Lời mở đầu
Đi lại từ lâu đã là một nhu cầu thiết yếu của con người, nhu cầu này ngày càng có xu hướng tăng lên cùng với sự phát triển của xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như chủng loại các phương tiện vận tải cơ giới đã đem lại cho con người một phương thức vận chuyển nhanh gọn và thuận tiện.
Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng dẫn đến tình trạng giao thông đường bộ ngày càng phức tạp, sự phát triển bất hợp lí giữa phương tiện cơ giới với cơ sở hạ tầng làm cho tai nạn giao
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba - Kiến nghị nhằm thực hiện tốt nghiệp vụ theo NĐ15/2003/.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thông trở thành một thảm họa đối với xã hội.
Nhận thức được nguy cơ tai nạn xảy ra sẽ gây ra nhiều thiệt hại đến tính mạng, tình trạng sức khỏe, ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của người điều khiển phương tiện xe cơ giới cũng như người bị hại ngay từ những năm đất nước mới hòa bình, độc lập, khi bảo hiểm ra đời, các công ty bảo hiểm trong nước đã tiến hành triển khai nghiệp vụ BHTNDS ( Bảo hiểm trách nhiệm dân sự ) của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Hiện nay, cũng như các công ty bảo hiểm phi nhân thọ khác, PJICO cũng đang tiến hành triển khai rầm rộ nghiệp vụ này. Qua quá trình thực tập tại công ty, được sự giúp đỡ của cán bộ nhân viên Phòng bảo hiểm số V và sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Hải Đường, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba- Kiến nghị nhằm thực hiện tốt nghiệp vụ theo nghị định 15/2003/NĐ-CP của Chính phủ tại PJICO giai đoạn 1998-2002” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Đề tài này ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lí luận về BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Chương II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại PJICO
Chương III: Kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn nghị định 15/2003/NĐ-CP của Chính phủ đối với việc thực hiện nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại PJICO
Do thời gian thực tập còn ít, nhận thức thực tiễn nghiệp vụ chưa sâu sắc nên luận văn đề còn nhiều hạn chế. Rất mong các thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến. Qua đây em xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô giáo trong bộ môn bảo hiểm, đặc biệt cô giáo hạc sỹ Nguyễn Thị Hải Đường, cùng các cán bộ nhân viên Phòng bảo hiểm khu vực V đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Chương I
Một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
I. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam và vai trò của BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Tốc độ gia tăng phương tiện vận tải là rất lớn, mọi thành phần kinh tế và từng người dân đều có thể bỏ vốn đầu tư phương tiện và mua sắm phương tiện vận tải. Với sự tăng lên đột biến về phương tiện vận tải thì tỉ lệ giao thông tăng lên và nó đang là thách thức của các quốc gia trên thế giới và của Việt Nam. An toàn giao thông là vấn đề bức xúc không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai.
Theo tổng hợp của UB ATGT, trong 7 tháng đầu năm 2000 cả nước xảy ra 13.521 vụ tai nạn có 4.540 người chết, 14.872 người bị thương tăng 4,6% số vụ, 9,03% số người chết và 2,02% số người bị thương so với cùng kì năm trước. Trong đó tai nạn giao thông đường bộ xảy ra có số người chết và bị thương là lớn nhất chiếm khoảng 96% vụ, 95% số người chết và 98% số người bị thương. Chính vì vậy phải tập trung mọi nỗ lực, tìm các giải pháp ngăn chặn và kiềm chế tai nạn giao thông nói chung và tai nạn giao thông đường bộ nói riêng.
Nói riêng về tai nạn giao thông đường bộ - theo báo cáo của cục cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt - 6 tháng đầu năm 2000, toàn quốc xảy ra 11.560 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 3.685 người, bị thương 12.999 người so với 6 tháng đầu năm 1999 tăng 7,5% về số vụ, tăng 7,2% số người chết, tăng 5,8% số người bị thương. Đặc biệt đã xảy ra 77 vụ tai nạn giao thông rất nghiêm trọng (tăng 54% so với cùng kỳ năm 1999) làm chết 179 người (tăng 21,7%), bị thương 395 người (tăng 11%). So sánh tỷ lệ tăng của tai nạn giao thông đường bộ vẫn thấp hơn tỷ lệ gia tăng của phương tiện giao thông cơ giới: ô tô, xe máy
Tháng 7/2000, tuy số lượng tai nạn giao thông đường bộ giảm nhưng tính chất nghiêm trọng tăng: Xảy ra 1.523 vụ, chết 592 người, bị thương 1.613 người. Ngày 16/7/2000 cũng tại địa bàn này xảy ra vụ xe khách 79N.0475 chở 53 người có cả lái xe phụ – bị bốc cháy làm chết 16 người, bị thương 17 người.
Năm 2001 – cả nước xảy ra 25.040 vụ tai nạn giao thông, làm 10.477 người bị chết, 29.188 người bị thương, số người chết so với năm 2000 là 30%. Theo UB ATGTQG chỉ trong 8 tháng đầu năm 2002 cả nước xảy ra 18.876 vụ làm chết 8.604 người (36 người/ ngày), chấn thương 21.288 người, 60% liên quan đến xe máy (10 triệu xe). Tai nạn giao thông đường bộ xảy ra một cách trầm trọng như vậy là do các nguyên nhân sau:
* Nguyên nhân khách quan: Cơ sở hạ tầng nước ta còn thấp, số đường rải bê tông còn ít, số đèo dốc nguy hiểm nhiều.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Xuất phát từ người tham gia giao thông 4.569 vụ – 76,7% - trong đó do chạy qúa tốc độ quy định là 2.039 vụ (34,2%), do tránh vượt sai quy định 1.600 vụ (26,8%), do người điều khiển phương tiện say rượu bia 337 vụ (5,6%), do thiếu quan sát 425 vụ (7,1%), do người đi bộ 168 vụ (2,8%), thiết bị không đảm bảo an toàn phương tiện 112 vụ ( 1,9%), do cầu đường 12 vụ (0,2%)...và do các nguyên nhân khác 1263 vụ (21,2%).
- Số lượng đầu xe tăng nhanh do nhu cầu vận chuyển đi lại và do giá thành phương tiện hạ làm cho số lượng đầu xe tăng lên một cách đột biến.
- Tuổi của phương tiện tham gia giao thông quá cao.
- Hệ thống cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế phụ tùng của nước ta chưa có quy hoạch, tổ chức và quản lý chặt chẽ.
- Nhận thức và trách nhiệm của chủ phương tiện trong việc duy trì tình trạng an toàn kỷ luật của phương tiện theo tiêu chuẩn quy định khi tham gia giao thông còn rất hạn chế như thay đổi tổng thành, linh kiện, phụ kiện xe cơ giới, coi thường các quy định của nhà chế tạo do thiếu hiểu biết...
Sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện cơ giới một mặt mang lại cho con người một hình thức vận chuyển thuận tiện, nhanh chóng kịp thời và giá rẻ phù hợp với đại đa số người dân Việt Nam. Các khu công nghệ sản xuất xe ô tô, xe máy trên thế giới và cả trong nước phát triển rầm rộ.
Chỉ tính riêng Việt Nam trong vòng hơn 10 năm qua, các phương tiện xe cơ giới đã có mức tăng trưởng khá cao, đặc biệt là mô tô, hiện nay số xe máy đang lưu hành là hơn 10 triệu chiếc. Từ năm 1999 đến năm 2002 bình quân hàng năm phương tiện xe cơ giới tăng 25,15%. Đối lập với tốc độ gia tăng một cách đột biến về phương tiện xe cơ giới, tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế. Theo số liệu thống kê cho thấy năm 1990 có 112.700 km đường bộ thì chỉ có 19,8% rải nhựa và bê tông. Năm 2001 có 127.000 km thì chỉ có 38% đường rải nhựa và bê tông, mặc dù tỷ lệ đường nhựa và bê tông có tăng nhưng chất lượng kém và đang có nguy cơ ngày càng xuống cấp trầm trọng. Chính vì sự bất hợp lý này nên tình trạng tai nạn giao thông nói chung và giao thông đường bộ nói riêng ngày càng gia tăng và mức độ ngày càng trầm trọng.
Theo số liệu của cảnh sát giao thông thì trung bình mỗi ngày xảy ra 33 vụ tai nạn xe cơ giới làm chết 20 người và bị thương 35 người chưa kể thiệt hại về vật chất và tinh thần. Số vụ tai nạn năm sau cao hơn năm trước là 22,5%, số người chết và bị thương trong năm cao hơn năm trước là 27,7% và 30,6%. Số vụ tai nạn nghiêm trọng ngày càng tăng, trong đó tai nạn xe cơ giới luôn chiếm tỷ lệ cao nhất – chiếm 93,7% về số vụ, 94,13% về số người chết, 98,8% số người bị thương.
Với tình hình tai nạn ngày càng gia tăng một cách đáng báo động như vậy, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp để làm giảm bớt tai nạn giao thông và mức độ nghiêm trọng của nó. Như xử lý vi phạm luật lệ giao thông, hướng dẫn học luật an toàn giao thông, bắt buộc đội mũ bảo hiểm...Tuy nhiên với sự cố gắng của bản thân con người cũng như sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, chúng ta vẫn chưa thể loại bỏ được tai nạn giao thông xảy ra với mức độ và nhịp độ ngày càng lớn. Khi tai nạn xảy ra không chỉ có bản thân nạn nhân và gia đình họ bị thiệt hại về tính mạng, thu nhập, sức khoẻ mà cả người gây ra tai nạn cũng như xã hội đều bị ảnh hưởng, bởi lẽ những người tham gia giao thông là những người trụ cột, là người lao động chính của gia đình, của doanh nghiệp. Luật pháp đã quy định khi xảy ra tai nạn chủ phương tiện phải bồi thường. Tuy nhiên trên thực tế việc bồi thường còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp, nhiều khi chủ phương tiện gây ra tai nạn sau đó bỏ trốn, gây thiệt hại cho nạn nhân và ức chế cho gia đình nạn nhân. Nhiều khi lái xe cũng bị chết nên việc bồi thường cũng phức tạp, ngoài ra nhiều khi chủ xe không đủ tài chính nên việc bồi thường cho nạn nhân không thực hiện được...Tất cả những điều này dẫn đến gây ra sự ức chế và mâu thuẫn giữa gia đình nạn nhân với lái xe hoặc chủ xe, gây ra mất trật tự an toàn xã hội.
Để bù đắp những tổn thất về người và của, ổn định sản xuất kinh doanh, tâm lý của chủ xe cũng như mọi đối tượng, bảo hiểm xe cơ giới nói chung và bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng ra đời là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Do đó nghiệp vụ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời là cần thiết khách quan. Ngay từ khi mới ra đời theo Nghị định số 30/HĐBT - đã mang tính chất bắt buộc, Nghị định 115/1997/NĐ - CP 17/12/1997 thay nghị định cũ nhằm nâng cao tính bắt buộc của người điều khiển xe cơ giới, nhưng số người tham gia còn quá ít so với dân số, so với người bị nạn. Chủ xe chỉ mua bảo hiểm khi đăng ký xe, hết hạn không thực hiện nghĩa vụ tiếp theo là tái tục. Do đó ngày 19/02/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2003/NĐ-CP về “Quy chế xử phạt vi phạm hành chính về giao thông đường bộ” – Theo mục 3 điều 25 – Chương V của Nghị định quy định: “Phạt tiền từ 50000-100000 nghìn đồng đối với người điều khiển mô tô vi phạm...không có giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực”- Như vậy tính bắt buộc của nghiệp vụ sẽ tăng lên.
2. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời là cần thiết khách quan và nó có tác dụng rất lớn đối với cả chủ xe, cả người thứ ba và còn có tác dụng đối với xã hội.
2.1. Đối với chủ xe
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba là tấm lá chắn vững chắc và cuối cùng cho các chủ xe, tạo ra tâm lý yên tâm, thoải mái, tự tin cho người điều khiển xe cũng như chủ xe. Góp phần ổn định tài chính, ổn định sản xuất kinh doanh cho các chủ xe vì xe cơ giới là một loại tài sản có giá trị lớn đối với mỗi chủ xe, khi không may xảy ra tai nạn, thiệt hại về người và tài sản sẽ mất đi cơ hội kinh doanh, không đủ tài chính bồi thường...
Tích cực góp phần ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông, dựa trên cơ sở ý thức của mỗi chủ xe.
Góp phần xoa dịu bớt sự căng thẳng giữa chủ xe và gia đình nạn nhân khi xảy ra tai nạn, bằng cách nhà bảo hiểm có mặt kịp thời để bồi thường và giải quyết mâu thuẫn. Trên cơ sở đó tạo thêm niềm tin và nâng cao uy tín của công ty bảo hiểm.
2.2. Đối với người thứ ba
Khi không may xảy ra tai nạn, là nạn nhân, người thứ ba sẽ được công ty bảo hiểm đứng ra thay thế chủ xe bồi thường kịp thời, đảm bảo khả năng tài chính kịp thời, làm giảm bớt sự lo âu, giúp người thứ ba ổn định tinh thần, ổn định sản xuất kinh doanh.
