LờI Mở ĐầU
Trong vài thập niên trở lại đây, những danh từ như WTO (World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới), ASEAN (Association of South Eeast Asian Nations - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á), AFTA( ASEAN Free Trade Area - Khu vực Thương mại tự do ASEAN) . . . đã trở nên quá quen thuộc với mọi người dân sống trên khắp thế giới. Các tổ chức hiệp hội này ra đời là kết quả của quá trình thiết lập các mối quan hệ song phương, đa phương về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; đặ
94 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c biệt là lĩnh vực thương mại. Nền kinh tế của các quốc gia riêng lẻ trở nên phụ thuộc lẫn nhau, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nhau. Khuynh hướng này đã và đang làm gia tăng mạnh mẽ nhu cầu về các dịch vụ tài chính quốc tế trên khắp thế giới. Cùng với khuynh hướng này là qúa trình tự do hoá tài chính, dỡ bỏ dần các hàng rào thương mại và xu thế hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế quốc tế đang lan nhanh.
Hoạt động xuất nhập khẩu, do đó, cũng phát triển rất nhanh, cũng thay đổi dần những khuôn mẫu cho phù hợp với những chuyển biến thực tế và ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của một quốc gia nói riêng và thương mại quốc tế nói chung. Trong trào lưu đó các ngân hàng thương mại với lợi thế về vốn, về nghiệp vụ ngân hàng và các mối quan hệ trong thanh toán quốc tế cũng đã không đứng ngoài cuộc. Một trong số những nghiệp vụ hết sức đa dạng của các ngân hàng có thể kể đến đó chính là nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu, nó đã góp phần không nhỏ trong việc chống đỡ rủi ro, tháo gỡ khó khăn về tài chính, tạo uy tín kinh doanh cho doanh nghiệp và thúc đẩy sự phát triển của ngoại thương
Vốn là lĩnh vực kinh doanh mang tính truyền thống của các ngân hàng thương mại, sự ra đời, tồn tại và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh này gắn liền với quá trình hình thành và lớn mạnh của nền thương mại quốc tế nói chung, và của mỗi quốc gia nói riêng. Chính những tính chất, đặc điểm trong giao thương quốc tế là yếu tố then chốt ấn định bản sắc và đặc trưng của loại hình bảo lãnh xuất nhập khẩu, khiến lĩnh vực này có tính độc lập tương đối trong hệ thống tín dụng dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, bảo lãnh xuất nhập khẩu cũng giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và trào lưu hội nhập kinh tế hết sức phát triển.
Việt Nam đang nằm trong giai đoạn chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần,chủ trương đẩy mạnh khuyến khích xuất khẩu, tuy nhiên, khả năng tích luỹ vốn còn thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, nên việc nghiên cứu và tìm hiểu về hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết cho việc tìm ra những nguồn vốn thích hợp, tìm ra chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp, nhằm phát huy tối ưu cả nội lực lẫn ngoại lực. Chính vì lý do đó em đã quyết định chọn đề tài: “Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển” để làm nội dung nghiên cứu cho khoá luận của mình. Khoá luận gồm có 3 phần chính:
Chương I : Khái niệm chung về bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương II: Thực trạng phát triển hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam
Chương III: giảI pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các Ngân hàng thương mại vIệt Nam.
sẽ đưa ra những cái nhìn tổng quan nhất về khái niệm bảo lãnh ngân hàng nói chung và bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng, đánh giá những thành tựu đã đạt được, phân tích khó khăn, nhược điểm còn tồn tại cũng như những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiêp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu trong thời gian tới.
Nhân đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh, các chị tại Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, cung cấp cho em những nguồn tài liệu quý báu, đặc biệt, em xin được tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Thị Quy, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận này.
Do khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, khoá luận này chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 12 năm 2003
Phần I
Khái niệm chung về bảo lãnh XNK của
các NHTM Việt Nam
Tổng quan về hoạt động bảo lãnh Ngân hàng và bảo lãnh XNK
Những vấn đề chung về bảo lãnh ngân hàng
Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Từ thời kỳ trung cổ tại Hy Lạp, hoạt động bảo lãnh đã xuất hiện, mặc dù còn rất sơ khai, bằng những giao dịch trong quan hệ cá nhân với cá nhân rất đời thường. Cho đến nay, hoạt động bảo lãnh đã phát triển bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra cả phạm vi quốc tế.
Bảo lãnh trong mỗi lĩnh vực có những đặc trưng riêng nhưng tựu chung lại “bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” (Điều 366 - Bộ luật Dân sự Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Bảo lãnh là cần thiết khi hai bên chưa tín nhiệm nhau. Uy tín và lời hứa của bên này chưa có đủ độ tin cậy đối với bên kia. Sự xuất hiện của một bên thứ ba có đủ độ tin cậy đối với cả hai bên đứng ra thực hiện bảo lãnh sẽ đưa họ đến một điểm chung thống nhất.
Trong phạm vi toàn xã hội, hoạt động bảo lãnh rất phong phú và đa dạng như bảo lãnh của một tổ chức quốc tế với một nước, bảo lãnh của nhà nước đối với doanh nghiệp, . . . Xét riêng trong lĩnh vực ngân hàng, bảo lãnh là một nghiệp vụ được định nghĩa như sau :
“Bảo lãnh ngân hàng là cam kết của ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên nhận bảo lãnh đã được quy định tại chứng thư bảo lãnh của ngân hàng.”
Hiện nay việc sử dụng bảo lãnh ngân hàng bùng nổ mạnh mẽ và doanh số của nó đạt đến mức kỷ lục. Sự tăng trưởng này một phần là vì bảo lãnh ngân hàng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho tất cả các dịch vụ, bao gồm cả các dịch vụ không mang tính tài chính như hợp đồng thương mại, hợp đồng xây dựng . . . và những dịch vụ mang tính tài chính như thoả ước thấu chi, thoả ước tham gia liên doanh, tái bảo hiểm và những cam kết tài chính khác.
Tuy nhiên, trong thực tiễn thực hành kinh doanh quốc tế, vấn đề thuật ngữ “bảo lãnh ngân hàng” vẫn còn bỏ ngỏ. Những từ như “bond”, “guarantee”, “suretyship” và cả “undertaking” được dùng lẫn cho nhau với nghĩa bảo lãnh ngân hàng, và cho đến nay vẫn chưa có một thoả ước thống nhất quốc tế nào khẳng định đâu là thuật ngữ chuẩn. Điều này cho thấy tính chất lỏng lẻo trong việc sử dụng thuật ngữ để khẳng định bản chất một cam kết bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động XNK.
Bảo lãnh nói chung và cơ bản được NHTM phát hành, do vậy người ta thường gọi “bảo lãnh’’ là “Bank guarantee”. Tuy nhiên, luật và tập quán của từng nước có những khác biệt.
Đặc điểm của bão lãnh
Tính chất độc lập
Bảo lãnh được coi là công cụ vạn năng sử dụng trong tất cả các giao dịch vì nó có đặc điểm nổi bật, đó là tính độc lập về nghiệp vụ và quyền lợi của các bên và mối quan hệ của các đối tác.
- Độc lập trong từng mối quan hệ
Các hợp đồng được hình thành trong mối quan hệ được chi phối bởi mục đích và đối tượng nên hai bên trong từng hợp đồng có quyền và nghĩa vụ riêng; mặc dù chúng vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau. Hợp đồng thứ nhất (giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh) là gốc để hình thành hợp đồng thứ hai (giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người được bảo lãnh) và hợp đồng thứ ba (giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh) nhưng các hợp đồng sau ra đời nhằm phục vụ cho hợp đồng thứ nhất. Hợp đồng này sẽ không được thực hiện đầy đủ nếu các hợp đồng còn lại không có hiệu lực. Mối quan hệ này là lô-gích nhưng không có nghĩa là quyền và nghĩa vụ của các bên trong từng hợp đồng lại ràng buộc hay phụ thuộc lẫn nhau
- Độc lập về quyền và nghĩa vụ
Sự phân biệt này chỉ mang nghĩa tương đối. Tính độc lập này được thể hiện rất rõ qua những trích dẫn cam kết của ngân hàng trong các giao dịch bảo lãnh. Người bảo lãnh thực hiện cam kết của mình căn cứ duy nhất vào thực tế là người thụ hưởng có thoả mãn đầy đủ những quy định của bảo lãnh hay không. Người hưởng được quyền đòi tiền dựa vào các điều kiện của bảo lãnh mà không bị ngăn cản bởi bất cứ người nào khác
- Tính độc lập tương đối
Nghĩa vụ của ngân hàng phải thanh toán cho người hưởng khi nhận được đòi tiền kèm các chứng từ theo đúng các điều khoản của bảo lãnh. Vấn đề là ở chỗ các chứng từ gì và những điều khoản nào? Đây là điểm mấu chốt trong việc quy định mức độ độc lập của giao dịch bảo lãnh. Nếu hai bên trong hợp đồng cơ sở thoả thuận chứng từ xuất trình và điều kiện đòi tiền được lập bằng chính người hưởng: tuyên bố vi phạm (Statement of default), thì sự độc lập này gần như tuyệt đối vì nó không có yếu tố thứ ba trong giao dịch. Ngược lại, nếu bảo lãnh quy định xuất trình chứng từ của phía thứ ba như chứng thực của cơ quan độc lập về sự vi phạm của đối tác, quyết định của trọng tài, thậm chí phán quyết của toà án, thì tính độc lập của giao dịch bảo lãnh bị điều chỉnh.
Theo quan điểm của các ngân hàng thì tính độc lập của bảo lãnh mang lại nhiều thuận lợi, do ngân hàng chỉ việc xem xét sự phù hợp của các chứng từ với các điều khoản và điều kiện của bảo lãnh khi có yêu cầu thanh toán.
Bảo lãnh là một mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau
Khi đồng ý bảo lãnh, ngân hàng phát hành thư bảo lãnh. Thư bảo lãnh là một hợp đồng giữa hai bên thường là ngân hàng và người thụ hưởng. Hợp đồng này độc lập trong mối quan hệ với hợp đồng cơ sở. Tuy nhiên để hiểu cơ chế của công cụ này cần thiết phải hiểu rằng giao dịch bảo lãnh liên quan đến mối quan hệ của ba hợp đồng. Nó không chỉ là mối quan hệ giữa hai bên mà là một quan hệ tạo thành trong mối quan hệ nhiều bên bao gồm:
Mối quan hệ cơ sở: là mối quan hệ giữa người uỷ nhiệm và người thụ hưởng bảo lãnh, đây là gốc để hình thành những mối quan hệ khác. Mối quan hệ này được thể hiện bằng Hợp đồng với các điều khoản về giao dịch cơ sở. Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của mình, một bên hợp đồng phải có được bảo lãnh từ ngân hàng cấp cho đối tác.
Mối quan hệ uỷ thác: tuỳ từng chủ thể trong giao dịch mà có các mối quan hệ uỷ thác khác nhau.
Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh với ngân hàng đại lý của nó hoặc với ngân hàng do người thụ hưởng chỉ định trong việc thực hiện thông báo bảo lãnh tới người thụ hưởng. Mối quan hệ bảo lãnh cũng được xác lập với từng đối tượng chủ thể khác nhau.
Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh, nếu như người thụ hưởng không thực hiện đúng các điều kiện thanh toán thì ngân hàng được quyền từ chối. Ngược lại, ngân hàng phải chuyển trả tiền theo chỉ thị của người thụ hưởng.
Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành với ngân hàng xác nhận, ngân hàng thanh toán (trong bảo lãnh đối ứng).
Mối quan hệ giữa người thụ hưởng với ngân hàng xác nhận, ngân hàng thanh toán.
Các mối quan hệ trên hình thành nên giao dịch bảo lãnh. Chúng độc lập với nhau nhưng lại có mối liên quan mật thiết và tác động qua lại.
Tính chất chứng từ
- Giao dịch bằng chứng từ và trên cơ sở chứng từ
Giao dịch truyền thống của ngân hàng là bằng chứng từ và trên cơ sở chứng từ. Điều này thể hiện rõ nhất trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Bảo lãnh cũng thể hiện tính chất này trong giao dịch, tuy mức độ thấp hơn. Nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh và quyền của người hưởng được xác định trên cơ sở các chứng từ xuất trình. Người hưởng sẽ không được thanh toán nếu các yêu cầu về chứng từ không được thoả mãn. Ngược lại, ngân hàng phải trả tiền cho người thụ hưởng dù biết rằng họ không thể nhận được khoản hoàn trả từ phía người uỷ nhiệm một khi chứng từ xuất trình phù hợp với bảo lãnh.
- Kiểm tra chứng từ
Đặc trưng này có mối quan hệ gắn bó và lô-gích với bản chất độc lập và tính chất chứng từ của giao dịch bảo lãnh. Mối quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh với người được bảo lãnh và người thụ hưởng chỉ liên quan đến thực trạng chứng từ xuất trình có phù hợp bề mặt với yêu cầu của bảo lãnh hay không.
