẩm văn học, chứ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên không phải là ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp khác hoặc ngôn ngữ với tƣ cách đối tƣợng chuyên biệt của ngôn ngữ học. 1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật * Trong hoạt động sáng tạo: Với nhà văn: ngôn ngữ chính là công cụ, là chất liệu để nhà văn xây dựng hình tƣợng văn học và giao tiếp nghệ thuật, qua đó gửi gắm ý đồ nghệ thuật của mình. Ngôn ngữ nghệ thuật có "cội nguồn từ ngôn ngữ nhân dân", nhƣng đƣợc chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, trở thành phƣơng tiện biểu hiện nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận thấy: "Ngôn ngữ khoa học không mấy khi có nhiệm vụ tái hiện lại mối quan hệ tình cảm giữa người nói với đối tượng được nói đến. Còn ngôn ngữ nghệ thuật thì bao giờ cũng tìm cách truyền các quan điểm của nghệ sĩ vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy cái lối nhìn sự vật, cách nhận thức và cảm quan về thế giới của anh ta, nói tóm lại là ngôn ngữ đó mang dấu ấn của cá tính và phong cách nghệ sĩ. Đặc điểm nói trên tạo nên sức rung cảm, thuyết phục và thu hút đặc biệt của ngôn ngữ nghệ thuật" [32; 343]. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật đối với hoạt động sáng tạo của nhà văn cũng đƣợc các tác giả cuốn "Từ điển thuật ngữ văn học" khẳng định: "Ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn" [69; 215]. Thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, mỗi nhà văn có điều kiện bộc lộ tài năng và cá tính sáng tạo độc đáo của mình. Với các thời kì, các trào lưu văn học: ngôn ngữ nghệ thuật chịu sự chi phối của môi trƣờng văn hoá xã hội. Kho ngôn ngữ là của toàn dân, đƣợc bồi đắp qua các thời kỳ lịch sử, nhƣng cách sử dụng nhƣ thế nào lại phụ thuộc vào nhãn quan ngôn ngữ của mỗi thời đại, mỗi trào lƣu văn học. Ngôn ngữ nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hoá của thời đại, mỗi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên một trào lƣu văn học, mỗi một thể loại văn học có những nét riêng trong sử dụng ngôn ngữ. Trong những đặc điểm chung về thời đại, về trào lƣu sáng tác, mỗi nhà văn với cá tính, với vốn sống, trình độ văn hoá và quan điểm thẩm mĩ của mình lại tạo ra phong cách ngôn ngữ riêng. Vì thế ngôn ngữ nghệ thuật cũng góp phần tạo ra diện mạo phong phú, đa dạng của một nền văn học. Với các thể loại văn học: mỗi thể loại có đặc điểm ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của thể loại trữ tình mang đậm dấu ấn cảm xúc chủ quan của nhà nghệ sĩ. Sự lựa chọn từ ngữ, phƣơng thức tu từ trong tác phẩm trữ tình bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hay phê phán của chủ thể trở nên nổi bật. Mỗi câu thơ dƣờng nhƣ đều có những từ chứa đựng sức nặng của tình cảm. Ngƣời xƣa gọi đó là "thi nhãn" tức là những tiêu điểm để từ đó nhìn thấu tâm hồn tác giả. Còn thể loại tự sự tái hiện đời sống thông qua việc miêu tả sự kiện, ở loại này tác giả có thể đứng ngoài kể, cũng có thể để cho nhân vật tự kể. Vì thế ngôn ngữ của thể loại tự sự là ngôn ngữ mang tính khách quan: "lời tự sự là lời miêu tả, trần thuật theo lối kể lể, phân tích, chỉ ra các thuộc tính một cách khách quan" [55; 365]. Giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ tiểu thuyết, còn nhận thấy sự khác biệt nhƣ sau: "Nếu như trong thơ, ngôn ngữ trước hết cần phải đẹp, cao cả và trang trọng thì trong tiểu thuyết, ngôn ngữ trước hết cần phải chính xác, có khả năng tái tạo lại các đối tượng trong hình thái cá thể, không lắp lại của nó" [32; 349]. Không chỉ có sự khác nhau trong ngôn ngữ giữa các thể loại, mà ngay trong cùng một thể loại ở mỗi thời đại khác nhau lại có cách sử dụng ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ tự sự trung đại khác với ngôn ngữ tự sự hiện đại. Thậm chí trong cùng một thể loại, ở cùng một hoàn cảnh lịch sử, nhƣng ở những phƣơng pháp sáng tác khác nhau thì ngôn ngữ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên nghệ thuật cũng có những điểm khác nhau. Ngôn ngữ tiểu thuyết hiện thực cũng khác với ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn. Ngôn ngữ của tiểu thuyết hiện thực giản dị, chân thật, "mỗi từ đều phải dễ hiểu đối với người đánh xe ngựa chở các cuốn sách từ nhà in đi" (Tônxtôi)" [32; 325]; đồng thời phải mang tính điển hình nghĩa là phản ánh đúng tính cách, gắn liền với tâm lí xã hội và hoàn cảnh sinh sống của nhân vật, phản ánh đúng cái điển hình trong cuộc sống. Còn "trong tiểu thuyết lãng mạn, dấu ấn chủ quan của nghệ sĩ bộc lộ rất rõ trong màu sắc ngôn ngữ, trong lối nói cường điệu và phóng đại, lối nói trang trọng gây hưng phấn, lối dùng các biện pháp tu từ, lối dùng một thứ văn giàu nhạc điệu…" [32; 347]. Tóm lại, ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ mang đặc trƣng ngôn ngữ thời đại, ngôn ngữ thể loại, trào lƣu mà còn thể hiện rõ cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật sẽ giúp các nhà nghiên cứu khám phá sâu hơn về về thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của nhà văn trên nền chung của một thời đại, một trào lƣu văn học, một thể loại văn học. * Với hoạt động tiếp nhận văn học: Trong hoạt động tiếp nhận, ngôn ngữ nghệ thuật cũng có vai trò quan trọng. Đó là "yếu tố đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc đối với tác phẩm" [49; 148]; là "hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại nội dung tác phẩm" [17; 308]. Và từ yếu tố trực tiếp, đầu tiên, duy nhất ấy mà ngƣời đọc có thể tìm hiểu, khám phá tƣ tƣởng nghệ thuật, thế giới hình tƣợng…đã đƣợc nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Tiếp nhận văn học dù với mục đích nào thì cũng đều phải bắt đầu từ ngôn ngữ nghệ thuật, bởi vì "cả hình tượng nhân vật, bức tranh phong cảnh, cốt truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật về thế Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên giới và con người… chỉ được nắm bắt nhờ những hình thức của ngôn từ" [40; 170]. Ngôn ngữ nghệ thuật chứa đựng trong đó cả thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã sáng tạo, từ nhân vật đ._.ến không gian, thời gian, chi tiết, cốt truyện, kết cấu… không một bình diện nào nằm ngoài ngôn ngữ nghệ thuật. Chính vì thế muốn nắm bắt đƣợc thế giới nghệ thuật ấy của nhà văn, ngƣời đọc không thể không đi sâu khám phá ngôn ngữ trong tác phẩm. Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của một tác giả hay của một thể loại, một trào lƣu văn học là một phƣơng diện quan trọng trong nghiên cứu văn học. 1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH 1.2.1. Những biến đổi trong đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX 1.2.1.1. Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX có sự biến đổi sâu sắc từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến trong cuộc tiếp xúc với phƣơng Tây. Những thay đổi này một mặt nằm trong kế hoạch khai thác thuộc địa tàn bạo mà thực dân Pháp đã vạch ra. Mặt khác theo hƣớng tích cực, với vai trò là "công cụ vô thức của lịch sử", nó lại có tác dụng đƣa Việt Nam dần thoát khỏi sự trì trệ ngàn năm của chế độ phong kiến lạc hậu, dần bƣớc vào con đƣờng hiện đại Tây phƣơng. Sự thay đổi ấy kéo theo sự biến đổi trong ý thức, tâm lý ngƣời dân, mà văn học là sự thể hiện tập trung và cao độ nhất. Song song với quá trình biến đổi ấy là sự xuất hiện của các đô thị theo mô hình Tây phƣơng. Các đô thị mọc lên đã làm thay đổi hẳn cơ cấu giai cấp, những tầng lớp mới đƣợc hình thành đã tạo nên sự đa dạng và phức tạp cho đời sống chính trị xã hội của đất nƣớc. Trƣớc kia, trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên xã hội Việt Nam có bốn hạng "tứ dân": Sĩ - Nông - Công - Thƣơng. Thì thời điểm này có thêm những ông thông, ông phán làm việc cho Pháp, công nhân làm việc trong các công xƣởng, hầm mỏ, nông dân bị phá sản, mất hết ruộng đất phải lên thành phố kiếm sống. Tại đây có thể gặp đƣợc đủ hạng ngƣời, từ lƣu manh, thất nghiệp đến lớp bình dân nghèo, tầng lớp trung lƣu và cả giới thƣợng lƣu tƣ sản đua nhau thanh lịch, học theo kiểu cách, lối sống phƣơng Tây. Họ phải quen với cuộc sống khác xƣa: "Chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp(…). Nói