3.3. Đối với xã hội:
Nghiệp vụ này ra đời còn góp phần tăng thu Ngân sách cho Nhà nước thông qua thuế, để từ đó có điều kiện đầu tư trở lại nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng giao thông, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
3. Đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Là một nghiệp vụ trong số rất nhiều nghiệp vụ của loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự, đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba mang đặc trưng của loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự như sau:
3.1. Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng
Đối tượng bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là phần trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại, do đó rất trừu tượng. Hơn nữa trách nhiệm là bao nhiêu cũng không xác định được ngay lúc tham gia bảo hiểm.
Đối tượng nghiệp vụ này mang tính bắt buộc, thông thường trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có đủ ba điều kiện:
Xe phải có lỗi.
Người thứ ba phải có thiệt hại thực tế.
Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của người điều khiển xe đối với người thứ ba.
Mức độ thiệt hại do trách nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn toàn do sự phán xử của toà án, thông thường thiệt hại này được tính dựa trên mức độ lỗi của người điều khiển xe cơ giới gây ra cho người thứ ba.
3.2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được thực hiện dưới hình thức bắt buộc.
Bảo hiểm trách nhiệm ngoài việc nhằm đảm bảo ổn định tài chính cho người được bảo hiểm còn có mục đích khác là bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân, đảm bảo tính công bằng trong xã hội và đảm bảo quyền lợi của mọi công dân. Mặt khác nghiệp vụ này có quan hệ trực tiếp với một số bộ luật của quốc gia mà luật pháp thì mọi công dân phải có nghĩa vụ thực hiện. Ngoài ra thực hiện bắt buộc nhằm góp phần cùng với cơ quan chức năng quản lý tốt các loại đầu xe cơ giới.
3.3. Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới có áp dụng giới hạn trách nhiệm
Bởi vì thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh chưa thể xác định được ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm và thiệt hại đó có thể là rất lớn, bởi vậy để nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm các công ty bảo hiểm thường đưa ra giới hạn trách nhiệm, tức là các mức bồi thường tối đa của bảo hiểm (STBH). Nói cách khác, thiệt hại trách nhiệm dân sự có thể phát sinh rất lớn nhưng công ty bảo hiểm không bồi thường toàn bộ thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh đó mà chỉ khống chế trong phạm vi STBH.
II. Nội dung bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1. Khái niệm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ ba.
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự trong đó nghĩa vụ dân sự chính là việc mà theo qui định của pháp luật thì một hoặc nhiều chủ thể không được làm hoặc bắt buộc làm một hành động nào đó đối với một hoặc nhiều chủ thể khác. Người chịu trách nhiệm dân sự mà không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó thì phải chịu trách nhiệm trước người bị hại và trước pháp luật. Nhìn chung trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần trong đó trách nhiệm bồi thường về vất chất và tinh thần là trách nhiệm bồi thường những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ dân sự gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn ngừa thiệt hại, thu nhập thực tế bị giảm sút.
Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
Là phần trách nhiệm được xác định bằng tiền theo qui định của luật pháp và sự phán quyết của toà án quyết định chủ xe phải gánh chịu do sự lưu hành xe của mình gây ra.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba phải chịu chi phí cho các rủi ro, cụ thể là phải bồi thường cho các nạn nhân gặp rủi ro trên đường phố được trả thông qua phí bảo hiểm mà những chủ phương tiện giao thông của cả xã hội đóng góp.
2. Đối tượng bảo hiểm
Người tham gia bảo hiểm thông thường là chủ xe, có thể là cá nhân hay đại diện cho một tập thể. Người bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm dân sự của chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển xe cơ giới của người lái xe.
Như vậy đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ ba do việc lưu hành xe gây tai nạn.
Người thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là những người bị thiệt hại về thân thể và tài sản do xe cơ giới gây ra nhưng loại trừ hành khách, người trên xe, phụ xe, người làm công cho chủ xe, những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái...
Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc lưu hành xe gây ra tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba bao gồm:
Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khoẻ của bên thứ ba.
Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các qui định khác của nhà nước.
Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe, lái xe với những thiệt hại của người thứ ba.
Chủ xe, lái xe phải có lỗi.
Thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra ba điều kiện đầu là phát sinh trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba của chủ xe (lái xe). Nếu thiếu một trong ba điều kiện trên trách nhiệm dân sự của chủ xe sẽ không phát sinh, và do đó không phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện cuối có thể có hoặc không vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do tính nguy hiểm cao độ của xe cơ giới mà không hoàn toàn do lỗi của chủ xe, lái xe. Ví dụ: xe đang chạy bị nổ lốp, lái xe mất khả năng điều khiển nên gây tai nạn, trong trường hợp này trách nhiệm dân sự vẫn có thể phát sinh nếu có đủ ba điều kiện đầu tiên.
3. Phạm vi bảo hiểm
Người bảo hiểm nhận bảo đảm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Cụ thể các thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm của ngưới bảo hiểm bao gồm:
Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba.
Thiệt hại về tài sản, hàng hoá của bên thứ ba.
Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc thu nhập.
Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn chế thiệt hại, các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả).
Những thiệt hại về tính mạng, tình trạng sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.
Rủi ro loại trừ.
Người bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các vụ tai nạn, mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự trong các trường hợp sau:
Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại.
Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo qui định của điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ.
Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ như:
+ Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường.
+ Lái xe không có bằng lái hoặc bằng bị tịch thu, bằngkhông hợp lệ.
+ Lái xe bị ảnh hưởng của chất kích thích như rượu bia.
+ Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép.
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa.
+ Xe đi vào đường cấm, đi đêm không đèn hoặc chỉ có đèn bên phải.
+ Xe không có hệ thống lái bên phải.
+ Thiệt hại do chiến tranh, bạo động.
+ Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh.
+ Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, bị mất cắp trong tai nạn.
+ Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận khác.
Ngoài ra người bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như vàng, bạc, đá quí, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quí hiếm, thi hài, hài cốt,...
4. Phí bảo hiểm và phương pháp tính phí
4.1. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện. Người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba theo số lượng đầu phương tiện của mình. mặt khác, các phương tiện khác nhau về chủng loại, về độ lớn có xác suất gây ra tai nạn khác nhau. Do đó phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện (hoặc nhóm phương tiện) tuỳ theo mỗi đầu phương tiện.
Như vậy, phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ xe cơ giới phải nộp cho người bảo hiểm để hình thành quỹ tiền tệ độc lập tập trung đủ lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong năm nghiệp vụ theo phạm vi bảo hiểm và hạn mức trách nhiệm mà người tham gia đã ký với nhà bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.
Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và biểu phí do bộ tài chính qui định, ngoài ra các công ty bảo hiểm có thể thoả thuận với các chủ xe cơ giới theo số lượng đầu xe, các công ty bảo hiểm trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh có thể giảm phí cho khách hàng tham gia với số lượng lớn hoặc khách hàng thường xuyên tái tục, hoặc cũng có thể giảm phí cho những khách hàng tham gia với giá trị lớn trong nhiều năm liên tục nhưng không xảy ra rủi ro...
Việc xác định mức phí bảo hiểm nhìn chung là rất khó khăn, bởi vì phí bảo hiểm là nguồn thu chủ yếu của các công ty bảo hiểm nên mức phí tối thiểu phải thoả mãn nhu cầu thanh toán bồi thường và công tác đề phòng hạn chế tổn thất đồng thời phải đảm bảo cho công ty có được khoản lợi nhất định. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bảo hiểm ngày càng có nhiều các công ty bảo hiểm gia nhập làm cho thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt. Chính vì vậy việc đưa ra một mức phí thích hợp là một vấn đề không dễ dàng đối với các công ty bảo hiểm.
Phí bảo hiểm phải là một mức phí cạnh tranh, không quá cao, không quá thấp so với mức phí của Bộ Tài Chính qui định, theo qui luật định giá thì định giá cao sẽ bán được giá cao và định giá thấp sẽ bán với giá thấp, tuy nhiên sản phẩm bảo hiểm lại vô hình nên nếu phí quá cao cũng bị hạn chế số người tham gia, mặt khác phí thấp quá cũng gây ra những tiêu cực trong khách hàng. Do đó khi định giá phải đảm bảo được nguyên tắc số đông bù số ít và đảm bảo được sự cân đối thu- chi trong hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm.
4.2. Phương pháp tính phí
Tính phí phải đảm bảo có cơ sở khoa học, phản ánh đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng có liên quan và mức phí phải phù hợp với khả năng tài chính của các chủ phương tiện.
Công thức tính phí:
P = f + d
Trong đó:
P: Phí bảo hiểm / đầu phương tiện
f: Phí thuần
d: Phụ phí (20% - 30%) phí bảo hiểm
Phí thuần được xác định theo công thức sau: f =
Trong đó:
Si: Số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bảo hiểm bồi thường trong năm i.
Ti: Số tiền bồi thường bình quân một vụ tai nạn trong năm i.
Ci: Số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong năm i.
n: Số năm thống kê, thường từ 3 – 5 năm.
i= (1, n)
Như vậy, f thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ n năm cho mỗi đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong thời kỳ đó.
Đối với các phương tiện thông dụng, mức độ rủi ro lớn hơn như xe kéo rơmoóc, xe chở hàng nặng...thì tính thêm tỷ lệ phụ phí so với mức phí cơ bản.
Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới 1 năm) thời gian tham gia bảo hiểm được tính tròn tháng. Và phí bảo hiểm được tính như sau:
Pnăm * Số tháng xe hoạt động
Pngắn hạn =
12 tháng
Hoặc Pngắn hạn = P năm * Tỷ lệ phí ngắn hạn theo tháng
(Dưới 3 tháng tính 30%; từ 3 – 6 tháng 60%; từ 6 – 9 tháng tính 90%...)
Trường hợp đã đóng phí cả năm, nhưng vào một thời điểm nào đó phương tiệnkhông hoạt động nữa hoặc chuyển sở hữu mà không chuyển quyền bảo hiểm thì chủ phương tiện sẽ được hoàn phí bảo hiểm tương ứng với số thời gian còn lại của năm (làm tròn tháng) nếu trước đó chủ phương tiện chưa có khiếu nại và được nhà bảo hiểm bồi thường.
số tháng xe không hoạt động
Phoàn lại = Pnăm *
12 tháng
Nộp phí bảo hiểm là trách nhiệm của chủ phương tiện. Tuỳ theo số lượng phương tiện, người bảo hiểm sẽ quy định thời gian, số lần nộp và mức phí tương ứng có xét giảm phí theo tỷ lệ tổn thất và giảm phí theo số lượng phương tiện tham gia bảo hiểm (tối đa giảm 20%). Nếu không thực hiện đúng quy định sẽ bị phạt. Ví dụ:
- Chậm từ 01 ngày đến 02 tháng phải nộp thêm 100% mức phí cơ bản.
- Chậm từ 02 đến 04 tháng nộp thêm 200% mức phí cơ bản.
- Chậm 04 tháng trở lên nộp thêm 300% mức phí cơ bản.
- Hoặc huỷ hợp đồng bảo hiểm.
Trong quá trình tính phí bảo hiểm phải lưu ý các yếu tố làm tăng phí.
* Yếu tố làm tăng phí thuần như:
Số phương tiện tham gia bảo hiểm trong năm thấp
Tăng số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự
Số vụ bồi thường bình quân một vụ trong năm lớn
* Yếu tố làm tăng phụ phí như:
Chí phí quản lý tăng
Chi phí khai thác, giám định bồi thường tăng
Chi phí hạn chế và đề phòng tổn thất tăng
Bảng1: Biểu phí BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba (Ban hành kèm theo Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC) Đơn vị: VND
TT
Loại xe
Phí chưa tính thuế
VAT
Tổng
1
Môtô 2 bánh
Từ 50cc trở xuống
> 50 cc
50.000
55.000
5.000
5.500
55.000
60.500
2
Xe lam, môtô 3 bánh, xích lô máy...
140.000
14.000
154.000
3
Xe ôtô không kinh doanh vận tải
Xe chở người ( phí phụ thuộc vào số chỗ ngồi trên xe). Ví dụ:
< 6 chỗ
6-11 chỗ
12-24 chỗ
> 24 chỗ
Xe chở hàng (xe tải)
< 3 tấn
3-8 tấn
> 8 tấn
Xe vừa chở người vừa chở hàng
200.000
400.000
640.000
920.000
340.000
670.000
930.000
470.000
20.000
40.000
64.000
92.000
34.000
67.000
93.000
47.000
220.000
440.000
704.000
1.012.000
374.000
737.000
1.023.000
517.000
4
Ô tô kinh doanh vận tải
Xe chở người (phí phụ thuộc vào số chỗ ngồi trên xe). Ví dụ:
< 6 chỗ
6 chỗ
7 chỗ
................