Điều kiện cần thiết để thực hiện bảo lãnh của các NHTM
Để xử lý tốt các vấn đề thường gặp trong giao dịch và quá trình bảo lãnh, các ngân hàng cần đáp ứng một số điều kiện sau:
- Nguồn tài chính vững chắc: Đây có thể coi là điều kiện đầu tiên quan trọng nhất để đảm bảo cho các Ngân hàng có khả năng thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh của mình. Bởi lẽ, nghiệp vụ bảo lãnh cũng giống như rất nhiều các nghiệp vụ khác của Ngân hàng không tránh khỏi những rủi ro trong thanh toán, các Ngân hàng phải luôn sẵn có những khoản dự phòng trong trường hợp người được bảo lãnh không có khả năng thanh toán. Hơn thế, một nguyên nhân nữa không kém phần quan trọng đó là chỉ có những ngân hàng có tiềm lực tài chính vững chắc, dồi dào mới có đủ khả năng và uy tín để đứng ra bảo lãnh, đặc biệt là trong giao thương quốc tế.
- Bộ phận kinh doanh ngân hàng giàu kinh nghiệm và đa năng. Nếu không xây dựng được một đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và cơ sở vật chất đầy đủ tiện ích, ngân hàng sẽ chỉ đóng vai trò trung gian chuyển tiếp cho một ngân hàng khác quy mô lớn hơn để xử lý. Và điều này khiến cho khách hàng hao tốn nhiều thời gian hơn trong khâu thanh toán bù trừ, tốn kém hơn trong chi phí xử lý giao dịch, và còn có thể làm sai lệnh thông tin hoặc phát sinh những vấn đề vướng mắc. Các cấp quản lý của ngân hàng phải có năng lực thật sự, hiểu biết cặn kẽ về công việc và quy trình tác nghiệp, nắm vững luật lệ, tập quán thương mại trong nước và quốc tế, môi trường kinh doanh, về đặc điểm khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng, . . . Từ đó họ mới có khả năng ra quyết định hợp lý và đúng đắn, tối ưu nhất.
- Quan hệ ngân hàng đại lý rộng lớn, vững chắc và không ngừng được củng cố. Ngoài việc được cơ quan có thẩm quyền (Ngân hàng Trung ương) cho phép cung cấp dịch vụ ngân hàng quốc tế, quy mô kinh doanh của ngân hàng tối thiểu cũng phải đạt mức đủ để tạo uy tín kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, tạo điều kiện xác lập các mối quan hệ ngân hàng đại lý rộng khắp và bền chặt.
- Bảo đảm mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ giữa ngân hàng với các cơ quan tổ chức cung ứng dịch vụ như các tổ chức bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, quỹ hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu, cục xúc tiến thương mại . . . Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể tận dụng những ích lợi từ những dịch vụ của các tổ chức này cung cấp nghiệp vụ, đồng thời có biện pháp xác lập cấu trúc dịch vụ ngân hàng cung ứng phù hợp.
Nghiệp vụ bảo lãnh XNK của các NHTM nói chung
Hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng được sử dụng để hỗ trợ sự phát triển kinh tế toàn cầu và tạo ra đòn bẩy để phát triển nội lực và ngoại lực. Có thể chắc chắn rằng các thương vụ lớn với nước ngoài hiện nay không thể nào không có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm. Bảo lãnh của ngân hàng thực sự đã trở thành công cụ thông dụng nhất nhằm đảm bảo thực thi nghĩa vụ, đặc biệt là nghĩa vụ tài chính trong các giao dịch ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Khái niệm
Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM được hiểu là “các hoạt động mang tính bảo lãnh của ngân hàng nhằm đáp ứng những nhu cầu đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu trong quá trình giao dịch ngoại thương” (Giáo trình Thanh toán quốc tế và Tài trợ xuất nhập khẩu - Học viện Ngân hàng).
Quá trình giao dịch ngoại thương được hiểu là toàn bộ diễn biến của một thương vụ xuất khẩu (đối với bên bán) và nhập khẩu (đối với bên mua). Theo nghĩa hẹp, quá trình này bắt đầu từ lúc tìm kiếm đối tác, thiết kế sản phẩm, chào hàng - đặt hàng, ký kết hợp đồng cho đến khi giao hàng và hoàn thành hợp đồng.
Qui trình của một nghiệp vụ XNK thường là ngắn hạn nhưng cũng có khi kéo dài như đối với các dự án, công trình hoặc thương vụ có giá trị lớn. Đặc điểm này đã chi phối thời hạn của hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng, đòi hỏi nó trở nên rất đa dạng, có thể đáp ứng mọi nhu cầu của các doanh nghiệp. Đối tượng trong một giao dịch bảo lãnh thông thường là hàng hóa, dịch vụ hoặc các công trình dự án.
Mục đích bảo lãnh của các ngân hàng là nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua các trở ngại đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh để có thể nâng cao kết quả hoạt động, tăng sức cạnh tranh, hoàn thành thương vụ, có ngoại lực để tiếp tục ổn định và phát triển.
Về bản chất, bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM cũng giống như mọi loại hình tín dụng ngân hàng khác, nghĩa là cũng dựa trên“ uy tín ” và “ niềm tin”. Thông thường, thuật ngữ “ tín dụng ngân hàng” được định nghĩa là “ một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán” (Giáo trình Tín dụng ngân hàng - Học viện Ngân hàng). Trong bảo lãnh xuất nhập khẩu, thuật ngữ này còn bao hàm cả dạng thức bảo lãnh, trong đó ngân hàng nhân danh khách hàng sẽ đứng ra cam kết bảo lãnh uy tín cho khách hàng ấy trước một bên thứ ba. Uy tín được ngân hàng bảo lãnh có thể là uy tín thanh toán, uy tín giao hàng, uy tín thực hiện hợp đồng…, tuỳ theo vị thế và yêu cầu của khách hàng cũng như nội dung thương vụ.
Có thể nói, hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với các quan hệ TMQT, phản ánh mối quan hệ giữa hoạt động xuất nhập khẩu và kinh doanh của ngân hàng. Theo thời gian, nghiệp vụ này ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng, phục vụ tích cực và có hiệu quả, trở thành lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất trong toàn bộ các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cả về vai trò lẫn quy mô.
Từ phần này trở đi, trong khoá luận tốt nghiệp này, thuật ngữ “bảo lãnh xuất nhập khẩu” sẽ được sử dụng để thay thế cho cụm từ “bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM”.
Cơ sở ra đời, tồn tại và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh XNK của các NHTM
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất hiện nay là môi trường kinh doanh có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các nhà xuất khẩu hàng hoá không chỉ phải đối mặt với các nhà cung ứng trong nước mà còn phải tìm mọi cách để chiến thắng các đối thủ ở nước ngoài nhằm giành được thị phần trong TMQT. Trong khi đó, người mua càng ngày càng yêu cầu khắt khe hơn về chất lượng, mẫu mã, giá cả . . . và rất nhiều các điều kiện khác. Do vậy, một nhà xuất khẩu muốn chiến thắng thì phải luôn đưa ra được những lời chào hàng hấp dẫn nhất, với nhiều điều kiện ưu đãi nhất. Và một trong những yếu tố quan trọng có tính quyết định là những ưu đãi về thời hạn thanh toán. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào nhà xuất khẩu cũng có đủ vốn để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Mặt khác, khi bán hàng bao giờ họ cũng muốn thu hồi vốn nhanh để tiếp tục quay vòng, bởi trong kinh doanh, nếu bị đọng vốn nhiều thì đồng nghĩa với việc kinh doanh không có hiệu quả. Đối lập với mong muốn của nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu không phải bao giờ cũng có sẵn tiền mà cơ hội kinh doanh thì không thể bỏ qua. Do vậy, họ rất cần có một nguồn ngoại lực trợ giúp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, chưa tạo được uy tín và danh tiếng trong TMQT.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu luôn tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ dẫn đến rủi ro và thất bại. Bởi ngoài các khó khăn thông thường giống như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nội địa, các doanh nghiệp XNK còn phải đương đầu với rất nhiều nguy cơ khác, xuất phát từ các yếu tố đặc thù trong TMQT như: thời gian thực hiện hợp đồng và khoảng cách địa lý; đồng tiền thanh toán và biến động tỷ giá; sự khác biệt về ngôn ngữ, luật pháp, tập quán kinh doanh và các quy định điều tiết giữa các chính phủ . . . quốc tế, người ta đã sử dụng các công cụ kiểm soát như tín dụng chứng từ (Documentary Credits), bảo lãnh hối phiếu (aval) hay chấp nhận của Ngân hàng (Bank’s acceptance). Tuy nhiên, những công cụ trên được sử dụng đơn thuần là để đảm bảo cho rủi ro của việc không thanh toán. Để đối phó với các rủi ro do việc không thực hiện hợp đồng đã xuất hiện công cụ tín dụng thư dự phòng (Stand by letter of credit) và bảo lãnh độc lập (Independent Guarantee) được phát hành bởi các Tổ chức tài chính có uy tín như các Ngân hàng, tổ chức tín dụng...
Mặc dù có rất nhiều khó khăn, nhưng hoạt động xuất nhập khẩu luôn luôn là lĩnh vực quan trọng trong chiến lược phát triển của bất cứ quốc gia nào và nó cũng luôn giành được sự quan tâm từ nhiều phía, đặc biệt là từ phía các doanh nghiệp. Vì trong khi thị trường nội địa đã bão hoà và mang tính cạnh tranh rất cao thì thị trường quốc tế lại hết sức rộng lớn, với nhiều cơ hội kinh doanh hứa hẹn một tỷ suất lợi nhuận cao. Do vậy, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng luôn mong muốn tìm kiếm cơ hội và mở rộng kinh doanh ở những thị trường mới khắp thế giới ấy.
Xuất phát từ thực tiễn khách quan đó, hoạt động bảo lãnh XNK đã ra đời và ngày càng khẳng định được vị thế quan trọng trong việc thúc đẩy TMQT.
Vai trò của hoạt động bảo lãnh XNK của các NHTM
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Bảo lãnh XNK, cùng với các dịch vụ ngân hàng quốc tế khác, ra đời và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu rất đa dạng của các doanh nghiệp về phát triển kinh doanh, chống đỡ rủi ro, nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực TMQT. Qua các hoạt động bảo lãnh, các ngân hàng cung cấp hệ thống giải pháp phong phú, hữu hiệu, giải quyết phần lớn những khó khăn về tài chính và uy tín kinh doanh ngoại thương của doanh nghiệp.
Bên cạnh các hình thức cấp tín dụng trực tiếp như: chiết khấu bộ chứng từ L/C trả chậm miễn truy đòi hay nhận bao thanh toán những khoản phải thu của nhà xuất khẩu . . . các ngân hàng còn cấp tín dụng gián tiếp bằng cách dùng uy tín của mình đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp. Có thể nói, hình thức bảo lãnh này ngày càng đóng vai trò quan trọng khi tính chất phức tạp của các hoạt động TMQT ngày càng gia tăng. Nhất là các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển, do mới gia nhập vào thị trường quốc tế, chưa xây dựng được niềm tin đối với bạn hàng thì việc dựa vào uy tín của ngân hàng là vô cùng cần thiết.
Đối với nền kinh tế
Lĩnh vực xuất nhập khẩu thường được xem là một lĩnh vực kinh tế then chốt trong chiến lược phát triển quốc gia. Nguồn thu nhập to lớn từ nước ngoài thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, việc làm và thu nhập quốc dân gia tăng nhanh, công nghệ hiện đại phục vụ phát triển kinh tế đất nước . . . Để hoạt động xuất nhập khẩu có thể phát huy được các vai trò trên, nhất thiết phải có sự tham gia của các NHTM. Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khác đóng vai trò là chất xúc tác, giúp cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi, góp phần tăng tính năng động cho nền kinh tế, ổn định thị trường. Hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu không chỉ theo sau mà còn là nhân tố đi trước, mở đường cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển theo định hướng của Nhà nước.
Đối với các NHTM
Có thể nói, nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khâủ nói riêng và hệ thống nghiệp vụ ngân hàng quốc tế nói chung là những hình thức kinh doanh mang lại hiệu quả cao và khá an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Thông qua các hình thức bảo lãnh xuất nhập khẩu, các NHTM thu được lãi và phí. Những khoản thu này về số tuyệt đối thường rất lớn do quy mô của hoạt động xuất nhập khẩu và số tiền bảo lãnh.
Nghiệp vụ này cũng khá an toàn do các NHTM đều nhận thức được mức độ phức tạp của TMQT nên trong việc xử lý luôn luôn tỏ ra thận trọng, ví dụ như : yêu cầu có đảm bảo cho những khoản xin bảo lãnh, căn cứ vào mức độ và số tiền bảo lãnh . . . Ngoài ra, do các khách hàng xin bảo lãnh đều có tài khoản tại ngân hàng nên nó có thể quản lý các nguồn thanh toán, tránh được tình trạng xoay vốn của khách hàng trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, dễ xảy ra rủi ro.
