Tài liệu Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu: Thực trạng và giải pháp phát triển tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội: ... Ebook Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu: Thực trạng và giải pháp phát triển tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội
123 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2943 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu: Thực trạng và giải pháp phát triển tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU
Hình 1.1. Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp trong ngoại thương 20
Hình 1.2. Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp trong ngoại thương 21
Hình 1.3. Sơ đồ xác nhận bảo lãnh 32
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng doanh số phát sinh các loại hình bảo lãnh trong nước giai đoạn 2006 – 2008 66
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu phát sinh các loại bảo lãnh trong nước trong giai đoạn 2006 - 2008 67
Biểu đồ 2.3: Dư nợ bảo lãnh trong nước giai đoạn 2006- 2008 70
Biểu 2.4: Tăng trưởng nguồn phí thu từ hoạt động bảo lãnh giai đoạn 2006 - 2008 76
Bảng 2.1: Nguồn vốn huy động của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội giai đoạn 2005 – 2008 44
Bảng 2.2 Doanh số bảo lãnh phát sinh theo loại hình bảo lãnh trong giai đoạn 2006-2008 64
Bảng 2.3: Tình hình giải toả bảo lãnh trong nước trong giai đoạn 2006-2008 68
Bảng 2.4: Số dư bảo lãnh theo loại hình bảo lãnh tính đến 31/12 các năm 2006, 2007 và 2008 69
Bảng 2.5: Tình hình bảo lãnh nước ngoài tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong giai đoạn 2006 – 2008 71
Bảng 2.6: Doanh số phát sinh bảo lãnh theo các thành phần kinh tế trong giai đoạn 2006-2008 (Đơn vị: Tỷ đồng, 1000USD, 1000EUR) 73
Bảng 2.7: Tình hình giải toả bảo lãnh theo các thành phần kinh tế trong giai đoạn 2006-2008 (Đơn vị: Tỷ đồng, 1000USD, 1000EUR) 74
Bảng 2.8: Dư nợ bảo lãnh theo các thành phần kinh tế năm 2007, 2008 75
Bảng 2.9: Phí thu từ hoạt động bảo lãnh giai đoạn 2006 – 2008 76
Bảng 2.10: Bảo đảm bảo lãnh trong giai đoạn 2006 – 2008 77
Bảng 3.1: Doanh số bảo lãnh xuất nhập khẩu năm 2009 97
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt tiếng Anh
GDP
Gross Domestic Product
Tổng thu nhập quốc nội
USD
United State Dollar
Đô la Mỹ
VCB
Vietcombank
Ngân hàng Ngoại thương
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
Chữ viết tắt tiếng việt
CMTND
Chứng minh thư nhân dân
CN
Chi nhánh
CNTT
Công nghệ thông tin
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
GDV
Giao dịch viên
VCBTW
Vietcombank trung ương
VND
Việt Nam đồng
NHTM
Ngân hàng thương mại
PGD
Phòng giao dịch
TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
XNK
Xuất nhập khẩu
LỜI MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển nhanh cả về quy mô và chất lượng. Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc điều hành chính sách tiền tệ, ổn định tỷ giá, lãi suất và kiềm chế lạm phát, góp phần làm ổn định kinh tế và tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao. Đặc biệt từ sau khi hội nhập WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã mở rộng rất nhanh và có những đóng góp quan trọng nhất định đối với công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia, chăm lo cho đội ngũ doanh nghiệp, góp phần phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế phát triển ngày càng sâu rộng mở ra nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế. Các doanh nghiệp ngày càng có nhiều mối quan hệ kinh doanh thương mại với các doanh nghiệp trên thế giới. Hoạt động của các Ngân hàng thương mại cũng ngày càng phát triển theo hướng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ. Thương mại quốc tế phát triển tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp nhưng đồng thời cũng làm gia tăng thêm nhiều rủi ro. Với vai trò trung gian trong nền kinh tế, các ngân hàng không ngừng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ như tín dụng, thanh toán xuất nhập khẩu, tài trợ thương mại,….và đặc biệt là dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu.
Là một chi nhánh ngân hàng thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, được sự uỷ quyền của Ngân hàng trung ương, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng đã triển khai nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nhằm phục vụ nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, vì là một nghiệp vụ còn khá mới nên nghiệp vụ này chưa phát triển tương xứng với nhu cầu của nền kinh tế. Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, xét thấy nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu nên em chọn đề tài “Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu: Thực trạng và giải pháp phát triển tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập của mình.
Mục đích nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá kết quả hoạt động của nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu tại các Ngân hang thương mại và thực trạng hoạt động của nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Từ đó phân tích những thành công, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế để đề ra các giải pháp phát triển.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trong những năm gần đây, đặc biệt trong giai đoạn 2006 – 2008.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp và phương pháp so sánh được sử dụng xuyên suốt trong quá trình làm chuyên đề.
Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương chính như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan chung về bảo lãnh ngân hàng
1.1.1. Khái niệm bảo lãnh và bảo lãnh ngân hàng
Xét trên phạm vi toàn xã hội, hoạt động “bảo lãnh” đang phát triển hết sức phong phú và đa dạng như bảo lãnh của một tổ chức quốc tế đối với một nước; bảo lãnh giữa công ty mẹ với công ty con; bảo lãnh của nhà nước với doanh nghiệp; bảo lãnh của ngân hàng với cá nhân, doanh nghiệp,…Chúng ta cũng thường nghe nói đến bảo lãnh xuất nhập cảnh, bảo lãnh tạm tha,…Với mỗi lĩnh vực khác nhau, “bảo lãnh” lại có những đặc trưng riêng.
Theo điều 362 - Bộ Luật Dân sự Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, “bảo lãnh” được hiểu là: “Việc người thứ ba (người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (người được bảo lãnh) nếu khi đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ....” .
Trong lĩnh vực ngân hàng, “bảo lãnh” cũng được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau:
Xét về góc độ học thuật, bảo lãnh ngân hàng là một hình thức “Tín dụng chữ ký – Signature Credit”, là hoạt động sinh lời mà ngân hàng không cần phải bỏ vốn.
Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam quy định: “Bảo lãnh ngân hàng là một trong các hình thức cung cấp tín dụng , được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay” (Giáo trình thanh toán quốc tế - Học viện Ngân hàng)
Theo điều 2 – Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay” .
Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được xem như là một loại hình tài trợ ngoại thương với mục đích nhằm phòng ngừa các tổn thất cho người thụ hưởng bảo lãnh trong trường hợp có sự vi phạm nghĩa vụ của bên đối tác có liên quan.
Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm bảo lãnh ngân hàng được quy định trong Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước được sử dụng phổ biến hơn cả.
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh, thường có ít nhất 3 bên tham gia, đó là: người bảo lãnh, người được bảo lãnh (người xin bảo lãnh) và người thụ hưởng bảo lãnh. Quan hệ giữa các bên được quy định bới 3 hợp đồng độc lập nhau: hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh; hợp đồng giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người được bảo lãnh; hợp đồng giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh.
Người bảo lãnh – The Guarantor: Là người dùng uy tín của mình đứng ra cam kết sẽ chịu trách nhiệm thay cho người được bảo lãnh trong trường hợp họ không thực hiện đúng hợp đồng với bên hưởng thụ bảo lãnh. Trong bảo lãnh ngân hàng, người bảo lãnh là ngân hàng với khả năng tài chính và uy tín được bên thụ hưởng chấp nhận. Ngân hàng bảo lãnh có khi chỉ là một ngân hàng phục vụ người xin bảo lãnh (trong trường hợp bảo lãnh trực tiếp); và cũng có khi là hai ngân hàng tham gia, trong đó một ngân hàng phục vụ người xin bảo lãnh, một ngân hàng phục vụ người thụ hưởng bảo lãnh (trong trường hợp bảo lãnh gián tiếp).
Người xin bảo lãnh hay người được bảo lãnh – The Principal: Là người yêu cầu để được ngân hàng đứng ra bảo lãnh.
Người thụ hưởng bảo lãnh – The Beneficary: Là người được ngân hàng bảo lãnh thanh toán nếu bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng.
1.1.2. Đặc điểm và tính chất của bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng thực chất là lời hứa thanh toán của ngân hàng đối với người thụ hưởng bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng. Do đó, nó là một công cụ bảo đảm chứ không phải là một công cụ thanh toán với các đặc điểm như sau:
Tính độc lập tương đối
- Độc lập với hợp đồng “chính”: Quan hệ của các bên khi tham gia vào một “bảo lãnh ngân hàng” được quy định bởi 3 hợp đồng và các bên trong mỗi hợp đồng lại có quyền và nghĩa vụ riêng.
+ Hợp đồng thứ nhất: hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh.
+ Hợp đồng thứ hai: hợp đồng giữa ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh.
+ Hợp đồng thứ ba: hợp đồng giữa ngân hàng bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh.
Hợp đồng thứ nhất là gốc để hình thành hợp đồng thứ hai và hợp đồng thứ ba. Hai hợp đồng ra đời sau để phục vụ cho hợp đồng thứ nhất. Tuy nhiên, hợp đồng thứ nhất sẽ không được thực hiện đầy đủ nếu hai hợp đồng sau không có giá trị hiệu lực. Mối quan hệ giữa ba loại hợp đồng này là mối quan hệ “nguyên nhân - kết quả”. Chúng có mối quan hệ khá logic với nhau nhưng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong từng hợp đồng lại không bị ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau.
Ngân hàng bảo lãnh thực hiện cam kết của mình dựa vào căn cứ duy nhất, đó là người thụ hưởng bảo lãnh có thoả mãn đầy đủ các điều kiện bảo lãnh như hợp đồng đã ký kết hay không. Trách nhiệm thanh toán của ngân hàng bảo lãnh không chịu sự chi phối của mối quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh. Ngay cả khi người được bảo lãnh bị phá sản, mất khả năng thanh toán hay thiếu nợ ngân hàng,.., thì ngân hàng vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của mình đối với người thụ hưởng. Ngân hàng bảo lãnh không liên quan đến quyền, nghĩa vụ cũng như các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thứ nhất giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh.
Người thụ hưởng bảo lãnh nếu thoả mãn đầy đủ các điều kiện của bảo lãnh sẽ được ngân hàng bảo lãnh thanh toán mà không bị ngăn cản bởi sự ràng buộc với người được bảo lãnh trong hợp đồng thứ nhất.
Theo quan điểm của các ngân hàng thì tính độc lập với hợp đồng “chính” mang lại nhiều thuận lợi do ngân hàng chỉ xem xét sự phù hợp của các chứng từ với các điều khoản và điều kiện của bảo lãnh.
- Phụ thuộc vào các điều kiện của bảo lãnh: theo như phân tích ở trên,“bảo lãnh ngân hàng” mang tính độc lập, nhưng trên thực tế nó còn phụ thuộc vào các điều kiện bảo lãnh: bảo lãnh vô điều kiện hay bảo lãnh có điều kiện.
Bảo lãnh vô điều kiện là loại bảo lãnh trong đó quy định người bảo lãnh sẽ bồi thường cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng có bản tuyên bố đầu tiên kèm với một lệnh thanh toán chứng minh rằng người được bảo lãnh đã vi phạm nghĩa vụ quy định trong cam kết mà không cần có sự đồng ý của người được bảo lãnh. (Giáo trình Thanh toán quốc tế - Đại học Ngoại thương. Loại bảo lãnh này đảm bảo được tính độc lập của “bảo lãnh ngân hàng” vì nó không có yếu tố thứ ba trong giao dịch. Ngân hàng bảo lãnh không được trì hoãn thanh toán với bất cứ lý do gì liên quan đến hợp đồng gốc. Chỉ có người thụ hưởng là có lợi thế tuyết đối trong loại bảo lãnh này.