Xe chở hàng
< 3 tấn
3-8 tấn
> 8 tấn
350.000
430.000
500.000
380.000
740.000
1.020.000
35.000
43.000
50.000
38.000
74.000
102.000
385.000
473.000
550.000
418.000
814.000
1.122.000
5
Taxi:
- < 6 chỗ: Phí bảo hiểm bằng 150% phí của xe kinh doanh chở người < 6 chỗ ngồi
- > 6 chỗ: Phí bảo hiểm bằng với phí của xe kinh doanh chở người cùng số chỗ ngồi
6
Xe Buýt: Phí bảo hiểm bằng với phí của xe ôtô không kinh doanh cùng số chỗ ngồi
III. Hợp đồng bảo hiểm
1. Hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được ký kết giữa nhà bảo hiểm với người lái xe, chủ xe được thực hiện trên cơ sở nhà bảo hiểm đưa ra một loại giấy tờ in sẵn các thông tin và khi ký hợp đồng người tham gia được cấp một giấy chứng nhận bảo hiểm.
Nhìn chung giấy chứng nhận bảo hiểm là một hợp đồng rất đơn giản, ngắn gọn và dễ hiểu, bao gồm các thông tin sau:
Số thứ tự của giấy chúng nhận bảo hiểm.
Tên chủ xe.
Biển số xe và các thông tin liên quan đến xe để nhận biết.
Trọng tải.
Phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm.
Mục đích sử dụng xe.
Thời hạn bảo hiểm (12 tháng).
Các thông tin giúp người tham gia hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ.
Địa chỉ liên hệ khi xảy ra rủi ro, sự cố.
Về hạn mức trách nhiệm thì có nhiều mức khác nhau, mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm sẽ khác nhau do đó khi ký hợp đồng, nhà bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm thoả thuận với nhau để bảo hiểm theo mức phí và mức trách nhiệm hợp lý nhất.
Hiệu lực bảo hiểm.
Hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo quy định ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm khi chủ xe cơ giới đã đóng đủ phí bảo hiểm trừ khi có thoả thuận khác.
3. Chuyển quyền sở hữu.
Trong thời hạn còn hiệu lực ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm, nếu có sự chuyển quyền sở hữu xe mà chủ xe cơ giới không có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm thì mọi quyền lợi bảo hiểm liên quan đến chiếc xe được bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với chủ xe cơ giới mới.
4. Hủy bỏ hợp đồng.
Trường hợp có yêu cầu hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm biết trước 15 ngày. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo huỷ bỏ, nếu doanh nghiệp bảo hiểm không có ý kiến thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên bị huỷ bỏ, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian huỷ bỏ, trừ trường hợp trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực đã xảy ra sự kiện bảo hiểm liên quan đến chiếc xe có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.
5. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên trong hợp đồng bảo hiểm.
5.1. Trách nhiệm và quyền lợi của chủ xe cơ giới
5.1.1. Trách nhiệm của chủ xe cơ giới
Khi yêu cầu bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải kê khai đầy đủ và trung thực những nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm.
Khi tai nạn giao thông xảy ra, chủ xe cơ giới phải có trách nhiệm:
Cứu chữa hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn, báo ngay cho cảnh sát giao thông nơi gần nhất để phối hợp giải quyết tai nạn. Trừ khi có lý do chính đáng, trong vòng 5 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn, chủ xe cơ giới phải gửi cho doanh nghiệp bảo hiểm thông báo tai nạn.
Không được di chuyển, tháo gỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm, trừ trường hợp làm như vậy là cần thiết để đảm bảo an toàn cho người và tài sản hoặc phải thi hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm trong phạm vi số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường kèm theo toàn bộ chứng từ cần thiết có liên quan trong trường hợp vụ tai nạn có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba.
Chủ xe cơ giới phải trung thực trong việc thu thập và cung cấp các tài liệu, chứng từ trong hồ sơ yêu cầu bồi thường và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình xác minh tính chân thực của các tài liệu chứng từ đó.
Trường hợp thay đổi mục đích sử dụng xe, chủ xe cơ giới mới phải thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm biết để điều chỉnh lại tỷ lệ phí bảo hiểm cho phù hợp.
Nếu chủ xe cơ giới không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm quy định trên thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường tương ứng với thiệt hại do lỗi của chủ xe cơ giới gây ra.
5.1.2. Quyền lợi của chủ xe cơ giới
Chủ xe cơ giới có quyền hưởng bồi thường khi có tai nạn mà phát sinh trách nhiệm dân sự thuộc phạm vi bảo hiểm trong thời hạn bảo hiểm. Số tiền bồi thường bị giới hạn bởi số tiền bảo hiểm.
Chủ xe có quyền yêu cầu nhà bảo hiểm sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.
5.2. Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm
5.2.1. Trách nhiêm của doanh nghiệp bảo hiểm
Cung cấp cho chủ xe cơ giới quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm liên quan tới TNDS của chủ xe cơ giới.
Hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho chủ xe cơ giới tham gia bảo hiểm.
Khi hồ bồi thường đầy đủ và hợp lệ, doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành xét và giải quyết bồi thường trong thời hạn giải quyết bồi thường.
Khi tai nạn xảy ra, để yêu cầu người bảo hiểm bồi thường._., chủ xe, lái xe phải gửi hồ sơ khiếu lại bồi thường cho người bảo hiểm. Đối với những vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trọng (tai nạn gây chết người hoặc bị thương nhiều ngươì hoặc bị thiệt hại về tài sản từ 20.000.000 đồng trở lên), doanh nghiệp bảo hiểm phải phối hợp chặt chẽ với chủ xe cơ giới và các cơ quan chức năng ngay từ đầu để giải quyết tai nạn. Trong một số trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng ngay những chi phí cần thiết và hợp lý trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm khắc phục một cách tốt nhất hậu quả của tai nạn.
Phải có trách nhiệm thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
Phải hoàn phí cho chủ xe khi có sự thay đổi chủ sở hữu cũng như khi xe không hoạt động.
5.2.2. Quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm
Thu phí bảo hiểm.
Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin liên quan.
Có quyền từ chối bồi thường một phần hoặc toàn bộ nếu bên mua bảo hiểm vi phạm hợp đồng.
IV. Giám định tổn thất và giải quyết bồi thường
Giám định tổn thất
Công tác giám định tổn thất nhằm xác định mức độ thiệt hại của bên thứ ba và mức độ lỗi của các chủ phương tiện, đồng thời xác định xem nguyên nhân xảy ra tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm hay không được bảo hiểm.
Trong công tác giám định phải có sự chứng kiến của bên chủ xe, bên thứ ba hoặc đại diện của bên thứ ba, bên bảo hiểm và công an. Nếu chủ xe không thống nhất về mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm xác định, hai bên sẽ thoả thuận chọn giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp. Quyết định của giám định viên kỹ thuật được coi là quyết định cuối cùng. Trường hợp kết luận của giám định viên kỹ thuật khác với kết luận của giám định viên bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu chi phí giám định. Trường hợp kết kuận của giám định viên kỹ thuật và của giám định viên bảo hiểm trùng nhau thì chủ xe cơ giới phải chịu chi phí giám định.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu doanh nghiệp bảo hiểm không thể thực hiện được việc lập biên bản giám định thì có thể căn cứ vào các biên bản, kết luận của cơ quan chức năng có thẩm quyền và các hiện vật thu được (ảnh chụp, lời khai của các bên có liên quan...) để xác định mức độ thiệt hại.
Mọi tổn thất được khách hàng thông báo đều phải được giám định một cách nhanh chóng để các tang vật và nhân chứng không bị phân tán.
Nếu tai nạn xảy ra có liên quan đến bên thứ ba thì giám định viên phải hướng dẫn bên thứ ba tiến hành các thủ tục và cùng đứng ra giám định để giải quyết trách nhiệm của các bên.
Sau khi giám định có đủ mặt các bên liên quan cần thiết, phải tiến hành lập biên bản giám định, căn cứ vào biên bản giám định nhà bảo hiểm sẽ tiến hành xét giải quyết bồi thường cho chủ xe.
2. Bồi thường
2.1. Hồ sơ yêu cầu bồi thường
Khi tai nạn xảy ra, để yêu cầu người bảo hiểm bồi thường chủ xe (lái xe) phải gửi hồ sơ khiếu nại bồi thường cho người bảo hiểm.
Hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau:
Thông báo tai nạn, giấy yêu cầu bồi thường của chủ xe.
Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm.
Bản sao giấy phép lái xe.
Bản sao giấy chứng nhận đăng ký xe.
Bản sao gấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường.
Bản sao giấy đăng ký kinh doanh vận chuyển hành khách trong trường hợp yêu cầu bồi thường hành khách bị thiệt hại về tính mạng và sức khoẻ.
Bản kết luận điều tra tai nạn của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn (có các nhận của công an nơi thụ lý hồ sơ tai nạn) bao gồm:
Sơ đồ hiện trường tai nạn giao thông.
Biên bản khám nghiệm hiện trường.
Biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn giao thông.
Biên bản giải quyết tai nạn giao thông.
Quyết định của toà án (nếu có).
Các giấy tờ liên quan tới trách nhiệm của bên thứ ba (nếu có).
Biên bản giám định thiệt hại (nếu có).
2.2. Thủ tục yêu cầu bồi thường
Khi yêu cầu bồi thường chủ xe cơ giới có trách nhiệm chuyển cho doanh nghiệp bảo hiểm hồ sơ bồi thường theo quy định bao gồm các giấy tờ sau:
* Đối với thiệt hại về người:
+Trường hợp bị thương: Các giấy tờ của cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận tình trạng thương tật của nạn nhân do tai nạn giao thông gây ra như giấy chứng thương của cá nhân, giấy ra viện, phiếu mổ và các giấy tờ có liên quan đến các chi phí chăm sóc cứu chữa...
+ Trường hợp chết: Giấy chứng tử của nạn nhân.
* Đối với thiệt hại về tài sản: Các bằng chứng chứng minh thiệt hại như hoá đơn sửa chữa, thay mới tài sản bị thiệt hại do tai nạn.
Các giấy tờ chứng minh các chi phí cần thiết và hợp lý mà chủ xe đã chi ra để giảm thiểu tổn thất hay để thực hiện chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm.
] Xác định số tiền bồi thường
Sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại bồi thường, nhà bảo hiểm sẽ xác định số tiền bồi thường sau khi đã tiến hành giám định. Số tiền bồi thường được tính như sau:
STBT = L * M (1)
STBT = ( L1 + L2 + L3 + ...+Ln) * M (2)
Trong đó: L: Mức độ lỗi của chủ xe.
M: Mức độ thiệt hại thực tế của người thứ ba.
Nếu có nhiều xe cùng có lỗi thì xác định STBT theo công thức (2). Thiệt hại thực tế của người thứ ba (M) bao gồm:
* M1: Thiệt hại về tình trạng sức khỏe, tính mạng của người thứ ba. Thiệt hại này rất khó lượng hoá ra bằng tiền vì tính mạng là vô giá, nhưng bằng mọi cách phải lượng hoá ra bằng tiền để bồi thường.Vì vậy khi bồi thường nhà bảo hiểm căn cứ vào: Chi phí hợp lý cho công việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất hoặc giảm sút như: Chi phí cấp cứu, tiền hao phí vật chất và các chi phí y tế khác (thuốc men, dịch truyền, chi phí chụp chiếu X – Quang...)
Chi phí hợp lý và phần thu nhập của người chăm sóc bệnh nhân và khoản tiền cấp dưỡng cho người mà bệnh nhân có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Khoản thu nhập bị mất hoặc giảm sút của người đó.
Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần.
Các chi phí hợp lý cho việc chăm sóc, cứu chữa người thứ ba trước khi chết.
Chi phí hợp lý cho việc mai táng người thứ ba.
Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải nuôi dưỡng (vợ, chồng, con cái...đặc biệt trong trường hợp mà người thứ ba là lao động chính trong gia đình).
* M2: Mức độ thiệt hại thực tế về tài sản của người thứ ba, bao gồm tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại, thiệt hại liên quan đến việc sử dụng tài sản và các chi phí hợp lý để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Thiệt hại này căn cứ vào giá cả thị trường nơi xảy ra tai nạn, có trừ khấu hao.
Giá trị thiệt hại = Nguyên giá - khấu hao
* M3: Mức độ thiệt hại thực tế về kinh doanh của người thứ ba. Căn cứ vào tình hình thực tế của người thứ ba, ngành nghề kinh doanh của họ, doanh thu tháng, thuế phải nộp...
Như vậy mức độ thiệt hại về kinh doanh của người thứ ba đôi khi rất lớn và không ai lường trước được cho nên hầu hết các công ty bảo hiểm trên thế giới đều khống chế mức trách nhiệm của mình.
Mức bắt buộc: 12 triệu/người / vụ_30 triệu/ vụ / tài sản
Mức tự nguyện: 15 triệu/ người/vụ_80 triệu/ vụ/ tài sản; 30 triệu/ vụ/ người_80 triệu/ vụ/ tài sản
Trong luật pháp của Việt Nam cũng quy định khi xảy ra tai nạn phát sinh trách nhiệm dân sự nhà bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho chủ xe, sau đó chủ xe bồi thường cho người thứ ba. Nhưng có thể có trường hợp vẫn cho phép nhà bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho người thứ ba nếu như chủ xe vì một lý do nào đó không thể thực hiện được trách nhiệm của mình.