Một lợi ích khác hết sức quan trọng là thông qua bảo lãnh xuất nhập khẩu, ngân hàng thiết lập được mối quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài, từ đó có thể phát triển được mạng lưới ngân hàng đại lý, ngân hàng chi nhánh rộng khắp giúp ngân hàng mở rộng thị phần ở thị trường quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp. Mặt khác, việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng xuất nhập khẩu về tài chính và uy tín trong kinh doanh khiến cho ngân hàng nâng cao được vị thế cạnh tranh và khả năng phát triển.
Nguồn luật điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM.
Như đã nêu ở phần trên, tình trạng thiếu một tên gọi quốc tế chuẩn thống nhất cho nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng cho thấy rằng vẫn còn chưa có một chuẩn mực thực hành nghiệp vụ được công nhận trên bình diện toàn cầu, dù rằng bảo lãnh ngân hàng vẫn được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn.
Các công ước quốc tế
Năm 1995, Uỷ ban Pháp luật và thương mại quốc tế của Liên Hiệp Quốc đã soạn thảo: “Công ước Liên hiệp quốc về bảo lãnh độc lập và Tín dụng dự phòng” , nhưng cho đến nay nó vẫn chưa có hiệu lực thi hành. Công ước là sự tổng hoà của các Bộ Luật quốc gia về giao dịch bảo lãnh độc lập và tín dụng dự phòng. Nó quốc tế hoá giao dịch này, tạo ra một phong thái, cách thức phù hợp với tập quán và thông lệ quốc tế.
Tuỳ vào thực tế của hệ thống pháp luật nước mình, từng quốc gia có thể phê chuẩn Công ước nhằm tạo một hành lang Pháp lý trong giao dịch quốc tế về bảo lãnh độc lập và tín dụng dự phòng. Lợi thế của công ước là việc phê chuẩn Công ước là cả hai bên đều nắm hiểu và áp dụng thông thạo một điều luật chung trong giao dịch, tránh được tình trạng một trong hai đối tác lựa chọn luật của nước mình áp dụng cho giao dịch, tạo bất lợi cho phía bên kia.
Các văn bản của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành
Sự phát triển mạnh mẽ của giao dịch cam kết bảo lãnh trong thập kỷ 60 đã bắt buộc các tổ chức thương mại, tài chính quốc tế nghĩ đến một hành lang pháp lý cho công cụ bảo đảm được coi là đa năng, uyển chuyển này. Trong số đó, phòng TMQT (The International Chamber of Commerce - ICC), một tổ chức phi chính phủ về Thương mại - Ngân hàng - Bảo hiểm - Vận tải lớn nhất thế giới đã có những đóng góp đáng kể vào công trình trên.
Năm 1978, Phòng TMQT (ICC) đã ban hành ấn bản số 325 - “Các quy tắc thống nhất về Bảo lãnh Hợp đồng” (The Uniform Rules for Contract Guarantee - gọi tắt là URCG). Quy tắc này nhằm đảm bảo sự thống nhất về thực hiện giao dịch Bảo lãnh dựa trên sự cân xứng về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan nhưng cũng tuân thủ mục đích thương mại của bảo lãnh, có nghĩa là đảm bảo số tiền thanh toán từ phía thứ ba trong trường hợp người hưởng chứng minh rằng họ được quyền thanh toán do sự vi phạm hợp đồng của phía đối tác.
Tuy nhiên, ấn bản này chưa thực sự cụ thể, chưa thật sự nêu rõ được tính độc lập của bảo lãnh cũng như tính chứng từ của nó. Trong suốt thời gian sử dụng, Các Quy tắc này đã gây ra nhiều tranh cãi, mặc dù ICC đã có những văn bản bổ sung, giải thích nhưng nó cũng không được chấp nhận một cách rộng rãi.
Đến tháng 12/1991, ICC đã hoàn tất ấn bản số 458 - Các quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu (The Uniform Rules for Demand Guarantee - gọi tắt là URDG) và có hiệu lực vào tháng 4/1992. Đây thật sự mới là một bước hoàn thiện những quy tắc về bảo lãnh. Các quy tắc này tổng hợp những điểm tiến bộ của “Các Quy tắc thống nhất về Bảo lãnh Hợp đồng”. URDG - ICC 458 không những điều tiết những mối quan hệ giữa người bảo lãnh và người thụ hưởng mà còn điều tiết những mối quan hệ phát sinh từ những bảo lãnh đối ứng (counter-guarantee). URDG là một văn bản khá hoàn thiện, việc nghiên cứu và dẫn chiếu theo Các quy tắc này sẽ tránh được những rủi ro do không nắm được Luật pháp của các bên đối tác. Bên cạnh đó, do tính chất ấn bản sau không phủ định ấn bản trước đối với các văn bản do ICC phát hành, do vậy “Các quy tắc thống nhất về Bảo lãnh Hợp đồng - URCG 325) vẫn còn có hiệu lực. Các bên tham gia trong một nghiệp vụ bảo lãnh, tuỳ chọn, có thể căn cứ theo URCG hay URDG. Trong tương lai, ICC cũng xem xét việc bổ sung, sửa đổi lại URCG cho phù hợp với xu hướng của những tập quán bảo lãnh chung hiện nay.
Luật quốc gia
Một vài quốc gia có ban hành những luật, những quy định cho nghiệp vụ bảo lãnh, ví dụ như Uniform Commercial Code ở Mỹ, Luật Bảo lãnh của Anh, Luật Hợp đồng TMQT (International Commercial Contracts Act) của Đức, những quy định về Bảo lãnh ở Hà Lan, ả Rập …
Những văn bản này cũng định nghĩa, mô tả nội dung bảo lãnh và những quy định trách nhiệm của các bên trong một nghiệp vụ bảo lãnh, điều kiện thanh toán. Về nguyên tắc, luật quốc gia của phía phát hành bảo lãnh sẽ được áp dụng cho bảo lãnh đó, nếu hai bên không chọn được luật của nước thứ ba. Nhưng đôi khi những quy định trong luật quốc gia lại trái ngược với những văn bản của Phòng TMQT. Điều này có thể dẫn tới những ngộ nhận, nhầm lẫn đáng tiếc và những tranh chấp có thể phát sinh khi các bên không hiểu rõ và đầy đủ về tầm mức trách nhiệm của mình. Do vậy, ở những nước có luật hay quy định về nghiệp vụ bảo lãnh thì khi phát hành bảo lãnh tham chiếu theo các ấn bản của ICC, các ngân hàng thường ghi điều khoản tham chiếu trong nội dung của các cam kết bảo lãnh để hạn chế những rủi ro trên. Ví dụ như: “Bảo lãnh này được áp dụng theo Luật của . . . quy tắc . . .”
Chủ thể của một giao dịch bảo lãnh
Một giao dịch bảo lãnh ngân hàng thông thường cũng như trong lĩnh vực TMQT, bao gồm 3 chủ thể chính: ngân hàng bảo lãnh, người được bảo lãnh, và người thụ hưởng bảo lãnh (còn được gọi là người nhận bảo lãnh, và trong một số trường hợp còn có tên gọi là người yêu cầu bảo lãnh).
Ngân hàng bảo lãnh: là chủ thể đứng ra bảo đảm với người thụ hưởng rằng người được bảo lãnh sẽ hoàn thành những nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu các nghĩa vụ này không được hoàn thành, ngân hàng bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán đền bù cho người thụ hưởng. Mức đền bù dựa theo thoả thuận bảo lãnh ngân hàng đã cấp, có thể từ 1% - 100% giá trị hợp đồng.
Người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh có thể là nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu, tuỳ theo nghiệp vụ được bảo lãnh.
Người được bảo lãnh: là người được ngân hàng cam kết trả thay nếu vi phạm hợp đồng. ở đây thường là nhà nhập khẩu
Người thụ hưởng bảo lãnh: là người được ngân hàng bảo lãnh thanh toán khi có yêu cầu do người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng, thường là nhà x._.uất khẩu.
Ngoài ra, do người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh ở các quốc gia khác nhau, nên cũng như phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, nghiệp vụ bảo lãnh còn có sự tham gia của một số ngân hàng:
Ngân hàng thông báo: là ngân hàng của người thụ hưởng, có nhiệm vụ thông báo bảo lãnh cho người thụ hưởng sau khi đã kiểm tra tính chân thực của bảo lãnh (chữ ký hữu quyền hay testkey).
Ngân hàng xác nhận: là ngân hàng của nước người người thụ hưởng, khi mà người thụ hưởng không tin tưởng tiềm lực tài chính của ngân hàng phát hành thì có thể yêu cầu sự tham gia của một ngân hàng xác nhận.
Ngân hàng thanh toán (Reimbursing bank): đây thực chất cũng là ngân hàng phát hành bảo lãnh cho người người thụ hưởng nhưng theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà do ngân hàng chỉ thị.
Trong giao dịch ngoại thương, đối tượng giao dịch bảo lãnh là thương vụ mua bán giữa các bên xuất khẩu và nhập khẩu. Và quan hệ giữa các bên được quy định bởi 3 hợp đồng riêng biệt, độc lập với nhau.
Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh, cụ thể là đơn xin phát hành bảo lãnh. Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Thư bảo lãnh (letter of guarantee) hay còn gọi là cam kết bảo lãnh, là hợp đồng giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng. Bên cạnh hợp đồng giữa các chủ thể chính của nghiệp vụ bảo lãnh, còn có các hợp đồng giữa ngân hàng phát hành với ngân hàng thông báo, ngân hàng phát hành với ngân hàng xác nhận hoặc với ngân hàng thanh toán.
Như vậy, một nghiệp vụ bảo lãnh không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh, mà còn bao hàm những mối quan hệ khác nữa
Các loại hình bảo lãnh XNK
Có nhiều dạng thức dịch vụ bảo lãnh ngoại thương khác nhau có thể sử dụng tương thích với tình hình diễn biến cụ thể của từng giao dịch.
Các nghiệp vụ bảo lãnh ngắn hạn
Đây là loại hình bảo lãnh có thời hạn dưới một năm. Bảo lãnh ngắn hạn thường được sử dụng nhằm hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp, giúp họ có điều kiện về tài chính để thanh toán các khoản nhập khẩu nguyên liệu, vật tư hay để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Đây là loại hình bảo lãnh chiếm tỷ trọng lớn tại các NHTM.
Bảo lãnh XNK trên cơ sở phương thức nhờ thu kèm chứng từ
Khi giao dịch ngoại thương áp dụng phương thức thanh toán nhờ thu, nhà xuất khẩu giao hàng và uỷ nhiệm ngân hàng của mình thu hộ tiền hàng từ người mua nước ngoài trên cơ sở chỉ thị nhờ thu. Ngân hàng xử lý nghiệp vụ nhờ thu chỉ trên cơ sở chứng từ và hoàn toàn độc lập với giao dịch mua bán hàng hoá giữa nhà xuất khẩu với nhà nhập khẩu.
Trong phương thức thanh toán nhờ thu, nhà xuất khẩu thường phải chờ đợi một thời gian đáng kể từ lúc giao hàng cho đến khi được thanh toán, không những thế, để bán được hàng, nhà xuất khẩu đôi khi phải chấp nhận việc cho phép người mua trả chậm tiền hàng. Chính vì thế, nhà xuất khẩu có thể gặp những khó khăn về vốn kinh doanh khi sử dụng phương thức thanh toán này.
Do vậy, để các giao dịch được diễn ra trôi chảy, cần thiết phải có sự tham gia của các NHTM, đóng vai trò là nhà bảo lãnh. Trong khuôn khổ và dựa trên cơ sở phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ, ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh bằng các kỹ thuật : ứng trước giá trị nhờ thu, mua hối phiếu, chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu, và tín dụng chấp phiếu.
Bảo lãnh trên cơ sở phương thức tín dụng chứng từ
Tín dụng chứng từ là một văn bản thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở tín dụng), theo yêu cầu của một khách hàng (người yêu cầu mở tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba đó (người hưởng lợi); hoặc sẽ trả, chấp nhận, mua hối phiếu do người hưởng lợi phát hành; hoặc cho phép một ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận hay mua hối phiếu đó, khi xuất trình đầy đủ các chứng từ đã quy định và mọi điều kiện đặt ra trong tín dụng thư đều được thực hiện đầy đủ (Giáo trình Thanh toán quốc tế _Trường Đại học Ngoại Thương).
Trong khuôn khổ và dựa trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, các ngân hàng thực hiện bảo lãnh thông qua các kỹ thuật: phát hành thư tín dụng, xác nhận thư tín dụng, chiết khấu bộ chứng từ theo thư tín dụng, tài trợ bằng các loại thư tín dụng đặc biệt, (thư tín dụng giáp lưng, thư tín dụng chuyển nhượng, thư tín dụng tuần hoàn).