Bảo lãnh có điều kiện là loại bảo lãnh mà theo đó người bảo lãnh chỉ bồi thường cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng có đủ các chứng từ hay các bằng chứng pháp lý chứng minh mình đã thực hiện những nghĩa vụ cụ thể, hay chứng minh người được bảo lãnh đã vi phạm nghĩa vụ trong cam kết. (Giáo trình Thanh toán quốc tế - Đại học Ngoại thương). Đối với loại bảo lãnh này, các chứng từ được quy định có thể là các chứng từ do bên thứ ba cung cấp, ví dụ như quyết định của trọng tài, phán quyết của toà án,…Trong trường hợp này, tính độc lập của giao dịch bảo lãnh bị điều chỉnh. Ngân hàng bảo lãnh phải tiến hành kiểm tra các chứng từ gửi đến một cách cẩn thận.
“Bảo lãnh ngân hàng” mang tính chất độc lập như vậy nhưng cũng chính tính chất độc lập này đã làm tăng thêm rủi ro trong một giao dịch bảo lãnh, cụ thể là tăng thêm rủi ro phải thanh toán hộ. Rõ ràng, nếu là bảo lãnh có điều kiện thì rủi ro phải thanh toán hộ sẽ nhỏ hơn là bảo lãnh vô điều kiện khi xuất hiện sự không trung thực của bên yêu cầu bảo lãnh.
Bảo lãnh là một mối quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau
Như ở các phần trên đã đề cập, trong một giao dịch bảo lãnh có ít nhất là 3 bên tham gia với 3 hợp đồng được ký kết. Vì vậy, “bảo lãnh” không phải chỉ là mối quan hệ giữa hai bên mà là một mối quan hệ được tạo thành trong mối quan hệ nhiều bên gồm có:
+ Mối quan hệ cơ sở: là mối quan hệ giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh . Đây là gốc để hình thành các mối quan hệ khác được quy định bởi các điều khoản và điều kiện thoả thuận trong hợp đồng cơ sở. Để thực hiện nghĩa vụ của mình, người được bảo lãnh phải có yêu cầu với ngân hàng bảo lãnh để ngân hàng phát hành thư lãnh cho người thụ hưởng.
+ Mối quan hệ uỷ thác: tuỳ vào chủ thể trong giao dịch bảo lãnh mà có các mối hệ uỷ thác khác nhau. Đó có thể là:
Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và ngân hàng đại lý của nó hoặc với ngân hàng do người thụ hưởng bảo lãnh chỉ định. Mối quan hệ này được hình thành khi các ngân hàng này thực hiện thông báo bảo lãnh tới người thụ hưởng.
Mối quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người thụ hưởng (theo hợp đồng thứ hai). Ngân hàng phải thực hiện đúng cam kết nếu người thụ hưởng thực hiện đúng các điều kiện bảo lãnh. Và ngược lại, ngân hàng có quyền từ chối khi người thụ hưởng không thoả mãn các điều kiện bảo lãnh.
Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh với ngân hàng xác nhận, ngân hàng thanh toán.
Mối quan hệ giữa người thụ hưởng bảo lãnh với ngân hàng xác nhận, ngân hàng thanh toán.
Các mối quan hệ trên độc lập với nhau nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong quá trình thực hiện một giao dịch bảo lãnh.
Tính chất chứng từ
Giao dịch truyền thống của các ngân hàng là dựa trên cơ sở chứng từ, thể hiện rõ nét nhất là trong phương thức tín dụng chứng từ. Trong giao dịch bảo lãnh, tính chất chứng từ vẫn được thể hiện nhưng với mức độ thấp hơn. Ngân hàng bảo lãnh chỉ xem xét bề mặt các chứng từ xuất trình. Nếu các chứng từ là phù hợp, ngân hàng buộc phải thanh toán cho người thụ hưởng bảo lãnh. Và ngược lại, ngân hàng có quyền từ chối.
1.1.3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
Chức năng pháp lý
Theo yêu cầu của người xin bảo lãnh, ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng bảo lãnh hưởng, điều này có nghĩa là người xin bảo lãnh đã thừa nhận nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của mình và bị ràng buộc trách nhiệm về mặt pháp lý.
Chức năng đôn đốc thực hiện hợp đồng
Khi ngân hàng đã phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng bảo lãnh hưởng, nếu người xin bảo lãnh không thực hiện đúng hợp đồng, vi phạm cam kết trong hợp đồng thì người được bảo lãnh phải bồi thường tổn thất cho người thụ hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng đã buộc người xin bảo lãnh thực hiện hợp đồng một cách nghiêm túc để không phải bồi thường. Ngân hàng bảo lãnh với cam kết của mình thường xuyên kiểm tra, giám sát tạo ra một áp lực thực hiện hợp đồng và giảm thiểu những vi phạm từ phía người xin bảo lãnh.
Chức năng bồi thường
Trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện hợp đỗng hoặc thực hiện không đúng thì người thụ hưởng bảo lãnh sẽ nhận được khoản bồi thường cho những thiệt hại phát sinh. Nếu người được bảo lãnh mất khả năng thanh toán thì người thụ hưởng vẫn nhận được khoản bồi thường từ ngân hàng bảo lãnh do đã có cam kết trong hợp đồng thứ ba.
Công cụ tài trợ
Bảo lãnh ngân hàng là một công cụ tài trợ tài chính cho người được bảo lãnh một cách gián tiếp, áp dụng đối với bảo lãnh thực hiện hợp đồng nhập khẩu (người yêu cầu bảo lãnh là người nhập khẩu). Trong một số trường hợp, thông qua bảo lãnh mà người được bảo lãnh không phải ký quỹ hoặc được ngân hàng ứng trước vốn để thực hiện thanh toán cho bên đối tác (chỉ khi nào người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thì ngân hàng mới thực hiện thay). Như vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn, không phải ngay lập tức dùng vốn để thực hiện nghĩa vụ, nhưng với việc phát hành thư bảo lãnh, ngân hàng đã giúp khách hàng hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi vạy thực sự.
1.1.4. Điều kiện cần thiết để thực hiện bảo lãnh của các Ngân hàng thương mại
Các ngân hàng muốn tham gia giao dịch bảo lãnh phải đáp ứng được một số điều kiện cơ bản sau đây:
Nguồn tài chính vững chắc: Có thể coi đây là điều kiện đầu tiên, quan trọng nhất đảm bảo cho các ngân hàng có khả năng thực hiện được nghiệp vụ của mình. Sở dĩ như vậy là vì nghiệp vụ bảo lãnh cũng giống như các nghiệp vụ khác của ngân hàng, luôn luôn tiềm ẩn những rủi ro trong thanh toán. Trong trường hợp người được bảo lãnh mất khả năng thanh toán, ngân hàng phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng. Nếu ngân hàng không có những khoản dự phòng từ trước, không có đủ nguồn tài chính thì nghĩa vụ hợp đồng sẽ khó được thức hiện đầy đủ. Chỉ những ngân hàng có tiềm lực tài chính vững chắc mới có đủ khả năng và uy tín đóng vai trò là người thứ ba đứng ra bảo lãnh, nhất là trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Dịch vụ bảo lãnh đa dạng với đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm
Khách hàng sẽ lựa chọn ngân hàng bảo lãnh cho họ nếu ngân hàng đó có một dịch vụ bảo lãnh đa dạng, nhanh chóng và tiện lợi; có đội ngũ nhân viên chuyên môn giỏi. Nếu không đáp ứng đựơc các yêu cầu đó, ngân hàng được chọn sẽ phải chuyển tiếp đến một ngân hàng có quy mô lớn hơn để xử lý. Như vậy, khách hàng sẽ mất rất nhiều chi phí, chi phí và ngân hàng thì sẽ không có cơ hội ký hợp đồng tiếp theo với họ. Bởi thế, để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh một cách có hiệu quả, đìều kiện cần có đối với các ngân hàng là cần xây dựng được một hệ thống nhân viên có năng lực giỏi, xây dựng các loại hình bảo lãnh thật phong phú để phục vụ mọi nhu cầu của khách hàng.
Có mối quan hệ ngân hàng đại lý rộng lớn
Ngoài mối quan hệ với Ngân hàng Nhà nước, để khẳng định và tạo thêm uy tín cho mình, các ngân hàng phải có một mối quan hệ bền chặt với các ngân hàng đại lý. Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, ngân hàng nào có mối quan hệ đại lý rộng lớn thì chắc chắn sẽ có uy tín và được lựa chọn nhiều hơn.
Có mối quan hệ tương hỗ, chặt chẽ với các cơ quan tổ chức cung ứng dịch vụ như tổ chức bảo hiểm, tổ chức tín dụng, cục xúc tiến thương mại,…Dựa vào những lợi ích từ dịch vụ của các tổ chức này, cũng như sự bảo đảm từ họ, ngân hàng sẽ cân nhắc và xác lập cấu trúc dịch vụ bảo lãnh cho phù hợp.
1.2. Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, người xuất khẩu và người nhập khẩu luôn luôn lo ngại về các rủi ro có thể xảy ra, ví dụ như:
+ Rủi ro đối với người nhập khẩu nếu người xuất khẩu không có khả năng giao hàng sau khi đã ký kết hợp đồng, cố tình trì hoãn việc giao hàng hay gia hàng không đúng hợp đồng,…
+ Rủi ro đối với người xuất khẩu nếu người nhập khẩu sau khi nhận hàng bị mất khả năng thanh toán hoặc cố tình ép giảm giá,…
Để tránh được các rủi ro nêu trên và đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thương mại quốc tế, cần có sự bảo đảm của bên thứ 3 - cam kết bồi thường cho bên bị thiệt hại do bên đối tác gây ra. Trên thực tế, người có khả năng đứng ra với vai trò là người thứ 3 thường là các ngân hàng. Bởi lẽ, để thực hiện được ngay việc bồi thường này thì người thứ 3 phải là người có uy tín, có khả năng tài chính được cả hai bên tin tưởng. Do đó, trong các hợp đồng kinh tế, khi nói đến “Bảo lãnh” người ta thường nghĩ ngay đó là “ Bảo lãnh ngân hàng” – Bank Guarantees. Nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh phát sinh khi khách hàng cần: • Ngân hàng chứng minh năng lực tài chính, khả năng thanh toán. • Ngân hàng chứng minh khả năng thực hiện các cam kết của hợp đồng.
Như vậy, nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM được hiểu là “các hoạt động mang tính bảo lãnh của ngân hàng nhằm đáp ứng những nhu cầu đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu trong quá trình giao dịch ngoại thương” (Giáo trình Thanh toán quốc tế và tài trợ xuất nhập khẩu- Học viện Ngân hàng). Nó là một nghiệp vụ nằm trong nghiệp vụ bảo lãnh nói chung của ngân hàng.
Quá trình giao dịch ngoại thương là toàn bộ diễn biến của một thương vụ xuất - nhập khẩu. Nó có thể được hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình bắt đầu từ khi tìm kiếm đối tác, thiết kế sản phẩm, chào hàng, đặt hàng, ký hợp đồng cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng.
Thông thường, thời gian của một quy trình nghiệp vụ xuất - nhập khẩu là tương đối ngắn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thời gian có thể kéo dài, ví dụ như đối với các công trình, dự án hoặc thương vụ lớn. Chính yếu tố thời gian này đã quyết định đến thời hạn của bảo lãnh. Vì thế, thời hạn của bảo lãnh hết sức linh hoạt, tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên tham gia.
Đối tượng trong một giao dịch bảo lãnh xuất nhập khẩu thường là hàng hoá, dịch vụ hoặc công trình dự án.
Trong thương mại quốc tế, nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của ngân hàng được xem là loại hình tài trợ ngoại thương.
1.2.2. Cơ sở ra đời, tồn tại và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển làm gia tăng sự cạnh tranh trong môi trường kinh doanh. Các nhà xuất khẩu hàng hoá không chỉ phải cạnh tranh với các nhà xuất khẩu trong nước, mà còn phải cạnh tranh với các nhà xuất khẩu nước ngoài nhằm chiếm lĩnh thị phần. Trong khi đó, người tiêu dùng, người nhập khẩu lại có yêu cầu ngày càng khắt khe đối với hàng hoá, không chỉ ở chất lượng, giá cả, mẫu mã,… mà còn ở nhiều yếu tố khác. Muốn giành ưu thế trong kinh doanh, người xuất khẩu buộc phải đưa ra những lời chào hàng hấp dẫn, những điều kiện ưu đãi. Một trong số đó là sự ưu đãi trong thanh toán. Người nhập khẩu có thể ko cần phải thanh toán ngay nhưng người xuất khẩu cần có sự bảo đảm từ phía người nhập khẩu để họ chắc chắn rằng họ có thể thu hồi được vốn nhanh nhất.