V. Giải quyết tranh chấp
Thời hạn yêu cầu, thanh toán và khiếu nại bồi thường
Thời hạn yêu cầu bồi thường của chủ xe cơ giới: 6 tháng kể từ ngày xảy ra tai nạn, trừ trường hợp chậm trễ do nguyên nhân khách quan và bất khả kháng theo quy định của pháp luật.
Thời hạn thanh toán bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm: 15 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ bồi thường đầy đủ và hợp lệ, không kéo dài quá 30 ngày trong trường hợp phải tiến hành xác minh hồ sơ. Trong trường hợp từ chối bồi thường, doanh nghiệp phải thông báo cho chủ xe cơ giới bằng văn bản về lý do từ chối bồi thường.
Thời hạn khiếu nại bồi thường của chủ xe cơ giới: 3 tháng kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán bồi thường hoặc từ chối bồi thường. Quá thời hạn này mọi khiếu nại không còn giá trị.
Trường hợp người thứ ba hay hành khách theo hợp đồng vận chuyển bị thiệt hại về người và tài sản do xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm gây ra khiếu nại trực tiếp đòi doanh nghiệp bảo hiểm đó bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm liên hệ với chủ xe cơ giới để giải quyết bồi thường thoả đáng theo đúng các quy định.
2. Giải quyết tranh chấp
Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nếu không giải quyết được bằng thương lượng giữa các bên liên quan sẽ được đưa ra toà án Việt Nam giải quyết.
Chương II
Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 1998-2002
i. Vài nét về công ty bảo hiểm petrolimex(PJICO)
Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) được thành lập và chính thức tham gia thị trường bảo hiểm ngày 15/6/1995. Công ty có trụ sở chính tại số 22 Láng Hạ_Hà Nội
PJICO bao gồm 7 cổ đông sáng lập đều là những tổ chức kinh tế có lớn của Nhà nước, có tiềm năng và uy tín lớn cả trong và ngoài nước.
Kể từ khi thành lập, Công ty không ngừng lớn mạnh, tới nay PJICO là công ty bảo hiểm hàng thứ 3 trên thị trường Việt Nam về lĩnh vực phi nhân thọ. Là công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên ra đời tại Việt Nam, từ những ngày đầu gian khó với 8 cán bộ nhân viên mà hầu hết vừa mới tốt nghiệp đại học, đến nay PJICO đã có một đội ngũ cán bộ trẻ nhiệt tình, có trình độ và nhiều cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo hiểmvà không chỉ được đào tạo ở trong nước mà còn cả ở ngoài nước.
PJICO luôn tự hào là một công ty trẻ nhưng đã đạt được những thành ích đáng khích lệ. Từ chỗ khách hàng của công ty là các cổ đông, đến nay hàng nghìn khách hàng thuộc tất cả các ngành nghề, lĩnh vực, các thành phần kinh tế đã tham gia bảo hiểm tại PJICO. Nhiều khách hàng, công trình lớn như khách sạn Hà Nội Daewoo, Cao ốc HITC tại Hà Nội, Diamon Plaza tại TPHCM, nhiều gói thầu cầu, đường trên Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, đường xuyên á, nhà máy thuỷ điện Sông Hinh, các tàu dầu lớn của Petrolimex, VOSCO đều liên tục tham gia bảo hiểm tại Pjico.
Ngay từ khi ra đời, Pjico đã nhanh chóng triển khai kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm cả về chiều sâu và trên diện rộng. Số lượng nghiệp vụ bảo hiểm triển khai ngày càng tăng thêm và đa dạng hoá. Tới nay công ty đã thực hiện trên 40 nghiệp vụ bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng của khách hàng như: nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải, nghiệp vụ bảo hiểm kĩ thuật và tài sản.... Tổng doanh thu phí bảo hiểm trong 5 năm đầu của công ty đạt trên 400 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng doanh thu phí bình quân đạt 39% năm. Tính dến năm 2000 Công ty đã bảo toàn và tích luỹ vốn hoạt động lên 115 tỷ đồng gấp 4 lần số vốn góp ban đầu của các cổ đông, không kể thuế nộp Ngân sách và đã chia lãi cổ tức được 77% trên vốn góp cho các cổ đông, đóng góp cho Ngân sách Nhà nước được trên 35 tỷ đồng.
Mạng lưới kinh doanh của công ty không ngừng được mở rộng. Để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, Công ty PJICO không còn chỉ tập trung ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, các thành phố lớn mà còn triển khai từ Bắc vào Nam, từ thành phố tới nông thôn dọc theo chiều dài đất nước. Hiện nay công ty đã có 20 chi nhánh, 24 văn phòng đại diện, hàng trăm đại lí và cộng tác viên bảo hiểm.
Với cơ chế năng động của một công ty cổ phần, và phương châm hoạt động: “tất cả vì khách hàng, vì chữ tín của PJICO”. Sau 7 năm ra đời và hoạt động, công ty đã được nhiều bạn hàng gần xa tín nhiệm trao gửi niềm tin. PJICO luôn quan tâm để tăng cường sự hợp tác, ủng hộ, giúp đỡ của các công ty bảo hiểm, công ty tái bảo hiểm trong và ngoài nước như: Bảo Việt, Bảo Minh, Vinare, MunichRe, West of England và đã chính thức tham gia Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam. Được sự ủng hộ và tín nhiệm của khách hàng, bạn hàng cùng với những lợi thế và uy tín của các cổ đông, vận hành dưới mô hình cổ phần năng động, PJICO sẽ còn tiếp tục phát triển hơn nữa để xứng đáng là lá chắn, giá đỡ của mọi khách hàng.
Các nghiệp vụ bảo hiểm công ty đang triển khai
Nghiệp vụ bảo hiểm Hàng hải
Nghiệp vụ bảo hiểm Phi hàng hải
Nghiệp vụ bảo hiểm Kỹ thuật và Tài sản
Nghiệp vụ Tái bảo hiểm
Các hoạt động khác
Cơ cấu tổ chức của công ty
Công ty PJICO được thành lập dưới hình thức là công ty cổ phần bảo hiểm. Cơ cấu tổ chức bao gồm:
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị
Tổng giám đốc
Bộ máy giúp việc
Ban kiểm soát
Các cổ đông sáng lập Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex bao gồm:
Tên Tỷ lệ góp vốn (%)
Tổng công ty xăng dầu Việt nam(Petrolimex) 51
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam(Vietcombank). 10
Công ty tái bảo hiểm quốc gia(Vinare) 8
Tổng công ty thép Việt Nam(VSC). 6
Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ(Matexim) 3
Công ty điện tử Hà Nội(Hanel) 2
Công ty thiết bị an toàn(AT) 0,5
Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động công ty PJICO
Hội đồng quản trị
Phòng BH Cà Mau
Các tổng đại lí, đại lí,
cộng tác viên bảo hiểm
Phòng Bồi Thường
Chi nhánh Quảng Bình
Chi nhánh Hà Tĩnh
Chi nhánh Nghệ An
Chi nhánh Thanh Hoá
Chi nhánh Ninh Bình
Phòng BH KV VII
Phòng BH KV VI
Phòng BH Nam Định
Phòng BH KV V
Phòng BH KV IV
Chi nhánh TháiNguyên
Phòng BH Lạng Sơn
Phòng BH Bắc Giang
Phòng BH KV III
Phòng BH KV II
Ban Thanh tra Pháp chế
Phòng Đầu tư & TTCK
Chi nhánh Hà Tây
Chi nhánh Hải Phòng
Phòng BH KV I
Chi nhánh Quảng Ninh
Phòng TS Hoả hoạn
Phòng BH phi hàng hải
Phó Tổng giám đốc
Phòng
Kế Toán
Phòng BH An Giang
Phòng BH Sóc Trăng
Phòng BH Kiên Giang
Phòng BH Đắc Lắc
Phòng BH Bình Định
Chi nhánh Vũng Tàu
Chi nhánh Cần Thơ
Chi nhánh Sài Gòn
Chi nhánh T.T.Huế
Chi nhánh Khánh Hoà
Phòng Tái BH
Phòng BH Hàng Hải
Chi nhánh Quảng Ngãi
Phòng TT và Quản lí nghiệp vụ
Chi nhánh Đà Nãng
Chi nhánh Quảng Nam
Phòng Tổng hợp
Phòng Tổ chức,LĐ,TL
Phó Tổng giám đốc dđốc
Tổng giám đốc
Tình hình kinh doanh của PJICO giai đoạn 1998-2002
Hoạt động kinh doanh của PJICO cũng giống như các công ty bảo hiểm khác. Đó là ngoài việc triển khai hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, PJICO còn tham gia một số lĩnh vực hoạt động đầu tư khác được Nhà nước cho phép như: kinh doanh bất động sản, cho vay, mua trái phiếu…
Kinh doanh bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động chủ đạo của PJICO. Công ty triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ, cung cấp các sản phẩm bảo hiểm đến các khách hàng có nhu cầu tham gia với mục tiêu giúp khách hàng có thể nhanh chóng ổn định tình hình tài chính nếu không may rủi ro xảy ra, tránh những xáo trộn lớn trong cuộc sống hành ngày. Thông qua đó góp phần ổn định tình hình xã hội , ngoài ra còn đem lại doanh thu cho doanh nghiệp. Trên cơ sở nguồn vốn nhàn rỗi này, doanh nghiệp mới có thể tiến hành các hoạt động đầu tư. Thu nhập từ hoạt động này để duay trì tính ổn định trong kinh doanh của công ty, đảm bảo khả năng chi trả, hơn thế nữa nó còn là nhân tố giúp làm giảm mức phí của khách hàng.
PJICO là công ty bảo hiểm còn rất trẻ, mới chỉ được thành lập từ năm 1995 nhưng từ đó đến nay công ty luôn đạt được kết quae khả quan trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, ngày càng củng cố được vị trí và uy tín của mình trên thị trường bảo hiểm, có sức cạnh tranh đáng kể so với các bậc đàn anh đi trước đã có nhiều kinh nghiệm kinh doanh như Bảo Việt, Bảo Minh.
Tình hình doanh thu phí của PJICO như sau
Bảng2: Doanh thu phí bảo hiểm gốc của PJICO 1998-2002
Chỉ tiêu
Đơn vị
1998
1999
2000
2001
2002
DT phí BH gốc
Trđ
96.353
96.400
123.655
146.538
175.800
Tốc độ tăng trưởng liên hoàn
Lần
1,20
1,00
1,28
1,185
1,20
Tốc độ phát triển
Lần
0,20
1,00
0,28
0,185
0,20
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của PJICO
Từ năm 1998 khi hoạt động kinh doanh đã đi vào ổn định, công ty vẫn giữ được mức tăng doanh thu phí đều đặn. Năm 1998 đạt 96.353 triệu đồng; năm 1999 là 96.400 triệu đồng; năm 2001 là 146.538 triệu đồng và năm 2002 là 175.800 triệu đồng. Năm 2002 tốc độ tăng trưởng là 1,2 lần, tăng 12,46 lần so với năm 1995.
Đây là một kết quả rất đáng khích lệ đối với một công ty bảo hiểm còn ít kinh nghiệm hoạt động, đặc biệt đây lại là một công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên và còn mới mẻ ở Việt Nam. PJICO là công ty cổ phần mới ra đời, không nhận được bất cứ một sự ưu đãi nào từ phía Nhà nước như: Miễn thuế trong một thời gian hoạt động nhất định, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị…Đây là những khó khăn thiệt thòi lớn. Do vậy từ những kết quả mà PJICO đã đạt được, công ty cần có quyền tự hào và khẳng định trong sự phát triển đi lên của mình.
Doanh thu phí của toàn công ty tăng lên là do một số nguyên nhân sau:
Số lượng các chi nhánh và tốc độ tăng doanh thu của từng chi nhánh và từng nghiệp vụ trong toàn quốc tăng lên về số lượng một cách đáng kể.
Được sự quan tâm của HĐQT, cán bộ nhân viên được đi học nghiệp vụ bảo hiểm nâng cao trình độ và khả năng khai thác cho công ty…
Với tốc độ tăng về doanh thu phí của PJICO như vậy là rất đáng khích lệ, đặc biệt đối với một công ty còn non trẻ.
So sánh với doanh thu phí của Bảo Việt ta thấy như sau:
Năm 1998 doanh thu của Bảo Việt là 79.068 triệu đồng, trong khi đó của PJICO là 96.353 triệu đồng.
Năm 1999 doanh thu phí của Bảo Việt là 87.635 triệu đồng tăng 110,8% so với năm 1998.
Năm 2000 là 74.887 triệu đồng thấp hơn năm 1999 và thấp hơn so với doanh thu phí của PJICO.
Năm 2001 doanh thu phí của Bảo Việt đạt được là 75.800 và năm 2002 là 81.143 triệu đồng, trong khi đó của PJICO là 175.800 triệu đồng. Như vậy so với một công ty lớn như Bảo Việt thì doanh thu phí mà PJICO đã đạt được là điều rất đáng mừng.