Bảo lãnh trên cơ sở hối phiếu
Hối phiếu là một công cụ thanh toán được sử dụng hết sức phổ biến trong các giao dịch ngoại thương, và thường xuyên xuất hiện trong các phương thức thanh toán quốc tế thông dụng hiện nay. Tính đa năng và phổ biến của hối phiếu khiến cho việc phân loại, định hình các kỹ thuật nghiệp vụ bảo lãnh dựa theo nó rất khó khăn và chỉ mang tính tương đối. Có ba kỹ thuật bảo lãnh cơ bản nhất, trực tiếp gắn liền với hối phiếu, đó là: chiết khấu hối phiếu, chấp nhận hối phiếu của ngân hàng, và bảo lãnh hối phiếu của ngân hàng.
Tạm ứng cho nhà xuất khẩu
Với nhà xuất khẩu, ngoài các hình thức bảo lãnh thông qua các phương thức thanh toán kèm chứng từ như chiết khấu hối phiếu trong phương thức nhờ thu hay chiết khấu bộ chứng từ trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng cũng có thể bảo lãnh trong khuôn khổ thanh toán trơn (clean payment). Ngân hàng sẽ cấp cho nhà xuất khẩu khoản tạm ứng căn cứ vào quá trình chuẩn bị và thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Đối tượng vay có thể là vay hàng đang ở trong kho, vay chuẩn bị hàng xuất, vay chứng từ hàng đang đi trên đường. Thường các khoản tạm ứng này có hàng hoá làm vật đảm bảo, tuy nhiên, ngân hàng cũng không tin tưởng hoàn toàn vào vật đảm bảo này. Mức độ tạm ứng của ngân hàng tuỳ thuộc vào khả năng thanh toán của khách hàng, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào sự nhạy cảm về giá cả sản phẩm của hàng hoá. Ngoài ra, ngân hàng còn xét tới các rủi ro khi cấp tạm ứng, đáng kể là các rủi ro kinh tế, chính trị, rủi ro tỷ giá hối đoái.
Cho vay thấu chi ( Overdraft)
Cho vay thấu chi là một hình thức bảo lãnh ngân hàng dành cho các nhà xuất nhập khẩu có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng. Nó cho phép nhà xuất nhập khẩu có thể tự động rút tiền quá số dư trong tài khoản vãng lai của anh ta và tự động hoàn trả khi có doanh thu. Đặc điểm của loại cho vay này là chỉ được rút tiền trong một hạn nghạch nhất định.
Ngân hàng thường áp dụng nghiệp vụ này đối với những khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh và có uy tín. Do tính linh hoạt và tiện lợi, cho vay thấu chi là một trong những hình thức bảo lãnh XNK khá phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Bao thanh toán tương đối (factoring)
Bao thanh toán tương đối là hình thức bảo lãnh đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính sẽ mua lại các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu nước ngoài. Bảo lãnh bao thanh toán tương đối quốc tế, với các tính năng kỹ thuật đặc thù, có thể giúp nhà xuất khẩu vừa nhận được tiền ngay khi giao hàng, vừa không phải bận tâm về rủi ro thương mại từ phía người mua, vừa tiết giảm khối lượng công việc ghi chép sổ sách và theo dõi quá trình thu nợ người mua nước ngoài.
Các nghiệp vụ bảo lãnh XNK trung và dài hạn
Khác với bảo lãnh XNK ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp XNK vốn lưu động, bảo lãnh XNK trung và dài hạn được cung cấp để đầu tư, mua sắm tài sản cố định, xây dựng mới, mở rộng cơ sở hạ tầng, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ . . . Thời hạn của loại bảo lãnh này tuỳ theo quy định của mỗi nước, thường là từ 1 - 5 năm đối với bảo lãnh trung hạn và 5 năm trở lên đối với bảo lãnh dài hạn. ở đây chỉ đề cập đến một số loại hình bảo lãnh phổ biến.
Cho vay trung và dài hạn
Cho vay là hình thức cổ điển nhất và cũng là hình thức cơ sở cho các hình thức bảo lãnh khác ra đời và phát triển. Cho vay là việc ngân hàng giao vốn cho khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất định, với cho vay trung và dài hạn, thời gian này lớn hơn một năm. Khách hàng vay vốn phải đảm bảo thực hiện các nguyên tắc cho vay của ngân hàng, đó là phải sử dụng vốn vay đúng mục đích trong hợp đồng vay, phải trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã thoả thuận và phải có đảm bảo tiền vay.
Hiện nay đang phát triển hình thức cho vay hợp vốn dưới hình thức đồng tài trợ, trong đó hai hay nhiều ngân hàng cùng góp vốn cho vay đối với một dự án. Hình thức cho vay này ngày càng phát triển do ngày càng xuất hiện nhiều dự án quy mô lớn, nhu cầu vốn tăng cao mà khả năng cho vay của một ngân hàng riêng lẻ không đáp ứng được hoặc do nhu cầu phân tán rủi ro của ngân hàng mà cần tới sự tham gia góp vốn của nhiều ngân hàng khác nhau.
Bao thanh toán tuyệt đối (forfaiting)
Kỹ thuật bao thanh toán tương đối được chuyên môn hoá cao được gọi là bao thanh toán tuyệt đối. Đây là hình thức chiết khấu các hối phiếu, nhưng nó chỉ được áp dụng khi các hối phiếu này có độ rủi ro đặc biệt cao. Tỷ lệ chiết khấu trong trường hợp này là cố định, lớn hơn chi phí vốn ở địa phương và lớn hơn lãi suất Libor (khoảng 1,25%). Đây là hình thức chiết khấu miễn truy đòi.
Tín dụng cấp cho người đặt hàng
Là hình thức ngân hàng theo yêu cầu của nhà xuất khẩu cấp tín dụng cho người nước ngoài đặt mua các hàng hoá, dịch vụ trong nước nhằm thanh toán trực tiếp các hàng hoá, dịch vụ này. Ngân hàng nhà xuất khẩu sẽ chỉ đứng ra bảo lãnh khi nhà nhập khẩu được một ngân hàng hạng nhất trong nước đứng ra bảo lãnh thanh toán. Đặc điểm của loại thanh toán này là ngân hàng không cấp tín dụng thẳng cho người vay (nhập khẩu) mà chi trả trực tiếp cho người xuất khẩu theo tiến độ giao hàng. Như vậy, đối với người xuất khẩu, việc bán hàng trở thành bán hàng trả ngay; còn đối với nhà nhập khẩu, việc mua hàng trở thành mua hàng trả chậm. Hình thức này còn gọi là tín dụng tài chính ràng buộc hoặc tín dụng tài chính ràng buộc vào cung ứng
*** ở phần trên ta vừa phân loại bảo lãnh theo mức độ về thời gian, còn nếu chia theo mục đích sử dụng của bảo lãnh ta lại có các loại bảo lãnh theo đối tượng dưới đây.
Bảo lãnh dự thầu (Bid bond / Tender guarantee)
Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với chủ thầu sẽ trả tiền thay trong phạm vi thời hạn và số tiền của bảo lãnh nếu bên dự thầu vi phạm quy chế dự thầu, không nộp hoặc nộp không đủ số tiền phạt cho bên chủ thầu.
Trong TMQT, nghiệp vụ đấu thầu được sử dụng khá phổ biến để lựa chọn đối tác tối ưu nhất. Theo quy chế dự thầu, người dự thầu phải hoặc ký quỹ một số tiền nhất định cho chủ công trình, hoặc cung cấp một bảo lãnh dự thầu do ngân hàng phát hành để đảm bảo rằng người thầu không bỏ dở đấu thầu, không thay đổi hồ sơ dự thầu trong thời gian đấu thầu và đặc biệt, phải ký quỹ hợp đồng sau khi trúng thầu. Hiện nay, bảo lãnh dự thầu do NHTM phát hành được sử dụng rộng rãi thay cho ký quỹ vốn là bất tiện cho người dự thầu.
Bảo lãnh tiền ứng trước (Advance payment guarantee): còn gọi là bảo lãnh hoàn trả (Repayment guarantee)
Trong TMQT, bên xuất khẩu có thể nhận được một số tiền ứng trước từ đối tác để cung ứng hàng hoá theo hợp đồng. Số tiền này thường từ 10 - 30% giá trị hợp đồng. Để đảm bảo việc trả nợ, người mua yêu cầu bảo lãnh từ ngân hàng của người bán với giá trị đúng bằng số tiền ứng trước (có hoặc không cộng thêm lãi phát sinh). Loại bảo lãnh này gọi là bảo lãnh tiền ứng trước. Điều lưu ý là bảo lãnh này liên quan đến khoản tiền ứng trước bằng tiền mặt. Nếu là ứng trước bằng hàng hoặc vật chất, người ta thường áp dụng loại bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance guarantee)
Là cam kết của ngân hàng bảo lãnh về việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh. Trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hợp đồng mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên yêu cầu bảo lãnh thì ngân hàng bảo lãnh trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là loại được sử dụng thường xuyên và rất thông dụng, nó có thể không phải yêu cầu một loại bảo lãnh nào khác ngoài nó ra trong quá trình mua bán.
Giá trị bảo lãnh tuỳ thuộc theo giá trị hợp đồng và tuỳ tính chất của mỗi thương vụ. Tuy nhiên, giá trị bảo lãnh thực hiện hợp đồng thông thường là từ 5 - 10% giá trị hợp đồng cơ sở.
Bảo lãnh thanh toán (Payment guarantee)
Với dạng bảo lãnh này, ngân hàng cam kết với người thụ hưởng (ở đây là nhà xuất khẩu, bên cung ứng) về việc thanh toán tiền theo thoả thuận hợp đồng cơ sở của người được bảo lãnh (là bên mua, nhà nhập khẩu). Trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ giá trị hợp đồng thì ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả thay cho người được bảo lãnh.
Loại bảo lãnh này được sử dụng làm công cụ đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của người mua theo hợp đồng thương mại. Bảo lãnh thanh toán thường có những điều kiện trả tiền mang tính khách quan hơn là các bảo lãnh vô điều kiện khác. Nó yêu cầu người thụ hưởng xuất trình hóa đơn bán hàng cho người mua và có thể được xác thực bởi phía thứ ba như hải quan cửa khẩu. Thông thường bảo lãnh thanh toán bằng 100% giá trị hợp đồng. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh này do các bên thoả thuận, thường kết thúc khi việc thanh toán hoàn tất.
Bảo lãnh bảo hành (Warranty guarantee)
Loại bảo lãnh này dùng cho mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá trong suốt thời hạn bảo hành. Trong suốt thời gian bảo hành, nếu có sự cố trong phạm vi được bảo lãnh xảy ra đối với sản phẩm thì người thụ hưởng có quyền lập chứng từ theo yêu cầu thanh toán bảo lãnh như là một khoản bồi thường.
Hình thức bảo lãnh này đòi hỏi người bán phải chú trọng chất lượng hàng hoá và dịch vụ cung cấp.
Bảo lãnh hải quan (Custom guarantee)
Trong trường hợp hàng hoá được nhập khẩu vào một nước nào đó nhằm mục đích trưng bày tại triển lãm, hay tham dự hội chợ trong một khoảng thời gian nào đó rồi sẽ tái xuất. Những hàng hoá đó không phải nộp thuế nhập khẩu. Do vậy, hải quan của nước mà hàng hoá được tạm nhập, tái xuất yêu cầu chủ hàng phải có một bảo lãnh nhằm đảm bảo rằng nếu quá thời hạn đã đăng ký mà hàng hoá đó không tái xuất thì hải quan sẽ rút tiền thanh toán từ thư bảo lãnh coi như một khoản nộp tiền thuế nhập khẩu và tiền bảo lãnh. Bảo lãnh này thường xảy ra ở các nước thuộc Cộng Đồng Châu Âu (EC).
Bảo lãnh nhận hàng (Shipping guarantee/Delivery guarantee)
Ngân hàng và các doanh nghiệp rất quen thuộc với loại bảo lãnh này. Trong buôn bán quốc tế, nhà nhập khẩu phải xuất trình chứng từ để chứng minh quyền sở hữu hàng hoá của mình khi nhận hàng. Trường hợp hàng hoá về trước chứng từ, nhà nhập khẩu yêu cầu ngân hàng cấp một bảo lãnh để cơ quan chức năng cho phép nhận hàng mà không có vận đơn gốc.
Phía bảo lãnh luôn là ngân hàng phát hành thư tín dụng với cam kết bồi thường mọi tổn thất cho người nhận bảo lãnh do nguyên nhân nhận hàng không có vận đơn và cam kết trả lại vận đơn gốc để thu về bảo lãnh nhận hàng
Bảo lãnh vận đơn (Bill of lading guarantee)
Loại bảo lãnh này nhằm bảo vệ những người có quyền chính đáng trước sự lợi dụng chứng từ hàng hoá có giá trị từ 100 - 150% giá trị hàng hoá để có thể bù đắp những thiệt hại phát sinh. Hình thức bảo lãnh này có hai loại:
Người xuất khẩu là người đề nghị phát hành: ngân hàng cam kết với người nhập khẩu bồi thường thiệt hại phát sinh đối với người này do việc vận đơn gốc không được xuất trình hoặc không xuất trình kịp thời.