Đối lập với mong muốn của người xuất khẩu, người nhập khẩu luôn mong muốn trì hoãn việc thanh toán vì không phải lúc nào họ cũng có đủ vốn. Nhưng cơ hội kinh doanh thì không thể bỏ lỡ. Người nhập khẩu cần có một nguồn ngoại lực trợ giúp, nhất là đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ dẫn đến rủi ro và thất bại, ngoài những khó khăn giống như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nội địa, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi kinh doanh còn có khả năng gặp phải rất nhiều nguy cơ khác xuất phát từ các yếu tố đặc thù trong thương mại quốc tế như: rủi ro tỷ giá, sự thay đổi luật pháp, sự khác biệt về phong tục tập quán,…Trước đó, người ta đã sử dụng các công cụ kiểm soát như: bảo lãnh hối phiếu (bằng cách ghi ‘good as aval” vào mặt trước hoặc sau của tờ hối phiếu); chấp nhận của ngân hàng (Bank’s acceptance) hay tín dụng chứng từ (Documentary Credits). Nhưng đây mới chỉ là các công cụ để đối phó với rủi ro không thanh toán. Để đối phó với các rủi ro do việc không thực hiện đồng, người ta đã sử dụng công cụ như thư tín dụng dự phòng (Stand by letter of credit) và bảo lãnh độc lập. Tuy nhiên, các công cụ này vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thoả mãn được các yêu cầu từ khách hàng.
Hoạt động xuất nhập khẩu luôn luôn giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược thúc đẩy quan hệ kinh tế của bất cứ quốc gia nào. Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu được xem như là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Vì vậy, ngoài các chính sách ưu đãi xuất nhập khẩu thì cũng cần phải có chính sách bảo lãnh xuất nhập khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu ra đời, là một bộ phận của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng với đối tượng bảo lãnh chính là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã phần nào giải quyết được yêu cầu đó.
1.2.3. Vai trò của hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại
Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Bảo lãnh xuất nhập khẩu ra đời cùng với các dịch vụ ngân hàng khác đã góp phần làm giảm rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh. Thông qua nghiệp vụ của mình, ngân hàng đã gián tiếp cung cấp cho doanh nghiệp một sự bảo đảm nhằm giải quyết những khó khăn về tài chính, đồng thời tăng thêm uy tín cho mình và cho các doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không phải lúc nào cũng tin tưởng hoàn toàn vào phía đối tác, nên thông qua nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận đến hợp đồng hơn khi có bên yêu cầu bắt buộc phải có sự bảo lãnh. Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng giúp các bên tin tưởng vào nhau hơn và đề phòng được các rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng. Ngoài ra:
* Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu
- Nếu là bảo lãnh thực hiện hợp đồng nhập khẩu (tức là người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh cho người xuất khẩu hưởng, cam kết sẽ thanh toán) trong một số trường hợp, khi tham gia vào giao dịch bảo lãnh, doanh nghiệp sẽ không phải ký quỹ nên có thể sử dụng số vốn hiện có của mình để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ vốn để nhập khẩu hàng hoá, trong khi có quá nhiều các doanh nghiệp cạnh tranh. Để không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, doanh nghiệp nhờ tới sự bảo lãnh của ngân hàng để ngân hàng đứng ra cam kết hoặc trả trước cho người xuất khẩu. Thay vì phải vay vốn từ ngân hàng, doanh nghiệp chỉ dựa vào uy tín của ngân hàng để tham gia thương vụ và chỉ phải trả một khoản phí nhỏ. Do đó, doanh nghiệp tiết kiệm được khoản vay vốn. Nếu là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, chưa có uy tín lớn trên thương trường thì việc dựa vào uy tín của ngân hàng là vô cùng cần thiết.
- Nếu là bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu (người xuất khẩu yêu cầu ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh cho người nhập khẩu hưởng).Trong trường hợp này, người nhập khẩu được đảm bảo là sẽ nhận được hàng hoá theo đúng hợp đồng cơ sở. Nếu người xuất khẩu không giao hàng đủ hoặc không thực hiện đúng các nghĩa vụ theo như hợp đồng đã ký thì người nhập khẩu chắc chắn sẽ nhận được tiền bồi thường. Nhờ vào sự bảo lãnh của ngân hàng mà rủi ro cho người nhập khẩu giảm đi đáng kể.
* Đối với doanh nghiệp xuất khẩu
- Nếu là bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu: vì người xuất khẩu là người xin bảo lãnh nên nếu vi phạm hợp đồng, người xuất khẩu phải bồi thường tổn thất cho người nhập khẩu. Bảo lãnh ngân hàng đóng vai trò đôn đốc người xuất khẩu thực hiện hợp đồng một cách nghiêm túc để không phải bồi thường.
- Nếu là bảo lãnh thực hiện hợp đồng nhập khẩu: người thụ hưởng bảo lãnh là người xuất khẩu nên người xuất khẩu được bảo đảm là sẽ được thanh toán đầy đủ kể cả trong trường hợp người nhập khẩu phá sản, mất khả năng thanh toán.
Đối với các NHTM
Giống như các nghiệp vụ khác, nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu cũng mang lại nguồn thu cho ngân hàng thông qua tiền lãi và phí.
Không những đóng góp vào lợi nhuận của ngân hàng, bảo lãnh xuất nhập khẩu còn làm gia tăng tính đa dạng trong hình thức bảo lãnh nói riêng, loại hình dịch vụ nói chung và hoạt động của toàn ngân hàng.
Có thể nói bảo lãnh nói chung và bảo lãnh xuất nhập khẩu của ngân hàng nói riêng là hình thức kinh doanh khá an toàn. Ngân hàng luôn thận trọng trong việc xử lý các yêu cầu bảo lãnh do tính phức tạp của thương mại quốc tế nên hạn chế được nhiều rủi ro bị mất vốn. Mặt khác, các khách hàng xin được bảo lãnh đều có tài khoản tại ngân hàng nên ngân hàng hoàn toàn có thể quản lý các nguồn thanh toán, tránh được tình trạng xoay vốn của khách hàng khi chưa đến hạn thanh toán.
Một vai trò nữa của nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và bảo lãnh ngân hàng nói chung là thông qua nghiệp vụ, ngân hàng thực hiện được chính sách khách hàng - một trong những chính sách quan trọng nhằm phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng áp dụng hình thức bảo lãnh với nhiều ưu đãi cho các khách hàng truyền thống, qua đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng mới. Bên cạnh đó còn giúp cho các dịch vụ khác phát triển như: thanh toán, huy động vốn, tín dụng,…
Một lợi ích nữa cũng hết sức quan trọng là thông qua bảo lãnh xuất nhập khẩu, ngân hàng nâng cao được vị thế và uy tín trên trường quốc tế. Vì giao dịch bảo lãnh xuất nhập khẩu không phải chỉ thực hiện với các doanh nghiệp trong nước, mà còn có sự tham gia của các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài. Do đó, ngân hàng có thể mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý của mình để hoạt động có hiệu quả hơn. Mặt khác, giao dịch bảo lãnh thành công sẽ khẳng định thêm uy tín cho ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh và khả năng phát triển.
Đối với nền kinh tế
Dựa vào mục 1.2.2 ta có thể khẳng định bảo lãnh xuất nhập khẩu ra đời là một tất yếu khách quan, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Nhờ có bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và bảo lãnh ngân hàng nói chung mà các đối tác tin tưởng nhau hơn, họ có cơ sở để tin rằng họ có thể tránh được các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Do đó. họ an tâm xúc tiến ký kết nhiều hợp đồng kinh tế hơn và thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đã cam kết. Bảo lãnh đem lại lợi ích cho các bên tham gia và do đó cũng đem lại lợi ích cho nền kinh tế.
Cũng chính vì bảo lãnh xuất nhập khẩu có các chức năng như một công cụ._. bảo lãnh ngân hàng nên nó còn tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, tăng tính năng động cho nền kinh tế và ổn định thị trường. Điều này không những thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển mà còn là tiền đề thúc đẩy quan hệ kinh tế với các quốc gia khác nữa.
1.2.4. Các loại hình bảo lãnh xuất nhập khẩu
a/ Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh
Bảo lãnh trực tiếp (Direct Guarantee)
Là loại bảo lãnh ngân hàng, trong đó ngân hàng bảo lãnh cam kết bồi thường không huỷ ngang trực tiếp cho người thụ hưởng bảo lãnh. Sau khi đã bồi thường cho người thụ hưởng, ngân hàng sẽ truy đòi bồi hoàn trực tiếp từ người xin bảo lãnh. Giáo trình Thanh toán quốc tế - Học viện ngân hàng (2008).Tr 521
Thông thường, một giao dịch bảo lãnh có 3 bên tham gia: ngân hàng bảo lãnh, người xin bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Nhưng khi người thụ hưởng ở nước ngoài thì thường có thêm một ngân hàng nữa tham gia làm đại lý cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Ngân hàng đại lý này là tại nước người thụ hưởng, làm nhiệm vụ thông báo thư bảo lãnh cho người thụ hưởng.
Hình 1.1. Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp trong ngoại thương
Ngân hàng phát hành bảo lãnh
Người xin
bảo lãnh
Người thụ
hưởng bảo lãnh
Ngân hàng
thông báo
(4)
(2) (3) (4)
(1)
Nguồn: Giáo trình Thanh toán quốc tế - Học viện Ngân hàng
Trong đó:
(1) Hợp đồng gốc được ký kết giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh.
(2) Người bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh và cam kết hoàn trả.
(3) Trường hợp không có ngân hàng đại lý, ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng.
(4) Trường hợp có ngân hàng đại lý, ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và chuyển cho người thụ hưởng thông qua ngân hàng đại lý.
Bảo lãnh gián tiếp (Indirect Guarantee)
Là loại bảo lãnh ngân hàng trong đó người xin bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng chỉ thị) đề nghị ngân hàng ở nước ngoài (ngân hàng bảo lãnh) phát hành thư bảo lãnh (gọi là bảo lãnh gốc) và chuyển cho người thụ hưởng. Giáo trình Thanh toán quốc tế - Học viện Ngân hàng (2008). Tr 522
Ngân hàng chỉ thị phải phát hành một thư bảo lãnh cho ngân hàng bảo lãnh hưởng. Thư bảo lãnh gọi là thư bảo lãnh đối ứng hay bảo lãnh giáp lưng (Counter Guarantee or Back – to – Back Guarantee). Nghĩa vụ bảo lãnh được quy định cụ thể trong thư bảo lãnh này.
Khi xảy ra vi phạm hợp đồng, người thụ hưởng sẽ truy đòi ngân hàng phát hành bảo lãnh; ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ truy đòi ngân hàng chỉ thị và ngân hàng chỉ thị truy đòi người xin bảo lãnh. Loại bảo lãnh này có lợi cho người thụ hưởng do ngân hàng phát hành bảo lãnh ở tại nước họ nên họ được thuận tiện hơn trong giao dịch hoặc đòi tiền sau này.
Hình 1.2. Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp trong ngoại thương
Ngân hàng
chỉ thị
Ngân hàng
bảo lãnh
Người xin
bảo lãnh
Người thụ
hưởng bảo lãnh
(3)
(2) (4)
(1)
Nguồn: Giáo trình Thanh toán quốc tế - Học viện Ngân hàng
Trong đó:
(1) Hợp đồng cơ sở giữa người xin bảo lãnh và người hưởng thụ bảo lãnh.
(2) Người xin bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chỉ thị cho ngân hàng đại lý phát hành thư bảo lãnh và chuyển cho người thụ hưởng.
(3) Ngân hàng chỉ thị phát hành thư bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng bảo lãnh hưởng.