làm sao cho xiết những điều thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới chúng ta. Cho đến những nơi hang cùng, ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn giữ nguyên hình ngày trước. Nào dầu Tây, diêm Tây, nào vải Tây, chỉ Tây, kim Tây, đinh Tây" [76; 16]. Lối sống coi trọng vật chất, hàng hoá, tiền bạc phá vỡ các quan hệ luân thƣờng. Nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa ở thành thị đã làm con ngƣời trở thành những cá nhân. Mà "trong một xã hội cá nhân trở thành thực tế, thì luân thường - những quan hệ đạo lí bất biến - quá đơn giản, chật hẹp, không thể chứa đựng nổi sự phức tạp đa dạng sự biến động của thực tế cuộc sống. Ân tình không thể giải quyết hết các quan hệ. Người ta phải tìm thế giới xã hội cách khác, có thái độ khác và chờ đợi văn học đưa lại cho mình những cái khác trước" [36; 24]. Lối sống thay đổi đã tạo nên sự thay đổi trong tƣ tƣởng, tình cảm, tâm lí của con ngƣời thời đại. Điều đó đòi hỏi văn học cũng phải thay đổi từ tƣ tƣởng, quan niệm thẩm mĩ đến hình thức thể hiện. Quan niệm "văn dĩ tải đạo", "thi dĩ ngôn chí" của văn học trung đại không còn phù hợp với nhu cầu thƣởng thức của tầng lớp công chúng chủ yếu của văn học lúc này nữa (tầng lớp thị dân). Trong cuộc sống mới , thế lực đồng tiền lên ngôi, con ngƣời cá nhân cần khẳng định và tự tôn, ngƣời ta chờ đợi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên và mong muốn một nền văn học sát với cuộc sống hiện thực đang diễn ra hàng ngày: "Người ta cần hiểu rõ, hiểu kĩ cuộc sống với tất cả những chi tiết đầy đủ, những chi tiết cụ thể trong cuộc sống bình thường thế tục. Người ta muốn nếm trải cái có thật (hay có thể có thật), chứ không phải được khích lệ bằng những tấm gương trung hiếu, minh hoạ bằng đạo nghĩa… Người ta cũng muốn xúc cảm, muốn mở mang như những con người cá nhân, chứ không phải xúc động như khi chiêm ngưỡng tấm gương cao cả của các vị thánh xuất chúng" [36; 24 / 25]. Khát vọng đó của tầng lớp công chúng đã trở thành nhu cầu, thành thị hiếu văn học, đòi hỏi nền văn học mới đáp ứng. Điều đó cũng góp phần lí giải tại sao những đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh lại gắn với tầng lớp công chúng đông đảo này. 1.2.1.2. Sự phổ biến và phát triển của chữ quốc ngữ Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ là một cuộc cách mạng trong hệ thống ngôn ngữ - văn tự của dân tộc ta. Trong thời kì phong kiến, chữ Hán là văn tự chính thống đƣợc điển phạm hoá và hành chính hoá. Với tƣ cách là văn tự vay mƣợn, lại đƣợc coi là "chữ thánh hiền", chữ Hán chỉ đƣợc phổ biến trong phạm vi hạn hẹp của tầng lớp Nho sĩ theo đòi "cửa Khổng. sân Trình". Hơn nữa nó không dựa trên cơ sở ngôn ngữ (lời ăn tiếng nói) dân tộc, nên cũng không thể đƣa ra phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Chữ Nôm tuy là sáng tạo của nhân dân ta nhƣng lại lấy cơ sở Hán tự mà cải biên đi, dùng ghi âm tiếng Việt nên cũng không thực thích hợp. Chính điều đó đã tạo nên tính chất bó hẹp của văn học cổ điển trong sáng tạo và thƣởng thức. Sang tới chữ quốc ngữ, tình hình lại khác hẳn. Với ƣu điểm dễ đọc, dễ viết, chữ quốc ngữ đã nhanh chóng đƣợc phổ biến trong nhân dân. Bất cứ ngƣời dân bình thƣờng nào cũng có thể học và tự ghi chép lại lời ăn, tiếng nói hàng ngày. Nhiệm vụ "văn - ngữ nhất thể" mà văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên học Việt Nam thực hiện trong quá trình hiện đại hoá đầu thế kỷ XX không thể thực hiện đƣợc nếu không có sự xuất hiện của chữ quốc ngữ. Ngƣợc dòng thời gian, có thể thấy chữ quốc ngữ đã có một lịch sử dài lâu nhƣng suốt ba thế kỷ trƣớc nó không có điều kiện phát triển. Năm 1651, với việc cuốn Từ điển An Nam - La tinh - Bồ Đào Nha do cố đạo A.de Rhode soạn đƣợc in ở Vatican, Roma, đƣợc coi là mốc ra đời của chữ quốc ngữ. Tuy nhiên thứ văn tự này chỉ tồn tại trong phạm vi những ngƣời công giáo. Mãi hơn 200 năm sau, năm 1862 thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ và ra tờ "Gia Định báo" (1865 - 1909), nhằm ban bố những chính sách với dân thuộc địa. Từ đây, chữ quốc ngữ mới bắt đầu đƣợc phổ biến rộng rãi. Cùng với quá trình mở rộng xâm lƣợc và đặt nền bảo hộ của thực dân Pháp trên xứ An Nam, thứ văn tự mới cũng đƣợc mở rộng phạm vi sử dụng. Ngƣời Pháp đã sớm nhìn thấy những mặt mạnh của của loại văn tự này so với chữ Hán trong việc truyền bá những chính sách cai trị: tính dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đánh vần, ghi âm. Mặt khác, nhằm nhanh chóng xoá bỏ những ảnh hƣởng của chế độ phong kiến xứ thuộc địa mà một trong số đó, đầu bảng là Hán văn nên trong thời kì đầu, Pháp ra sức ủng hộ chữ quốc ngữ. Nghị định ngày 6/4/1878 viết : "Kể từ ngày1/1/1882 không một tuyển dụng nào được thi hành, không một thăng trật nào cho phép trong ngạch phủ, huyện. tổng đối với bất cứ ai ở trong tình trạng không viết được chữ quốc ngữ" [48; 34]. Tiếp theo đó, ngày 18/ 9/1924, Nghị định của toàn quyền Đông Dƣơng cho phép dạy chữ quốc ngữ ở ba năm đầu trong sáu năm cấp tiểu học Tuy nhiên, công lao hàng đầu trong việc phổ biến rộng rãi chữ quốc ngữ đầu thế kỉ XX, qua đó hình thành nền quốc văn mới, phải kể đến những nhà Nho yêu nƣớc cùng các trí thức có đầu óc tiên tiến "như Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Quý Cáp, Nguyễn Phan Lãng, Nguyễn Quyền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng: "Chữ quốc ngữ là hồn trong nước Phải đem ra tính trước dân ta Sách Âu Mỹ, sách Chi na Chữ kia, chữ nọ dịch ra tỏ tường" (Trần Quý Cáp) (…) Và trong sáu chương trình của Văn minh tân học sách thì việc học và dạy quốc ngữ ở vị trí số 1. Số 1, bởi nó có tầm quan trọng nhất đối với việc xây dựng một nền văn hoá mới, để thay cho toàn bộ nền văn chương học thuật cũ" [Dẫn theo giáo sƣ Phong Lê, Tạp chí Hán Nôm số 5 (66) - 2004]. Tất cả họ - những nhà làm cách mạng văn tự mới đầu thế kỉ XX - đã tạo ra những ảnh hƣởng cực kì to lớn cho hậu thế và cho ngay chính thời kì đó. Một là mở đầu cho một ngành mới là báo chí, hai là mở đầu cho một nghề mới là nghề in ấn - nghề trọng yếu trong xã hội hiện đại, ba là khơi nguồn cho các loại hình văn học khác nhau phát triển. Với tất cả những lí do trên, sự xuất hiện và phổ biến của chữ quốc ngữ đã tạo một nền tảng quan trọng, là tiền đề trực tiếp cho nền quốc văn mới hình thành. Sống trong giai đoạn lịch sử đang có những biến chuyển mạnh mẽ ấy, cũng nhƣ nhiều trí thức tân học đƣơng thời, Nhất Linh không chỉ tiếp nhận đƣợc những thành tựu do sự phát triển của chữ quốc ngữ đem lại, mà còn khao khát xây dựng một nền quốc văn mới bằng chữ quốc ngữ. 1.2.1.3. Khát vọng xây dựng một nền quốc văn mới của tầng lớp trí thức tân học đầu thế kỷ XX Những năm đầu thế kỉ XX, văn học viết bằng chữ Hán lặng lẽ dần rồi tàn lụi, văn học Việt Nam đã đƣợc chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn học quốc ngữ. Tuy nhiên, nói một cách đầy đủ hơn về mặt hệ thống ngôn ngữ đƣợc sử dụng thì "có thể coi văn học mới như một nền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên văn học kế thừa trực tiếp văn học Nôm của văn học dân tộc mười thế kỉ trước" [36; 213]. Nhƣng những thành tựu của văn học chữ Nôm, thời kỳ trung đại chủ yếu ở địa hạt thơ ca, còn văn xuôi không phát triển: "Nền văn học truyền thống của ta căn bản là một nền văn học văn vần. Văn xuôi cũng phải có nhạc điệu, tiết tấu hoặc là viết theo thể biền ngẫu, hoặc là phải viết chen vào những đoạn văn vần. Văn xuôi viết bằng tiếng nói thông tục không phát triển" [36; 32]. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các nhà văn hiện đại là phải xây dựng ngôn ngữ văn xuôi mới: "Sự hình thành văn xuôi mới , văn xuôi hiện đại được coi là sự kiện quan trọng nhất của ngôn ngữ văn học Việt Nam thế kỷ XX" [34; 819]. Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, phong trào sáng tác văn xuôi bằng chữ quốc ngữ đã đạt đƣợc những thành tựu bƣớc đầu. Có thể kể đến các tác phẩm: Truyện thầy Lazazo Phiền (năm 1887) của P.J.B. Nguyễn Trọng Quản, tác phẩm đƣợc coi là "cuốn tiểu thuyết bằng Quốc ngữ viết theo phương Tây sớm hơn cả ở miền Nam" [34; 12]; tiểu thuyết chƣơng hồi Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (năm 1910) của Trƣơng Duy Toản, Hoàng Tố Oanh hàm oan (năm 1910) của Trần Chánh Chiểu, Giấc mộng con của Tản Đà (1915) và một loạt truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học.v.v. Tuy nhiên văn xuôi trong khoảng 20 năm đầu thế kỉ XX còn rơi vào hai hƣớng: Một là dấu ấn của văn xuôi truyền thống còn đậm đặc trong các sáng tác của những nhà Nho, những trí thức chịu ảnh hƣởng Hán học nhƣ truyện của Phan Bội Châu, truyện của Tản Đà. Hai là văn xuôi có thiên hƣớng vay mƣợn về cốt truyện, phóng tác, phỏng theo một cuốn sách có giá trị nào đó của phƣơng Tây. Chẳng hạn nhƣ Hồ Biểu Chánh có nhiều cuốn tiểu thuyết viết theo lối này nhƣ Chúa Tàu kim quy (phỏng theo Bá tƣớc Monto Crito của Alexandre Du mas), Không gia đình (phỏng theo Sans famili của Hectơ Malot), Ngọn cỏ gió đùa (phỏng theo Những ngƣời khốn khổ của Victor Huygo). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nói nhƣ Kiều Thanh Quế "Văn học chữ quốc ngữ chậm tiến bộ!... Sự chậm tiến ấy là do chúng ta - những ông đồ nho không chịu nhìn xa trông rộng - những ông đồ Tây chỉ biết ca tụng cái hay, cái giỏi của Tây phương, rập khuôn theo người phương Tây, quên thuần phong mỹ tục nước nhà…" [43; 33]. Tinh thần Hán Việt là nguồn gốc của lịch sử, của văn minh dân tộc. Trên tinh thần ấy, cụ Nguyễn Bá Trạc, một nhà nho uyên thâm, có thiện cảm với phái tân học, đã nói trong bài duyễn thuyết ở hội Trí Tri (Hà Nội), ngày 7.10.1920: "…muốn bảo tồn quốc tuý cũng có thể lấy chữ quốc ngữ mà bảo tồn, không cần phải Hán tự. Nhưng mà chữ Hán thật là tài liệu tốt cho văn quốc ngữ (…). Tôi xin khuyên các ngài tân học đã thành tài nên nghiên cứu cho thâm Hán học. Các ngài sẽ là những bậc văn học chủ công ở trong thời đại mới mẻ này, học thuật Thái tây nhờ có các ngài mà truyền bá trong nước ta, quốc dân cũng lấy làm cảm ơn các ngài lắm (…). Tôi chỉ trông rằng sau này sẽ có một ngày kia, học mới, học cũ cùng chung đúc lại một lò, mà thành ra một nền văn học riêng của Việt Nam ta, thế thì con đường học vấn của ta vinh hạnh biết dường nào! Nhưng mà, muốn cho đạt được sự ao ước ấy thì đương trông mong ở các ngài vậy" [43; 34]. Nhƣ thế, bƣớc vào thập niên 20 của thế kỷ XX các cây bút cựu học không còn đảm đƣơng nổi trọng trách mà lịch sử giao cho. Và nhiệm vụ đó đƣợc trao cho "những người tân học yêu quê hương, yêu tiếng Việt, đặc biệt phần lớn họ sinh vào thế kỉ XX, chính họ "đã nhận lãnh phiên gác mới", làm sáng lên nền văn chương quốc ngữ " [43;35]. Những năm 20 của thế kỉ trƣớc đã dấy lên một phong trào sôi nổi cổ động "xây đắp nền quốc văn mới", rất nhiều nhà văn hƣởng ứng. Trong văn xuôi, một loạt tiểu thuyết viết theo lối mới đã ra đời nhƣ Giọt máu chung tình (1920 - Tân Dân Tử), Cành lê điểm tuyết (1921 - Đặng Trần Phất), Oan kia theo mãi (1922 - Lê Hoằng Mƣu)… Đặc biệt Tố Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tâm của Hoàng Ngọc Phách (viết từ 1922, đăng nhiều kì ở tập kỷ yếu của hội Cao đẳng ái hữu, rồi đến năm 1925 mới xuất bản), đó là tác phẩm cho thấy "sự tác động mãnh liệt của lối văn chương mới của Trung Quốc và văn chương lãng mạn phương Tây với ông Hoàng Ngọc Phách" [43; 38]. Lúc này có nhiều dòng tiểu thuyết đƣợc xuất hiện. Tiểu thuyết xã hội đƣợc xuất bản ở Sài Gòn nổi trội nhiều tác giả nhƣ Nguyễn Chánh Sắc, Lê Hồng Minh, Phú Đức, Bửu Đình, Phạm Minh Kiên, Hồ Biểu Chánh. Tiểu thuyết lịch sử của Trƣơng Duy Toản, Nguyễn Tử Siêu và Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm. Luồng gió văn hoá phƣơng Tây đã ùa vào Việt Nam, đem đến biết bao sự mới mẻ, hấp dẫn và chính nó đã tạo một lực đẩy to lớn cho nền văn hoá và văn học Việt Nam trên đƣờng hiện đại hoá. Nhƣng đồng thời, ngƣời ta có thể nhìn thấy và lo lắng về một cuộc "xâm lăng văn hoá" từ phƣơng Tây. Vấn đề xây dựng một nền quốc văn mới thực sự Việt Nam, đang trở thành một thách thức với những ngƣời trí thức, những nhà văn, nghệ sĩ đƣơng thời. Nguyễn Tƣờng Tam lúc này đang là một thanh niên tràn đầy nhiệt huyết, cũng đã hƣởng ứng tích cực phong trào xây đắp nền quốc văn mới. Hồi tƣởng về những ngày tháng ấy, Tú Mỡ đã kể: "Tôi quen anh Tam từ khi anh với tôi cùng làm sở Tài chính. Khi ấy anh chưa sang Pháp du học nhưng đã rất để ý đến quốc văn. Khi ấy sở Tài chính còn ở Bờ Hồ, trong sở chúng tôi bày ra nhiều trò chơi có ích cho sự tiến thủ về mặt luyện tập quốc văn " [43; 42]. Tuy nhiên để thực hiện đƣợc khát vọng xây dựng một nền quốc văn "đậm tính cách An Nam" không phải là điều dễ dàng. Trong buổi đầu của cuộc tiếp xúc Á - Âu, câu văn quốc ngữ phát triển theo hai hƣớng. Xu hƣớng thứ nhất là "câu văn biền ngẫu gần gũi với câu văn của thể phú", "cấu trúc đăng đối, diễn đạt kiểu cách, lạm dụng vốn từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ngữ Hán Việt" [34; 819], do ảnh hƣởng của câu văn trong văn học trung đại còn nặng nề. Xu hƣớng thứ hai là sự áp dụng cứng nhắc những mẫu câu của ngôn ngữ Pháp vào ngôn ngữ Việt tạo ra những câu văn ngắn gọn tới mức "cộc lốc", không chút nghệ thuật nhƣ kiểu Hoàng Tích Chu: "Canh khuya, buồn. Thân gái, cực. Dặm trường, khổ". Sự hình thành ngôn ngữ văn xuôi ở nƣớc ta đầu thế kỉ XX có sự đóng góp tích cực của báo chí. Nhà nghiên cứu Đinh Văn Đức đã nhận thấy: "Ở nước ta (…), ngôn ngữ văn học, nhất là văn xuôi đầu thế kỉ XX, lại thừa hưởng thành tựu ngôn ngữ báo chí mà trưởng thành. Nhiều nhà văn đã trưởng thành từ nhà báo, những áng văn xuôi mới hay nhất đã từng xuất hiện trên báo chí trước khi được in thành sách. Lối văn trọng sự thật, gãy gọn vốn là đặc trưng của ngôn ngữ thông tấn đã là tiền đề cho ngôn ngữ trong các sáng tác văn xuôi mới với các thể loại khác nhau…" [34; 820]. Những năm đầu thế kỉ XX là thời kì dựng nghiệp của báo chí Việt Nam, nhất là báo chí quốc ngữ. Rất nhiều tờ báo đƣợc ra đời, đặc biệt từ năm 1910 trở đi, báo chí càng phát triển, có thêm những xu hƣớng mới, ngoài nhiệm vụ thông tấn, còn có các tạp chí dành cho học thuật và chuyên khảo nhƣ: Đông Dƣơng tạp chí (1913), Nam Phong tạp chí (1917), Đại Việt tạp chí (1918), An Nam tạp chí (1926),… Báo chí lúc này đã thiên về văn chƣơng, có lối diễn đạt của ngôn ngữ văn chƣơng. Nhiều tờ báo đã có những chuyên mục văn nghệ, đăng các tác phẩm văn học, cả các tác phẩm dịch thuật văn học nƣớc ngoài. Có thể nói báo chí đã trở thành "bà đỡ" cho văn chƣơng mới đang thành hình. Đúng nhƣ Mã Giang Lân khẳng định: "Quá trình chuyển từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ bắt buộc tất cả những nhóm nhà văn, dù tân học hay cựu học, đều phải trải qua một quá trình "tập làm văn" bằng tiếng mẹ đẻ, hay nói cách khác: đặt nền tảng xây dựng một thứ ngôn ngữ văn học mới bằng tiếng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Việt. Báo chí chính là môi trường thuận lợi cho những thể nghiệm đó" [48; 150]. Có lẽ chính vì nhận thấy vai trò quan trọng của báo chí trong sự phát triển văn học dân tộc, mà sau này Nhất Linh- Nguyễn Tƣờng Tam đã bắt đầu từ con đƣờng báo chí để thực hiện khát vọng văn chƣơng. 