Người nhập khẩu là người đề nghị phát hành: ngân hàng cam kết với chủ vận tải sẽ bồi thường mọi thiệt hại nếu hàng hoá được giao không có chứng từ cho một người không có quyền, cho người nhận hàng, do chứng từ thất lạc hoặc đến chậm hơn tầu, hoặc chủ hãng vận tải uỷ nhiệm nhận hàng không có chứng từ.
Kinh nghiệm bảo lãnh ngân hàng của một số nước trên thế giới
Kinh nghiệm về bảo lãnh ngân hàng của các nước ASEAN
Hệ thống ngân hàng các nước ASEAN (không kể Việt Nam, Lào và Mianma) được coi là hệ thống ngân hàng phát triển nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương, khu vực có nền kinh tế năng động nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng hàng năm vào khoảng từ 7- 8%/năm. Nghiệp vụ bảo lãnh được các NHTM các nước ASEAN tiếp thu kinh nghiệm của các ngân hàng Hoa Kỳ và được thực hiện một cách hiệu quả.
Singapore: Đối với những thương vụ bảo lãnh có giá trị lớn, các NHTM chỉ chấp thuận bảo lãnh cho các doanh nghiệp khi có giấy đề nghị đứng ra bảo lãnh của Chính phủ.
Malaysia: Đạo luật về bảo lãnh được quy định rất chặt chẽ, chỉ có các NHTM uy tín trên thị trường tài chính – tiền tệ ở trong nước và quốc tế, vốn tự có phải lớn mới được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp.
Inđônêxia: Luật pháp nước này quy định chỉ có các doanh nghiệp lớn mạnh, có uy tín đối với khách hàng và bạn hàng mới được ngân hàng đứng ra bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh không được quá 5 năm; nếu trên 5 năm phải do Chính phủ xem xét, quyết định.
Thái Lan: Các NHTM chỉ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp là khách hàng truyền thống và các ngân hàng này cũng phải có uy tín lớn trên thị trường tài chính – tiền tệ trong nước cũng như thế giới.
Kinh nghiệm bảo lãnh ở Trung Quốc
Các NHTM ở Trung Quốc hạn chế việc bảo lãnh vay vốn nước ngoài của các doanh nghiệp và phía nước ngoài trong liên doanh và thường yêu cầu ký quỹ 100%. Các nghiệp vụ bảo lãnh khác, NHTM có quyền bảo lãnh dựa trên quy định của Ngân hàng Trung ương và mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một quy chế bảo lãnh riêng.
Các nước Liên hiệp châu âu
Luật các nước đề cập đến các giao dịch về các Cam kết bảo lãnh của ngân hàng, của các tổ chức tài chính, bảo hiểm . . . Mặc dù còn có những khác biệt, luật và văn bản của phần lớn các quốc gia châu Âu đều tôn trọng bản chất và đặc tính độc lập, vô điều kiện của bảo lãnh.
Điều ước EEC Roma 1980 về Luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng có hiệu lực từ 1991. Theo điều ước này, luật được chọn trong hợp đồng là luật do hai bên lựa chọn dù được được ghi rõ hay ngầm hiểu. Nếu không có điều khoản này, luật áp dụng sẽ là luật của quốc gia mà hợp đồng gắn bó chặt chẽ nhất, tức là luật của nước ngân hàng phát hành.
Bài học kinh nghiệm với Việt Nam
Trên đây là một số những ví dụ điển hình về qui trình và điều kiện thực hiện bảo lãnh ngân hàng của một số quốc gia Đông Nam á, Trung Quốc và các nước trong Liên hiệp Châu âu, qua đó có thể thấy rằng các NHTM Việt Nam muốn phát triển được nghiệp vụ bảo lãnh cần phải có
- Nguồn ngoại tệ lớn để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của khách hàng. Có đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu thì hoạt động thanh toán quốc tế cũng sẽ được phát triển theo. Do đó các NHTM cần:
+ Đẩy mạnh nghiệp vụ huy động vốn ngoại tệ.
+ Tích cực khai thác nguồn vốn bảo lãnh của ngân hàng nước ngoài.
+ Nâng cao chất lượng bảo lãnh nội tệ.
- Cần ưu tiên lựa chọn và mở rộng mức cung cấp dịch vụ bảo lãnh đối với từng dự án, từng khách hàng: cần khuyến khích các khách hàng truyền thống, có uy tín cao tham gia bảo lãnh để đầu tư vào sản xuất, phát triển kinh doanh. Ngoài ra, cần chú trọng bảo lãnh cho doanh nghiệp nước ngoài tham gia liên doanh đấu thầu xây lắp tại Việt nam, trên cơ sở có thư bảo lãnh đối ứng của ngân hàng nước ngoài có quan hệ đại lý với NHTM Việt Nam.
- Thực hiện cơ chế chính sách đảm bảo an toàn trong bảo lãnh: Yêu cầu xác định rõ khả năng trả nợ của dự án và nguồn trả nợ thay khi dự án gặp rủi ro, không đạt hiệu quả kinh tế như dự kiến. Không nên quá rè rặt khi tham gia bảo lãnh nhưng ngược lại cũng cần phải thực hiện đầy đủ các bước để đảm bảo an toàn cho bảo lãnh. Nghiên cứu tìm hiểu đối tượng được bảo lãnh, cân nhắc tính hiệu quả của dự án, và với những dự án lớn cần phải thực hiện ký quỹ 100% để đảm cho nguồn vốn của ngân hàng và có đủ văn bản pháp lý như điều kiện qui định.
Phần II
Thực trạng phát triển hoạt động bảo lãnh XNK của các Ngân hàng Thương Mại tại Việt Nam
Một vài nét về hoạt động XNK của Việt Nam trong thời gian qua
Nhìn nhận và đánh giá về tình hình XNK của Việt Nam trong những năm gần đây
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, nền kinh tế nước ta đang từng bước phát triển và hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Với sự phát triển không ngừng của kinh tế quốc tế, trong thời gian qua hoạt động XNK ở Việt Nam đã góp phần đáng kể vào công cuộc Công nghiệp hoá_ Hiện đại hóa đất nước. Kế hoạch 5 năm 1996-2000 cho lĩnh vực XNK tuy gặp khó khăn trong quá trình thực hiện do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nhưng đã hoàn thành về cơ bản. Hoạt động XNK tiếp tục phát triển khá với tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm từ 1996-2000 đạt trên 5,6 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 13,3 %.
Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu nước ta đạt trên 180 USD/người/ năm, tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc nhóm các nước có nền ngoại thương phát triển.
Năm 2002, kinh tế Việt Nam vẫn giữ được mức độ tăng trưởng khá với tốc độ 7,04%, đứng thứ hai trong khu vực, kim ngạch xuất khẩu tăng 9,8%. Các chính sách kích cầu và khuyến khích đầu tư từ nguồn nội lực đã bắt đầu tạo những chuyển biến tích cực. Nhiều chương trình, dự án lớn được triển khai với sự bảo lãnh về vốn của các NHTM dưới nhiều hình thức cho vay khác nhau. Vì vậy, mức tăng trưởng tín dụng bình quân của toàn hệ thống ngân hàng đạt khá cao với mức 27%.
Năm 2003, tình hình kinh tế_chính trị trên thế giới sẽ có những biến động lớn, nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới vẫn có thể nằm trong tình trạng phát triển chậm hoặc suy thoái. Đối với Việt Nam, nhờ có sự hỗ trợ đắc lực từ chính phủ, những chính sách khuyến khích xuất khẩu và sự chủ động năng động tìm hướng đi mới từ phía bản thân các doanh nghiệp nên theo dự báo nền kinh tế sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ khá cao. Tuy nhiên thử thách vẫn còn rất nhiều ở phía trước đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa và sự phối hợp đồng bộ từ phía Nhà nước và đặc biệt là sự phát triển của hệ thống tín dụng mà trong đó một nghiệp vụ không kém phần quan trọng đó chính là hoạt động bảo lãnh từ phía các NHTM.
Tính tất yếu phải phát triển nghiệp vụ bảo lãnh XNK trong các NHTM tại Việt Nam
Yêu cầu từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Kể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là TMQT. Tốc độ xuất khẩu trong suốt thập kỷ qua gia tăng mạnh mẽ, từ mức 2.042 triệu USD năm 1991 lên tới 14.308 triệu USD năm 2000. Nguồn thu từ xuất khẩu trong những năm qua đã góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu á từ cuối năm 1997, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng chững lại do đây là thị trường chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Tăng trưởng xuất khẩu trong năm 1998 chỉ là 0,91% so với 27,69% năm 1997. Tình trạng này một phần do mức cầu về hàng hoá Việt Nam đang giảm đáng kể, bên cạnh đó khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua cũng là mối quan tâm hàng đầu. Theo số liệu mới đây của cuộc điều tra về hiện trạng, phát triển kinh doanh và khu vực tư nhân của Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương thì có tới 81/336 (chiếm 24,2%) doanh nghiệp Việt Nam đang có hoạt động xuất khẩu cho rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình kém và rất kém, chỉ có 32/336 (chiếm 9,5%) doanh nghiệp cho rằng mình có đủ khả năng cạnh tranh, số còn lại cho rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình ở mức trung bình và không thể xác định được mức độ về khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh kém và rất kém chiếm một tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh có vẻ kém dường như bộc lộ ở những ngành cần nhiều vốn và đòi hỏi công nghệ cao.
Trong khi lộ trình tiến tới hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang đến gần thì danh tiếng, uy tín cũng như quy mô của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé. Mặc dù trong lĩnh vực xuất nhập khẩu số lượng các đơn vị tham gia tăng lên nhanh chóng nhưng năng lực và hiệu quả của các doanh nghiệp còn khá hạn chế. Theo kết quả “điều tra các doanh nghiệp xuất nhập khẩu” của Phòng thương mại quốc tế Việt Nam(VCCI) năm 2000, chỉ có 38% số doanh nghiệp được điều tra có số vốn đăng ký trên 100 nghìn USD, 31% có số vốn đăng ký từ 50 nghìn đến 100 nghìn USD và 31% có số vốn đăng ký dưới 50 nghìn USD. Cũng theo số liệu điều tra này, chỉ có 7% doanh nghiệp đạt kim ngạch trên 1 triệu USD, 13% doanh nghiệp đạt kim ngạch từ 500 nghìn đến 1 triệu USD, 51% doanh nghiệp đạt kim ngạch từ 100 – 500 nghìn USD, còn lại là dưới 100 nghìn USD trong năm 1999.
Để tối ưu hoá hoạt động xuất nhập khẩu và sử dụng triệt để tiềm năng kinh tế trong nước, thương mại Việt Nam cần phải được tập trung, hỗ trợ, làm tốt các giai đoạn xúc tiến xuất khẩu ở cấp vĩ mô và cấp doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần được khuyến khích đổi mới cơ cấu mặt hàng và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh sản phẩm trong khu vực.
Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của khu vực thương mại Việt Nam là củng cố thị trường cũ, mở rộng thị trường mới và nâng cao vị thế sản phẩm của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để làm được việc này, bên cạnh những chính sách về xuất khẩu, Việt Nam cần có một cơ chế bảo lãnh xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập dần với hệ thống thương mại toàn cầu. Điều này khẳng định vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng trong việc thúc đẩy, mở rộng hoạt động xuất khẩu thông qua việc đáp ứng nhu cầu tín dụng cũng như vấn đề uy tín cho các doanh nghiệp. Và trong hệ thống các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng các cho các doanh nghiệp, nghiệp vụ bảo lãnh là một trong số những nghiệp vụ tối ưu, vừa về uy tín lại vừa nhu cầu vốn.
Mặt khác, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, luật pháp quy định quan hệ giao dịch tài chính - kinh tế phải được bên thứ ba là định chế tài chính hoặc ngân hàng bảo lãnh. Do vậy, khi các doanh nghiệp Việt Nam tham gia quan hệ thương mại với các đối tác nước ngoài đòi hỏi phải có một tổ chức đầy đủ tư cách pháp lý đứng ra bảo lãnh theo yêu cầu của họ. Từ các yêu cầu trên có thể thấy rằng cần thiết phải khơi tăng nghiệp vụ này ở Việt Nam.
Về mặt lý thuyết như đã trình bày ở trên, nghiệp vụ bảo lãnh có thể được thực hiện bởi một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Nhưng thực tế đây chỉ là “chức năng bổ sung” của các doanh nghiệp này hơn nữa các tổ chức này ở Việt Nam hoạt động kinh doanh còn đơn điệu, mới chỉ tập trung vào các nghiệp vụ truyền thống như kinh doanh bảo hiểm (đối với Công ty bảo hiểm), cho thuê tài chính (đối với Công ty tài chính) . . . Vì vậy có thể nói ở Việt Nam, chỉ có hệ thống các NHTM mới đủ năng lực về tài chính, uy tín và chuyên môn để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Mặt khác, hệ thống các NHTM luôn luôn có khả năng cung cấp một hệ thống các sản phẩm - dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ XNK được diễn ra suôn sẻ như dịch vụ thanh toán, chiết khấu . . .
