Nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại Công ty bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIC)

MỤC LỤC CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN 29 I. Khái quát chung về công ty 29 1. Quá trình hình thành và phát triển. 29 3. Cơ cấu tổ chức 33 3. Danh mục sản phẩm bảo hiểm. 35 4. Kết quả kinh doanh bảo hiểm 37 4.1. Kết quả chung. 37 4.2.Một số kết quả cụ thể: 39 4.3.Đánh giá chung 41 II. Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. 43 1. Những thuận lợi, kh

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại Công ty bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIC), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó khăn. 43 1.1.Thuận lợi. 43 1.2.Khó khăn. 44 2. Công tác khai thác bảo hiểm. 48 2.1. Quy trình khai thác bảo hiểm. 48 2.1.1.Tiếp cận khách hàng 48 2.1.2 Đánh giá các yếu tố liên quan đến việc xác định phí. 49 2.1.3. Chào phí bảo hiểm và hoàn thiện hồ sơ 53 2.1.4 Hồ sơ hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn 54 2.2.Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 56 2.2.1.Doanh thu, số tiền bảo hiểm, số lượng hợp đồng phát hành. 56 2.2.2.Chi phí khai thác 57 2.2.3.Công tác đề phòng hạn chế tổn thất 58 2.2.4.Công tác giám định bồi thường. 59 2.2.5. Kết quả và hiệu quả kinh doanh. 59 CHƯƠNG III:MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT 61 I. Định hướng phát triển. 61 II. Kiến nghị. 62 1.Nâng cao chất lượng công tác khai thác 62 2. Đẩy mạnh công tác đề phòng hạn chế rủi ro và tổn thất 64 3.Giảm thiểu chi phí của nghiệp vụ. 65 4.Thực hiện việc giữ khách hàng cũ và tìm kiếm khách hàng mới. 65 5.Mở rộng mạng lưới đại lý, cộng tác viên. 66 6. Tuyên truyền, quảng bá về công ty, về nghiệp vụ 67 KẾT LUẬN 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO 69 LỜI MỞ ĐẦU Trong cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày, con người mặc dù đã luôn đề phòng và ngăn ngừa nhưng vẫn có nguy cơ gặp phải rủi ro bất ngờ, gây ra sự bất ổn định trong cuộc sống cũng như kinh doanh.Ngoài các rủi ro thiên nhiên còn các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật và nền kinh tế càng phát triển thì hậu quả của rủi ro kỹ thuật càng nặng nề và khó lường trước được, trong đó có rủi ro hoả hoạn. Nguyên nhân gây ra hoả hoạn hết sức đa dạng, hậu quả để lại có thể là nhỏ chỉ tác động đến một vài cá nhân, đôi khi có tính thảm hoạ, ảnh hưởng sâu rộng đến toàn xã hội. Để đối phó với hoả hoạn, con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp khác nhau như: các biện pháp phòng cháy chữa cháy, đào tạo nâng cao trình độ kiến thức và ý thức, thông tin tuyên truyền về phòng cháy chữa cháy.Tuy nhiên để đối phó với hậu quả do cháy gây ra thì bảo hiểm vẫn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn ra đời và phát triển đã mở rộng thành bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng và ngày càng cao từ cac cá nhân và tổ chức trong xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, trong thời gian thực tập tại công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát Triển, em đã chọn đề tài: “Nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển” để nghiên cứu. Trong thời gian thực tập tại công ty bảo hiểm Ngân hang Đầu Tư và Phát Triển, các anh chị tại phòng kinh doanh chi nhánh Hà Nội đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em, cùng với sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của cô giáo TS. Phạm Thị Định. Do thời gian và mức độ hiểu biết có hạn bài viết chắc chắn còn nhiều thiếu xót. Kính mong nhận được sự đánh giá và góp ý bổ sung từ phía thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT I.Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 1. Sự cần thiết của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, loài người luôn phải đối mặt với biết bao rủi ro, tai ương như động đất núi lửa, bão, bạo loạn, chiến tranh, trong đó cháy được coi là một trong những rủi ro nguy hiểm nhất Từ thời các Hoàng đế La Mã trị vì đã biết sử dụng một hệ thống phòng cháy hữu hiệu mà đến thời Trung đại rồi Phục hưng ở Châu Âu hầu như vẫn sử dụng. Ở các thành phố và thị trấn, nhà nào cũng phải dự trữ các xô đầy nước, vào ban đêm có đội tuần tra đi dọc các thành phố để nhắc nhở chủ nhà nếu thấy nhà nào có nguy cơ cháy. Khi hoả hoạn xảy ra gây thiệt hại, người bị hại nếu là hội viên của phường hội thì sẽ được phường hội giúp đỡ. Phường hội kiểu này do các nhà buôn thành phố Rowen(Pháp) thành lập năm 1374 trong nhà thờ Saint Patree. Có thể coi đây là hình thức bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên, khoản trợ giúp này không phải là một khoản bồi hoàn thực sự, chỉ mang tính chất tương trợ lẫn nhau Đến năm 1591, ở Đức hiệp hội bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ra đời có tên là Feuer Casse. Sau đó một thời gian, xuất hiện thêm vài tổ chức nữa.Năm 1666, ở thủ đô Lôn Đôn đã xảy ra vụ đám cháy khủng khiếp kéo dài 7 ngày 8 đêm, thiêu cháy 13200 ngôi nhà, 87 nhà thờ và rất nhiều tài sản có giá trị khác. Xảy ra thảm hoạ này đã khiến các nhà kinh doanh ở Anh nghĩ đến việc cộng đồng chia sẻ rủi ro. Một người Anh tên là Nicolas Bavbon đã bắt đầu nhận bảo hiểm hoả hoạn cho các ngôi nhà xây dựng lại. Ban đầu công ty của ông hoạt động theo hình thức công ty tư nhân nhưng đến 1680, chuyển thành công ty cổ phần và có tên gọi là The Fire office. Tiếp theo đó một số công ty cũng ra đời: Hand in hand năm 1696, Sun Fire office 1710, Union(1714) v…v.Từ đó dần dần lan rộng ra khắp Châu Âu. Ở Mỹ, công ty bảo hiểm đầu tiên về hoả hoạn được thành lập có tên là The Philadenphia Contribution ship. Đây là công ty baỏ hiểm tương hỗ chuyên bảo hiểm cháy cho nhà cửa do Benjamin Franklin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752. Ngày nay, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đã được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển. Ở Việt Nam, năm 1964 công ty bảo hiểm đầu tiên là Bảo Việt được thành lập nhưng phải đến năm 1989, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn mới được triển khai theo quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/01/1989 của Bộ Tài Chính Thực hiện được một thời gian, để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, Bộ tài chính đã có quyết định số 142/TCQĐ về quy tắc và biểu phí mới, quyết định 212/TCQĐ ngày 12/04/1993 ban hành biểu phí hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt với mức phí tối đa thay cho biểu phí hoả hoạn theo quyết định số 142/TCQĐ. Có thể nói đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho Bảo Việt cũng như các công ty khác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và phát triển nghiệp vụ rộng khắp. Năm 1990, đã có 16 công ty baỏ hiểm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn với giá trị bảo hiểm lên đến 6200 tỷ đồng. Đến năm 1994, bảo hiểm hoả hoạn được tiến hành ở hầu hết các tỉnh, thành phố với tổng giá trị tham gia bảo hiểm lên tới 27000 tỷ đồng. Sau khi Bảo Việt triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy năm 1989 đến năm 1994-1995 nhiều công ty bảo hiểm phi nhân thọ cũng đã ra đời như Bảo Long, Bảo Minh, PJICO v..v làm cho thị trường bảo hiểm của nước ta nói chung và thị trường nghiệp vun bảo hiểm hoả hoạn nói riêng bắt đầu phát triển sôi động. Đến năm 1998, nghiệp vụ đã được nhiều khách hàng biết đến, doanh thu của toàn thị trường bắt đầu tăng từ 11719000 USD lên đến 