(4) Ngân hàng bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh và chuyển cho người thụ hưởng.
b/ Căn cứ vào mục đích bảo lãnh
Bảo lãnh dự thầu (Bid Bond hay Tender Guarantee) là cam kết của tổ chức tín dụng với bên mời thầu, để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp, khách hàng phải nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.(Điều 5, khoản 2 - Quy chế bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 26/2006)
- Trong thương mại quốc tế, đấu thầu được sử dụng nhằm tìm được nguồn cung cấp tối ưu nhất với các bên tham gia:
(1) Chủ thầu hay người mời thầu (người mua, ngươì nhập khẩu): là người thụ hưởng bảo lãnh.
(2) Người dự thầu (người bán, người cung ứng, nhà xuất khẩu): người xin bảo lãnh (người được bảo lãnh).
- Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm bù đắp những thiệt hại cho chủ thầu như thiệt hại về thời gian, thiệt hại về tài chính do những vi phạm của người dự thầu gây ra. Đó có thể là những vi phạm như rút đơn thầu, trúng thầu nhưng không ký kết hợp đồng cung ứng, …
- Trong hồ sơ xin dự thầu, người dự thầu phải nộp kèm đơn dự thầu một thư bảo lãnh dự thầu do một ngân hàng phát hành. Mức bảo lãnh theo thông lệ là từ 2% đến 5% giá trị hợp đồng. Thư bảo lãnh dự thầu là sự đảm bảo cho bên chủ thầu rằng đơn dự thầu là một đề nghị nghêm túc và nếu trúng thầu, bên dự thầu sẽ ký kết hợp đồng.
Ngân hàng cấp bảo lãnh dự thầu đồng nghĩa với việc ngân hàng có sự bảo đảm rằng năng lực tài chính của người dự thầu là lành mạnh. Nếu trúng thầu, ngân hàng sẽ có thể cung cấp thêm cho khách hàng các dịch vụ bảo lãnh khác như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán,
- Theo quy định thông thường, thời hạn bảo lãnh dự thầu sẽ kết thúc nếu:
+ Người dự thầu trúng thầu và đã ký bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
+ Người dự thầu không trúng thầu. Trong trường hợp này, đôi khi trong thư bảo lãnh có điều khoản quy định là nó sẽ phải được trả lại cho chủ thầu.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Bond/Guarantee) là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay. (Điều 5, khoản 4 – Quy chế bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 26/2006)
Đây là loại bảo lãnh được sử dụng phổ biến nhất, và có thể không phải yêu cầu một loại bảo lãnh nào khác ngoài nó quá trình mua bán ngoại thương. Loại bảo lãnh này thường có hiệu lực ngay khi chấm dứt hiệu lực của bảo lãnh dự thầu.
- Các bên tham gia bảo lãnh thực hiện hợp đồng bao gồm:
(1) Nhà nhập khẩu (người đặt hàng, người mua): người thụ hưởng bảo lãnh.
(2) Nhà xuất khẩu (người cung ứng, người bán): người xin bảo lãnh.
(3) Ngân hàng phát hành bảo lãnh hoặc ngân hàng đại lý (nếu có).
- Mục đích của bảo lãnh thực hiện hợp đồng đó là: đôn đốc nhà xuất khẩu phải thực hiện đúng những cam kết trong hợp đồng và bồi thường cho nhà nhập khẩu nếu nhà xuất khẩu vi phạm hợp đồng như không giao hàng, giao hàng không đủ, giao hàng chậm, giao hàng không đúng chất lượng, số lượng,…
- Theo quy định của các ngân hàng, mức bảo lãnh thực hiện hợp đồng là tuỳ theo giá trị hợp đồng và tính chất của thương vụ, nhưng thông thường là từ 5% – 10% giá trị của hợp đồng cơ sở. Bảo lãnh hết hiệu lực khi người được bảo lãnh hoàn thành nghĩâ vụ cung ứng hàng hoá.
Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh hoàn trả tiền đặt cọc hoặc bảo lãnh tiền đặt cọc (Repayment/Advanced Payment Guarantee)
“Đặt cọc” là việc nhà nhập khẩu chuyển một số tiền ký quỹ nhất định để đảm bảo thực hiện hợp đồng, đồng thời yêu cầu người xuất khẩu đề nghị một ngân hàng phát hành bảo lãnh cho khoản tiền đặt cọc đó. Thư bảo lãnh trong trường hợp này gọi là bảo lãnh tiền đặt cọc. Và thông thường, khoản tiền đặt cọc này không được tính lãi.
Trong một số hợp đồng thương mại lớn, để giúp nhà xuất khẩu có vốn ban đầu để sản xuất hàng hoá, người xuất khẩu và người nhập khẩu thường quy định một tỷ lệ theo giá trị hợp đồng phải được ứng trước cho nhà xuất khẩu. Nhà nhập khẩu chuyển cho nhà xuất khẩu khoản tiền ứng trước này và yêu cầu người xuất khẩu đề nghị một ngân hàng phát hành bảo lãnh cho khoản tiền ứng trước đó. Thư bảo lãnh trong trường hợp này gọi là bảo lãnh tiền ứng trước. Thông thường tiền ứng trước sẽ được tính lãi phát sinh.
Theo Điều 5, khoản 6 Quy chế bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 26/2006: Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước (bảo lãnh hoàn trả tiền đặt cọc hay bảo lãnh tiền đặt cọc) là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
- Mục đích của loại bảo lãnh này là đảm bảo cho người nhập khẩu được nhận lại số tiền đã đặt cọc hay ứng trước trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng. Mục đích này có thể rộng hơn so với trường hợp bảo lãnh thực hiện hợp đồng vì nếu hợp đồng bị huỷ bỏ thì thư bảo lãnh tiền ứng trước sẽ bị đòi tiền bồi thường cộng với khoản tiền đã ứng trước.
- Các bên tham gia gồm có:
(1) Người nhập khẩu (người mua, người đặt hàng): người thụ hưởng bảo lãnh.
(2) Người xuất khẩu (người bán, người cung ứng): người yêu cầu bảo lãnh.
(3) Ngân hàng phát hành bảo lãnh hoặc ngân hàng đại lý của nó.
Thông thường, mức đặt cọc hay ứng trước là từ 5% đến 20% giá trị hợp đồng. Tuỳ vào tính chất và quy mô của thương vụ mà sẽ có quy định khác. Số tiền bảo lãnh trong loại bảo lãnh này sẽ có giá trị đúng bằng số tiền đã đặt cọc hay ứng trước.
Giá trị bảo lãnh cũng được điều chỉnh giảm dần theo các chuyến giao hàng đối với hợp đồng quy định hàng hoá được giao nhiều lần. Vì vậy, trong thư bảo lãnh loại này thường có điều khoản quy định rõ việc giảm dần giá trị bảo lãnh tương ứng với hàng hoá đã được giao. Sau mỗi đợt giao hàng, người xuất khẩu phải xuất trình các chứng từ cần thiết cho ngân hàng để chứng minh hàng hoá đã được giao.
Loại bảo lãnh này hết hiệu lực khi người bán giao hàng lần cuối cộng với một số ngày nhất định để người thụ hưởng làm thủ tục đòi tiền nếu ngườ bán vi phạm hợp đồng.
Bảo lãnh thanh toán hay bảo lãnh trả chậm (Payment Garantee)
Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của mình khi đến hạn. (Điều 5, khoản 2 – Quy chế bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 26/2006)
Loại bảo lãnh này được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị hàng hoá trả chậm. Quan hệ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu thực chất là quan hệ tín dụng. Người xuất khẩu có thể gặp rủi ro nếu người nhập khẩu không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ. Do vậy, người xuất khẩu có thể yêu cầu một bảo lãnh trả chậm của ngân hàng. Thư bảo lãnh này gọi là bảo lãnh thanh toán hay bảo lãnh trả chậm. Ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả thay cho người thụ hưởng bảo lãnh (người xuất khẩu) nếu người nhập khẩu (người được bảo lãnh) vi phạm cam kết một số tiền phù hợp với hợp đồng cơ sở.
Trong bảo lãnh thanh toán này còn có một số loại bảo lãnh khác có kèm theo điều kiện như: bảo lãnh thanh toán kèm chứng từ (Documentary Guarantee), bảo lãnh thanh toán kèm theo phán quyết của toà án,…
+ Bảo lãnh thanh toán kèm chứng từ là một loại bảo lãnh thanh toán trong đó điều kiện thanh toán là phải có chứng từ xác nhận của bên thứ ba như giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) do Phòng thương mại cấp, giấy phép xuất - nhập khẩu của cơ quan hải quan,…
+ Bảo lãnh thanh toán kèm theo phán quyết của toà án là loại bảo lãnh thanh toán mà điều kiện thanh toán là người thụ hưởng phải xuất trình một phán quyết của toà án hoặc trọng tài khẳng định việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và nghĩa vụ bồi thường cho người thụ hưởng. Loại bảo lãnh này khá phức tạp nên hầu như không được sử dụng.
Bảo lãnh thanh toán hay bảo lãnh trả chậm có giá trị bảo lãnh thường là 100% giá trị hợp đồng. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh do các bên tự thoả thuận nhưng thông thường là khi đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.
Đây là loại bảo lãnh đang được sử dụng khá phổ biến ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng đã có dự đoán là loại bảo lãnh này trong thời gian tới sẽ có thể thay thế hình thức thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ.
Bảo lãnh bảo hành (Warranty Guarantee)
Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay. (Điều 5, khoản 5 – Quy chế bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 26/2006)
Loại bảo lãnh này thường áp dụng trong đấu thầu xây dựng để bảo hành công trình hoặc bảo lãnh trong các hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh này nhằm đảm bảo cho chất lượng các sản phẩm nhập khẩu trong suốt thời gian bảo hành của sản phẩm. Trong thời hạn bảo hành, nếu có sự cố vi phạm chất lượng sản phẩm trong phạm vi được bảo lãnh, người nhập khẩu sẽ yêu cầu người xuất khẩu xử lý. Nếu người xuất khẩu không thực hiện đúng nghĩa vụ thì ngân hàng bảo lãnh sẽ trả tiền bảo lãnh như một khoản bồi thường để người nhập khẩu (người thụ hưởng) thuê công ty khác sửa chữa, bảo hành.
Bảo lãnh bảo hành có thời gian hiệu lực trong thời hạn bảo hành của sản phẩm và có giá trị nhỏ từ 2% đến 5% giá trị hợp đồng.
Bảo lãnh vay vốn
Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh (người cho vay), về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng (người đi vay) trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh. (Điều 5, khoản 1 – Quy chế bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 26/2006)
Ngân hàng có thể bảo lãnh cho khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức,…vay vốn trong nước và vay vốn ở nước ngoài. Loại bảo lãnh này khá phức tạp với khối lượng tiền bảo lãnh thường có giá trị lớn. Do đó, trước khi chấp nhận bảo lãnh, ngân hàng cần xem xét kĩ đến khả năng trả nợ của khách hàng, tính khả thi của dự án kinh doanh, tài sản thế chấp,….
Trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho cả người xuất khẩu và người nhập khẩu trong trường hợp họ muốn vay vốn từ cá nhân hay tổ chức tín dụng nào đó mà yêu cầu phải có bảo lãnh.
Trị giá của bảo lãnh là do sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng, bằng với số tiền được bảo lãnh hoặc có tính thêm tiền lãi và chi phí phát sinh.
Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh vay vốn do sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Nó có thể trùng với thời hạn mà khách hàng đã thoả thuận với bên cho vay, hoặc có thể gia hạn thêm ít nhất là 10 ngày kể từ ngày nợ đến hạn.
c/ Căn cứ vào đối tượng bảo lãnh
Bảo lãnh trong nước
Là loại bảo lãnh ngân hàng mà người xin bảo lãnh, người thụ hưởng bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh ở trong cùng một phạm vi quốc gia. Đây thực chất là loại bảo lãnh trực tiếp.
Bảo lãnh trong nước có các hình thức bảo lãnh như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh tiền ứng trước,…
Bảo lãnh nước ngoài
Là loại bảo lãnh ngân hàng mà người xin bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh không cùng ở một phạm vi quốc gia. Các hình thức bảo lãnh trong loại bảo lãnh này có thể là:
- Mở L/C trả chậm.