Trong những năm gần đây hệ thống các NHTM Việt Nam đã thực hiện được sứ mệnh của mình đó là bằng hệ thống các sản phẩm, dịch vụ và hệ thống giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ đã hỗ trợ đắc lực các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập thị trường quốc tế và từng bước khẳng định được “thương hiệu” Việt Nam với phần còn lại của thế giới.
Yêu cầu từ phía bản thân các NHTM Việt Nam
Hệ thống các ngân hàng ở Việt Nam đang được đổi mới theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, hiệu quả hoạt động chưa cao. Hiện trên 80% doanh thu của các NHTM Việt Nam đều từ hoạt động tín dụng, các nghiệp vụ khác rất ít ỏi và đơn điệu, nên chưa thực sự là NHTM của nền kinh tế thị trường.
Tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ và các nghiệp vụ khác trong tổng thu nhập còn quá nhỏ so với tiềm năng và lợi thế của các NHTM như số liệu của một số NHTM được coi là hàng đầu của Việt Nam dưới đây:
Bảng 1: Tỷ trọng thu dịch vụ trên tổng doanh thu của một số Ngân hàng tiêu biểu
Đơn vị: %
Năm
Tỷ trọng thu dịch vụ/ Tổng doanh thu (%)
NHCT
NHNT
NH á Châu
1995
2,7
9,3
1996
3,6
8,5
1997
8,6
14,9
12,5
1998
7
10,5
13,2
1999
5,4
12,6
14,1
2000
4,1
13,1
15,3
Tỷ trọng trung bình
5,2
11,5
13,7
Nguồn: Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng á Châu.
Trong khi đó, ở nước ta tín dụng ngân hàng hoạt động trong môi trường kinh tế và pháp luật chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, hiệu lực pháp chế thấp, thiên tai thường xảy ra nên độ rủi ro rất cao, làm giảm thấp kết quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam phải tiếp tục đổi mới hoạt động, tìm ra những giải pháp hữu hiệu để phục vụ nền kinh tế tốt hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính mình. Một trong những hướng đi mới đó là phải đa dạng hoá nghiệp vụ. Do đa dạng hoá nghiệp vụ giúp các ngân hàng phân tán và giảm rủi ro, làm tăng lợi nhuận, thúc đẩy các nghiệp vụ cùng phát triển và đặc biệt làm tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Mặt khác, theo một số nghiên cứu gần đây của nhiều nhà kinh tế cho thấy hoạt động ngoài bảng cân đối đã thực sự giúp các ngân hàng hạn chế những biến động trong thu nhập ròng. Đồng thời, cùng với việc ngân hàng sử dụng các công cụ ngoại bảng, sự biến động trong mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi trong những năm gần đây cũng không còn quá lớn.
Do vậy nghiệp vụ bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ chiếm ưu thế do có chi phí tương đối thấp và tính đòn bẩy cao do không có yêu cầu về dự trữ, ít nhất là trong thời gian đầu của hợp đồng.
Bên cạnh đó, khi các NHTM thực hiện bảo lãnh XNK có nghĩa là ngân hàng dùng uy tín và danh tiếng của mình để đảm bảo cho các doanh nghiệp của Việt Nam trong mối quan hệ với bạn hàng quốc tế. Như vậy, ngân hàng vừa có thể giúp các khách hàng của mình hoàn tất được thương vụ với đối tác vừa có thể quảng bá hình ảnh của mình ra khắp thế giới một cách vô cùng hiệu quả, hơn bất cứ một phương tiện thông tin đại chúng nào. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế khi các cam kết của Việt Nam với các tổ chức, cá nhân quốc gia được thực hiện, các NHTM Việt Nam sẽ có một “sân chơi” bình đẳng với các NHTM nước ngoài ở cả trong và ngoài nước thì uy tín và danh tiếng có được khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cũng như các nghiệp vụ khác là mộ._.ủa nghiệp vụ bảo lãnh cũng như cơ cấu định lượng của các loại hình. Quan điểm này cần thể hiện việc tiếp tục tăng trưởng hay tạm thời thu hẹp hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh trong mỗi thời kỳ. Việc xác định đúng sẽ tạo ra sự đoàn kết, thống nhất mọi nguồn lực trong ngân hàng để thực hiện nhiệm vụ đặt ra.
Cuối cùng và cũng là điểm hết sức quan trọng là các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu đã đặt ra. Các nguồn lực phải tương xứng, phải có một cơ cấu bộ máy tổ chức hợp lý, một đội ngũ cán bộ có thể đảm đương được nhiệm vụ.
Như vậy, việc lập kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phải mang tính khả thi. Đó sẽ là điều kiện quan trọng đảm bảo nâng cao chất lượng của nghiệp vụ này.
Công tác tổ chức, đào tạo cán bộ để nâng cao uy tín của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, khi các quy luật kinh tế đặc trưng như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh .. . phát triển thì yếu tố con người giữ vai trò quyết định mọi thành công của các doanh nghiệp trên thương trường. Những doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh trên thương trường, phát triển với tốc độ cao và bền vững, ngoài các yếu tố thuận lợi khách quan có thể có, doanh nghiệp đó chắc chắn phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, có tầm nhìn xa, năng động; đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, có nhiệt tình, trách nhiệm cao, đáp ứng đòi hỏi của thị trường.
Để công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn, vừa phục vụ yêu cầu hoạt động kinh doanh trước mắt, vừa chủ động chuẩn bị cán bộ cho những năm tới khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập đầy đủ với khu vực và trên thế giới. Các ngân hàng cần tập trung vào những vấn đề sau:
Thứ nhất: Cần sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ theo hướng chuyên môn hoá.
Có như vậy, ngân hàng mới tạo được các chuyên gia, cán bộ chuyên sâu về những mặt nghiệp vụ, nhất là những nghiệp vụ đặc thù. Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ kết hợp với quy hoạch cán bộ, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ đúng đối tượng, hiệu quả hơn. Đặc biệt trong hoạt động bảo lãnh đòi hỏi trình độ tinh thông nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ, các luật và quy tắc áp dụng, một mặt nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động giao dịch với các đối tác nước ngoài. Mặt khác giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro không lường trước trong môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp.
Thứ hai: Đào tạo cán bộ trên cơ sở sử dụng cán bộ và thực hiện quy hoạch cán bộ
Được đào tạo gắn liền với nhiệm vụ đang làm sẽ đem lại hiệu quả cao nhất. Vì vậy, bên cạnh các kế hoạch kinh doanh, tài chính.. . hàng năm ngân hàng cũng cần có kế hoạch đào tạo để chủ động trong đào tạo, đào tạo sát với yêu cầu trước mắt và chuẩn bị cán bộ cho những năm tới. Mạnh dạn sử dụng, bồi dưỡng những cán bộ trẻ có năng lực đặc biệt trong lĩnh vực mới đòi hỏi sự nhanh nhạy và óc sáng tạo, bởi đây chính là lực lượng quyết định cho sự mở rộng và phát triển của ngân hàng.
Thứ ba: Đào tạo cán bộ theo hướng đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Trong công tác đào tạo ngân hàng cần thiết phải thực hiện đa dạng hoá phù hợp với nhu cầu của từng mặt nghiệp vụ. Vừa đảm bảo thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh bình thường đồng thời tiết giảm những chi phí trung gian không cần thiết, tập trung nhiều nhất kinh phí cho đào tạo. Có thể đào tạo tại ngân hàng hoặc thông qua các lớp đào tạo trong và ngoài nước. Có thể chọn một số cán bộ tuổi đời còn trẻ, có triển vọng gửi đi đào tạo ngắn hạn, dài hạn ở nước ngoài; tổ chức các đoàn cán bộ đi khảo sát, thực tập tại ngân hàng nước ngoài bằng kinh phí đào tạo của của ngân hàng mình hoặc tranh thủ sự tài trợ của ngân hàng nước ngoài.Chỉ có đào tạo theo sự đa đạng hoá các loại hình mới phát huy được hết nội lực của mỗi cán bộ công nhân viên.
Đầu tư cho đào tạo là đầu tư chiều sâu của ngân hàng. Quan tâm đến công tác đào tạo chính là quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh trong tương lai bởi con người là yếu tố quyết định của mọi thành công. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới, trình độ, kỹ năng của đội ngũ cán bộ công nhân viên quyết định thành công của ngân hàng.
Nâng cao chất lượng thẩm định các yêu cầu xin bảo lãnh và quản lý các khoản bảo lãnh
Nâng cao chất lượng thẩm định các yêu cầu xin bảo lãnh
Trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thì công tác thẩm định dự án được xem là yếu tố quan trọng nhất, yếu tố tiên quyết khi ra quyết định bảo lãnh. Các cán bộ tín dụng phải đảm bảo quy trình và nội dung thẩm định dự án đầu tư theo cơ chế tín dụng hiện hành. Đây là yếu tố quyết định trước khi cấp bảo lãnh. Vì nếu xảy ra trường hợp ngân hàng phải thanh toán hộ thì món bảo lãnh trở thành món vay bắt buộc và được coi là khoản nợ quá hạn, trong khi đó số tiền bảo lãnh chỉ được ngân hàng hạch toán ngoại bảng, nợ quá hạn xuất hiện sẽ tác động tiêu cực đến nguồn vốn kinh doanh và chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Hơn nữa, biện pháp này còn có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược mở rộng đối tượng khách hàng. Với những khách hàng mới chưa có quan hệ giao dịch tín nhiệm qua ngân hàng thì năng lực thẩm định dự án, thẩm định về khách hàng sẽ là tiêu chuẩn ra quyết định có cấp bảo lãnh hay không.
Để thực hiện quy trình này một cách hiệu quả, mỗi ngân hàng nên xây dựng cho mình một hệ thống các chỉ tiêu định lượng làm cơ sở đánh giá, phân loại khách hàng và làm tốt công tác thu thập, xử lý thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để so sánh, đối chiếu, đảm bảo tính chính xác về nguồn thông tin thu thập được, đánh giá các thông tin đó, từ đó quyết định đồng ý hay từ chối cấp bảo lãnh.
Việc thẩm định trước bảo lãnh nên tập trung vào hai vấn đề sau:
Hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh
Khả năng tài chính và tài sản thế chấp
Quản lý các khoản bảo lãnh
Sau khi phê duyệt một khoản bảo lãnh, cán bộ ngân hàng cần xuống tận cơ sở để kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất việc sử dụng và quản lý vốn vay đã được bảo lãnh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho các khoản bảo lãnh của ngân hàng là sự gian lận để chiếm dụng vốn của ngân hàng hoặc sử dụng vốn sai mục đích. Đây là hiện tượng khá phổ biến những năm 1994 – 1996 với rất nhiều vụ án lớn liên quan đến khoản bảo lãnh mở L/C trả chậm của ngân hàng. Ngân hàng cần kiểm tra kịp thời hoặc trong trường hợp khách hàng gặp khó khăn thì ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng hoặc cùng họ giải quyết tháo gỡ. Trong QĐ 283 cũng đã đề cập đến vấn đề kiểm tra, giám sát sau bảo lãnh ( điều 19), đây vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của các ngân hàng để có thể hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra.
Thực hiện phân tán rủi ro trong hoạt động bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là một loại hình hoạt động có độ rủi ro cao. Khi người được bảo lãnh không có khả năng hoặc cố tình không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với người nhận bảo lãnh thì ngân hàng phải đứng ra trả thay. Cũng như bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào khác, ngân hàng cũng phải hoạt động an toàn, và có lãi để tồn tại và phát triển, vì vậy cần phải tìm ra các biện pháp để giảm bớt tối đa các rủi ro do hoạt động bảo lãnh gây ra.
Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh nhằm phân tán rủi ro. Hiện nay các ngân hàng mới chủ yếu tập trung vào loại hình bảo lãnh vay vốn mà đây là loại bảo lãnh có độ rủi ro cao nhất, trong thời gian tới các ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng cũng như chuẩn bị những điều kiện cần thiết để phát triển các loại hình bảo lãnh khác ít rủi ro hơn như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành sản phẩm . . . do ở các loại bảo lãnh này ngân hàng chỉ phải bảo lãnh khoảng 15% giá trị hợp đồng cơ sở nên nếu có bất trắc thì cũng không ảnh hưởng nhiều đến nguồn vốn của mình.
Có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để chuyển bớt rủi ro cho một đối tác khác. Chẳng hạn bán đi một quyền trả nợ, có nghĩa là ngân hàng sẽ bán quyền bảo lãnh cho một ngân hàng khác với mức phí thấp hơn.