Mặc dù từ khi hoạt động đến nay có nhiều biến động thăng trầm nhưng chỉ sau 1 năm hoạt động tốc độ phát triển đã đạt 270%, tức tăng trưởng 2,7 lần. Các năm sau đó tốc độ phát triển giảm dần và từ năm 2000 tốc độ này xấp xỉ 20%. Sự giảm sút này là do nhiều nguyên nhân tác động trong đó một nguyên nhân cơ bản đó là: PJICO gặp phải nhiều sự cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước lớn mạnh như: Bảo Việt, Bảo Minh và các công ty bảo hiểm liên doanh, các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Về thị phần: PJICO ngày một phát triển và có sức cạnh tranh tốt, thị phần của công ty cũng ngày một lớn hơn.
Trước năm 1995 thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam chỉ có 3 công ty là Bảo Việt, Bảo Minh và Bảo Long chia nhau nắm giữ 100% thị trường. Trong đó Bảo Việt là công ty chiếm thị phần rất lớn ~ 83%. Năm 1995 PJICO ra đời và đi vào hoạt động. Sau một năm thị phần của PJICO đã đạt 4,08% và ngày càng tăng.
Tuy nhiên sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ vô cùng gay gắt, PJICO cần phải có nhiều biện pháp để thị phần của mình đạt được cao hơn nữa và không chỉ cạnh tranh được với các công ty trong nước mà còn với cả các công ty bảo hiểm liên doanh và nước ngoài.
Mặc dù năm 2002 doanh thu phí toàn công ty đạt ~ 176 tỷ đồng, đứng sau Bảo Việt, Bảo Minh, PV nhưng công ty đã hoàn thành 111,1% kế hoạch được giao, tăng 27,1% so với năm 2001.
Kinh doanh tái bảo hiểm
Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm là một lĩnh vực quan trọng không kém so với hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, nhất là đối với các nghiệp vụ có giá trị lớn như: Bảo hiểm xuất nhập khẩu hàng hóa, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt…Hoạt động tái bảo hiểm giúp cho công ty ổn định hoạt động, tăng cường khả năng chi trả, nâng cao uy tín cho công ty. Thông qua tái bảo hiểm công ty vẫn có khả năng kí kết hợp đồng và chi trả bồi thường nếu rủi ro không may xảy ra. Ngoài ra công ty bảo hiểm còn có thu nhập từ việc nhận tái bảo hiểm cho các công ty khác từ phí nhận tái bảo hiểm. Như vậy thông qua hoạt động tái bảo hiểm, công ty có thể nhận được hoa hồng nhượng tái và phí nhận tái bảo hiểm.
Nhìn chung hoạt động tái bảo hiểm của PJICO từ khi thành lập cho đến nay cũng đạt được nhiều kết quả tốt.
Khi mới thành lập, phí nhận TBH của PJICO chỉ đạt 47,568 triệu đồng nhưng các năm tiếp sau (1996-1999) phí nhận tái đã tăng lên một cách đáng kể.
Năm 2001 phí nhận TBH là 4.003 triệu đồng, gấp 84,15 lần so với năm 1995. Hoa hồng TBH thu được là 12.340 triệu đồng.
Năm 2002 doanh thu phí nhận TBH đạt 13.800 triệu đồng, tăng trưởng 244,7%. Hoa hồng TBH đạt 12.700 triệu đồng, tăng trưởng 2,9% so với năm 2001.
Doanh thu hoạt độngTBH của PJICO rất đáng kể, công ty đã rất chú ý đến hoạt động này và đã thiết lập được nhiều mối quan hệ với các công ty tái bảo hiểm trong và ngoài nước. Ngoài công ty tái bảo hiểm quốc gia (Vinare), công ty còn có mối quan hệ với Munichre, Loy’ds… . Đến nay PJICO đã chính thức gia nhập Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, thông quan mối quan hệ này công ty đã tăng khả năng nhận TBH cho các khách hàng lớn, nhiều công trình có giá trị từ 1.000 tỷ đồng đến 2.000 tỷ đồng như: Trung tâm thương mại Deaha với giá trị bảo hiểm là 125 triệu USD, Posconama cũng tham gia bảo hiểm tại PJICO với giá trị 67 triệu USD một phần khu công nghiệp đèn hình Hanel bảo hiểm với giá trị 165 triệu USD…
Hơn thế nữa qua các mối quan hệ với các công ty bảo hiểm, công ty tái bảo hiểm giàu kinh nghiệm trong và ngoài nước, PJICO sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm, tranh thủ được sự hỗ trợ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ.
Hoạt động đầu tư
Đầu tư là một trong số mảng hoạt động lớn của công ty bảo hiểm. Nó có vai trò quan trọng tác động đến hoạt động kinh doanh của công ty. Đầu tư đảm bảo thực hiện tốt cam kết chi trả với khách hàng. Thực hiện tốt hoạt động đầu tư sẽ mang lại cho công ty doanh thu lớn, làm cơ sở giảm phí bảo hiểm và nâng cao uy tín cho công ty.
Khách hàng khi tham gia bảo hiểm phải đóng một khoản phí nhất định, khoản tiền này lập thành quỹ và được xem là khoản phải trả cho khách hàng. Số tiền trong quỹ này rất lớn và được công ty bảo hiểm đem đi đầu tư ở mức cho phép vào các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Nhà nước. Khi đưa tiền tạm thời nhàn rỗi này đi đầu tư phải tuân thủ theo các nguyên tắc đầu tư. Đặc biệt đối với hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ, thời gian bảo hiểm ngắn do đó khi PJICO đầu tư phải đảm bảo nguyên tắc đầu tư và các khoản mục có tính thanh khoản cao. Thu nhập từ hoạt động đầu tư giúp cho công ty duy trì khả năng tài chính, chi trả cho các khoản chi về quản lí, chi cho việc thiết kế sản phẩm, quan hệ khách hàng…
Từ khi thành lập đến nay, hoạt động đầu tư của PJICO được thực hiện khá tốt, nguồn vốn được bổ sung từ đầu tư là khá nhiều. Cụ thể như sau:
Năm 1998 đạt 6,5 tỷ
Năm 1999 đạt 8,1 tỷ đồng
Năm 2000 đạt 9,6 tỷ đồng
Năm 2001 đạt 10, 2 tỷ đồng
Năm 2002 đạt 11,5 tỷ đồng
Đây là một kết quả tương đối cao trong điều kiện môi trường đầu tư Việt Nam còn hạn hẹp, nhiều rủi ro, lãi suất Ngân hàng giảm mạnh.
Mặc dù 6 tháng cuối năm 2002 PJICO đã có cơ cấu lại danh mục đầu tư nhưng hoạt động đầu tư vẫn chủ yếu là lãi tiền gửi công trái và trái phiếu. Kinh doanh bất động sản có lợi nhuận cao nhưng PJICO chưa đầu tư vì hoạt động này rủi ro rất lớn. Ngoài ra PJICO cũng chưa triển khai sang đầu tư một số lĩnh vực có tiềm năng khác.
4.4.Các hoạt động khác
PJICO có đội ngũ nhân viên trẻ, có trình độ, năng động, sáng tạo, ham học hỏi. Hơn nữa công ty cũng rất qua tâm và tạo điều kiện đào tạo cho cán bộ nhân viên nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Đã có nhiều khóa học bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ nhân viên. Hàng năm công ty cử người đi tham dự các khóa đào tạo nghiệp vụ chuyên môn ở trong nước và nước ngoài. Đến nay hầu hết cán bộ nghiệp vụ đều qua phổ cập nghiệp vụ cơ bản về bảo hiểm. Sau gần 8 năm hoạt động có hơn 400 lượt cán bộ được đào tạo trong nước và gần 60 lượt cán bộ được đào tạo ở nước ngoài. Cho đến nay tất cả cán bộ nhân viên đều được kí hợp đồng lao động, được thực hiện đầy đủ chế độ BHXH theo đúng quy định của Nhà nước. Hàng năm PJICO còn tổ chức cho cán bộ nhân viên đi du lịch, nghỉ mát…tạo thêm điều kiện gắn bố hơn với công ty.
PJICO cũng rất chú ý đến việc bồi dưỡng chính trị cho nhân viên, đã có nhiều khóa học bồi dưỡng đối tượng Đảng được tổ chức cho những người lao động xuất sắc.
Ngoài ra PJICO cũng tiến hành các hoạt động như đại lí giám định, đại lí bồi thường…và các hoạt động này đều mang lại cho công ty thu nhập không nhỏ.
Năm 2002 là năm thực sự đáng nhớ đối với PJICO. Mặc dù có sự thay đổi về người điều hành nhưng trong 6 tháng cuối năm đã có sự tăng trưởng vượt bậc và đã hoàn thành kế hoạch do HĐQT giao trước ngày 31/12/2002. tốc độ tăng doanh thu không chỉ do phát triển mạng lưới như những năm trước mà chính các chi nhánh sẵn có đã đạt được vực dậy và có tốc độ tăng trưởng tốt như: Văn phòng công ty, PJICO Sài Gòn…
. Công tác bồi thường
Mặc dù mới đi vào hoạt động trong 8 năm, PJICO đã đạt được những kết quả đáng khích lệ và doanh thu ngày càng tăng lên, tuy nhiên công ty vẫn phải đối mặt với những khó khăn và thách thức không nhỏ. Điều đó đòi hỏi công ty phải có những biện pháp nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Một trong số đó là phải thực hiện tốt công tác giám định bồi thường.
Giám định bồi thường là công việc dịch vụ sau bán hàng, có tác động lớn đến uy tín của công ty. Do tầm quan trọng của công tác này nên việc giám định bồi thường luôn được ban giám đốc đặc biệt quan tâm. Thực tế cho thấy PJICO thực hiện rất tốt khâu bồi thường, giải quyết nhanh gọn vì vậy tạo thêm nhiều niềm tin cho khách hàng. Do đó chắc chắn PJICO sẽ ngày càng phát triển. Tuy nhiên bồi thường nhanh chưa phải là hữu hiệu cho công ty vì thời gian bồi thường nhanh chóng, thủ tục bồi thường đơn giản sẽ dễ tạo điều kiện cho khách hàng có hành vi trục lợi. Nếu bị trục lợi sẽ gây nhiều hậu quả cho cả công ty và xã hội.
Tình hình bồi thường của PJICO thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Tình hình bồi thường của PJICO 1998-2002
Năm
STBT
(Triệu đồng)
Mức tăng tuyệt đối
(Triệu đồng)
Tốc độ tăng
Tương đối (%)
Tỷ lệ bồi thường
(%)
1998
43.437,248
-
-
45,08
1999
46.903,766
3.466,518
7,98
45,18
2000
49.130,489
2.226,723
4,75
48,66
2001
68.910,964
19.780,478
40,26
47,03
2002
76.900,000
7.989,036
11,59
43,74
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của PJICO
Cũng như doanh thu, chi bồi thường của công ty trong 5 năm qua cũng có những biến động thất thường. Năm 1999 là năm có tỷ lệ bồi thường cao nhất 48,66%. Năm 2000 có tỷ lệ bồi thường thấp nhất 39,73%. Tỷ lệ bồi thường biến động lên xuống, năm 2002 là 43,74% tức là 76.900 triệu đồng. Đây là tỷ lệ nói chung có thể chấp nhận được.
Sự biến động về tỷ lệ bồi thường qua các năm là do một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Tỷ lệ bồi thường của các văn phòng cũng như các chi nhánh của công ty có biến động.
- Tỷ lệ bồi thường của các nghiệp vụ cũng có nhiều biến động.
Năm 2002 các nghiệp vụ có tỷ lệ bồi thường cao như: Bảo hiểm con người phi nhân thọ, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm học sinh. Riêng bảo hiểm xe cơ giới có tỷ lệ bồi thường cao là do: Số xe máy lưu hành tăng lên một cách đột biến, cơ sở hạ tầng đường bộ chưa được cải tiến, tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều và trầm trọng.
Trong năm 2002, các chi nhánh có tỷ lệ bồi thường thấp như văn phòng công ty (38,4%), PJICO Đà Nẵng (30,2%). Các chi nhánh có tỷ kệ bồi thường cao như: PJICO Nghệ An (53,9%), PJICO Khánh Hòa (66,2%)…
Như vậy tỷ lệ bồi thường từng văn phòng, từng chi nhánh biến động làm cho tỷ lệ bồi thường toàn công ty cũng có biến động theo. Nhìn chung năm 2002 tỷ lệ bồi thường có giảm so với trước tuy nhiên tỷ lệ này còn cao so với một số công ty bảo hiểm khác trong nước.
So sánh tỷ lệ bồi thường với Bảo Việt ta thấy rõ được điều này:
- Năm 1998 số tiền bồi thường của Bảo Việt là 29.107 triệu đồng, tỷ lệ bồi thường là 33,21%.
- Năm 1999 số tiền bồi thường là 23.700 triệu đồng với tỷ lệ bồi thường 31,65%.
- Năm 2000 số tiền bồi thường là 28.286 triệu đồng, tỷ lệ bồi thường 37,32%.