- Bảo lãnh trên cơ sở hối phiếu, lệnh phiếu (Ký bảo lãnh trên hối phiếu, lệnh phiếu nhận nợ).
- Phát hành thư bảo lãnh.
- Lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ.
Ở nước ta, hai hình thức bảo lãnh được áp dụng phổ biến đó là bảo lãnh bằng cách phát hành thư bảo lãnh và bảo lãnh bằng cách phát hành L/C trả chậm.
d/ Một số loại bảo lãnh khác
Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, ngoài các loại bảo lãnh cơ bản như đã trình bày ở trên, các NHTM còn sử dụng một số nghiệp vụ bảo lãnh khác nhằm đảm bảo quyền lợi cho các nhà xuất nhập khẩu. Vì phạm vi bài viết có hạn nên tác giả chỉ có thể nêu thêm một số loại bảo lãnh như sau:
Bảo lãnh nhận hàng (Shipping Guarantee/ Delivery Guarantee)
Trong thương mại quốc tế, khi đi nhận hàng, người nhập khẩu phải xuất trình chứng từ hàng hoá. Trong trường hợp hàng về trước chứng từ, người nhập khẩu không thể trì hoãn việc nhận hàng vì có thể vi phạm hợp đồng, hoặc ảnh hưởng đến tiến độ kinh doanh của mình. Do vậy, người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng phát hành một bảo lãnh để có thể nhận hàng mà không có vận đơn gốc. Trong trường hợp này, bảo lãnh nhận hàng là sự bảo đảm từ phía ngân hàng (sau khi đã ký kết với người mua/ nhà nhập khẩu ) cho người vận chuyển hoặc nhà xuất khẩu cho việc giao hàng hóa mà chưa cần xuất trình vận đơn đường biển. Nếu người nhập khẩu sau khi đã nhận hàng hoá mà không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng với người xuất khẩu thì ngân hàng sẽ phải thanh toán cho người xuất khẩu hoặc người vận chuyển hàng hoá.
Bảo lãnh nhận hàng tạo điều kiện cho khách hàng có thể lấy hàng trước khi nhận được bộ chứng từ vận chuyển và cho bất kỳ một lí do nào khác như thay thế vận đơn đường biển cũ đã bị thất lạc. Bảo lãnh nhận hàng thường được phát hành kèm với Thư tín dụng.
Để được ngân hàng phát hành bảo lãnh nhận hàng, người nhập khẩu phải ký quỹ 100% giá trị hợp đồng cơ sở. Nếu người nhập khẩu có mối quan hệ lâu dài với ngân hàng thì mức ký quỹ này có thể được điều chỉnh giảm đi.
Ở Việt Nam hiện nay, loại bảo lãnh này được sử dụng như ở hầu hết các ngân hàng, nhưng vì nó tiềm ẩn nhiều rủi ro nên doanh thu từ dịch vụ này chưa cao. Một số ngân hàng có dịch vụ bảo lãnh này như: Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank); Ngân hàng Á Châu (ACB); VID Public Bank – Ngân hàng liên doanh đầu tiên tại Việt Nam giữa Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Public Bank Berhad của Malaysia; Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB),…
Bảo lãnh hải quan (Custom Guarantee)
Trong thực tiễn kinh doanh thương mại quốc tế, có rất nhiều trường hợp hàng hoá được nhập khẩu vào một quốc gia nào đó nhưng không phải vì mục đích kinh doanh mà là phục vụ cho nhu cầu triển lãm, tham dự hội chợ trong một thời gian ngắn, sau đó sẽ được tái xuất. Những hàng hoá này không phải nộp bất kì một khoản thuế nhập khẩu nào. Trong trường hợp này, Hải quan của nước mà hàng hoá được tạm nhập này sẽ yêu cầu người nhập khẩu phải có một bảo lãnh đảm bảo rằng nếu sau khi hết hạn đăng ký triển lãm, hội chợ mà người nhập khẩu không tái xuất hàng hoá thì Hải quan sẽ rút tiền thanh toán từ bảo lãnh này và xem đó như một khoản tiền nộp thuế nhập khẩu.
Hình thức bảo lãnh này chưa được áp dụng phổ biến, chủ yếu được thực hiện ở các nước thuộc cộng đồng Châu Âu (EC).
Bảo lãnh hối phiếu (Draft Guarantee)
Loại bảo lãnh này có tính chất tương tự như bảo lãnh thanh toán. Tuy nhiên, cơ chế của nó thì khác. Bảo lãnh hối phiếu là cam kết trả tiền của ngân hàng bảo lãnh cho người thụ hưởng nếu đến hạn thanh toán mà người yêu cầu bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đã quy định trên hối phiếu đó.
Hình thức bảo lãnh được thực hiện bằng cách ghi chữ “good as aval” vào mặt trước hoặc mặt sau của tờ hối phiếu và ngân hàng bảo lãnh sẽ ký tên lên hối phiếu. Ở một số nước, ngân hàng còn thực hiện bảo lãnh hối phiếu bằng cách phát hành một văn thư riêng gọi là “bảo lãnh bí mật” vì người trả tiền hối phiếu không muốn người thứ ba biết tình hình tài chính của họ đến mức cần bảo lãnh.
Xác nhận bảo lãnh (Confirm Guarantee)
Là một bảo lãnh ngân hàng do một ngân hàng (ngân hàng xác nhận) phát hành cho người thụ hưởng để đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng phát hành thư bảo lãnh (ngân hàng được xác nhận). Trong trường hợp ngân hàng phát hành thư bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình như đã cam kết với người thụ hưởng thì ngân hàng xác nhận sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Hình 1.3. Sơ đồ xác nhận bảo lãnh
Ngân hàng
xác nhận
Ngân hàng
bảo lãnh
Người thụ hưởng
bảo lãnh
Người xin
bảo lãnh
(4)
(2) (3) (5)
(1)
Nguồn: Giáo trình Thanh toán quốc tế - Học viện Ngân hàng
Trong đó:
(1) Hợp đồng gốc (hợp đồng cơ sở).
(2) Người xin bảo lãnh làm đơn yêu cấu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng hưởng.
(3) Ngân hàng bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Nếu hợp đồng bị vi phạm, ngân hàng bảo lãnh sẽ bồi thường cho người thụ hưởng.
(4) Ngân hàng bảo lãnh đề nghị ngân hàng xác nhận phát hành thư xác nhận bảo lãnh cho người thụ hưởng.
(5) Ngân hàng xác nhận phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Trong trường hợp ngân hàng bảo lãnh vi phạm hợp đồng, ngân hàng xác nhận sẽ bồi thường cho người thụ hưởng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
Là một loại hình kinh doanh dịch vụ của hệ thống các NHTM, hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu cũng chịu nhiều tác động bởi các nhân tố khách quan như môi trường luật pháp, môi trường kinh tế, môi trường chính trị - xã hội, khách hàng (người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh),… và các nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân các NHTM.
1.3.1. Nhân tố khách quan
Môi trường
Nhân tố môi trường có ảnh hưởng đến hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu bao gồm môi trường luật pháp, môi trường kinh tế và môi trường chính trị - xã hội.
Đối với một nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước như ở Việt Nam hiện nay, yếu tố luật pháp giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Luật pháp tạo môi trường pháp lý cho tất cả các hoạt động kinh doanh được tiến hành một cách thuận lợi và có hiệu quả, đồng thời cũng là cơ sở để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại (nếu có). Xét trong lĩnh vực ngân hàng, yếu tố luật pháp có tác động rất lớn đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng. Một môi trường pháp lý đồng bộ, chặt chẽ, phù hợp với sự phát triển kinh tế đất nước sẽ đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống các NHTM cũng như hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngược lại, môi trường pháp lý không đồng bộ, thiếu chặt chẽ lại hay thay đổi sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện hợp đồng bảo lãnh của các doanh nghiệp. Yếu tố luật pháp liên quan đến hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu như các Quy chế về bảo lãnh ngân hàng, các quy định về thủ tục công chứng, chứng nhận quyền sở hữu tài sản,…
Hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM cũng chịu sự tác động khá lớn từ môi trường kinh tế. Một nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp là các khách hàng của ngân hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp không chịu sự biến động bất ngờ của thị trường tài chính nên có khả năng chiếm lĩnh thị trường và thực hiện tốt các nghĩa vụ hợp đồng. Ngược lại, nền kinh tế có quá nhiều sự bất ổn sẽ làm cho doanh nghiệp có thể mất khả năng thực hiện hợp đồng, gây ra rủi ro cho các ngân hàng bảo lãnh.
Môi trường chính trị - xã hội ổn định đặc biệt có ý nghĩa đối với các giao dịch bảo lãnh có yếu tố nước ngoài. Một nền chính trị ổn định làm tăng thêm cơ hội hợp tác kinh doanh với đối tác nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, góp phần thúc đẩy hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng phát triển.
Khách hàng
Các NHTM thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu là nhằm phục vụ nhu cầu của các khách hàng. Bởi vậy, nhân tố khách hàng cũng có ảnh hưởng tương đối lớn đến hoạt động này của các ngân hàng. Khách hàng tác động tới cả quy mô và chất lượng bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM. Nếu nhu cầu bảo lãnh phát sinh nhiều thì quy mô bảo lãnh của các NHTM cũng sẽ được mở rộng. Còn chất lượng bảo lãnh phụ thuộc nhiều vào năng lực tài chính, khả năng kinh doanh của khách hàng và sự trung thực của khách hàng. Khách hàng cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp mình một cách trung thực sẽ giúp ngân hàng nâng cao được chất lượng thẩm định bảo lãnh, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ bảo lãnh. Mặt khác, tình hình tài chính của khách hàng càng vững mạnh thì ngân hàng bảo lãnh càng gặp ít rủi ro hơn.
Bên cạnh đó, sự trung thực của người thụ hưởng bảo lãnh khi yêu cầu ngân hàng thanh toán cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng bảo lãnh. Ngân hàng nhận bảo lãnh sẽ gặp rủi ro trong trường hợp người thụ hưởng bảo lãnh làm giả chứng từ mà ngân hàng không phát hiện ra.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
Ngoài những nhân tố khách quan nêu trên, hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM còn chịu sự chi phối bởi các nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân các NHTM như các chính sách tín dụng, quy trình thực hiện bảo lãnh xuất nhập khẩu, chất lượng công tác thẩm định, chất lượng đội ngũ cán bộ.
Chính sách tín dụng ảnh hưởng phần lớn đến kết quả hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM bao gồm các quy định về hạn mức bảo lãnh, đối tượng và phạm vi bảo lãnh, phí bảo lãnh,…Chính sách tín dụng nới lỏng sẽ thu hút nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu, đồng thời tăng thêm tính cạnh tranh cho các ngân hàng trong xu thế phát triển ngày càng sâu rộng của hệ thống các ngân hàng liên doanh.
Quy trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nếu được rút ngắn cùng với chất lượng thẩm định được nâng cao sẽ là những tiền đề góp phần tăng sức cạnh tranh cho các NHTM và thu hút thêm nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu.
Yếu tố con người luôn luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong bất kỳ loại hình sản xuất – kinh doanh nào. Trong hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu, năng lực của các cán bộ làm công tác bảo lãnh có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng bảo lãnh, hiệu quả hoạt động bảo lãnh và uy tín của ngân hàng bởi họ là những người trực tiếp tiếp nhận và xử lý các hồ sơ bảo lãnh.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
2.1 Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển
- Tên Ngân hàng: Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Hà Nội (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội).
- Tên giao dịch: Bank for Foreign Trade of Vietnam – VCB, Hanoi Branch.
- Trụ sở chính: 344 Bà Triệu, Hà Nội, Việt Nam
Tel: (84-4) 974 6666 * Fax: (84-4) 974 7065
Telex: 411 309 * Swift code: BFTVVNVX002
Năm 1984, Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội ra Nghị quyết: Hà Nội phải có ngân hàng để phục vụ kinh tế đối ngoại của Thủ đô. Đây là thời kỳ chuẩn bị cho công cuộc Đổi mới toàn diện nền kinh tế….Trong bối cảnh đó, Ngân hàng ngoại thương Hà Nội đã ra đời vào ngày 01/03/1985.
Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã được Nhà nước xếp hạng doanh nghiệp loại 1 và là chi nhánh hàng đầu trong hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã vinh dự đón nhận các danh vị như: Huân chương Lao động Hạng Ba do Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng (2004), danh vị Bằng khen của thủ tướng chính phủ, Ngân hàng tốt nhất Việt Nam nhiều năm liền,...
Cùng với sự phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã phát triển nhanh và đạt kết quả cao trong chuyên môn về huy động tiền gửi, tín dụng, thanh toán xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ và các dịch vụ tài chính khác.
Đến cuối năm 2006, chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã có mạng lưới bao gồm : 06 Phòng giao dịch và 01 Quầy thu đổi ngoại tệ.
Đến cuối năm 2007, chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã có mạng lưới bao gồm: 08 Phòng giao dịch và 01 Quầy thu đổi ngoại tệ.
Đến cuối năm 2008, chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã có mạng lưới bao gồm: 09 Phòng giao dịch và 01 Quầy thu đổi ngoại tệ
Cùng 4 chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương trên địa bàn Hà Nội .
Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội là một trong những chi nhánh hàng đầu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Với hệ thống công nghệ thông tin hiện đại cung cấp các dịch vụ tự hoá cao: VCB ONLINE, thanh toán điện tử liên Ngân hàng, VCB Money, i-banking, SMS Banking, hệ thống máy rút tiền tự động ATM, thẻ Vietcombank Connect 24, Vietcombank MTV, Vietcombank SG24, . . . hệ thống thanh toán SWIFT toàn cầu và mạng lưới đại lý trên 1400 Ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hàng .
2.2.2 Cơ cấu tổ chức và chức năng các phòng ban
2.2.2.1 Cơ cấu tổ chức
Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội được tổ chức quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng. Đứng đầu là Ban giám đốc gồm có 01 Giám đốc và 03 Phó giám đốc. Tiếp đó là 5 hội đồng, 13 phòng nghiệp vụ, 09 phòng giao dịch, 01 quầy thu đổi ngoại tệ và 4 chi nhánh trên địa bàn Hà Nội.
GIÁM ĐỐC
Phụ trách chung và phụ
trách hoạt động
Ngân hàng bán buôn
PHÒNG BAN NGHIỆP VỤ
P. Quan hệ khách hàng
PHÓ GIÁM ĐỐC
Phụ trách chung và phụ
trách hoạt động
Ngân hàng bán lẻ
PHÓ GIÁM ĐỐC
Phụ trách Quản trị
rủi ro và xử lý tài sản
Nợ - Có
PHÓ GIÁM ĐỐC
Phụ trách tác nghiệp và hoạt động Ngân Hàng
P. Tổng hợp
P. Thanh toán Xuất nhập khẩu
P. Dịch vụ Ngân Hàng
P. Thanh toán thẻ
P.Tín dụng thể nhân
P. Quản lý rủi ro
P. Tin học
P.Kiểm tra nội bộ
P. Ngân Quỹ
P. Kế toán tài chính
P.Quản lý nợ
P.Hành chính nhân sự
MẠNG LƯỚI - CHI NHÁNH TRỰC THUỘC
CÁC PHÒNG GIAO DỊCH
CÁC HỘI ĐỒNG
CN Thành Công
CN Cầu Giấy
CN Chương Dương
CN Ba Đình
Phòng Kế toán
và dịch vụ
PGD
số 1
PGD
số 2
PGD
số 3…
PGD
số 8
PGD
số 9
Hội đồng tín dụng
Hội đồng Xử lý rủi ro
Hội đồng thi đua
Hội đồng Lương
Hội đồng Miễn giảm lãi
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng Kế toán
và dịch vụ
Phòng Quan hệ khách hàng
Nguồn:
Phòng Hành chính Ngân quỹ
Phòng
Quan hệ khách hàng
Phòng
Hành chính ngân quỹ
Phòng Kế toán
và dịch vụ
Phòng
Hành chính ngân quỹ
Phòng
Quan hệ khách hàng
Phòng
Quan hệ khách hàng
Phòng Kế toán
và dịch vụ
Phòng
Hành chính ngân quỹ
Quầy thu đổi
ngoại tệ
2.2.2.2.Chức năng các phòng ban
1. Ban giám đốc
- Ban giám đốc là bộ phận lãnh đạo cao nhất trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động của ngân hàng nói chung và các phòng ban nói riêng.
- Giám đốc là người đứng đầu bộ máy quản lý, điều hành và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Giám đốc có thể uỷ quyền cho các Phó giám đốc thực hiện những công việc trong phạm vi quyền hạn của họ, đồng thời trực tiếp chỉ đạo các phòng ban trực thuộc ngân hàng.
- Các Phó giá._.ác mục tiêu đã đặt ra. Các chỉ tiêu kế hoạch và các giải pháp đưa ra phải phù hợp với thực tiễn nền kinh tế đất nước, phù hợp với khả năng của ngân hàng về tài chính, nhân sự,…
Để xây dựng được các kế hoạch phát triển khả thi, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần có sự kết hợp giữa nghiên cứu chủ trương, chính sách của Nhà nước, của các ngân hàng cấp trên với việc nghiên cứu thị trường để có thể đưa ra các chiến lược phát triển lâu dài cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng.
Đẩy mạnh công tác tổ chức đào tạo cán bộ
Trong bất kỳ một hoạt động kinh tế nào, yếu tố con người cũng luôn là yếu tố trung tâm, giữ vai trò quyết định đến mọi hoạt động kinh doanh. Trong lĩnh vực ngân hàng, yếu tố con người lại càng giữ vai trò quan trọng hơn, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chất lượng dịch vụ của ngân hàng và ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của ngân hàng. Sở dĩ như vậy là do các cán bộ ngân hàng, đặc biệt là nhân viên ngân hàng là những người trực tiếp giao dịch với khách hàng. Mọi tác phong, hành vi của nhân viên đều thể hiện hình ảnh của ngân hàng trong con mắt của khách hàng. Bước đầu làm việc với ngân hàng, khách hàng luôn luôn chú ý đến tác phong và hành vi của các nhân viên. Một đội ngũ nhân viên với chuyên môn giỏi, tác phong nhanh nhẹn, tận tình với khách hàng sẽ góp phần làm tăng hình ảnh của ngân hàng và tăng sự trung thành của khách hàng đối với ngân hàng. Dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu cũng là một loại hình dịch vụ kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Bởi vậy, việc đẩy mạnh đào tạo cán bộ, nhân viên làm công tác là vô cùng cần thiết.
- Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tiếp tục đổi mới phong cách giao dịch, thực hiện “văn minh giao tiếp” đối với toàn thể cán bộ công nhân viên.
- Thường xuyên mở các khoá đào tạo về nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nhằm cập nhật và phổ biến các quy định mới về nghiệp vụ bảo lãnh cho các cán bộ, nhân viên làm công tác bảo lãnh.
- Thực hiện chiến lược đa dạng hoá loại hình đào tạo. Có thể đào tạo cán bộ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và cán bộ ngân hàng nói chung thông qua các lớp đào tạo trong và ngoài nước. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội có thể chọn một số cán bộ tuổi đời còn trẻ, có triển vọng gửi đi đào tạo ở nước ngoài; hoặc có thể tranh thủ sự tài trợ của các ngân hàng nước ngoài, tổ chức cho các đoàn cán bộ đi khảo sát, thực tập tại các ngân hàng nước ngoài. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo như vậy sẽ nâng cao và phát huy được nội lực của mỗi cán bộ công nhân viên.
- Với xu hướng phát triển của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập, xu hướng phát triển của thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế như hiện nay, thì nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài đối với hình thức bảo lãnh phát hành L/C ngày càng tăng làm cho nhu cầu về cán bộ bảo lãnh giỏi ngoại ngữ cũng tăng cao. Vì thế, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tích cực nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ bảo lãnh, đồng thời cũng chú trọng hơn nữa trong công tác tuyển chọn cán bộ bảo lãnh giỏi nghiệp vụ và ngoại ngữ.
Nâng cao chất lượng thẩm định các yêu cầu bảo lãnh và quản lý bảo lãnh
Đối với nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu, thẩm định các yêu cầu bảo lãnh của khách hàng là một khâu vô cùng quan trọng trong quy trình thực hiện nghiệp vụ. Chất lượng của công tác thẩm định có ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định bảo lãnh của ngân hàng. Để nâng cao chất lượng thẩm định bảo lãnh, trước hết Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần xây dựng một đội ngũ cán bộ bảo lãnh giỏi, một tổ thẩm định có chuyên môn cao. Trong quá trình thẩm định các yêu cầu bảo lãnh, các cán bộ bảo lãnh cần xem xét thận trọng các chỉ tiêu như:
+ Tư cách pháp nhân của khách hàng.
+ Năng lực tài chính và tính pháp lý của tài sản thế chấp.
+ Tình hình hoạt động sản xuất – kinh doanh của khách hàng.
+ Hiệu quả của phương án sản xuất – kinh doanh.
Xem xét kỹ lưỡng các thông tin về khách hàng sẽ hạn chế được rủi ro cho ngân hàng và giúp ngân hàng có quyết định bảo lãnh thích hợp nhất.
Tổ thẩm định bảo lãnh cần kết hợp chặt chẽ với Hội đồng quản lý rủi ro nhằm đề ra các phương pháp giải quyết nếu có rủi ro bảo lãnh xảy ra và kiểm tra, kiểm soát các thông tin về khách hàng tốt hơn.
Sau khi phát hành bảo lãnh cho khách hàng, các cán bộ bảo lãnh phải thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện hợp đồng bảo lãnh của khách hàng để có các biện pháp đôn đốc kịp thời và tránh được rủi ro cho bản thân ngân hàng.
Không chỉ kiểm tra, kiểm soát khách hàng, ngân hàng cần phải thực hiện kiểm tra, giám sát bộ phận làm công tác bảo lãnh về việc thực hiện quy trình bảo lãnh và công tác sau khi phát hành bảo lãnh. Nếu có sai sót thì phải khắc phục ngay.
Tăng vốn điều lệ của ngân hàng
Theo Quy chế về bảo lãnh ngân hàng số 26/2006 thì Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chỉ được phép bảo lãnh cho khách hàng với giá trị bảo lãnh không vượt quá 15% vốn tự có. Nhưng trên thực tế, giá trị hợp đồng bảo lãnh lớn hơn rất nhiều, nhất là với các hợp đồng kinh doanh với đối tác nước ngoài. Để có thể bảo lãnh cho khách hàng, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội buộc phải liên kết với các ngân hàng khác để tiến hành đồng bảo lãnh. Tuy nhiên, điều này hết sức phức tạp. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chỉ là một chi nhánh thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên việc liên kết sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần phải tăng vốn điều lệ để có thể tự mình bảo lãnh cho các giá trị hợp đồng bảo lãnh lớn. Để có thể tăng được vốn điều lệ, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần đẩy mạnh công tác huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, khu vực dân cư, tổ chức tín dụng nước ngoài và từ Kho bạc Nhà nước. Đặc biệt, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần áp dụng một số biện pháp điều hành kinh doanh, đa dạng hóa các hình thức, các công cụ huy động vốn từ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam như: tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ, công cụ tỷ giá, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng mạng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, kết hợp các nghiệp vụ phái sinh,… để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng.
Ứng dụng marketing vào hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nhằm đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá loại hình bảo lãnh xuất nhập khẩu.
Giống như các NHTM khác, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng có các chiến lược marketing nhằm quảng bá hình ảnh ngân hàng và giới thiệu các dịch vụ ngân hàng tới các khách hàng. Để ứng dụng được các chiến lược marketing trong hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội bước đầu tiên cần thực hiện đó là “Nghiên cứu thị trường”. Nghiên cứu thị trường ở đây tức là nghiên cứu động cơ và nhu cầu của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng bảo lãnh. Ngân hàng cần tiến hành thu thập thông tin về khách hàng một cách có hệ thống, tập trung vào hồ sơ bảo lãnh và hồ sơ tín dụng để có thể cập nhật thông tin khách hàng cũng như các phản hồi từ khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Việc nghiên cứu thị trường cũng cần phải được triển khai nghiên cứu về các ngân hàng cạnh tranh – các ngân hàng cùng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố. Có như vậy, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội mới kịp thời có đề ra các chính sách phát triển phù hợp.