Tham gia đồng bảo lãnh với một số ngân hàng khác. Hiện nay đồng bảo lãnh ở Việt Nam đã được quy định khá cụ thể ở trong QĐ 283(điều 14) cũng quy định khá chi tiết. Đồng bảo lãnh vừa có thể chia sẻ rủi ro lại vừa giúp cho các khách hàng của mình thực hiện được các thương vụ có giá trị lớn.
Xác định thời hạn bảo lãnh trước khi nhận bảo lãnh
Theo QĐ 283(điều 24), thời hạn bảo lãnh được xác định căn cứ vào thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh của khách hàng đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có các thoả thuận hoặc cam kết khác có nghĩa là ngân hàng không được quyền chọn thời hạn bảo lãnh. Và như đã trình bày ở phần trước việc xác định thời hạn bảo lãnh không chính xác của khách hàng có thể dẫn đến những rủi ro rất lớn. Do vậy ngân hàng nên tiến hành đàm phán với bên thụ hưởng bảo lãnh để xác định được một khoảng thời gian hợp lý, phù hợp với tình hình luân chuyển vốn của khách hàng, đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng khi bảo lãnh đến hạn.
Xác định hạn mức bảo lãnh thường xuyên
Hiện nay ở hầu hết các ngân hàng, hạn mức bảo lãnh hoàn toàn do các chi nhánh tính toán dựa trên tình hình hoạt động bảo lãnh năm trước và tỷ lệ tăng trưởng dự tính của nền kinh tế, sau đó đưa lên NHTM trung ương xem xét. Cách làm này hoàn toàn chưa mang tính khoa học mà mang tính chủ quan của cán bộ nghiệp vụ nên rất dễ có sai sót, đồng thời dễ dẫn đến vi phạm các nguyên tắc của ngân hàng nhà nước. Vì vậy, việc xác định hạn mức bảo lãnh là vô cùng quan trọng. Một mặt, cần phải dựa trên những cơ sở thống nhất và rõ ràng, mặt khác phải linh hoạt trong một số trường hợp để đạt hiệu quả cao nhất.
NHTM trung ương có thể nghiên cứu để xây dựng một hạn mức bảo lãnh thường xuyên cho các khách hàng: việc xác định một hạn mức tín dụng thường xuyên là một công việc quen thuộc với các ngân hàng. Bảo lãnh cũng là một loại hình tín dụng đặc biệt tuy không áp dụng được các nguyên tắc của tín dụng cho bảo lãnh nhưng các sản phẩm đều có quá trình hoàn thiện và phát triển. Trong công tác tín dụng, chúng ta xây dựng được một hạn mức thường xuyên cho khách hàng nhằm hạn chế các thủ tục và chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng. Như vậy, trong bảo lãnh ta cũng hoàn toàn có thể tìm ra phương pháp xác định một hạn mức bảo lãnh thường xuyên để hoàn thiện công tác bảo lãnh của ngân hàng.
ứng dụng chính sách Marketing ngân hàng vào hoạt động bảo lãnh
Bằng các chính sách ưu đãi, ưu tiên về tỷ lệ ký quỹ, thủ tục tài sản thế chấp tạo điều kiện cấp bảo lãnh nhanh chóng cho doanh nghiệp khi có yêu cầu để giữ vững các khách hàng truyền thống. Đối với các ngân hàng NHTM quốc doanh; các khách hàng là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong cơ cấu khách hàng, đặc biệt là trong nghiệp vụ bảo lãnh quốc tế. Do vậy trong thời gian tới cần có các biện pháp chủ động để có thể phục vụ được đối tượng khách hàng này.
Do tâm lý e ngại rủi ro nên trong thời gian qua một số ngân hàng đã hạn chế một cách tiêu cực nghiệp vụ này như NHCT, nếu trong thời gian tới không có những chấn chỉnh kịp thời thì chắc chắn rằng thị phần của nghiệp vụ này sẽ mất, mà đây là một nghiệp vụ hứa hẹn rất phát triển trong tương lai.
Để có thể giữ vững và mở rộng thị trường cần thiết phải thực hiện các công việc cụ thể sau:
Nghiên cứu thị trường: nghiên cứu tập tính thái độ, đặc biệt là động cơ của khách hàng trong việc chọn lựa sử dụng dịch vụ và nhu cầu của khách hàng đối với nghiệp vụ bảo lãnh. Thu thập thông tin một cách có hệ thống, thường xuyên tập trung vào “Hồ sơ bảo lãnh” cùng với “Hồ sơ tín dụng” của khách hàng. Tiếp nhận những ý kiến phản hồi từ khách hàng để có sự thay đổi hợp lý thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ. Đồng thời có những cải tiến trong quy trình nghiệp vụ, khuyến khích nhân viên có những đề xuất để hoạt động bảo lãnh luôn thích ứng với nhu cầu của thị trường.
Mặt khác ngân hàng phải nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ để có thể phục vụ tốt khách hàng trong giao dịch với đối tác nước ngoài đồng thời luôn đảm bảo đủ nguồn ngoại tệ để đề phòng trường hợp phải thanh toán thay cho khách hàng khi đến hạn, điều này sẽ giúp ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh tạo vị thế mới trên thương trường.
Công tác Marketing liên quan đến toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ trong ngân hàng. ứng dụng marketing trong ngân hàng là một đòi hỏi cần thiết hiện nay, nó sẽ đảm bảo nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp ngân hàng đứng vững trên thương trường. Cơ sở để xây dựng kế hoạch hoá marketing là nhiệm vụ, mục tiêu và các nguồn lực của ngân hàng. Vị trí quan trọng nhất trong hoạt động marketing là việc kế hoạch hoá các chiến lược khách hàng, chiến lược giá cả, chiến lược sản phẩm, chiến lược giao tiếp khuyếch trương.
Chiến lược khách hàng
Khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh đó là cầu về sản phẩm, ngân hàng cung cấp sản phẩm sao cho thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng.
Mở rộng đối tượng khách hàng
Nhìn vào thực tế hiện nay, các doanh nghiệp mới được thành lập ngày một tăng. Tính đến cuối năm 2000 ở Hà Nội đã trên 1845 doanh nghiệp được thành lập mới (trong đó 49% là công ty trách nhiệm hữu hạn, 45% doanh nghiệp tư nhân, 4,5% công ty cổ phần, số còn lại là các DNNN), có nhiều doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có mối quan hệ tốt với bạn hàng là các đối tác nước ngoài và đây chính là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng cho ngân hàng. Song số lượng các doanh nghiệp này có nhu cầu bảo lãnh chưa cao, vì vậy ngân hàng cần kích thích, khuyến khích họ có những suy nghĩ lớn hơn trong kinh doanh, chuyên môn, quan điểm, phát triển hệ thống tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giải pháp này phối kết hợp chặt chẽ với giải pháp nâng cao năng lực đánh giá thẩm định của cán bộ ngân hàng, giải pháp mang tính vĩ mô của cơ quan quản lý Nhà nước, NHNN về quy định pháp luật; ổn định môi trường kinh tế tạo sự bình đẳng thực sự giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng nói riêng và trong kinh doanh nói chung.
Các ngân hàng cần chủ động có chính sách với từng đối tượng khách hàng chứ không nên để đề phòng rủi ro mà hạn chế một cách vô lối như hiện nay. Trong hầu hết các ngân hàng hiện nay chỉ có NHCT trong quy trình bảo lãnh của mình có quy định cấp bảo lãnh cho đối tượng là doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể còn lại đều không đề cập đến đối tượng khách hàng này. Bên cạnh đó các ngân hàng lại quy định thẩm quyền ký bảo lãnh là NHTM trung ương do vậy đã làm mất tính chủ động của các chi nhánh, làm cho các chi nhánh không thực hiện được chính sách khách hàng của mình. Đã đến lúc bỏ mọi giới hạn về đối tượng khách hàng và trao cho các chi nhánh quyền độc lập trong hoạt động kinh doanh.
Chiến lược khách hàng của các ngân hàng về cơ bản cũng không có điểm gì khác biệt lớn: linh hoạt về lãi suất, có chính sách ưu đãi riêng đối với khách hàng chiến lược, luôn bám sát khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ. Điểm khác biệt có chăng chính là ở đội ngũ cán bộ công nhân viên của mỗi ngân hàng.
Vì vậy, ngân hàng nên coi mỗi nhân viên cũng chính là mỗi khách hàng của mình. Thông qua họ có thể nắm bắt được nhu cầu về sản phẩm của ngân hàng trên thị trường, từ đó ngân hàng có kế hoạch mở rộng hoạt động, quan hệ chặt chẽ, hiểu biết giữa ngân hàng- doanh nghiệp- các mối quan hệ đối tác. Các mối quan hệ này tuỳ thuộc vào tổng chi phí vốn vay, chất lượng dịch vụ và công tác tiếp cận khách hàng. Từ đó ngân hàng có thể dễ dàng phân loại khách hàng của mình theo từng nhóm đối tượng, theo thị phần . . . Tuy nhiên, khách hàng của ngân hàng là đa dạng, ở đoạn thị trường nào cũng có từ dễ tính đến khó tính nên đồng thời việc tháo gỡ những ràng buộc, soạn thảo các cơ chế linh hoạt để mở rộng hướng vào các khách hàng dễ tính (mở rộng khách hàng và cung cấp dịch vụ theo chiều rộng), ngân hàng phải cải tiến chất lượng dịch vụ để thâm nhập vào nhóm khách hàng khó tính. Riêng đối với hoạt động bảo lãnh, ngân hàng phải chủ động sàng lọc các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, khuyến khích họ có suy nghĩ lớn hơn trong kinh doanh, đồng thời ngân hàng phải luôn đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, đa dạng hoá khách hàng xin bảo lãnh, tiết giảm linh hoạt các thủ tục hành chính tránh sự rườm rà, vì đây chính là điểm mấu chốt để thu hút khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chiến lược sản phẩm
Sản phẩm ở đây chính là dịch vụ bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp. Ngân hàng phải da dạng hoá các hình thức cấp bảo lãnh. Ngoài các hình thức bảo lãnh truyền thống như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán . . . ngân hàng cần chú trọng hình thức bảo lãnh bảo hành sản phẩm, bảo lãnh phát hành chứng khoán ra thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó hình thức đồng bảo lãnh là giải pháp cho ngân hàng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh những công trình lớn mà giá trị bảo lãnh vượt quá hạn mức được uỷ quyền, đồng thời hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Việc phát triển hình thức đồng bảo lãnh đòi hỏi ngân hàng thiết lập những mối quan hệ hợp tác tin cậy, đôi bên cùng có lợi với các ngân hàng khác.
Hơn nữa, do khả năng đáp ứng các loại hình bảo lãnh giữa các ngân hàng là không có sự khác biệt lớn lắm nên chất lượng dịch vụ bảo lãnh đóng vai trò quan trọng trong chiến lược sản phẩm. Chất lượng dịch vụ ở đây là sự thuận tiện, chính xác, kịp thời trong quy trình nghiệp vụ, giải quyết đầy đủ các yêu cầu của khách hàng với mức phí hợp lý. Cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ là sự cạnh tranh phi giá. Ơ mức độ nào đó, các nhân tố bên ngoài như sự giúp đỡ tận tình, tôn trọng . . . của nhân viên đối với khách hàng nhiều khi tạo nên ấn tượng, nhận xét tích cực khi đánh giá chất lượng sản phẩm cuả khách hàng.
Chiến lược giá cả
Hiện nay các ngân hàng thực hiện chính sách áp dụng phí cố định 2%/năm trên số tiền bảo lãnh theo quy định của QĐ 283 ngoại trừ một số khách hàng truyền thống. Nhưng ấn định mức phí cố định như vậy sẽ gây khó khăn cho ngân hàng khi muốn thực hiện chính sách giá cả linh hoạt. Bởi vì cũng như lãi suất cho vay, mức phí bảo lãnh cũng cần có sự thay đổi phụ thuộc vào đối tượng khách hàng, độ rủi ro nhằm thu hút khách hàng và tạo cơ hội cạnh tranh về giá so với các ngân hàng khác.
Chiến lược giao tiếp khuyếch trương
Bản chất của hoạt động bảo lãnh là ngân hàng sử dụng uy tín của mình để đứng ra đảm bảo cho các giao dịch. Do vậy, ngân hàng cần tạo dựng một hình ảnh nổi bật trên thương trường, tạo dựng niềm tin trong lòng khách hàng. Đội ngũ cán bộ là điểm mấu chốt trong chính sách giao tiếp với khách hàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng là một phương pháp tuyên truyền quảng cáo hiệu quả về hình ảnh của ngân hàng.
Chiến lược khuyếch trương giao tiếp thực hiện thông qua: bán hàng của cá nhân, kích thích tiêu thụ, tuyên truyền, quảng cáo. Để mở rộng hoạt động của ngân hàng thì việc tuyên truyền quảng cáo về các dịch vụ trong đó có dịch vụ bảo lãnh trên các báo, tạp chí, phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết. Trong tuyên truyền quảng cáo phải chú ý đến các đối tượng khách hàng của ngân hàng, các nhóm khách hàng thường xuyên và khách hàng mục tiêu để lựa chọn các phương pháp, các phương tiện phù hợp để khách hàng dễ dàng và thuận tiện tiếp cận. Sau cùng ngân hàng nên xác định ngân sách dành cho nhiệm vụ này bởi vì những hoạt động trên đều đòi hỏi một số chi phí nhất định.