- Năm 2001 số tiền bồi thường là 32.250 triệu đồng, tỷ lệ bồi thường 38,32%.
- Năm 2002 số tiền bồi thường của Bảo Việt là 34.350 triệu đồng với tỷ lệ bồi thường 40,42%.
Như vậy tỷ lệ bồi thường của Bảo Việt thấp hơn nhiều so với của PJICO. Yêu cầu đặt ra cho công ty PJICO trong thời gian tới đó là phải thực hiện tốt hơn nữa, phát hiện và xử lí các vụ trục lợi bảo hiểm để giảm chi phí bồi thường sai.
4.6. Kết quả kinh doanh toàn công ty giai đoạn 1998- 2002
Bảng4: Lợi nhuận kinh doanh của PJICO 1998-2002
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
2002
Lợi nhuận trước thuế
11.800
7.700
8.900
9.200
12000
Thuế
5.100
2.300
2.700
2.900
3.600
Lợi nhuận sau thuế
6.700
5.400
6.200
6.300
8.400
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của PJICO
Lợi nhuận sau thuế của công ty ngày càng tăng, năm 1995 do công ty mới đi vào hoạt động nên chỉ đạt 2 tỷ đồng. Lợi nhuận tăng dần và năm 2002 đã đạt 12 tỷ đồng trước thuế, nộp Ngân sách 3,6 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 8,4 tỷ đồng. Đây là một kết quả khả quan đối với một công ty vừa mới đi vào hoạt động được 8 năm. PJICO đang cố gắng phấn đấu để đưa vị trí của mình vào tiềm thức khách hàng.
Công ty đạt được kết quả như vậy là do mọt số nguyên nhân cơ bản sau:
Thúc đẩy các chính sách Marketing, thực hiện quảng cáo sâu rộng, đưa sản phẩm của công ty đến với khách hàng.
Mở rộng các văn phòng, chi nhánh ở các tỉnh, thành phố và trong cả nước.
Sử dụng rộng rãi mạng lưới đại lí, công tác viên bảo hiểm khắp cả nước.
Sử dụng đòn bẩy kinh tế, có chính sách khuyến mại, giảm giá, giảm phí cho khách hàng đúng mực, hợp lí.
Thường xuyên có hội nghị khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng gặp gỡ trao đổi thông tin, tạo uy tín cho công ty…
II. Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại pjico.
Một nghiệp vụ bảo hiểm để tiến hành có hiệu quả bao giờ cũng tuân thủ theo một quy tắc nhất định, đó là quy trình triển khai nghiệp vụ. Cũng như các công ty bảo hiểm khác PJICO cũng tuân thủ theo một quy trình bao gồm các bước sau:
Khai thác .
Thu xếp tái bảo hiểm.
Đề phòng và hạn chế tổn thất.
Giám định và bồi thường
Dịch vụ khách hàng.
Nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba có thời hạn ngắn (1 năm), phí bảo hiểm thấp nên quy trình triển khai có phần rút gọn như sau:
Khâu khai thác bảo hiểm .
Khai thác là khâu đầu tiên có vị trí quan trọng không chỉ với một sản phẩm bảo hiểm mà nó quan trọng với toàn bộ sản phẩm khác của công ty vì: Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít, do đó chỉ thông qua việc ._.c mắc.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ngày càng xuất hiện nhiều công ty mới, làm cho sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt và quyết liệt.
Còn rất nhiều những khó khăn công ty gặp phải nhưng trên đây là những khó khăn điển hình trong việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba.
III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao tính bắt buộc đối với nghiệp vụ BHTNDS theo nghị định 15/ NĐ-CP/2003
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, sự dậm chân tại chỗ của bất cứ một tổ chức kinh tế nào cũng đồng nghĩa đối với sự tụt hậu và thất bại. Chính vì vậy để tồn tại và phát triển thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục đổi mới và hoàn thiện mình, tìm ra các biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy những mặt mạnh của mình để thích nghi với kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Trong thời gian học tập và tích lũy kiến thức trên ghế nhà trường cũng như thực tập tìm hiểu thực tế tại phòng bảo hiểm khu vực V, được đi thực tế và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cơ quan giao đó là bán bảo hiểm xe máy bắt buộc theo nghị định 15CP do vậy em cũng nắm bắt được một số vấn đề liên quan đến việc thực hiện theo nghị định mới. Thời gian thực tập vừa là với tư cách người của công ty tiếp cận trực tiếp với khách hàng, đồng thời cũng là một người tham gia bảo hiểm hiểu được những thắc mắc và phản ứng của khách hàng đối với quy định bắt buộc này. Để góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này, đồng thời có những góp ý đối với tình hình của công ty, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau:
Về công tác khai thác
Đây là điều kiện quyết định đến sự thành công hay thất bại khi triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm. Để duy trì và phát huy những kết quả đã đạt được trong những năm qua thì công tác khai thác của công ty cần có sự điều chỉnh:
Để tăng cường số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm tại công ty cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, quảng cáo, giáo dục một cách sâu rộng, đưa nghị định mới về quy định bắt buộc tham gia bảo hiểm TNDS đến với mọi người dân và người điều khiển xe cơ giới.
Nếu nhu cầu tham gia bảo hiểm của khách hàng lớn hơn một năm, hoặc kí hợp đồng với STBH lớn hơn công ty cũng nên linh hoạt đẻ đáp ứng nhu cầu này, công ty cũng nên tính lại phí bảo hiểm và có chế độ khuyến khích cho những khách hàng tham gia bảo hiểm với thời hạn lớn hơn một năm như : Giảm phí, tặng quà…
- Do đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm là trừu tượng, vô hình nên việc tìm ra cách thức tuyên truyền, quảng cáo tiếp cận khách hàng là rất khó khăn vì vậy cần phải có phương pháp tuyên truyền, quảng cáo hấp dẫn cho người dân để họ biết, hiểu rõ hơn về trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của mình và tiếp tục tham gia tái tục hợp đồng bảo hieemr tại công ty. Bằng các cách: in tờ rơi phát cho người điều khiển xe cơ giới, cho người đi đường, nghị định 15CP đã được tóm tắt gọn và phát trên các tuyến xe buýt rất có hiệu quả, công ty cần phát huy.
- Cán bộ nhân viên cũng như cán bộ quản lí của công ty còn ít người được đào tạo chuyên ngành bảo hiểm do đó cần phải cố gắng hơn nữa về mặt nghiệp vụ, cần phải học hỏi tích lũy kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ. Công ty cần tạo điều kiện mở các lớp học ngắn hạn giúp cán bộ nhân viên nâng cao trình độ nghiệp vụ, am hiểu sâu sắc các vấn đề chuyên ngành để có thể giải thích cặn kẽ, tỷ mỉ với khách hàng, giữ chân khách hàng truyền thống, lôi kéo được khách hàng mới.
Trong tiềm thức người dân, cái tên PJICO nghe còn đang rất xa lạ. Khi nghị định 15CP ra đời và phát huy hiệu lực_là một người trực tiếp đi khai thác bảo hiểm được tiếp xúc với nhiều khách hàng và nhận thấy nhiều người còn e ngại mua bảo hiểm của công ty bởi từ trước đến nay họ chỉ biết danh tiếng của Bảo Việt nên khách hàng từ chối kí hợp đồng với công ty. Xảy ra điều này là do công ty chưa chú trọng khuyếch trương sản phẩm và danh tiếng rộng rãi. Ngày nay công nghệ thông tin, báo chí phát triển rất mạnh mẽ, công ty cần xây dựng và lập kế hoạch chương trình quảng cáo để đưa danh tiếng công ty, đưa sản phẩm của công ty đến với khách hàng một cách rộng rãi hơn.
Khi bị khách hàng từ chối kí kết hợp đồng do chưa hiểu biết về công ty, họ e ngại không dám kí hợp đồng của công ty thì nhân viên khai thác nên có thái độ nhã nhặn, vui vẻ và sẵn sàng giới thiệu về công ty, thuyết phục khách hàng_ sao cho từ những người hay nghi ngờ, khó tính nhất cũng hiểu và kí hợp đồng với công ty. Khách hàng là người rất khó tính và có thói quen sử dụng sản phẩm quen thuộc do đó người cán bộ khai thác đặc biệt không nên khinh thường và có thái độ bất cần với khách hàng.
Theo nghị định mới – NĐ15/2003/NĐ-CP, quy định xử phạt đối với người điều khiển xe cơ giới thiếu giấy tờ xe trong đó bao gồm cả giấy chứng nhận bảo hiểm TNDS. Nghị định quy định : “ phạt tiền từ 20.000 – 50.000 nếu người điều khiển xe cơ giới quên mang giấy chứng nhận bảo hiểm TNDS; phạt tiền từ 50.000- 100.000 nếu người điều khiển xe cơ giới không có giấy chứng nhận bảo hiểm TNDS”. Quy định xử phạt của Chính phủ đã tạo ra một số lượng khổng lồ người điều khiển xe cơ giới tham gia mua BH mà chủ yếu là các chủ xe máy (bởi lẽ hầu hết xe ôtô thực hiện nghiêm túc trách nhiệm dân sự của mình), tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ từ phía các công ty bảo hiểm do đó công ty đã sử dụng đại lí một cách không có tuyển chọn, các văn phòng của công ty sử dụng ngay cả sinh viên thực tập, nhờ anh em họ hàng, thậm chí còn có cả các chủ cửa hàng hoa quả làm đại lý. Điều này sẽ tạo ra cho công ty có được số lượng xe tham gia rất lớn tuy nhiên việc làm này cũng gây ra không ít trở ngại sau này cho công ty như:
+ Những người này làm việc chủ yếu vì mục đích hoa hồng, không có kinh nghiệm, trình độ nghiệp vụ, không có trách nhiệm về sau nên có thể vô tình họ sẽ gây ra việc trục lợi như việc ghi lùi ngày để thời hạn bảo hiểm có hiệu lực dài hơn. Có người quen biết bị CSGT tạm giữ xe nhờ ghi lùi ngày bảo hiểm để đỡ bị phạt nhiều – họ sẽ không ngần ngại và sẵn sàng ghi lùi một vài ngày cho khách hàng.
+ Vì mục tiêu là hoa hồng, họ sẽ thực hiện bán với mức giá thấp. Mặc dù hiện nay Bộ Tài Chính đã quy định tăng mức phí bảo hiểm lên 70.000đ- 80.000(đ) nhưng với mức giá như vậy với nhiều đối tượng khách hàng là quá cao do đó những người này sẽ bán theo mức cũ gây ra cạnh tranh với các công ty bảo hiểm khác. Do đó công ty cần phải lưu tâm hơn trong vần đề đại lý. Thiết nghĩ công ty đã có một mạng lưới các chi nhánh, phòng ban và đại lí dày đặc trong toàn quốc, nếu phát huy hết năng lực thực sự của mạng lưới này cũng đạt được kết quả khá tốt. Biết tận dụng người quen, sinh viên thực tập là điều tốt tuy nhiên nên hạn chế việc đưa giấy chứng nhận bảo hiểm cho những người này cấp. Tuyệt đối không được hạ phí nếu đã có quy định mới của Chính phủ.
Công ty cần tạo cơ hội để quan hệ tốt hơn với cơ quan chức năng để bán BHTNDS cho số xe đăng kí mới, hiện nay việc này mới chỉ do Bảo Việt độc quyền thực hiện. PJICO nên có đề nghị gửi tới cơ quan chức năng xin phối hợp cùng Bảo Việt để khai thác. Bởi lẽ số lượng khách hàng có xe mới ngày càng tăng, PJICO không tận dụng được điều này sẽ làm giảm mất một lượng rất lớn khách hàng.