Nhiệm vụ của marketing đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng đó là kế hoạch hoá chiến lược khách hàng, chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả và chiến lược khuếch trương.
+ Chiến lược khách hàng (hay chính sách khách hàng)
Củng cố quan hệ với nhóm khách hàng truyền thống và thiết lập quan hệ với các khách hàng mới là nội dung chủ yếu của chính sách khách hàng ở bất kỳ một ngân hàng nào.
Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội phải luôn luôn coi khách hàng truyền thống là thị trường trọng yếu của ngân hàng. Đối với các khách hàng lớn (các doanh nghiệp lớn, công ty lớn) có quan hệ làm ăn lâu dài và có uy tín thì Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nên ưu tiên xem xét phát hành bảo lãnh và thực hiện kết hợp các hình thức bảo đảm bảo lãnh. Không nên áp dụng một cách cứng nhắc theo quy định hiện hành. Đối với các khách hàng này, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng có thể linh hoạt trong việc áp dụng mức phí bảo lãnh và loại bỏ bớt các thủ tục rườm rà trong quy trình thực hiện bảo lãnh.
Chiến lược thu hút khách hàng mới cũng là một mục tiêu quan trọng trong chính sách khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tích cực hơn nữa trong việc tìm kiếm và thu hút các đối tượng khách hàng mới. Để thực hiện có hiệu quả chính sách khách hàng, Chi nhánh cần thực hiện một số các biện pháp như: thực hiện các biện pháp ưu đãi về lãi suất, mức phí bảo lãnh; tổ chức các buổi giao lưu với khách hàng nhằm lắng nghe ý kiến từ khách hàng và giúp đỡ khách hàng tháo gỡ những khó khăn; đặc biệt phải luôn luôn coi trọng khách hàng.
+ Chiến lược sản phẩm
Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh là là nội dung trong chiến lược sản phẩm của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần phát triển các loại hình bảo lãnh theo hướng:
Tiếp tục nâng cao chất lượng của các loại bảo lãnh trong nước truyền thống như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh dự thầu,…và bảo lãnh phát hành L/C trả chậm.
Triển khai các loại bảo lãnh mới như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thuế xuất nhập khẩu, bảo lãnh hải quan.
+ Chiến lược giá cả
Giá cả của hoạt động bảo lãnh chính là mức phí bảo lãnh. Hiện này, các ngân hàng cạnh tranh với nhau cũng là cạnh tranh về mức phí bảo lãnh áp dụng đối với từng nghiệp vụ bảo lãnh. Mức phí mà Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đang áp dụng là tương đối ngang bằng với các ngân hàng khác. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng nên xem xét giảm mức phí thu bảo lãnh xuống nhằm thu hút thêm nhiều khách hàng hơn nữa, đồng thời củng cố thêm quan hệ làm ăn với các khách hàng truyền thống.
+ Chiến lược khuếch trương
Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và nghiệp vụ bảo lãnh nói chung không giống như các loại nghiệp vụ ngân hàng khác bởi bản chất của nghiệp vụ bảo lãnh là dùng uy tín của ngân hàng để đảm bảo cho các giao dịch. Uy tín và vị thế của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh loại hình dịch vụ bảo lãnh này. Khách hàng lựa chọn ngân hàng bảo lãnh cho mình dựa trên cách thức mà ngân hàng tiếp cận khách hàng. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tăng cường công tác quảng bá hình ảnh ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm giới thiệu dịch vụ đến khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng cần nâng cao hiệu quả của công tác tư vấn khách hàng trong việc lựa chọn bạn hàng, đàm phán ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá, máy móc, thiết bị,…
Hoàn thiện quy trình bảo lãnh
Để hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu đạt được các mục tiêu đã đề ra, quy trình thực hiện nghiệp vụ cần phải được sửa đổi và bổ sung cho hoàn thiện hơn nữa nhằm đem lại sự thuận lợi cho khách hàng và bản thân Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội khi thực hiện hợp đồng bảo lãnh.
Với thời gian thẩm định dự án gần 20 ngày và thời gian đợi ngân hàng phát hành bảo lãnh là 30 ngày như hiện nay đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến các thương vụ của khách hàng khi mà những hợp đồng kinh doanh chỉ trong thời gian ngắn. Để tuân thủ các bước như trong quy trình hiện thời thì khách hàng rất dễ mất đi các cơ hội kinh doanh. Do vậy, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần xem xét và chấn chỉnh lại các thủ tục thực hiện bảo lãnh cho gọn nhẹ, nhanh chóng. Điều này không chỉ giúp khách hàng mà còn giúp ngân hàng thực hiện cũng như giám sát được tốt hơn.
Mở rộng quan hệ hợp tác vớicác ngân hàng khác
Đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần chủ động liên kết với các ngân hàng khác nhằm phân tán rủi ro và thực hiện đồng bảo lãnh cho các hợp đồng bảo lãnh có giá trị lớn, vượt quá khả năng bảo lãnh của Chi nhánh.
Không chỉ liên kết với các ngân hàng trong nước, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tăng cường hơn nữa việc liên kết với các ngân hàng nước ngoài để có thể thực hiện vai trò của một ngân hàng thông bào, ngân hàng xác nhận,…
Với mạng lưới hoạt động rộng khắp như vậy, chắc chắn hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu
Hội nhập kinh tế quốc tế khiến cho các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phong phú và đa dạng nhưng cũng vô cùng phức tạp. Cuộc cách mạng CNTT đã tác động tích cực tới hầu hết các lĩnh vực kinh tế xã hội với đặc trưng chủ yếu là giúp cho các giao dịch kinh tế được thực hiện một cách thuận tiện hơn, dễ dàng hơn và thời gian thực hiện được rút ngắn đi rất nhiều. Điều này đặt các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô trước những cơ hội và nhiều thách thức. Đó là: Thông tin nhanh, kịp thời, chính xác là cơ sở để đưa ra những quyết sách chính xác, hiệu quả. Nhưng nó cũng đặt ra cho những quyết định về chính sách phải hết sức nhanh chóng, linh hoạt để có thể ứng phó kịp thời với những diễn biến mới của nền kinh tế.
Trong lĩnh vực ngân hàng, CNTT và hội nhập kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự bùng nổ về các loại hình dịch vụ và có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực thi chính sách tiền tệ. Ngoài việc góp phần giảm tỉ trọng tiền mặt trong lưu thông, các hình thức dịch vụ mới như thẻ tín dụng, máy rút tiền mặt ATM... đã làm cho cầu tiền phản ứng một cách nhanh hơn trước các diễn biến của lãi suất, tức là đã làm tăng độ co dãn của cầu tiền đối với lãi suất. Một cách tổng quát hơn, việc đổi mới công nghệ ngân hàng trên cơ sở ứng dụng CNTT đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, đồng thời đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của các luồng vốn, làm cho cung cầu tiền tệ trở nên khó dự báo hơn, cơ chế truyển tải chính sách tiền tệ nhạy cảm hơn. Trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, CNTT có thể được ứng dụng ở tất cả các khâu, từ thống kê số liệu, phân tích, đánh giá tình hình, dự báo xu hướng trong thời gian tới, ra quyết định đến thực thi quyết định, và trở thành một công cụ không thể thiếu đối với các nhà hoạch định chính sách.
Là một ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng đã và đang áp dụng những ứng dụng của CNTT trong hoạt động của mình. CNTT không những giúp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội hoạt động có hiệu quả hơn mà còn giúp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác. Ứng dụng CNTT trong hoạt đọng bảo lãnh xuất nhập khẩu trong thời gian sắp tới hứa hẹn sẽ mang lại hiệu quả cao.
Trên đây là một số giải pháp mà Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nên áp dụng để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực bảo lãnh xuất nhập khẩu, nhằm đạt được các chỉ tiêu kế hoạch đã đặt ra. Tuy nhiên, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội vẫn cần phải có sự hỗ trợ từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và bản thân khách hàng yêu cầu bảo lãnh để nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu được tiến hành có hiệu quả.
3.2.2. Một số kiến nghị
3.2.2.1. Đối với Chính phủ
Bảo lãnh ngân hàng nói chung và bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng tại Việt Nam cho tới nay vẫn chưa có một nguồn luật cụ thể để dẫn chiếu. Các hoạt động bảo lãnh mới chỉ được thực hiện thông qua các văn bản dưới luật như các quy chế, quy định, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ. Hệ thống nguồn luật này lại thường xuyên thay đổi và quá chặt chẽ làm cho các ngân hàng (trong đó có Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội) gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện. Nếu tuân thủ một cách cứng nhắc các quy định hiện hành, tất cả các ngân hàng khó mà nâng cao doanh số bảo lãnh của mình. Do vậy, nhiều trường hợp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội buộc phải “mạo hiểm” bảo lãnh cho khách hàng trong khi khách hàng không đủ các điều bảo đảm bảo lãnh. Đôi khi, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng đã phải từ chối bảo lãnh cho khách hàng do quy định nghiệp vụ quá chặt chẽ. Vì thế, ban hành Luật về bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam là vô cùng cần thiết. Luật bảo lãnh ngân hàng sẽ tạo hành lang pháp lý cho bảo lãnh trong nước, đồng thời cũng sẽ là căn cứ dẫn chiếu thống nhất khi các ngân hàng thực hiện bảo lãnh với bên nước ngoài.
Công ước của Liên hợp quốc về bảo lãnh độc lập và Thư tín dụng dự phòng đang được Chính phủ Việt Nam nghiên cứu để áp dụng trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Nếu Việt Nam phê chuẩn và chấp thuận thì Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng và hệ thống các NHTM nói chung nên tham khảo và dẫn chiếu trong việc thực hiện giao dịch bảo lãnh với các đối tác nước ngoài.
Bên cạnh việc ban hành Luật bảo lãnh ngân hàng, Chính phủ Việt Nam cần quan tâm đến một số các công tác có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng như:
+ Luật về sở hữu tài sản và tài sản thế chấp: Hiện nay, Chính phủ Việt Nam mới chỉ có quy định về sở hữu đất đai, nhà ở trong Luật đất đai và các quy định về cầm cố tài sản trong Bộ luật dân sự mà chưa có quy định riêng đối với việc sở hữu tài sản, thế chấp và cầm cố tài sản trong lĩnh vực bảo lãnh. Đồng thời cũng cấn có những quy định cụ thể hơn nữa trong việc xử lý tranh chấp, phát mại tài sản.
+ Thủ tục công chứng: thủ tục thực hiện công chứng hiện nay còn nhiều bất cập như thời gian xử lý chưa thật sự nhanh chóng, cán bộ tư pháp chưa tư vấn cụ thể cho các doanh nghiệp khi làm thủ tục công chứng về quyền sử hữu tài sản, thế chấp tài sản; lệ phí công chứng còn khá cao (Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch dưới 100.000.000 đồng: Thu 100.000 đồng/trường hợp; Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng: thu 0,1% giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch; Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch từ trên 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng: Thu 1.000.000 + 0,07% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 1.000.000.000 đồng; Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch trên 5.000.000.000 đồng: Thu 3.800.000 đồng + 0,05% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 5.000.000.000 đồng (mức thu tối đa không quá 10.000.000 đồng một trường hợp); Công chứng hợp đồng bảo lãnh: 100.000 đồng)
+ Chính phủ cũng cần có các quy định chặt chẽ hơn nữa đối với việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng khi tiến hành bảo lãnh.
+ Ngoài ra, Chính phủ cũng nên có các chính sách nhằm phát triển hoạt động kinh doanh thương mại, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất,…thích hợp hơn nữa để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp và ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh toán của các doanh nghiệp, phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
3.2.2.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Bởi chưa có một nguồn Luật thống nhất dẫn chiếu cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng nói chung và bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng nên với phạm vi quyền hạn của mình, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có những chỉnh sửa bổ sung trong Quy chế bảo lãnh nhằm tạo điều kiện cho tất cả các ngân hàng trong hệ thống. Một số điểm kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
+ Giới hạn bảo lãnh: tăng mức giới hạn bảo lãnh lên khoảng 20% - 25% vốn tự có.