1.2.2. Hành trình đến với văn học của Nhất Linh 1.2.2.1. Nhất Linh - người nghệ sĩ đa tài, say mê văn học Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tƣờng Tam, sinh ngày 13 tháng 9 năm 1906 tại phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dƣơng, là con thứ ba trong gia đình có sáu anh em trai và một ngƣời em gái. Nhƣ các anh em khác trong gia đình, Nhất Linh đƣợc ăn học chu đáo, bản thân ông cũng rất chăm học. Cha ông là công chức nhà nƣớc bảo hộ, nhƣng mất sớm (năm ông 12 tuổi), ngƣời mẹ tần tảo nuôi bảy đứa con ăn học. Sau khi cha mất, gia đình lâm vào cảnh khó khăn, ông phải bỏ học hai năm, năm 1920 mới thi vào trƣờng Bƣởi. Sau ba năm trung học, đỗ bằng Thành Chung, ông xin làm thƣ kí ở sở Tài chính Hà Nội. Theo Phạm Thế Ngũ, Nhất Linh là ngƣời năng khiếu "đa dạng đủ vẻ, Pháp văn và khoa học giỏi, lại có tài vẽ, thích làm thơ văn quốc âm" [44; 9]. Việc đi làm ở sở Tài chính Hà Nội chỉ là công việc tạm bợ trong khi chờ đợi chuẩn bị công việc lâu dài và tại đây ông đã gặp gỡ, chơi thân với thầy kí trẻ Hồ Trọng Hiếu - tức nhà thơ Tú Mỡ sau này. Tháng 11 năm 1925, chia tay ngƣời bạn thân thiết Hồ Trọng Hiếu, Nguyễn Tƣờng Tam vào học trƣờng Cao đẳng Y khoa, có lẽ muốn tìm một nghề nghiệp có địa vị hơn. Song cuối năm đó, nhà nƣớc bảo hộ mở trƣờng Cao đẳng Mỹ thuật, vì tiếng gọi quyến rũ của "nàng Mỹ thuật", ông lại bỏ trƣờng thuốc, thi vào trƣờng Mỹ thuật. Với tài hội họa bẩm sinh của mình, Nguyễn Tƣờng Tam đã đỗ đầu, vào học và đƣợc hoạ sƣ ngƣời Pháp - Victor Tardieu hết sức dìu dắt. Khả năng hội hoạ cùng những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên kiến thức thu nhận đƣợc từ ngành học này đã có ảnh hƣởng khá rõ đến ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh sau này. Những bức hoạ ngôn từ tinh tế về thiên nhiên có khả năng nói thay tâm trạng con ngƣời trong tác phẩm, chỉ có thể có đƣợc từ nhà văn có năng khiếu hội họa tài hoa. Tƣ chất nghệ sĩ là nét nổi bật ở con ngƣời Nhất Linh, ngoài làm văn, viết thơ, vẽ tranh, ông còn mê sáo trúc. Sau này khi chán nản, mệt mỏi trong hoạt động chính trị, ông đã tìm đến Đà Lạt say sƣa kiếm lan, thổi sáo cho lan nghe, đắm chìm trong thế giới thanh khiết. Chính những phẩm chất nghệ sĩ đó đã tạo cho văn phong Nhất Linh chất thơ, chất nhạc hiếm có, làm say lòng biết bao chàng trai, cô gái trong giai đoạn Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên trong những phẩm chất nghệ sĩ ấy thì niềm say mê văn học với ông là hơn cả. Nhất Linh ham đọc sách từ nhỏ, thói quen này ông giữ tới lúc lâm chung. Trong tác phẩm Viết và đọc tiểu thuyết, ông cho biết đã đọc độ vài ba trăm cuốn tiểu thuyết Việt, ba bốn chục truyện Tầu, năm sáu trăm truyện trinh thám Anh, Mĩ và khoảng ngần ấy tác phẩm khác của Anh, Mĩ, Pháp. Thủa nhỏ "độ 10,11 tuổi thường cùng các bạn trong nhà trọ góp tiền thuê truyện Tàu để đọc to cho nhau nghe vào giờ nghỉ" [15; 97]. Những tác phẩm đƣợc đọc đã tạo cho Nhất Linh một niềm say mê văn học từ rất sớm. Ông nói rằng từ lúc 13, 14 tuổi đã từng viết một vài truyện ngắn nhƣng không bao giờ cho đăng. Tới khoảng những năm 1921, 1922 - khi 15, 16 tuổi - ông đã từng làm thơ Đƣờng luật đƣợc đăng trên báo Trung Bắc tân văn của Nguyễn Văn Vĩnh (bài Vịnh Tây Hồ). Khi học trung học, từ năm đầu ban Thành Chung, Nhất Linh đã tham gia bình luận truyện Kiều trên báo Nam Phong. Theo ông: "Truyện Kiều thực là một tấm gương luân lí thiên cổ". Và: "Ngẫu nhiên Kiều, kể đã hơn 100 năm rồi, cũng chưa có sách nào hay bằng. Cái đặc tài của cụ Nguyễn Du về đường văn chương như vậy ở nước ta thật là không ai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên (…). Nói đến cái hay của Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được" (Nhất Linh) [43; 36]. Không ngạc nhiên khi với quan điểm "Ta chỉ nên nhận rằng văn chương Kiều có thể làm cái mẫu rất tốt cho văn chương quốc ngữ, và người nào làm văn cũng nên theo cách làm văn trong truyện Kiều" [43; 36], hai tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tƣờng Tam: tiểu thuyết Nho phong (1924) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1926) có sự ảnh hƣởng truyện Kiều nói riêng và văn học cổ điển nói chung rất rõ. Đó là tƣ tƣởng đạo nghĩa phu phụ, lối kể truyện của văn xuôi trung đại, câu văn đăng đối du dƣơng. Nhất Linh có khát vọng về một sự nghiệp văn chƣơng hơn ngƣời, ông không muốn sống cuộc đời của một công chức nhà nƣớc bảo hộ "Sáng vác ô đi, tối vác về". Ông đã từng tâm sự với Hồ Trọng Hiếu: "Tôi không có ý trở thành ông tham, ông đốc… như ai. Nguyện vọng tha thiết của tôi là được viết văn, làm báo, sống bằng ngòi bút của mình, sống bằng nghề tự do ngoài vòng kiềm toả" [43; 522]. Niềm say mê văn học cộng với tƣ chất nghệ sĩ và khát vọng dùng ngòi bút để hoạt động văn học nghệ thuật đã hình thành từ rất sớm trong con ngƣời Nhất Linh. Chính điều đó đã thôi thúc ngƣời thanh niên Nguyễn Tƣờng Tam tìm lối đi mới cho mình. Theo Trƣơng Bảo Sơn, trong con ngƣời Nhất Linh có hai khuynh hƣớng: "nghệ sĩ" và "cách mạng". Khuynh hƣớng nghệ sĩ thì đã rõ. Còn khuynh hƣớng cách mạng là sự quan tâm của Nhất Linh với các vấn đề xã hội. Ông "muốn san bằng mọi bất công trong xã hội loài người". Trong thời gian học ở trƣờng Mỹ thuật, Nhất Linh đã nhiều lần vác giá vẽ về những vùng nông thôn, tận mắt chứng kiến cuộc sống lam lũ khổ cực của ngƣời nông dân. Chàng hoạ sĩ trẻ đã nhận ra đƣợc "hai vẻ đẹp" trái ngƣợc: một bên là ngƣời dân với những kiếp: Nghèo, Nô lệ, Đầu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên đường xó chợ. Cuộc sống lam lũ của ngƣời dân quê đã làm cho ngƣời thanh niên ấy xúc động và thấy rằng không thể nào vui riêng với cái vui của ngƣời nghệ sĩ. Thêm vào đó, sự sôi động của thời cuộc khoảng 1925 - 1926 càng kích thích Nguyễn Tƣờng Tam cái chí làm việc ích lợi cho nƣớc, cho dân. Muốn thực hiện đƣợc chí đó, Nguyễn Tƣờng Tam phải xuất ngoại, mong tìm học hỏi lấy những kiến thức và phƣơng tiện cần thiết. Năm 1927, khi tìm đƣợc cơ hội, ông ném cây cọ, bỏ giá vẽ xin đi Tây du học. 1.2.2.2. Chuyến du học ở Pháp - Những thay đổi trong quan niệm xã hội và văn chương của Nhất Linh Năm 1927, đƣợc sự giúp đỡ của Hội du học bảo hộ - một tổ chức của các quan đại thần Huế - Nhất Linh đã sang Pháp du học. Với tài năng nhiều mặt, Nhất Linh đã theo học ban Khoa học, trong vòng 24 tháng giật đủ ba chứng chỉ để trở thành Cử nhân lý hoá. Nguyễn Tƣờng Tam đã giải thích về việc muốn trở thành nhà văn, nhƣng lại đi học lấy bằng "cách trí": "…sang Pháp chủ yếu là nghiên cứu nghề làm báo, để khi về sẽ mở một tờ báo thể tài mới, khác hẳn các báo. Còn cái bằng cử nhân khoa học? Chỉ là cứu cánh để phòng xa, nếu làm báo thất bại sẽ ra làm giáo sư cũng tốt" [43; 526]. Quả đúng nhƣ vậy, trƣớc khi đi du học, ông đã nung nấu một con đƣờng nghệ thuật khác hẳn với đƣơng thời và cũng nhìn thấy vai trò quan trọng của báo chí với đời sống và văn chƣơng. Do vậy, trong những tháng ngày du học, ngoài việc học ở nhà trƣờng, ông còn để ý đến đời sống xã hội Pháp, những nét mới của văn chƣơng nghệ thuật, nhất là vai trò tiền phong của báo chí, tiếng nói hữu quyền của nhà ngôn luận. Ông đặc biệt đi sâu nghiên cứu đời sống văn học phƣơng Tây, cách điều hành một tờ báo ở Pháp, từ việc tổ chức, sắp xếp bài vở đến nghệ thuật trình bày. Trƣơng Bảo Sơn kể về Nhất Linh: "Có tiền, anh chỉ mua sách, mua Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên báo, say mê đọc, nghiền ngẫm nghệ thuật viết văn của họ, hầu có thể áp dụng vào văn chương Việt Nam, để cải tiến nghệ thuật viết văn Việt Nam. Trong khi ấy anh học thêm và tốt nghiệp cử nhân lý hoá" [43; 187]. Những kiến thức đƣợc trực tiếp thâu nhận từ nền văn hoá phƣơng Tây nói chung và văn học Pháp nói riêng đã giúp Nhất Linh có những thay đổi trong quan niệm về xã hội và văn chƣơng. Ông đã sớm nhận ra những trì trệ trong xã hội Việt Nam đƣơng thời (tất nhiên cả trong văn học) và mong muốn xây dựng một nền văn học mới. Ông không còn ca ngợi tƣ tƣởng đạo nghĩa phu - phụ theo quan niệm của lễ giáo phong kiến nhƣ trong các tác phẩm: Nho phong, Người quay tơ, Bạch Liên,… viết trƣớc đây. Ông nhìn thấy rõ những mâu thuẫn gay gắt giữa con ngƣời cá nhân với đại gia đình phong kiến, giữa ý thức hệ tƣ sản với lễ giáo phong kiến. Ông mong muốn giải phóng phụ nữ ra khỏi chế độ đại gia đình, tránh cho phụ nữ nỗi tình duyên ép buộc, cảnh mẹ chồng, nàng dâu, cảnh goá bụa lạnh lùng. Và với tƣ tƣởng của một trí thức tiểu tƣ sản, ông chủ trƣơng cải cách xã hội. "Phải cải cách vì xã hội chưa hợp lý: Còn những cô Loan bị mẹ cha gả bán, những cô Nhung giam cầm trong goá bụa, những bà Phán Lợi tàn ác mà không biết, (…). Còn những cảnh "'tối tăm", những nơi "bùn lầy nước đọng" những "xã hội quê bao giờ cũng khốn nạn, cũng nghèo xơ xác như bây giờ"…[43; 89]. Những quan điểm mới mẻ về xã hội đó của ông đã đƣợc gửi gắm qua những hình tƣợng nghệ thuật trong các tác phẩm về sau này nhƣ Loan, Dũng trong Đoạn tuyệt, Nhung trong Lạnh lùng, Doãn trong Hai vẻ đẹp,… Theo Nhất Linh, để cải thiện cuộc sống của ngƣời nông dân, phải làm cho họ có học thức, hiểu biết, không để họ "sống mãi trong đêm tối vì không ai soi sáng họ, dạy họ biết một cách sống khác". Và ông rất có ý thức đấu tranh bằng văn nghệ cho những quan niệm xã hội của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ông thấy rằng không thể viết nhƣ trƣớc mà phải đổi mới cách viết. Đúng nhƣ Phạm