Thường xuyên phối hợp và có quan hệ với CSGT để CSGT tăng cường kiểm tra, kiểm soát người điều khiển xe cơ giới. Bởi lẽ khách hàng thường có thói quen nếu sau một thời gian nghị định bị quên thì CSGT sẽ kiểm soát lỏng lẻo hơn, khi đó lại tiếp tục trốn mua bảo hiểm TNDS. Hiện nay số lượng người sử dụng xe máy còn rất nhiều người chưa thực hiện nghĩa vụ, vì vậy phối hợp với CSGT để tiến độ và mức độ kiểm tra của CSGT là không có thời gian gián đoạn, khi đó người điều khiển xe sẽ khó có điều kiện trốn hơn. Thiết nghĩ không cần thiết người điều khiển xe cơ giới vi phạm luật giao thông mới được phép kiểm tra giấy tờ, mà CSGT có thể kiểm tra bất ngờ để cho xác suất không thực hiện nghĩa vụ được ít. Như ta biết nhiều chủ xe luôn có quan niệm đi không vi phạm CSGT sẽ không dám bắt hỏi giấy tờ vì thế không cần phải mua bảo hiểm. Và nhiều người như vậy sẽ tăng lên số người trách thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Công tác đề phòng hạn chế tổn thất
Công tác đề phòng hạn chế tổn thất có một vị trí quan trọng. Nó không những ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình xã hội. Bởi tai nạn giao thông là mối quan tâm nhức nhối của toàn xã hội, tai nạn giao thông xảy ra gây ra những lo lắng, bất ổn trong cuộc sống và kinh doanh, gây ra sự bất ổn về tài chính và thu nhập, làm gián đoạn công việc kinh doanh cũng như sinh hoạt của mọi người. Khi tai nạn xảy ra cả người tham gia bảo hiểm, cơ quan chức năng cũng như công ty bảo hiểm đều bị ảnh hưởng. Vì vậy hạn chế những rủi ro xảy ra hoặc để giảm bớt mức độ thiệt hại do rủi ro gây ra các nhân, xã hội và cả công ty bảo hiểm phải thực hiện công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Công ty đã thực hiện khá tốt khâu đề phòng hạn chế tổn thất, để thực hiện tốt hơn nữa em xin đề xuất một số ý kiến sau:
Công ty cùng với ngành giao thông vận tải, giao thông công chính quan tâm đến đường sá, cầu cống, thường xuyên tiến hành tu bổ những đoạn đường xuống cấp, thường xuyên cải tạo, nâng cấp xây dựng mới kết cấu hạ tầng giao thông. Đây không phải là việc chính của công ty bảo hiểm, tuy nhiên để giảm được tai nạn, giảm số tiền bồi thường thì công ty nên phối hợp với các cấp, ngành có liên quan để phát triển cơ sở hạ tầng như rải đường bê tông, xây dựng thêm các loại biển báo và lắp đặt các loại đèn báo ở các nút giao thông quan trọng. Những đoạn đường vòng có vực thì cần phải xây dựng đường lánh nạn, rào chắn, bố trí các gương cầu lồi ở những chỗ nguy hiểm. Các đoạn đường khuất nên có phác họa đường phía trước để cảnh báo cho người lái hoặc đưa ra những khoảng tránh để cho lái xe tránh được sự cố xảy ra.
Hàng năm PJICO cần tiến hành đánh giá công tác an toàn, tìm ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tai nạn nhằm đề xuất những biện pháp ngăn ngừa những rủi ro này.
Phối hợp với cơ quan chức năng tăng cường các hình thức giáo dục pháp luật, đẩy mạnh và mở rộng phong trào “Toàn dân kiềm chế tai nạn giao thông đường bộ” để mọi người dân hưởng ứng và cam kết triệt để thực hiện an toàn giao thông, khi điều khiển phương tiện cơ giới phải đi đúng đường, không phóng nhanh, vượt ẩu, lạng lách…coi vấn đề an toàn giao thông là trách nhiệm là nghĩa vụ làm giảm tai nạn giao thông. Điều này thực hiện tốt sẽ giảm được rất lớn số tiền bồi thường cho công ty.
Nghiêm ngặt kiểm định kĩ thuật an toàn xe cơ giới:Công ty cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, tăng cường kiểm tra (định kì và đột xuất) các phương tiện không đưa vào khám định kì, kiên quyết đình chỉ hoạt động các đầu xe không đủ tiêu chuẩn an toàn và những trường hợp không có bằng lái, không đủ tuổi điều khiển xe cơ giới, đồng thời xử lí các hành vi vi phạm đối với các trường hợp xe khách quá tuổi hoạt động theo nghị định 92CP của Chính phủ, các xe vận tải nhỏ không đủ điều kiện hoạt động…công ty cũng nên yêu cầu các điểm cấp bằng lái xe có đào tạo chất lượng…
Việc kiểm định là của các cơ quan chức năng có liên quan tuy nhiên điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh doanh của công ty do đó công ty phải phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện kiểm tra xe tham gia bảo hiểm tại PJICO.
Hiện nay trên cả nước số lượng cầu, phà rất nhiều và số lượng hư yếu cũng nhiều. Nếu tai nạn xảy ra do nguyên nhân này sẽ gây ra nhiều thiệt hại rất lớn cả về người và tài sản. Do vậy công ty nên đề nghị với Chính phủ, xin kinh phí Nhà nước, hoặc phối hợp với các cấp ngành sửa chữa, nâng cấp cầu, xây dựng cầu vượt…
Các cơ quan chức năng cần quán triệt nghị định 36CP của Chính phủ về an toàn giao thông, tích cực xử phạt nghiêm minh đối với việc lấn lề đường buôn bán, họp chợ, tình trạng để nguyên vật liệu, phơi rơm rạ, nông sản, xây dựng nhà, lều, quán trái phép..gây ra tai nạn giao thông nguy hiểm.
Công ty nên đề nghị Nhà nước có những văn bản hướng dẫn thực hiện luật giao thông đường bộ. Thường xuyên liên tục tuyên truyền luật giao thông trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, đưa vào giảng dạy ở các trường học…
Chi phí trích hàng năm để đề phòng hạn chế tổn thất còn thấp, công ty cần chú trọng hơn nữa khâu này bởi lẽ chi phí đề phòng hạn chế tổn thất sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều so với số tiền phải bỏ ra để bồi thường thiệt hại, bởi lẽ chi phí này sẽ được phân bổ cho các năm sau nên tính ra một năm là nhỏ, bên cạnh đó cái lợi rất lớn là giảm tai nạn giao thông_cả nhà bảo hiểm và người điều khiển xe cơ giới không mất thời gian, tiền bạc và tinh thần…
Hiện nay theo báo cáo của UBATQG số vụ tai nạn có giảm, tuy nhiên trên thực tế cho thấy tai nạn vẫn còn diễn ra phức tạp và nhất là tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm của công ty vẫn còn cao. Bởi vì nhìn tổng quát thì số xe tham gia bảo hiểm trước đây chỉ có khoảng 10% - 20%, hiện nay theo nghị định 15/CP số xe tham gia bảo hiểm đã đạt tới 80%-90% làm cho số vụ tai nạn theo số tương đối có giảm tuy nhiên theo số tuyệt đối vẫn cao. Vì vậy công ty cần phải tăng cường các chi phí để đề phòng và hạn chế tổn thất
Công tác giám định - bồi thường
Đây là hai mắt xích nối liền nhau và cũng rất quan trọng ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Công tác giám định tốt, chính xác thì việc giải quyết bồi thường cho người tai nạn mới nhanh gọn, kịp thời nâng cao uy tín và hiệu quả kinh doanh cho công ty. Việc nâng cao chất lượng của khâu giám định bồi thường chính là nâng cao chất lượng của sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh.
Từ trước đến nay PJICO luôn luôn được xem là công ty giải quyết bồi thường nhanh gọn, uy tín. Tuy nhiên như phân tích tỷ lệ bồi thường trung bình trên 60% như trong thời gian qua như vậy là quá cao so với thị trường. Mặc dù hàng năm công ty đều trích chi phí để đề phòng hạn chế tổn thất mà bồi thường vẫn cao là điều cần phải xem xét lại.
Nghị định 15/2003/NĐ-CP của Chính phủ ra đời và có hiệu lực, số người tham gia bảo hiểm TNDS tăng lên một cách đột biến. Trước ngày 15/3/2003 công ty vẫn bán bảo hiểm với mức phí thấp như trước đây (64.000 đồng mức trách nhiệm 12 triệu đồng/người,30 triệu đồng/tài sản, 10 triệu đồng cho người lái và người ngồi sau; 54.000 đồng mức trách nhiệm 12 triệu đồng/người,30 triệu đồng/tài sản, triệu đồng cho người lái và người ngồi sau). Nếu không mua bảo hiểm tai nạn lái xe và người ngồi thì mức phí chỉ là 54.000 đồng và 44.000 đồng.
Sau ngày 15/3/2003 công ty đã tăng mức phí theo biểu phí của Bộ Tài Chính là 70.000 đồng (mức trách nhiệm 15 triệu đồng/người, 80triệu đồng/tài sản, 10 triệu đồng cho người lái và người ngồi sau). Như vậy là mức phí chỉ tăng lên rất ít (6.000 đồng) nhưng mức trách nhiệm của công ty lại tăng lên rất lớn, hiện nay số xe đưa vào lưu hành ngày càng tăng, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, tình hình tai nạn giao thông ngày càng gia tăng do đó rủi ro thuộc trách nhiệm của công ty sẽ rất lớn.
Nghị định ra đời ban đầu đã mang lại cho công ty số lượng xe tham gia bảo hiểm rất lớn nhưng nếu tình hình tai nạn vẫn gia tăng thì hậu quả của việc nghị định ra đời cũng raats phức tạp. Mặt khác nếu khâu bồi thường làm không tốt thì uy tín của công ty sẽ bị sụt giảm một cách đáng kể.
Do đó để thực hiện tốt hơn nữa khâu giám định bồi thường trong nghiệp vụ, em xin đóng góp một số ý kiến như sau:
Tăng cường chi phí cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất để giảm tối đa số vụ tai nạn giao thông đường bộ. Bởi lẽ trong giai đoạn vừa qua tai nạn tăng lên rất lớn, tỷ lệ bồi thường là khá cao. Hiện nay chủ xe cơ giới tham gia giao thông với phí rất thấp, nhưng mức bồi thường của nhà bảo hiểm khá cao, nhà bảo hiểm bán chung bảo hiểm tai nạn người ngồi và người lái với BHTNDS nên nếu tai nạn xảy ra thì tổn thất cho công ty sẽ rất lớn. Khi nghị định 15CP có hiệu lực, số người mua bảo hiểm TNDS tăng lên rất lớn, nhìn về bề nổi có vẻ như hiệu lực của nghị định là rất tốt, người tham gia bảo hiểm đã rất có ý thức trong việc thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên đằng sau đó là cả một vấn đề: Người tham gia bảo hiểm đa số là tham gia để CSGT không hỏi đến, thực sự người tham gia không nghĩ đến nhận tiền bồi thường, bởi lẽ họ nghi ngại nhiều điều như là khi tai nạn xảy ra chờ cơ quan giám định đến rất mất thời gian, thủ tục làm hồ sơ bồi thường rắc rối, phức tạp, thời gian đòi được tiền bồi thường lâu, chi phí để đòi được có khi lớn hơn số tiền bồi thường đó. Vì vậy để cạnh tranh được với các công ty bảo hiểm khác, lôi kéo và giữ khách hàng tái tục hợp đồng, làm cho khách hàng thấy tin cậy vào công ty, thấy được tham gia bảo hiểm là trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ họ sẽ thực hiện bảo hiểm bắt buộc một cách tự giác và khi đó hiệu lực của Nghị định không vô hiệu hóa sớm như một số quy định trước đây của Nhà Nước. Công ty phải thực hiện tốt khâu bồi thường cho khách hàng, giảm thủ tục hồ sơ rườm rà.
Đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty về bộ phận giám định bồi thường cần phải được tuyển chọn và tiến hành sàng lọc kỹ hơn. Tuyển chọn những người hiểu biết về kỹ thuật, nắm vững giá cả thị trường. Ngoài ra nhân viên giám định phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, có lập trường, tư tưởng vững vàng, có tính quyết đoán, biết phát hiện và hạn chế trục lợi bảo hiểm.
Khi giám định bồi thường cán bộ giám định phải chuẩn bị trước đầy đủ hồ sơ, tài liệu, dụng cụ máy móc, trang thiết bị cần thiết khi được báo có tai nạn thuộc trách nhiệm của công ty là phải kịp thời có mặt. Làm tốt khâu này sẽ tạo được những hình ảnh tốt đẹp về công ty. Cán bộ giám định hướng dẫn cho người thứ ba làm những thủ tục cần thiết với thái độ nhẹ nhàng, thân thiện.
Trong quá trình giám định phải có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan an ninh, giám định nhanh chóng ngay sau khi tai nạn xảy ra để tránh cho khách hàng những rắc rối không đáng có cũng như không có cơ hội trục lợi bảo hiểm.
Công ty nên phối hợp với khách hàng giải quyết mâu thuẫn với người thứ ba. Khi được thông báo có tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm của công ty cán bộ nhân viên cảu công ty cần có mặt kịp thời để giải quyết mâu thuẫn, làm tốt điều này sẽ nâng cao uy tín cho công ty từ đó khách hàng sẽ tái tục hợp đồng một cách tự nguyện vì họ sẽ thấy được tham gia bảo hiểm là có lợi cho tất cả các bên.
Nếu khi tai nạn không thuộc những phạm vi bảo hiểm của công ty, cán bộ nhân viên của công ty không nên có thái độ hờ hững, không có trách nhiệm. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của công ty, bởi lẽ khách hàng luôn luôn có tính nghi ngờ, nhiều khi chính họ kí hợp đồng mua bảo hiểm nhưng lại không hiểu hết các chi tiết, nhất là bảo hiểm TNDS. Hợp đồng chỉ là một tờ giấy chứng nhận ghi thông tin rất ít. Vì vậy cán bộ của công ty phải tìm cách thăm hỏi người bị nạn và giải thích cho gia đình khách hàng về phạm vi được bảo hiểm hay không được bảo hiểm. Đồng thời công ty cũng nên linh hoạt xem xét xem có thể hỗ trợ một phần kinh phí cho khách hàng của mình nhằm khắc phục hậu quả tai nạn, nhằm nâng cao tính nhân đạo, uy tín và hình ảnh của công ty cho khách hàng.