+ Quy định mức phí bảo lãnh chung cho tất cả các ngân hàng nhưng không vượt quá mức phí hiện hành nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng.
+ Quy định thêm các điều kiện về xử lý vi phạm hợp đồng bảo lãnh, biện pháp thực hiện khi phải phát mại tài sản.
+ Triển khai hướng dẫn việc áp dụng thực hiện các loại bảo lãnh mới như bảo lãnh thuế xuất nhập khẩu, bảo lãnh hải quan,…cho các ngân hàng.
3.2.2.3. Đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Đóng vai trò là Ngân hàng Ngoại thương Trung ương, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần có những biện pháp cụ thể nhằm giúp đỡ Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng và các chi nhánh ngân hàng khách trong hệ thống để có thể phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu trong thời gian sắp tới.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên uỷ quyền cho Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội thực hiện thêm các loại bảo lãnh như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn các NHTM trong nước để phục vụ sản xuất – kinh doanh nhằm đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh và tăng doanh thu cho Chi nhánh.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng nên xem xét để giảm mức phí thu bảo lãnh đang áp dụng. Trong thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay, mức phí mà Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chỉ đạo cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội thực hiện vẫn tương đối cao so với một số các ngân hàng khác. Giảm mức phí thu sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội tăng sức cạnh tranh.
Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng nên thường xuyên tổ chức các khoá huấn luyện cho toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho các cán bộ làm công tác bảo lãnh xuất nhập khẩu và tạo điều kiện cho các chi nhánh trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Việc hỗ trợ kinh phí cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong công tác đào tạo cán bộ cũng là một giải pháp hay mà Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên thực hiện.
Mặt khác, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng nên làm tốt hơn nữa vai trò của một đầu mối trong việc phối hợp, liên kết các Chi nhánh ngân hàng để có thể thực hiện đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh.
Tuy nhiên, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội để có những biện pháp giúp đỡ kịp thời.
Một giải pháp nữa nhằm giúp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội hoàn thành tốt nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và các nghiệp vụ ngân hàng nói chung đó là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần hỗ trợ kinh phí để Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội tiến hành hiện đại hoá công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
3.2.2.4. Đối với khách hàng
Từ khi thành lập đến này, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội luôn nỗ lực hết mình phục vụ nhu cầu của khách hàng với phương châm “ Sự tin tưởng của khách hàng là nguồn lực để Vietcombank Hà Nội không ngừng vươn xa”. Các dịch vụ của ngân hàng là những công cụ hỗ trợ đắc lực trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu ra đời cũng đã và đang giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn các thương vụ kinh doanhh xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo lãnh cũng phát sinh nhiều rủi ro mà người chịu thiệt nhiều nhất vẫn là các doanh nghiệp. Vì vậy, để hạn chế rủi ro và giúp cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra, các doanh nghiệp cần:
+ Cung cấp thông tin trung thực về năng lực tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình để giúp ngân hàng thẩm định chính xác, ra quyết định bảo lãnh phù hợp và có những biện pháp giúp đỡ doanh nghiệp kịp thời.
+ Nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu để có thể lập các dự án kinh doanh khả thi, phân tích và lựa chọn đối tác tin cậy.
+ Cần tham khảo ý kiến, sự tư vấn của các cán bộ bảo lãnh trước khi quyết định lựa chọn bạn hàng và lựa chọn hình thức bảo lãnh.
+ Thực hiện nghiêm túc các cam kết với đối tác, với ngân hàng, các quy định về bảo lãnh của ngân hàng. Tôn trọng quyền lợi của đối tác, của ngân hàng và của bản thân doanh nghiệp mình.
KẾT LUẬN
Là một trong những chi nhánh hàng đầu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, trong hơn 20 năm phát triển và trưởng thành, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã khẳng định được vị thế quan trọng trong hoạt động kinh tến đối ngoại của Thủ đô, cung cấp các dịch vụ ngân hàng tài chính đa dạng và hiện đại đến mọi tổ chức kinh tế, cá nhân và các tổ chức tín dụng.
Sau một thời gian nghiên cứu thực trạng hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, em đã nhận thấy dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và dịch vụ bảo lãnh ngân hàng nói chung đã và đang khẳng định được vai trò to lớn của nó đối với sự phát triển kinh tế, nhất là trong lĩnh vực thương mại quốc tế và góp phần không nhỏ trong việc củng cố, nâng cao uy tín cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trên trường quốc tế.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp đã được hoàn thành với các kết quả đóng góp như sau:
Khái quát những vấn đề cơ bản về bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM Việt Nam.
Phân tích được tình hình hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của Chi nhánh trong giai đoạn 2006- 2008. Qua đó đánh giá sơ lược kết quả hoạt động của Chi nhánh, chỉ ra được những thành công và hạn chế trong hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại chi nhánh.
Nêu ra được phương hướng hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu trong những năm tới và mục tiêu phát triển cụ thể trong 2009.
Đưa ra các giải pháp cơ bản từ phía bản thân Chi nhánh nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu theo phương hướng đề ra. Đồng thời đề xuất một số kiến nghị đối với Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và khách hàng yêu cầu bảo lãnh nhằm hoàn thiện hơn hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Chi nhánh.
Hy vọng rằng, với những kết quả nghiên cứu và những đóng góp của chuyên đề sẽ giúp ích cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong việc hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu trong thời gian tới.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Mức phí bảo lãnh áp dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
DỊCH VỤ BẢO LÃNH
STT
DỊCH VỤ
MỨC PHÍ
1
Phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của khách hàng
1.1
Phát hành thư bảo lãnh :
1.1.1
Bảo lãnh được ký quỹ 100%, thời gian tính phí kể từ ngày phát hành đến ngày hết hạn hiệu lực của bảo lãnh :
+ Ký quỹ 100% bằng Tiền mặt hoặc từ Tài khoản không kỳ hạn tại VCB
0,05%/tháng trên trị giá bảo lãnhTối thiểu 20 USD
+ Bảo đảm 100% bằng Tài khoản có Kỳ Hạn/Chứng chỉ tiền gửi/Kỳ phiếu của VCB.
0,06%/tháng trên trị giá bảo lãnhTối thiểu 30 USD
1.1.2
Bảo lãnh miễn ký quỹ hoặc ký quỹ dưới 100%, thời gian tính phí kể từ ngày phát hành đến ngày hết hạn hiệu lực của bảo lãnh :
Tối thiểu 50 USD
+ Phần trị giá bảo lãnh được ký quỹ bằng Tiền mặt hoặc từ Tài khoản không kỳ hạn tại VCB
0,05%/tháng trên phần trị giá bảo lãnh được ký quỹ
+ Phần trị giá bảo lãnh được bảo đảm bằng Tài khoản có Kỳ Hạn/Chứng chỉ tiền gửi/Kỳ phiếu của VCB
0,06%/tháng trên phần trị giá bảo lãnh được bảo đảm
+ Phần trị giá bảo lãnh miễn ký quỹ hoặc được đảm bảo bằng hình thức khác (ngoài các hình thức nêu tại mục 1.1.1).
0,15%/tháng trên phần trị giá bảo lãnh miễn ký quỹ hoặc được đảm bảo bằng hình thức khác
1.2
Sửa đổi thư bảo lãnh:
1.2.1
Sửa đổi tăng trị giá và/hoặc gia hạn : thu bổ sung phần tăng thêm .
Như mức phí phát hành thư bảo lãnh
1.2.2
Sửa đổi khác.
20 USD/lần
1.3
Huỷ thư bảo lãnh:
1.3.1
Hủy do bảo lãnh hết hiệu lực.
Miễn phí
1.3.2
Huỷ do đề nghị của khách hàng.
20 USD/bảo lãnh
1.4
Thay đổi tài sản bảo đảm
Thu bổ sung phần phí tăng hoặc thu theo thoả thuận.
1.5
Thanh toán bl
Theo Biểu phí giao dịch chuyển tiền tương ứng
2.
Phát hành bảo lãnh trên cơ sở BLĐƯ của ngân hàng đại lý:
0,15%/tháng trên trị giá bảo lãnhTối thiểu 50 USD
2.1
Sửa đổi tăng tiền và/ hoặc gia hạn ngày hiệu lực: thu bổ sung phần tăng thêm .
Như mức phí phát hành bảo lãnh trên cơ sở BLĐƯ của NHĐL
2.2
Sửa đổi khác
20 USD/lần
3.
Bảo lãnh do NHĐL phát hành trực tiếp cho người hưởng :
3.1
Thông báo thư bl
20 USD
3.2
Thông báo sửa đổi thư bl
20 USD
3.3
Thông báo hủy bl
20USD/lần
3.4
Thông báo điện theo yêu cầu của NHĐL
20 USD/lần
4.
Đòi hộ khách hàng theo thư bảo lãnh của NH đại lý:
4.1
Nhận và xử lý yêu cầu của khách hàng
30 USD
4.2
Thanh toán kết quả đòi tiền
0,2% trị giá đòi tiềnTối thiểu 20 USDTối đa 200 USD
5.
Xác nhận thư bảo lãnh của NHĐL
0,15%/tháng trên trị giá xác nhận bảo lãnhTối thiểu 50 USD
6.
Phí xác nhận sửa đổi thư bảo lãnh của NHĐL:
6.1
Cho sửa đổi tăng tiền và/ hoặc gia hạn ngày hiệu lực : thu phí trên số tiền tăng thêm và/hoặc trị giá bảo lãnh được kéo dài thời hạn hiệu lực
Như phí xác nhận thư bảo lãnh của NHĐL
6.2
Cho các sửa đổi khác
20 USD
7.
Kiểm tra xác nhận chữ kí hoặc chữ ký sửa đổi thư bảo lãnh của nước ngoài theo yêu cầu của khách hàng trong nước
20 USD
8.
Phát hành thư cam kết sẽ phát hành thư bl
Theo thoả thuận
Tối thiểu 30 USD/lần
9
Điện phí
9.1
Điện phí, Telex phí, Fax, Gửi bằng thư bảo đảm/ bằng hình thức chuyển phát nhanh
Thu theo mức phí của Bưu điện hoặc của hãng chuyển phát nhanh.
9.2
SWIFT:
9.2.1
Trong nước:
- Phát hành bl
15 USD
- Điện khác
5 USD
9.2.2
Ngoài nước:
- Phát hành bl
20 - 50 USD
- Điện khác
10 USD
10
Dịch vụ khác
10.1
Phát hành thư xác nhận ký quỹ :
10.1.1
Xác nhận ký quỹ đảm bảo bằng Tài khoản Không kỳ hạn tại VCB
20 USD
10.1.2
Xác nhận ký quỹ đảm bảo bằng Tài khoản có kỳ hạn tại VCB
50 USD
Phụ lục 2: Mẫu hợp đồng bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
(Trang bên)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Văn Tiến (2008), Giáo trình thanh toán quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội.
- Tô Xuân Dân (1998), Giáo trình Chính Sách Kinh Tế Đối Ngoại lý thuyết và kinh nghiệm thực tế, NXB Thống kê, Hà Nội.
- Đinh Xuân Trình (1996), Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo dục, Hà Nội.
- Lê Văn Tư (1997), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội.
- Lê Văn Tê (1998), Nghiệp vụ tín dụng và thanh toán quốc tế, NXB TP.HCM.
- Company Profile Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội năm 2006, 2007, 2008.
- Báo cáo tổng kết hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội các năm 2006, 2007, 2008.
- Thông báo các chỉ tiêu kế hoạch năm 2009 của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
- Báo cáo tình hình hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu – Phòng thanh toán xuất nhập khẩu các năm 2006, 2007, 2008.
- Một số khoá luận tốt nghiệp trường Đại học Kinh tế quốc dân.
- Website Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam :
- Website Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội: http:// vcbhanoi.com.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21996.doc