Mở rộng quan hệ hợp tác với ngân hàng khác để đẩy mạnh hoạt động đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một quy chế bảo lãnh dựa trên cơ sở quy chế bảo lãnh ban hành kèm theo Quyết định 283/2000/QĐ - NHNN14 của Thống đốc NHNN quy định tổng dư nợ bảo lãnh cho một khách hàng lớn nhất không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Vì vậy việc thực hiện các khoản bảo lãnh có giá trị lớn rất khó khăn. Vấn đề đặt ra là phát triển hình thức đồng bảo lãnh, vừa giúp cho ngân hàng có thể tham gia các dự án lớn khi mà khả năng về nguồn vốn là có hạn, vừa phân tán bớt rủi ro cho các ngân hàng cùng tham gia do có sự kết hợp kinh nghiệm, sức mạnh, khả năng và hỗ trợ cho nhau giữa các ngân hàng. Để thực hiện được điều này mỗi ngân hàng phải đề ra cho mình một kế hoạch cụ thể, có thể bao gồm các biện pháp sau:
Với các chi nhánh trong cùng một hệ thống: hợp tác chặt chẽ, phối hợp thực hiện các chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, nguồn vốn . . . tạo nên một sức cạnh tranh thống nhất của hệ thống.
Với các ngân hàng bạn: theo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, hợp tác kinh doanh cùng có lợi.
Bên cạnh thúc đẩy quan hệ hợp tác với các ngân hàng trong nước, các ngân hàng cũng cần phải tạo lập mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài, để không chỉ thực hiện vai trò là ngân hàng phát hành mà còn thực hiện vai trò ngân hàng thông báo, ngân hàng thanh toán ( bảo lãnh đối ứng) . . . bên cạnh đó ngân hàng sẽ được cung cấp thông tin về người thụ hưởng bảo lãnh ở nước ngoài từ đó có thể chủ động trong công việc, tránh bị lừa bởi người thụ hưởng bảo lãnh.
Giải pháp hỗ trợ
Về luật và quy tắc ứng dụng
Khi phát hành thư bảo lãnh theo yêu cầu của đối tác nước ngoài thì ngân hàng phải dẫn chiếu điều luật áp dụng. Đây là một nguyên tắc trong giao dịch cam kết bảo lãnh quốc tế. Tuy nhiên không ít bảo lãnh đối ứng mà các ngân hàng Việt Nam nhận được lại không đề cập Luật hay quy tắc điều chỉnh giao dịch. Trong trường hợp các ngân hàng của các nước phát triển thường áp dụng luật của họ và chúng ta chấp nhận điều kiện như vậy mà không nắm rõ luật của đối tác. Điều này hoàn toàn bất lợi cho phía các ngân hàng Việt Nam khi xảy ra tranh chấp.
Trong thư bảo lãnh của ngân hàng nên áp dụng, dẫn chiếu các quy tắc theo thông lệ quốc tế do phòng thương mại quốc tế ICC hay Liên hợp quốc phát hành, đảm bảo sự đồng nhất về mẫu biểu các, kỹ thuật nghiệp vụ cụ thể: phương thức đòi tiền, thanh toán, kiểm tra chứng từ, thời hiệu của bảo lãnh. Bảo lãnh luôn được sử dụng hai chiều: nhận bảo lãnh của nước ngoài và phát hành bảo lãnh ra nước ngoài đòi hỏi ngân hàng phải nâng cao trình độ chuyên môn và am hiểu luật pháp của cán bộ đề phòng sự gian lận, lừa đảo của đối tác.
Trong năm 2000 vừa qua, Công ước Liên hợp quốc về bảo lãnh độc lập và tín dụng thư dự phòng - Công ước Uncitral có hiệu lực, nếu Việt Nam phê chuẩn và chấp nhận thì các ngân hàng nên tham khảo và dẫn chiếu trong giao dịch bảo lãnh với đối tác nước ngoài.
Tăng cường công tác kiểm tra giám sát
Kiểm tra, giám sát việc chấp hành tuân thủ những quy định của NHNN trong khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của cac cán bộ ngân hàng.
Thường xuyên giám sát quá trình thực hiện hợp đồng, đảm bảo việc doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, kịp thời phát hiện những sai phạm nếu có, đồng thời có kế hoạch chuẩn bị đáp ứng nguồn vốn trong trường hợp phải trả tiền theo yêu cầu của người nhận bảo lãnh.
Từng bước hiện đại hoá công tác lưu trữ và quản lý hồ sơ bảo lãnh trên máy vi tính để các cán bộ bảo lãnh có thể kiểm tra các khoản bảo lãnh của doanh nghiệp một cách nhanh chóng và chính xác.
áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh
Một trong những lý do mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không muốn thiết lập quan hệ với các ngân hàng trong nước đó sự hạn chế về công nghệ. Mặt khác công nghệ thông tin giúp cho việc nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác và nhờ có nguồn tin đầy đủ, các phương pháp đánh giá rủi ro chính xác sẽ hạn chế sự tuỳ tiện trong việc cấp bảo lãnh cho khách hàng. Từ những lý do trên có thể thấy rằng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng là một điều cấp thiết, nó có thể giúp các ngân hàng chiến thắng trong cạnh tranh.
Để từng bước tiến tới hiện đại hoá thông tin thì trước hết mỗi ngân hàng cần phải:
Xây dựng và hoàn thiện quy trình bảo lãnh, xây dựng trang các thông tin quảng cáo và phục vụ khách hàng trên Internet.
Trang bị thêm máy vi tính, hệ thống thông tin liên lạc cho các phòng ban làm việc, có nối mạng trong nước cũng như quốc tế.
Phòng thông tin điện toán phối hợp với các phòng tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế để xây dựng chương trình theo dõi, quản lý nghĩa vụ bảo lãnh trên mạng.
Từng bước thay đổi tỷ trọng giữa đầu tư phần mềm và phần cứng để nâng cao hiệu quả khai thác. Đồng bộ hoá việc đào tạo cán bộ điện toán và người sử dụng, xây dựng thói quen và tư duy mới để có đủ năng lực tiếp nhận, sử dụng, khai thác và làm chủ những phương tiện làm việc mới, nhất là những phương tiện có tính công nghệ cao.
Xây dựng mối quan hệ mật thiết, thường xuyên với một số công ty, tổ chức tin học chuyên nghiệp có uy tín để tận dụng sự tư vấn, hỗ trợ trong quá trình phát triển ứng dụng công nghệ vào các lĩnh vực hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng của ngân hàng mình.
Đối với các doanh nghiệp XNK.
Các nghiệp vụ của ngân hàng chính là những công cụ hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động bảo lãnh khi phát sinh rủi ro thì người chịu thiệt hại chính là các doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp cầ phải thực hiện các yêu cầu sau:
Có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng đắn dựa trên nhu cầu thị trường, lựa chọn đối tác kỹ càng, có tín nhiệm trước khi ký kết hợp đồng.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, năng lực đánh giá dự án. Bồi dưỡng trình độ ngoại ngữ, luật pháp, nâng cao trình độ hiểu biết về các quy tắc, thông lệ quốc tế trong giao dịch thương mại quốc tế.
Cần tham khảo ý kiến của các tổ chức tư vấn, ngân hàng phục vụ mình trước khi ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài.
Xây dựng hoạch định phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi dựa trên nhu cầu thị trường, năng lực tài chính, công nghệ của doanh nghiệp.
Nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của ngân hàng về ký quỹ, tài sản thế chấp, có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng và trong cam kết bảo lãnh với ngân hàng.
KếT Luận
Có thể nói bảo lãnh là sản phẩm của một nền kinh tế thị trường phát triển, và sự ra đời của nó đã góp phần thúc đẩy các quan hệ thương mại ở cả trong nước và ngoài nước được diễn ra trôi chảy. Trong điều kiện vừa thực hiện CNH - HĐH đất nước vừa hội nhập quốc tế; đòi hỏi hệ thống các NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt chức năng, vai trò của mình giúp cho việc chu chuyển vốn từ nước ngoài vào Việt Nam và hàng hoá từ Việt Nam ra nước ngoài được diễn ra thuận lợi. Do vậy cần thiết phải phải nhìn nhận lại vị thế của nghiệp vụ bảo lãnh trong hệ thống các sản phẩm ngân hàng, không nên xem bảo lãnh đơn thuần là một nghiệp vụ tín dụng gián tiếp mà phải coi nó là một nghiệp vụ kép, không chỉ đem lại rất nhiều lợi ích cho ngân hàng mà còn giúp khách hàng của ngân hàng có được tín nhiệm trong quan hệ giao dịch với đối tác nước ngoài.
Định hướng xuất nhập khẩu cũng như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 đã đề ra “Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá đáp ứng các nhu cầu của đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đòi hỏi phải có sự đầu tư thoả đáng vào việc làm xuất khẩu như nhập máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng dây chuyền sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng các khu chế xuất. . .” Cơ cấu nhập khẩu của nước ta trong những năm tới cần chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH đất nước. Hiện nay hàng hoá của Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới, quan hệ thương mại của nước ta với các nước khác đã có bước mở rộng và phát triển đáng kể. Tuy nhiên sản phẩm xuất khẩu của nước ta còn nghèo nàn, chưa qua chế biến còn chiếm tỷ trọng lớn. Muốn phát huy được hết tiềm lực của nền kinh tế rất cần có sự hỗ trợ từ nhiều ngành, nhiều cấp và đặc biệt rất cần một hệ thống ngân hàng mạnh về tài chính, hiện đại về công nghệ và đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ.
TàI liệu tham khảo
Giáo trình thanh toán quốc tế- Trường Đại học Ngoại thương- GS. NGƯT Đinh Xuân Trình
Giáo trình Lý thuyết Tài chính Tiền tệ- Trường Đại học Ngoại Thương
Tàì chính quốc tế Hiện Đại trong nền kinh tế mở- Học viện Ngân Hàng-Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến.
Giáo trình Tín dụng xuất khẩu và Thanh toán quốc tế- Học viện Ngân hàng
Các qui tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu của ICC- URDG - ấn bản số 458
Các quy tắc thống nhất về Bảo lãnh Hợp đồng của ICC –URCG - ấn bản số 325.
Giáo trình Tín dụng Xuất khẩu- Học Viện Ngân hàng
Sổ tay Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế- Chương trình đào tạo tại trung tâm CARLDUS
Nghiệp vụ Ngân hàng Thương Mại_ PTS Lê Văn Tề/ PTS Ngô Hướng/ PTS Đỗ Linh Hiệp/ Lê Thập Dương_NXB Tp Hồ Chí Minh
Luật Ngân Hàng và các Văn bản dưới luật
Văn bản qui phạm pháp luật – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( các số năm 2000- 2002)
Qui trình Kỹ Thuật Nghiệp vụ Ngoại Thương - Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
Những tình huống đặc biệt trong Thanh toán Quốc tế_ NXB Thống kê 1995.
Tập quán Ngân hàng Tiêu chuẩn Quốc tế (ISBP)_ Phòng thương mại Quốc tế_ 2003
UCP 500_ Các Qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC.
Báo cáo thường niên các năm 1999, 2000, 2001, 2002 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội, Ngân hàng Thương Mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, Ngân hàng á Châu, Ngân Hàng Đông á
Tạp chí Ngân Hàng Ngoại thương Việt Nam (Các số năm 2002/2003)
Tạp chí Tài Chính Ngân Hàng
-Tìm hiểu thuật ngữ tài chính- tiền tệ- ngân hàng
- Vài ý kiến xoay quanh việc: Sửa đổi bổ sung Luật các Tổ choc tín dụng
- Hướng đi đúng trong hoạt động Ngân hàng Thương Mại
- Ngân hàng với các Doanh Nghiệp nhỏ và vừa hợp tác cùng phát triển.
- Sự phát triển đồng bảo lãnh & hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
- Các Ngân hàng Châu á trong cuộc chiến giành khách hàng
- Lại bàn về chiến lược phát triển các NHTM từ giai đoạn sau năm 2005.
16. Vietnam Economic News
17.
18. Finance and Guarantee.
19. Tham khảo một số khoá luận tốt nghiệp bộ môn TTQT- Đại học Ngoại thương.
Danh mục viết tắt
CNH – HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
IMF: International Monetary Fund
L/C: Letter of Credit
NHĐT: Ngân hàng Đầu tư - Phát triển
NHCT: Ngân hàng Công thương
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHNo: Ngân hàng Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn
NHNT: Ngân hàng Ngoại thương
NHTM: Ngân hàng Thương mại
TCTD: Tổ chức Tín dụng
TMQT: Thương mại Quốc tế
WB: World Bank
XNK: Xuất nhập khẩu
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van - Phuong.doc