Công ty nên in quy tắc bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba để phát cho người tham gia khi kí kết hợp đồng bảo hiểm, bởi như thực tế khách hàng chưa hiểu gì về nghiệp vụ, nhiều người còn có quan niệm mua bảo hiểm xong là có thể đâm va thoải mái, trong mọi trường hợp đều có thể được công ty bồi thường.
Công ty có các chi nhánh và văn phòng khắp cả nước, nên theo em trong khâu bồi thường, công ty cũng nên phân cấp cho các văn phòng, chi nhánh được bồi thường. Bởi lẽ khách hàng mua bảo hiểm một nơi khi tai nạn xảy ra lại làm thủ tục nhận tiền bồi thườngmột nơi khác, điều này tạo ra tâm lí e ngại và lo sợ cho khách hàng.
Về giấy chứng nhận bảo hiểm: thực tế trong thời gian qua theo em công ty còn có thiếu sót đó là địa chỉ và số điện thoại liên hệ của công ty. Thiết nghĩ đây là những tiêu chí quan trọng để lấy niềm tin của khách hàng thì tại sao không in sẵn số điện thoại và địa chỉ của công ty lên tờ giấy chứng nhận bảo hiểm. Theo quan niệm của cán bộ công ty_đấy không phải là thiếu sót mà là chủ ý của công ty, để khi các phòng ban chi nhánh giao dịch bảo hiểm với khách hàng thì ghi thêm địa chỉ và số điện thoại vào. Nhưng theo em điều này không khả thi vì nhiều khi cán bộ bảo hiểm sẽ không nhớ đến việc này. Và khi đó nếu tai nạn xảy ra thì người tham gia không thể liên lạc được. Số điện thoại và địa chỉ phải được in ngay ở đầu nơi in tên công ty bảo hiểm, bởi lẽ một công ty có tư cách pháp nhân là công ty có trụ sở chính, số điện thoại để giao dịch,làm như vậy mới tạo được uy tín và xây dựng niềm tin của khách hàng.
4.Về công tác phòng chống gian lận bảo hiểm
Kiến nghị đối với Nhà nước
Trước tiên phải đề cập đến định hướng khắc phục mang tính chất vĩ mô với sự điều tiết của Nhà nước đó là phải làm lành mạnh hóa thị trường bảo hiểm Việt Nam. Hiện nay hệ thống pháp luật về bảo hiểm đã có những bước tiến quan trọng (luật kinh doanh bảo hiểm 2000) nhưng chưa tạo được môi trường pháp lí toàn diện đầy đủ. Vì vậy để làm lành mạnh thị trường Nhà nước phải đưa ra hành lang pháp lí hoàn chỉnh hơn trong việc nâng cao vai trò quản lí của Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Luật bảo hiểm ra đời nhưng chưa đề cập đến trục lợi bảo hiểm, xử lí hành vi trục lợi bảo hiểm. Đối tượng trục lợi bảo hiểm là loại tội phạm rất tinh vi nhưng Nhà nước và xã hội chưa nhìn nhận đó là một loại tội phạm. Vì vậy Nhà nước nên có văn bản quy định tội danh này và phải quy định số tiền trục lợi bao nhiêu thì mức xử phạt như thế nào về hành chính và xử phạt tù.
Bộ công an là cơ quan có hoạt động gắn bó mật thiết với cơ quan bảo hiểm nhất, do đó bộ công an phải là người tiên phong trong việc chống trục lợi bảo hiểm.
Phương tiện truyền thông, truyền hình, báo chí, mạng máy tính là phương tiện rất hữu hiệu để thông tin và phản ảnh bộc lộ những tên trục lợi bảo hiểm làm lợi riêng cho bản thân.
Kiến nghị với PJICO
Công ty cần tiếp tục mở rộng tăng cường quan hệ không chỉ với những phòng, chi nhánh của công ty mà phải quan hệ với các công ty bảo hiểm khác, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với các cơ quan công an, y tế để phối hợp tìm ra thủ phạm trục lợ bảo hiểm.
Thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở, hướng dẫn phòng giám định bồi thường tuân thủ chặt chẽ quy trình nghiệp vụ, nắm vững các hình thức trục lợi bảo hiểm, xử lí nghiêm minh và thẳng tay sa thải cán bộ tiếp tay cho hành vi gian lận bảo hiểm.
Công ty phải quản lí chặt chẽ ấn chỉ, lập hồ sơ theo dõi việc xuất dùng ấn chỉ. ấn chỉ dùng không hết phải nhập lại và ghi đầy đủ. Mỗi phòng phải có một cán bộ quản lí ấn chỉ, số lượng ấn chỉ giao cho đại lí phải hợp lí, đầy đủ. Tuân thủ quy định quyết toán và thanh toán ấn chỉ trong ngày. Khi nhận ấn chỉ từ đại lí phải xem xét thời gian quyết toán và thời gian cấp để chống hiện tượng ghi lùi ngày để trục lợi.
5. Hoàn thiện hệ thống pháp lí
Ngay từ khi nghiệp vụ BHTNDS ra đời đã có nhiều văn bản pháp lí của Nhà nước quy định hướng dẫn thi hành. Nhưng theo thời gian các văn bản ấy đều phải thay thế bằng các văn bản khác hoàn chỉnh hơn.
Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 ra đời tạo ra nhiều thuận lợi hơn cho kinh doanh bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ BHTNDS đối với người thứ ba nói riêng. Tuy nhiên để kinh doanh tốt hơn, Nhà nước cần:
Ban hành những văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết thực hiện luật.
Nâng cao vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Có các quy định cụ thể chi tiết đưa đến cho người dân một cách dễ hiểu nhất.
Gần đây nhất nghị định 15/2003/NĐ-CP ra đời bước đầu đã thấy kết quả khả quan. Tuy nhiên văn bản nào ra đời cũng có hiệu lực thời gian này nhưng thời gian khác lại không hiệu quả. Vì vậy nghị định 15CP, 36CP..cần phải được hoàn thiện thường xuyên, phải áp dụng và đưa đến cho người dân một cách dễ hiểu nhất.
Cảnh sát giao thông quy định xử phạt người điều khiển xe cơ giới thiếu giấy chứng nhận bảo hiểm phải thực hiện thường xuyên, triệt để. Thường xuyên phải kiểm tra và xử phạt theo đúng luật không như quy định về đội mũ bảo hiểm xe máy chỉ diễn ra trong thời gian rất gắn và đến bây giờ hầu như không xử phạt.Tuy nhiên để một văn bản có thể tồn tại và có hiệu lực lâu dài thị cả Nhà nước, các cơ quan và mọi người dân đều phải thường xuyên tuân thủ và áp dụng.
Kết luận
Bảo hiểm là tâm lá chắn cuối cùng về kinh tế trước những hiểm họa xảy ra trong cuộc sống. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là nghiệp vụ có ý nghĩa thiết thực trong việc ổn định tài chính cho người tham gia, đồng thời làm giảm gánh nặng cho cộng đồng, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Để mở rộng và phát huy hơn nữa hiệu quả nghiệp vụ trong điều kiện cạnh tranh hiện nay PJICO cần chủ động sáng tạo, phát huy những thế mạnh của mình, từng bước khẳng định vị thế trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Hi vọng rằng thực hiện theo nghị định 15/2003/nđ-cp của Chính phủ nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới ngày càng phát triển và phát triển một cách bền vững. Với những kết quả đạt được chúng ta tin tưởng rằng trong những năm tiếp theo PJICO sẽ phát huy được nội lực và tiềm năng sẵn có góp phần vào việc hoàn thiện, mở rộng thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình kinh tế bảo hiểmTrường Đại học Kinh tế Quốc dân
2.Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm. Trường đại học Kinh tế quốc dân.
Tạp chí giao thông vận tải tháng 4/2001, 4/2002, 8/2002 , 12/2002 ,
Quy tắc bảo hiểm kết hợp xe cơ giới của PJICO
Tạp chí bảo hiểm .
Giáo trình kinh tế bảo hiểm. Trường ĐHTài Chính Kế Toán.
Sách Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành- David Bland
phướng hướng nhiệm vụ năm 2002 của PJICO.
9. Báo nhân dân số 13/2003
10. Nghị định số 15/2003/NĐ-CP của Chính phủ ra đời ngày 19/2/2003
Lời mở đầu 1
Chương I 3
Một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 3
I. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 3
1. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam và vai trò của BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. 3
2. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 7
2.1. Đối với chủ xe 7
2.2. Đối với người thứ ba 7
3.3. Đối với xã hội: 7
3. Đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. 8
3.1. Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng 8
3.2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được thực hiện dưới hình thức bắt buộc. 8
3.3. Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới có áp dụng giới hạn trách nhiệm 9
II. Nội dung bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 10
1. Khái niệm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ ba. 10
2. Đối tượng bảo hiểm 10
3. Phạm vi bảo hiểm 12
4. Phí bảo hiểm và phương pháp tính phí 13
4.1. Phí bảo hiểm 13
4.2. Phương pháp tính phí 14
Bảng1: Biểu phí BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba (Ban hành kèm theo Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC) Đơn vị: VND 17
III. Hợp đồng bảo hiểm 18
1. Hợp đồng bảo hiểm 18
2. Hiệu lực bảo hiểm. 18
3. Chuyển quyền sở hữu. 18
4. Hủy bỏ hợp đồng. 19
5. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên trong hợp đồng bảo hiểm. 19
5.1. Trách nhiệm và quyền lợi của chủ xe cơ giới 19
5.1.1. Trách nhiệm của chủ xe cơ giới 19
5.1.2. Quyền lợi của chủ xe cơ giới 20
5.2. Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm 20
5.2.1. Trách nhiêm của doanh nghiệp bảo hiểm 20
5.2.2. Quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm 21
IV. Giám định tổn thất và giải quyết bồi thường 21
1. Giám định tổn thất 21
2. Bồi thường 22
2.1. Hồ sơ yêu cầu bồi thường 22
2.2. Thủ tục yêu cầu bồi thường 23
V. Giải quyết tranh chấp 25
1. Thời hạn yêu cầu, thanh toán và khiếu nại bồi thường 25
2. Giải quyết tranh chấp 25
Chương II 26
Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 1998-2002 26
i. Vài nét về công ty bảo hiểm petrolimex(PJICO) 26
1. Quá trình hình thành và phát triển 26
2. Các nghiệp vụ bảo hiểm công ty đang triển khai 28
3. Cơ cấu tổ chức của công ty 28
Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động công ty PJICO 29
4. Tình hình kinh doanh của PJICO giai đoạn 1998-2002 30
4.1. Kinh doanh bảo hiểm 30
4.2. Kinh doanh tái bảo hiểm 32
4.3. Hoạt động đầu tư 33
4.4.Các hoạt động khác 35
4.5 . Công tác bồi thường 35
Bảng 3: Tình hình bồi thường của PJICO 1998-2002 36
4.6. Kết quả kinh doanh toàn công ty giai đoạn 1998- 2002 38
Bảng4: Lợi nhuận kinh doanh của PJICO 1998-2002 38
II. Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại pjico. 39
1. Khâu khai thác bảo hiểm . 39
Bước1: Lập kế hoạch khai thác 40
Bước 2: Thực hiện các biện pháp hỗ trợ trong khâu khai thác 40
Bước 3:Tiến hành khai thác: 41
Bước 4: Đánh giá kết quả khai thác. 41
Bảng 5: Tình hình tham gia BHTNDS tại PJICO giai đoạn 1998-2002 42
Bảng 6: Doanh thu phí bảo hiểm TNDS 47
Bảng7: Doanh thu phí theo cơ cấu xe. 49
Bảng 8: Hiệu quả khai thác bảo hiểm TNDS giai đoạn 1998- 2002. 50
2.Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 51
Bảng9: Tình hình chi đề phòng hạn chế tổn thất của PJICO 1998 –2002 52
3. Công tác giám định và bồi thường. 53
Bảng 10: Chi bồi thường BHTNDS của chủ xe đối với người thứ ba 55
Bảng 11: Tình hình trục lợi bảo hiểm TNDS giai đoạn 1998 – 2002. 57
4. Dịch vụ khách hàng 58
iii. Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bh TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại pjico (1998- 2002) 59
Bảng12 : Kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ BHTNDS. 60
IV. Các vấn đề vướng mắc liên quan đến việc thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3 theo nghị định 15/2003/nđ-cp của chính phủ 63
Chương III 66
Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt hiện nghiệp vụ bhtnds của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba theo nghị định 15/2003/nđ-cp của chính phủ tại pjico 66
I. Thuận lợi và khó khăn của công ty 66
1. Thuận lợi 66
2. Khó khăn 67
III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao tính bắt buộc đối với nghiệp vụ BHTNDS theo nghị định 15/ NĐ-CP/2003 68
1. Về công tác khai thác 68
2. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất 71
3. Công tác giám định - bồi thường 74
4.Về công tác phòng chống gian lận bảo hiểm 78
5. Hoàn thiện hệ thống pháp lí 79
Kết luận 80
Tài liệu tham khảo 81
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0002.doc