Thế Ngũ nhận xét: "Năm 1930, Nguyễn Tường Tam 24 tuổi trở về nước, với trong đầu óc một chân trời mới, những quan niệm thay đổi hẳn về xã hội và văn chương. Con người Nho phong đã nhường chỗ cho nhà "cách mạng xã hội". Nhà văn chỉ biết khâm phục truyện Kiều thấy cần phải đổi mới cái không khí văn học do phái Nam Phong thổi ra từ trên 10 năm nay" [44; 11]. Từ Pháp trở về, Nhất Linh đã đem theo những hiểu biết về nền văn học phƣơng Tây, đặc biệt văn học Pháp và những kiến thức mới mẻ về khoa học, về xã hội, về nghề báo,… Đó chính là những cơ sở cho sự thay đổi về quan điểm sáng tác, ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm mới của ông. 1.2.2.3. Chủ trương “Tự sức mình làm ra những sáng tác có giá trị về văn chương”, "làm giàu văn sản trong nước”. * Ý tưởng táo bạo, mới mẻ về văn chương Về nƣớc năm 1930, trong lúc chờ thực hiện hoài bão văn chƣơng của mình, chàng cử nhân trẻ làm giáo sƣ dạy ở trƣờng trung học Thăng Long, đồng thời không quên theo dõi tình hình báo chí đƣơng thời. Những kiến thức thâu lƣợm đƣợc từ nhiều tờ báo ở Pháp đã giúp Nhất Linh nhận thấy loại báo trào phúng rất hợp với sở thích mọi ngƣời, điều này ở Việt Nam lại chƣa có. Nhất Linh nộp đơn xin ra báo Tiếng Cười và tích cực chuẩn bị mọi thứ cho tờ báo tƣơng lai, từ bài vở cho đến nhân sự toà soạn. Tú Mỡ đã kể: "Anh thuê một căn nhà nhỏ trong ấp Thái Hà, lấy nơi tĩnh mịch để làm việc. Ở đó, tôi đã gặp mặt anh em trong toà soạn tương lai của tờ báo, lúc đầu chỉ có năm người: anh Nguyễn Tường Tam, anh Nguyễn Tường Long, anh Nguyễn Tường Lân và hai người ngoài là anh Trần Khánh Giư và tôi - Hồ Trọng Hiếu(…) chủ trương sáng tác theo một tôn chỉ đúng đắn: cải tạo xã hội cũ, đả phá mọi phong tục tập quán hủ bại, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên xây dựng một đời sống mới tiến bộ, vui vẻ trẻ trung (…). Chúng tôi có một đường lối sáng tác thuần tuý Việt Nam, lời văn bình dân trong sáng, dễ hiểu" [43; 529 / 530]. Những hồi ức trên của Tú Mỡ đã tái hiện quãng thời gian sơ khai của Tự lực văn đoàn. Có thể khẳng định rằng, trong quá trình chuẩn bị cho báo Tiếng Cƣời với năm thành viên này, trong suy nghĩ của Nhất Linh đã hình dung ra một nhóm nhà văn "vừa là đồng nghiệp, vừa là anh em", hoạt động theo một tôn chỉ, một mục đích, cùng mong đóng góp vào sự tiến bộ của văn học nƣớc nhà. Nhƣng báo Tiếng Cười không đƣợc phép xuất bản vì không đủ tiền. Nhƣng Nhất Linh không chịu đầu hàng. Năm 1932, tờ Phong Hoá của mấy bạn đồng nghiệp cùng dạy học ở trong trƣờng ra đời, do Phạm Hữu Ninh - ngƣời sáng lập trƣờng Thăng Long - làm quản lý, Trần Khánh Dƣ - giáo sƣ Thăng Long - làm chủ bút. Phong Hoá mới ra đời đã đƣợc nhiều ngƣời chú ý, nhƣng cái tôn chỉ "xét trong hai nền văn hoá cái gì tốt đẹp thì thâu góp làm văn hoá nước nhà" của ông Phạm Hữu Ninh chìm vào trong cái luận điệu dung hoà của thời đại, tờ báo không đem lại điều gì mới mẻ và đi xuống. Nguyễn Tƣờng Tam thấy đây là một cơ hội tốt để làm một thử nghiệm. Nhất Linh tập hợp bạn bè, đồng nghiệp, ngƣời thân và tuỳ vào khả năng từng ngƣời, ông phân công từng ngƣời đảm nhiệm những vị trí và công việc thích hợp. Tiếp đó, ông điều đình với Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai (ngƣời chính thức có giấy phép) để đứng ra làm lại tờ báo. Ngày 22 tháng 9 năm 1932, ._.ôi bạn). - "…Nét chữ tươi như hoa đào, già dặn như cành mai cỗi" (Nửa chừng xuân) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - "Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm như vừa tắm ở suối" (Dưới bóng hoàng lan). So sánh có khi đƣợc dùng để gợi hình hơn cho đối tƣợng đƣợc so sánh: - "Hôm ấy vào hạ tuần, trăng vừa mọc, trông như cặp sừng trâu treo ngược trên đỉnh đồi" (Hồn bướm mơ tiên). - "… Khói ở các nhà toả ra như mấy vết mực tàu đương lan trên tờ giấy trắng ướt đẫm nước" (Đôi bạn). - Có khi so sánh dùng để tăng tính sinh động cho đối tƣợng cần biểu hiện: - "Chàng lấy vợ cũng như người khác chơi cây cảnh" (Lạnh lùng). - "Và liền lúc đó, ba tiếng trống đánh dồn dập, hấp tấp, bất thần như cái thức giấc hoảng hốt, kinh hãi của người đương chập chờn ngủ gật" (Nửa chừng xuân). Có một điều thú vị là ngƣời ta hay so sánh cái trừu tƣợng với cái không trừu tƣợng để ngƣời đọc có thể hình dung, tƣởng tƣợng ra cái trừu tƣợng kia là gì, thì các nhà văn Tự lực văn đoàn nhiều khi lại làm ngƣợc lại. Họ lấy cái cụ thể để so sánh với cái trừu tƣợng hoặc lấy hai cái trừu tƣợng so sánh với nhau để tạo ra những liên tƣởng mới. - "Đêm khuya nữa… chậm chạp và thong thả, bác hàng quà, đi nhẹ như chân ma… Tiếng rao buồn thảm, yếu ớt và uể oải như hàm một nỗi thất vọng khôn cùng" [Thạch Lam]. - "Hoa kim liên sắc vàng thắm như một nụ cười thân yêu" [Khái Hƣng]. - "Ở đâu vẳng lại tiếng ru em trong vắt như ánh nắng" [Nhất Linh]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - "Trước mặt hai người, về phía bên kia cánh đồng, ánh đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương, trông như một nỗi nhớ xa xôi đương mờ dần" [Nhất Linh]. Đây là kiểu so sánh biểu hiện sự tinh tế trong tâm hồn ngƣời nghệ sĩ, họ phải thực sự rung động trƣớc cảnh vật, con ngƣời, thực sự cảm thấy đằng sau những cái tƣởng nhƣ không thể có sự liên hệ ấy một mối quan hệ gần gũi. Trong các nhà văn Tự lực văn đoàn, Nhất Linh là ngƣời hay sử dụng nhất cách so sánh này. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ của Nhất Linh có một vẻ riêng bay bổng và lãng mạn. Trong so sánh, nét riêng của ngôn ngữ tác giả thể hiện chủ yếu ở cách dùng chuẩn so sánh và tƣơng quan so sánh, qua đó bộc lộ cái nhìn độc đáo của nhà văn. Lấy tƣơng quan so sánh làm tiêu chí, chúng tôi nhận thấy Nhất Linh thƣờng sử dụng hình thức so sánh tâm trạng, cảm giác của con ngƣời với sự vật, tâm trạng đang trong trạng thái hoạt động. Những so sánh kiểu này rất gợi hình, gợi cảm: - "Nàng thấy hạnh phúc của nàng đẹp đẽ như ánh lửa lấp lánh trong cốc rượu đương sóng sánh trên tay nàng" (Lạnh lùng). - "Một luồng khói pháo thơm đưa thoảng qua cửa sổ đem lại cho Dũng những cảm tưởng dịu dàng êm ái như ngọn gió xuân dịu dàng đem mùa xuân tới" (Đôi bạn). - "Một mùi thơm tựa như mùi cốm non phảng phất lẫn với bụi, với gió, với ánh nắng" (Đôi bạn). - "Ngoài kia, ánh nắng vàng buổi chiều như tiếc ngày cuối cùng của một năm, còn lảng vảng trên các ngọn đồi, chòm cây, lướt thướt trên những cánh đồng cỏ màu xanh già" (Đoạn tuyệt). "Chàng sung sướng chỉ vì thấy mình như con chim thoát khỏi lồng, nhẹ nhàng trong một sự tự do không bờ bến" (Bướm trắng). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Kiểu so sánh này, không chỉ gợi lên rất rõ cảm giác đƣợc nói đến (dù là những cảm giác rất mong manh, mơ màng), mà còn có khả năng gợi lên trong ngƣời đọc rất nhiều liên tƣởng. Các sự vật đƣợc đem ra để so sánh không trong trạng thái tĩnh tại, mà đang hoạt động, biến đổi, vì thế ngƣời đọc tuỳ theo cảm nhận của mình mà có thể có những liên tƣởng khác nhau, những cảm xúc khác nhau. Tất cả những so sánh đó đều gợi lên những hình ảnh thật đẹp, lãng mạn và bay bổng, bộc lộ những cảm giác tế vi của con ngƣời. Qua những so sánh đó Nhất Linh đã thể hiện những rung động sâu xa với con ngƣời và tạo vật. Các so sánh của ông đều nhấn mạnh đến cảm giác tinh nhạy của con ngƣời trƣớc cuộc đời, thể hiện những quan sát kĩ lƣỡng, sự gắn bó với cuộc sống đến từng cảm giác. Để miêu tả cảnh vật thiên nhiên, Nhất Linh cũng rất hay dùng phƣơng thức so sánh giữa sự vật với sự vật, có điều thú vị là những sự vật đem ra để so sánh ấy cũng không ở trong một trạng thái tĩnh tại, chẳng hạn: - "…Khói ở các nhà toả ra như vết mực tàu đương lan trên tờ giấy trắng ướt đẫm nước" (Đôi bạn). - "Thỉnh thoảng Trương phải cúi đầu cho khỏi chạm vào cành cây; dưới một cái ao gần đây, bóng một cành tre in ngược, ngọn trúng vào giữa một đám sao trông như một cây bông vừa toả hoa lấp lánh" (Bướm trắng). Hoặc có khi sự tĩnh tại chỉ là tạm thời, trong khoảnh khắc: - "Trên một cây bàng nhỏ, những lộc mới đâm, màu xanh non hơi phơn phớt hồng, trông như một đàn bướm ở đâu bay về đậu yên" (Đôi bạn). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - "Dưới chân nàng một vùng cỏ bóng loáng ánh nắng, trông nắng in trên nền trời như hình một con chim trắng giương giương đôi cánh sắp bay" (Đôi bạn). Qua cách so sánh này, ta thấy cảnh vật hiện lên rất sống động, rất đẹp - một vẻ đẹp trong trẻo, lãng mạn. Đồng thời chứng tỏ khả năng liên tƣởng phong phú, sự tài tình của nhà văn kiêm hoạ sĩ Nhất Linh trong việc nắm bắt những vẻ đẹp linh động của ngoại cảnh. Những so sánh đó cũng thể hiện một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, sự gắn bó thiết tha với cuộc đời, với con ngƣời và tạo vật, kể cả ở những so sánh rất cụ thể, rất thực tế, chẳng hạn: "Ở ngoài vườn, tiếng ếch nhái ran lên từng loạt, thỉnh thoảng có tiếng chẫu chuộc kêu nghe lõm bõm như tiếng chân rút mạnh của một người lội trong bùn" (Đôi bạn). Phải là ngƣời gắn bó với cuộc sống nơi thôn quê, hay để ý quan sát và suy tƣởng mới có hình ảnh so sánh chính xác và độc đáo đến vậy. Các so sánh của Nhất Linh dù gắn với hiện thực hay bay bổng lãng mạn cũng đều có nét chung là rất đẹp, gợi cảm và tinh tế, khác với so sánh của Thạch Lam bình dị và chân chất. Thạch Lam rất hay sử dụng so sánh cảm giác của tâm hồn với một sự vật bình dị hoặc yếu ớt thanh mảnh, chẳng hạn: - "Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời này, cuộc đời một cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như một tấm vải thô sơ" (Cô hàng xén). - "Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi, không biết, như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" (Hai đứa trẻ). - "Tất cả những cái đó bây giờ xa quá. Tâm trí tôi giãn ra, như một cây tre uốn cong trở lại cái thẳng thắn lúc thường" (Sợi tóc). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Những hình ảnh: "Tấm vải thô" cuộc đời đƣợc dệt lên bằng toàn sợi khó nhọc (Cô hàng xén), ngọn đèn con của chị Tí và đêm đen nơi phố huyện (Hai đứa trẻ), cây tre uốn cong lại thẳng (Sợi tóc) là những hình ảnh rất đỗi bình dị, thân thuộc với cuộc sống con ngƣời vùng quê. Những so sánh này đã gợi nên trong lòng ngƣời đọc bao xót xa thƣơng cảm cho những cuộc đời tăm tối, khó nhọc. Trong tác phẩm của Nhất Linh còn xuất hiện những so sánh giữa đặc điểm, tính chất, hoạt động của ngƣời với đặc điểm, tính chất, hoạt động của sự vật mang màu sắc nhục cảm, để tôn vinh cái đẹp hình thể của con ngƣời, thể hiện những xúc cảm mãnh liệt, những khao khát thầm kín trong tâm hồn những ngƣời đang yêu: - "Chàng như trông thấy trước mặt bàn tay hơi rung rung của Loan, hôm nào, cời những quả đậu non trong rá, chàng nhớ đến cái cảm tưởng ngây ngất được thấy đôi môi Loan mềm và thơm như hai cánh hoa hồng…" (Đôi bạn). - "Lụa áo Trương thấy mềm như da người và một mùi thơm hơi cay - không giống hẳn mùi thơm của nước hoa xông lên ngây ngất" (Bướm trắng). - "Lần đầu chàng nhận thấy vẻ đẹp của cái cổ tròn màu trắng dịu và nom như một búp hoa ngọc lan sắp nở" (Bướm trắng). - " Quả na phơi nắng suốt ngày, những múi na âm ấm và thơm phảng phất như môi người yêu" (Đôi bạn). - "Hoa mộc thơm như cô con gái quê mới dậy thì" (Lạnh lùng). Dù có dùng phƣơng thức so sánh nào thì các hình ảnh so sánh của Nhất Linh cũng đều có nét chung là rất đẹp, gợi lên trong lòng ngƣời những cảm giác trong sáng, lãng mạn. Đây là nét khác với Thạch Lam khi ông sử dụng những so sánh tƣơng tự nhƣ vậy, chẳng hạn: - "Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô… Mẹ con bác ở một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên căn nhà cuối phố, một cái nhà lụp xụp như những căn nhà khác… Mùa rét thì rải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc" (Nhà mẹ Lê). - "Nhưng đến mùa rét… Dưới manh áo rách nát thịt chúng nó thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết " (Nhà mẹ Lê). Có thể thấy rằng "chuẩn so sánh ở đây dưới mức bình thường, là: quả trám khô bị rút hết nước nhăn nheo đến thảm hại; là ổ chó, thịt trâu chết. Nhưng có lẽ không gì có thể gợi ra hình ảnh mẹ con bác Lê trúng hơn những sự vật tầm thường này" [20; 90]. Những so sánh này đã thể hiện một cách xác thực thân phận thấp hèn và cuộc đời cơ cực, đắng cay của họ, thể hiện một cái nhìn hiện thực của Thạch Lam về cuộc sống. Qua cách so sánh của Thạch Lam, ta có thể nhận ra điểm giống và khác nhau khá rõ trong cách sử dụng ngôn từ giữa hai nhà văn vừa là đồng nghiệp, vừa là anh em này. Bên cạnh những so sánh nhằm làm tăng giá trị gợi hình và biểu cảm nhƣ các nhà văn khác trong Tự lực văn đoàn, Nhất Linh còn rất hay sử dụng kiểu so sánh mang đậm chất ẩn dụ, chúng là những so sánh thực sự độc đáo, thực sự là điểm nhấn cho tác phẩm, buộc ngƣời đọc phải tìm hiểu, phải khám phá xem vì sao tác giả lại so sánh nhƣ vậy. Chẳng hạn trong Đôi bạn, tác giả đã để Dũng ví tình yêu của mình với Loan "như một ngôi sao nhỏ ở một góc trời chỉ riêng đẹp, riêng quý với chàng chính vì chàng đã chọn nó và không cho ai biết". Cách so sánh ấy vừa gợi đƣợc vẻ đẹp, lung linh kì diệu của tình yêu Dũng giành cho Loan, vừa biểu tƣợng cho tình yêu ấy mong manh, xa vời, suốt đời Dũng khao khát nhƣng không thể nào với tới đƣợc. Một lần nữa, cũng trong tác phẩm này, Dũng lại có một ý tƣởng so sánh rất thú vị: "những con đom đóm bay qua ao bèo lúc tắt lúc sáng như những ngôi sao lạc biết thổn thức". Để hiểu đƣợc hết ý nghĩa của so sánh này, chúng ta không thể chỉ đọc riêng nó mà phải liên hệ với các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên câu khác trong truyện. Khi Dũng có câu ví này là lúc chàng đang đi cùng Loan vào một buổi tối mà trong lòng đang ngập tràn cảm xúc yêu thƣơng dành cho Loan. Cảm xúc ấy dâng trào mãnh liệt nhƣ đã lên đến đỉnh cao, nhƣng Dũng lại không đủ can đảm nói ra. Những con đom đóm nhắc lại kỷ niệm thời thơ ấu bên Loan - cô bạn nhỏ hàng xóm và nhƣ trƣớc Dũng ví tình yêu của mình với ngôi sao, thì nay kỷ niệm tuổi thơ lại càng làm cho tình yêu ấy thêm đậm đà. Cái nhấp nháy của con đom đóm chính là ngôi sao tình yêu trong lòng chàng bởi nó cũng đang nhấp nháy vì thổn thức, vì xúc động, vì rạo rực - một nỗi rạo rực kín đáo. "Ngôi sao lạc " ấy cũng xa vời, cũng không thể bắt đƣợc nhƣ đom đóm không bị đánh lừa sà xuống cùng hai ngƣời - tình yêu của Dũng cũng vậy, thổn thức nhƣng thật buồn! Nhất Linh đã sáng tạo ra nhiều so sánh hết sức độc đáo, nhiều ẩn ý. Trong Bướm trắng, lúc gặp Thu buổi đầu, ý nghĩ so sánh đầu tiên ập đến trong Trƣơng đó là sự kiêu hãnh của Thu chỉ làm cho sắc đẹp của nàng "ý vị hơn lên như chất chua của một quả mơ". Quả mơ ấy hấp dẫn thật, nhƣng để có thể thƣởng thức đƣợc nó thì ngƣời ta cũng phải nếm trải rất nhiều vị chua của nó. Còn Thu nhận ra tình yêu của mình với Trƣơng khiến cho cuộc sống của nàng khác biệt hơn trƣớc, nhiều dƣ vị hơn trƣớc, nhƣng trong cái dƣ vị ngọt ngào không phải là không có chút gợn lòng vì những dƣ vị buồn, có lẽ không phải vô tình Nhất Linh để cho nàng ví đời sống hiện tại của nàng so với những cái đã qua "có vị hơn…, đậm đà hơn, một vị hương âm thầm không rõ rệt, ấm áp như hương thơm đọng trong quả cam mới hái ngoài nắng vào chưa bóc vỏ". Những so sánh này của Nhất Linh thật sắc sảo, tinh tế, vừa mang lại sự sinh động gợi hình, vừa ẩn chứa trong đó biết bao cảm xúc, để ngƣời đọc phải suy nghĩ, liên tƣởng, chiêm nghiệm mới có thể khám phá ra. Không phải giản đơn chỉ là so sánh, Nhất Linh còn để một khoảng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên trống cho ngƣời đọc nhận biết ý nghĩa của so sánh đó, để đồng cảm, sẻ chia cùng nhân vật sâu sắc hơn. So sánh là thủ pháp thƣờng thấy trong văn học. Nó có tác dụng làm phong phú các hình ảnh, cảm giác… cho tác phẩm. Các nhà văn mƣợn nó để thể hiện, phát huy khả năng tƣởng tƣợng, liên tƣởng vốn đã nhiều màu vẻ của mình, giúp chúng ta có ấn tƣợng, cảm nhận đậm nét hơn những điều nhà văn đang truyền đạt. Bằng tài năng của mình, Nhất Linh đã tạo đƣợc những nét riêng trong cách sử dụng thủ pháp nghệ thuật này, thể hiện cá tính sáng tạo, cách nhìn riêng của ông về con ngƣời, về cuộc sống. Để thực hiện khát vọng "đi sâu vào tâm hồn ngƣời đời", Nhất Linh đã tạo ra đƣợc những cách dùng từ mới mẻ, tinh tế, giàu khả năng biểu cảm, gợi hình. Các phép tu từ của ông đã diễn tả thành công những tâm trạng, những trạng thái cảm xúc mong manh đầy biến ảo, phức tạp, không dễ nắm bắt trong nội tâm con ngƣời, đó là điều mà không phải nhà văn nào cũng có thể làm đƣợc. Những đặc sắc trong cách dùng từ của Nhất Linh đã khẳng định tài năng của ông trong sáng tạo từ ngữ, góp phần đƣa ngôn ngữ văn học dân tộc đạt đến độ trong sáng, tinh tế, phong phú. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên C - KẾT LUẬN 1. Nhất Linh là vị “chủ soái” vững vàng của nhóm Tự lực văn đoàn - tổ chức văn học có vị trí quan trọng trong quá trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc vào những năm 30 của thế kỷ XX. Không chỉ điều hành mọi hoạt động của Văn đoàn, mà ông còn đi đầu trong sáng tác theo những tôn chỉ mà tổ chức đã đề ra. Với sự chủ động, sáng tạo trong sử dụng ngôn ngữ, Nhất Linh đã tuân thủ và thực hiện đƣợc tôn chỉ của Văn đoàn là "xây dựng một lối văn giản dị, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam". 2. Lớn lên trong môi trƣờng văn hoá xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX với nhiều biến động phức tạp, Nhất Linh đã tiếp nhận và cộng hƣởng đƣợc khát vọng mãnh liệt của lớp nhà văn cùng thế hệ trong việc xây dựng một nền quốc văn mới. Ông cũng đã tiếp thu đƣợc những thành tựu của ngôn ngữ văn chƣơng tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ của lớp nhà văn trƣớc qua văn chƣơng và báo chí đƣơng thời. Song, yếu tố quan trọng nhất tác động đến ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là chuyến du học ở Pháp. Sau chuyến đi Pháp, không chỉ quan điểm về cuộc đời và nghệ thuật thay đổi mà ngôn ngữ nghệ thuật của ông cũng có sự đổi mới rõ rệt. 3. Về phƣơng diện ngôn ngữ nghệ thuật, Nhất Linh luôn tích cực, chủ động cách tân, sáng tạo. Từ Nho phong và Người quay tơ đến các tác phẩm viết trong giai đoạn tham gia Tự lực văn đoàn, ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh đã thoát dần tính “biền văn”, “sáo ngữ” để chuyển sang ngôn ngữ văn xuôi hiện đại. Trong các sáng tác ở giai đoạn Tự lực văn đoàn, ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh vận động theo hƣớng ngày càng đi sâu vào biểu hiện nội tâm nhân vật. Nếu nhƣ ở Đoạn tuyệt và Lạnh lùng, ngôn ngữ mới chỉ miêu tả đƣợc tâm trạng từ cái nhìn bên ngoài; thì đến Đôi bạn và Bướm trắng, ngôn ngữ đã nhập đƣợc vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên dòng nội tâm của nhân vật, đã chạm đƣợc cả tới những vùng "mờ tối", "khuất khúc", cả phần tiềm thức, bản năng. Qua các tác phẩm, ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh đã chuyển tải đƣợc quan điểm sáng tác và cảm xúc thẩm mĩ của nhà văn. Tuy chƣa đạt đến đỉnh cao trong việc thể hiện những trạng thái nội tâm căng thẳng, giằng xé đau đớn, nhƣng ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh đã rất thành công khi miêu tả những trạng thái cảm xúc nhẹ nhàng, mong manh và đầy biến ảo của tâm hồn. Nhất Linh đã góp phần đƣa ngôn ngữ văn học dân tộc đạt đến độ trong sáng, tinh tế và uyển chuyển. Nét đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là ở hệ thống từ ngữ phong phú, mới mẻ; những hình ảnh so sánh đẹp, giàu tính biểu cảm; cách diễn đạt tinh tế những rung động nội tâm sâu kín hoặc những xúc cảm mơ hồ, mong manh. Nhất Linh đã đem đến cho văn học đƣơng thời một lối văn mới mẻ, cuốn hút, làm say lòng ngƣời đọc - một lối văn đặc biệt thích hợp với tầng lớp thanh niên trí thức thành thị nhiều mơ mộng, lãng mạn. 4. Do “vùng thẩm mĩ” gắn với tầng lớp trung lƣu thành thị, nên ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là thứ ngôn ngữ thi vị hoá cuộc sống, thiếu hơi thở khoẻ khoắn, sôi động của cuộc đời rộng lớn; thiếu chất sống “tƣơi ròng” của thực tế so với ngôn ngữ văn xuôi hiện thực cùng thời. Điểm hạn chế của ngòi bút Nhất Linh cũng là hạn chế của ngôn ngữ văn xuôi Tự lực văn đoàn và ngôn ngữ văn học lãng mạn đƣơng thời nói chung, 5. Song, nhìn một cách khái quát, trong giai đoạn sáng lập và tham gia nhóm Tự lực văn đoàn, với tƣ cách nhà văn, Nhất Linh đã có nhiều tìm tòi, sáng tạo và thành công. Nói một cách hình tƣợng, ông là một trong số không nhiều nhà văn đã bƣớc vững vàng từ "phòng chờ" lên "chuyến tàu" văn học của thời kì mới; và chính ông cũng góp phần tạo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên nội lực lớn giúp "con tàu" tăng tốc, nhanh chóng tiến thẳng vào quỹ đạo hiện đại. Nhất Linh xứng đáng đƣợc ghi danh đối với quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam. PHỤ LỤC 1 Nhất Linh thời Tự Lực Văn Đoàn PHỤ LỤC 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Một bức họa của Nhất Linh PHỤ LỤC 3 KHẢO SÁT CÁC CHỮ TRONG TÁC PHẨM NHO PHONG KHÁC VỚI QUY TẮC CHÍNH TẢ HIỆN NAY STT Cách viết trong tác phẩm Trang văn bản sử dụng Cách viết hiện nay 1 dau 2,52 rau 2 suềnh soàng, xuềnh soàng 3,108 xuềnh xoàng 3 xuốt (ngày, đêm, đời, tháng) 3,7,10,21,22,27,28,39, 41,44,47,48,52,105,108, 109,110,112,119,121 suốt 4 truyện (nói truyện) 4,7,12,14,15 chuyện 5 Danh (túp danh) 8 gianh 6 Dàn (thiên lí) 9 Giàn 7 Sinh (sinh đẹp, sinh quá) 9,109 xinh 8 Sinh sắn 16 Xinh xắn 9 rầm (mƣa rầm) 10,33 dầm 10 Rong (rong đèn) 120 Dong (chongđèn) 11 Chán (bóp chán) 12,35,98 Trán 12 Giáng (ngƣợng ngùng) 12,19,26,80,104,120 dáng 13 trải (tóc) 13 chải 14 rứt (rứt tình, rứt tay) 13, 17 dứt 15 Soá (trắng soá) 13, 39, 53 xoá 16 Sa (sa lắc sa lơ) 13 xa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên STT Cách viết trong tác phẩm Trang văn bản sử dụng Cách viết hiện nay 17 rời (rời tay) 13 dời 18 Trõng (cái trõng, lều trõng) 14,92 chõng 19 trấn (cửa trấn song) 16,37 chấn 20 xẫm (tối xẫm) 19 sẫm 21 Dũ (ủ dũ) 19 rũ 22 Soay (soay sở) 21,102,111 xoay 23 Soàng (áo soàng) 21 xoàng 24 rỗ (cúng rỗ) 23 giỗ 25 xuông (canh xuông) 23,108 suông 26 dơm dớm 26 rơm rớm 27 Sanh sao, xanh sao 27,57,105,114,122 Xanh xao 28 Soãi (tay bỏ soãi) 27 xoãi 29 Sé (sé ruột, sé gan) 27,79 xé 30 Soa (đầu) 27 xoa 31 Suôi (xong suôi, suôi gió…) 32,78,89,102 xuôi 32 Giã (giã rời) 32 Rã rời 33 dắp (dắp bụng) 34 rắp 34 giở (giở dang, hay giở…) 37,38,55,56,59 dở 35 xụt (xụt sùi) 114 sụt 36 dốn (cắt dốn) 108 rốn 37 Giòng (giòng chữ, giòng dõi, giòng nƣớc…) 40, 53, 55, 78, 113 dòng 38 Xiêng (xiêng năng) 41 siêng 39 giỗ (dạy giỗ) 42 dỗ 40 Chơn (ăn trắng mặc chơn) 44 trơn 41 sấu sa 44 xấu xa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên STT Cách viết trong tác phẩm Trang văn bản sử dụng Cách viết hiện nay 42 tróng (tróng thành, tróng mạnh) 45, 60, 103 chóng 43 dộn (bận dộn) 47 rộn 44 Say (say thóc) 47 xay 45 Xút (xút kém) 52, 101 sút 46 Dun (dun rủi) 54 Run rủi 47 Dƣơm dƣớm 54, 62, 80 Rƣơm rƣớm 48 Xa xút 56, 84 Sa sút 49 Giao (giao cắt) 56 Dao 50 Giòng rã, giòng giã 60, 69, 84 Ròng rã 51 sếp (thu sếp) 61 xếp 52 Giƣơng (cái giƣơng) 62 rƣơng 53 Soã (tóc soã) 63 xoã 54 Chơ chẽn 66 Trơ trẽn 55 dủ (dủ đi) 66, 88, 91 rủ 56 Giò (giò la) 79 Dò 57 Chôi (chôi bập bềnh) 68 trôi 58 Sách (sách gói) 74 xách 59 Trài (thuyền trài) 75, 77, 79, 84 chài 60 Trông (trông chênh) 76 Chông chênh 61 Giòng giòng 117 Ròng ròng 62 Cháp (cái cháp) 89, 90 tráp 63 Chƣng (sáng chƣng) 90 trƣng 64 chống (vác cờ vác chống) 91 trống 65 chạc (chạc năm sáu mƣơi) 92 trạc 66 rễ (rễ chịu) 92 dễ 67 trậm (trậm quá) 93 chậm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên STT Cách viết trong tác phẩm Trang văn bản sử dụng Cách viết hiện nay 68 Chơi (ma chơi) 95 trơi 69 Sô (sô đẩy) 95 Xô 70 sƣớng (sƣớng danh) 95,96,97,98,119,120,121 xƣớng 71 dật (dật mình) 98 giật 72 trống (trống lại) 101 chống 73 sốc (sốc vác) 103 xốc vác 74 trí (ngã trí) 103 chí 75 Dàn dụa 105 Ràn rụa 76 xuốt (sáng xuốt) 109 suốt 77 chằn chọc 118 trằn trọc 78 Chôi ( trôi chẩy) 119 Trôi 79 Trói (trói lọi) 120 Chói 80 Rong (trống rong) 120 giong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên TÀI LIỆU THAM KHẢO * Tác phẩm của Nhất Linh 1. Nho phong - Nghiêm Hàm ấn quán xuất bản, Hà Nội, 1926 2. Người quay tơ - Đời nay xuất bản, Sài Gòn, 1968. 3. Anh phải sống- Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1994 4. Gánh hàng hoa- Nhất Linh, Khái Hƣng, Nxb Tổng Hợp, 1998 5. Đời mưa gió- Nhất Linh, Khái Hƣng, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991 6. Nhất Linh truỵện ngắn, (Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội ,2000 7. Nắng thu - in trong Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, Tập II, Nxb KHXH Hà Nội, 1989 8. Đoạn tuyệt - In trong Tuyển tập tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1999 9. Đi Tây - Nxb Đời nay, Sài Gòn, 1968 10. Lạnh Lùng - In trong Tuyển tập tiểu thuyết Tự lực văn đoàn - tập 1; Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1999 11. Thế rồi một buổi chiều, Đời nay xuất bản, Sài Gòn, 1968 12. Đôi Bạn, Nxb Đại học và giáo dục Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1991 13. Bướm trắng , Nxb Văn học Hà nội , 1996 14. Dòng sông thanh thuỷ - 3 tập , Nxb Đời nay , 1961 15. Viết và đọc tiểu thuyết , Nxb Đời nay , Sài Gòn , 1972 16. Xóm cầu mới - Nxb Phƣợng Giang, Sài Gòn , 1973 * Tác phẩm văn học và các sách - báo - tạp chí khác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17. Vũ Tuấn Anh (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội. 18. Phạm Thị Phƣơng Anh (2006), Đặc trưng ngôn ngữ tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn, luận văn thạc sĩ khoa học văn học, Hà Nội. 19. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội. 20. Nguyễn Thị Song Bình (1998), Truyện ngắn Nhất Linh trước năm 1945, luận văn thạc sĩ khoa học văn học, Hà Nội. 21. Nam Cao (1971), Sống mòn, tiểu thuyết in lần thứ ba, NXB Văn học, Hà Nội. 22. Ân Thị Vân Chi (1998), Độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng, luận văn thạc sĩ khoa học văn học, Hà Nội. 23. Nguyễn Huệ Chi (1989), Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, Nxb Văn học, Hà Nội. 24. Nguyễn Huệ Chi (1996), Hoàng Ngọc Phách đường đời và đường văn, NXB Văn học, Hà Nội. 25.Phong Lê , Huệ Chi (1960), "Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930 - 1945 nhân đọc cuốn Lƣợc thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn", Tạp chí văn học, (số 5). 26. Trƣơng Chính (1939), Dưới mắt tôi, Nxb Thuỵ Ký, Hà Nội. 27. Trƣơng Chính (1989), "Tự lực văn đoàn", Báo người giáo viên nhân dân (số đặc biệt 27 -28 - 29 - 30 - 31 tháng 7). 28. Vũ Thị Khánh Dần (1997), Tiểu thuyết của Nhất Linh trước cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên mạng tháng Tám, Luận án PTS, viện Văn học; Hà Nội. 29. Nguyễn Đức Đàn (1958), "Mấy ý kiến về Nhất Linh và Khái Hƣng - hai nhà văn tiêu biểu trong Tự lực văn đoàn", Tập san Văn- Sử- Địa, (số 46). 30. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. 31. Đặng Anh Đào (1994), "Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học Việt Nam 1930-1945", Tạp chí văn học (số 7). 32. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập I, NXB ĐH& THCN, Hà Nội. 33. Phan Cự Đệ (1981), Những đặc trưng thẩm mĩ của ngôn ngữ tiểu thuyết, NXB Giáo dục, Hà Nội. 34. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn đề lịch sử và lý luận, NXB Giáo dục, Hà Nội. 35. Hà Minh Đức (1999), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 36. Lê Chí Dũng Trần Đình Hƣợu 1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, NXB ĐH & GDCN, Hà Nội. 37.GN Popelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học- Tập II, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê NgọcTrà dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội. 38. Lê Cẩm Hoa (Tuyển chọn và giới thiệu) (2000), Nhất Linh con người và tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội. 39. Nguyễn Công Hoan (2000), Bước đường cùng, NXB Đồng Nai. 40. Nguyễn Văn Hạnh (1999), Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội. 41. Đỗ Đức Hiểu (1990), "Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ"; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tạp chí ngôn ngữ (số 4), quý VI, Hà Nội. 42. Nguyễn Hữu Hiếu (1994), "Mấy suy nghĩ về nhà văn Nhất Linh - Nguyễn Tƣờng Tam", Tạp chí văn học (số 4). 43. Mai Hƣơng (Tuyển chọn) (2000), Nhất Linh- cây bút trụ cột của Tự lực văn đoàn, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 44. Mai Hƣơng (Tuyển chọn) (2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 45. Nguyễn Thị Mai Hƣơng (2008), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh từ Đôi bạn đến Bướm trắng, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Thái Nguyên. 46. Khái Hƣng (1999) Hồn bƣớm mơ tiên, Tuyển tập Tự lực văn đoàn, (Tập II), NXB Hội nhà văn. 47. Khái Hƣng (1999) Nửa chừng xuân, Tuyển tập Tự lực văn đoàn, (Tập II), NXB Hội nhà văn. 48. Nguyễn Hoành Khung (1983), Tự lực văn đoàn, Từ điển văn học, (Tập II), Nxb KHXH, Hà Nội. 49. Nguyễn Hoành Khung (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 - 1945), tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội 50. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn Hà Nội. 51. Phong Lê (2004), "Chữ viết và yêu cầu xây dựng một nền quốc văn mới ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX", Tạp chí Hán Nôm, số 5, (66). 52. Phạm Quang Long (1990), "Tự lực văn đoàn - một kiểu tƣ duy văn học", Tạp chí khoa học, (số 2), Trƣờng Đại học tổng hợp Hà Nội. 53. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nxb Giáo dục, Hà Nội. 54. Phƣơng Lựu (Chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 55.Phƣơng Lựu (Chủ biên) (2006), Lý luận văn học , Nxb Giáo dục Hà Nội. 56. Phƣơng Lựu (1995), Tìm hiểu lí luận văn học phương Tây hiện đại, NXB văn học, Hà Nội. 57. Phƣơng Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 58. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Văn học, Hà Nội. 59. Nguyễn Đăng Mạnh (Sƣu tầm, tuyển chọn) 1998), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng tập 1, NXB Văn học, Hà Nội. 60. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 61. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), "Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX", Tạp chí văn học (số 5). 62. Nam Mộc (1962), "Sai lầm chủ yếu trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh", Tạp chí văn học (số 7). 63. Tú Mỡ (1988), "Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn", Tạp chí văn học (số 5, 6). 64. Tôn Thảo Miên (Tuyển chọn) (2007), Truyện ngắn Thạch Lam tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, Hà Nội. 65. Lê Hồng My (2004), Lời văn nghệ thuật trong văn xuôi Nguyên Hồng, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, ĐHSP Thái Nguyên. 66. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, trƣờng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 67. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - những vấn đề văn xuôi tự sự, NXB Giáo dục, Đà Nẵng. 68. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 2, NXb Giáo dục, Hà Nội 69. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 70.Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Tập I, NXB Văn học - Hội nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh 71. Hoàng Ngọc Phách (1988), Tố Tâm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 72. Hà Đình Sơn (2006), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết "Bướm trắng" của Nhất Linh, luận văn thạc sĩ ngữ văn, Hà Nội. 73. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb GD, Hà Nội. 74. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. 75. Hoài Thanh, Hoài Chân (2006), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội. 76. Bích Thu (Tuyển chọn) (1999, Nam Cao - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 77. Ngô Văn Thƣ (2005), Tiểu thuyết của Khái Hưng, luận văn tiến sĩ khoa học ngữ văn, Hà Nội. 78. Phạm Thị Thƣ (2008) Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Thái Nguyên 79. Trần Thị Trâm (2003), Hoàng Ngọc Phách - ngƣời đổi mới tiểu thuyết, NXB Thanh niên, Hà Nội. 80.Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 81. Hoàng Tiến (1994), Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ XX, NXB Lao động, Hà Nội. 82. Lê Thị Dục Tú (1996), Quan niệm về con ngƣời trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, NXB Thanh niên, Hà Nội. 83. Nguyễn Thị Thuý Toàn (2004), Ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Hà Nội. 84. Ngô Tất Tố (2000), Tắt đèn, NXB Đồng Nai. 85. Trần Đăng Xuyền 2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 86. Trần Đăng Xuyền (2002), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9365.pdf