14266000 USD. Có thể nói nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn đã được triển khai ngày càng rộng khắp tới từng người dân và các doanh nghiệp, đáp ứng tốt nhu cầu của nền kinh tế và xã hội, củng cố vững chắc vị trí quan trọng của mình trong cơ cấu chung của ngành bảo hiểm Việt Nam. Hoả hoạn là rủi ro mang tính thảm hoạ mà hậu quả của nó gây ra rất nặng nề, việc khắc phục nó đòi hỏi phải có nguồn tài chính khổng lồ. Hàng năm trên thế giới, theo số liệu thống kê được có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn nhỏ, gây thiệt hại khoảng 600 triệu USD, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. Ở Việt Nam, các vụ cháy xảy ra nhiều, gây thiệt hại không nhỏ, đặc biệt tại các khu vực kinh tế phát triển như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh v..v.. Trong vòng 30 năm , từ 4/10/1961 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phòng cháy chữa cháy đến 4/10/1991 đã xảy ra 566.036 vụ cháy lớn nhỏ gây thiệt hại về vật chất ước tính 948 tỷ đồng, làm chết 2574 người. Từ năm 1992-1993, cả nước có 1710 vụ cháy, làm chết 213 người, làm bị thương 348 người, ước tính thiệt hại 114,746 tỷ đồng. Giai đoạn 1996-2003, xảy ra 8015 vụ cháy, gây thiệt hại trên 1000 tỷ đồng, tỷ lệ các vụ cháy lớn là 2,47%, thiệt hại lên tới 67,25% tổng thiệt hại.Năm 1997, cả nước có khoảng 58 vụ cháy chợ, trong đó có 4 vụ cháy lớn xảy ra ở Hà Nội, Nam Định, thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang. Trong những năm gần đây nước ta liên tiếp xảy ra nhiều vụ cháy lớn để lại hậu quả nặng nề: - Ngày 4/7/1996 vụ cháy ở chợ Đồng Xuân, gây thiệt hại 140 tỷ đồng, 2364 hộ kinh doanh và hàng chục nghìn đại lý, khung chợ bị thiệt hại, cuộc sống lâm vào tình trạng khó khăn và bị xáo trộn. - Ngày 18/11/1996 công ty giày Thái Bình ở Sông Bé cháy, thiệt hại khoảng 7 tỷ đồng. - Ngày 26/6/1996 xảy ra vụ cháy kinh hoàng do sét gây ra là vụ cháy xăng dầu ở 131- Thuỷ Nguyên- Hải Phòng, gây thiệt hại 31 tỷ đồng. - Năm 2002, vụ cháy rừng UMinh kéo dài hàng tháng, đã gây thiệt hại rất lớn về kinh tế và ảnh hưởng đến môi trường cảnh quan toàn khu vực, vụ cháy nhà máy toàn lực- Viễn Đông với số tiền bồi thường ước tính đến 28 tỷ đồng, vụ cháy tại trung tâm thương mại quốc tế ITC ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 29/10/2002 với số tiền bồi thường khoảng 12,5 tỷ đồng. - Ngày 01/04/2003 xảy ra vụ cháy tại công ty Interfood, thiệt hại về vật chất lên tới 70 tỷ đồng, số tiền bồi thường rất lớn khoảng 4,6 triệu USD. - Ngày 27/03/2004 vụ cháy công ty sản xuất giầy Khải Hoàn thiệt hại ước tính 50 tỷ đồng. - Ngày 21/2/2005 một vụ cháy lớn xảy ra tại dãy nhà ven kênh Tẻ đường Trần Xuân Soạn, thành phố Hồ Chí Minh làm cho 16 căn nhà bị thiêu rụi và đứt đường dây hạ điện thế, gây mất điện toàn khu vực. Như vậy, thiệt hại do cháy gây ra rất nghiêm trọng, ảnh hưởng không chỉ đến cuộc sống của một vài cá nhân mà còn tác động mạnh đến cả một cộng đồng dân cư, môi trường, khí hậu. Vì vậy cần phải có biện pháp hữu hiệu để hạn chế thiệt hại. Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng thì các phương tiện và phòng cháy chữa cháy cũng được cải tiến và đổi mới.Tuy nhiên sự phát triển của khoa học công nghệ về an toàn thường chậm hơn so với kỹ thuật công nghệ trong sản xuất và nguồn vốn đầu tư vào công tác đảm bảo an toàn thấp hơn so với đầu tư phát triển. Vì thế, ngày càng có nhiều vụ hoả hoạn có thiệt hại hơn, nguyên nhân xảy ra hoả hoạn cũng khó lường hơn trước, trong đó có cả nguyên nhân xuất phát từ mặt trái của công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, trái đất đang ngày càng nóng lên do lượng chất thải vào bầu khí quyển lớn gây nên hiệu ứng nhà kính, từ đó gây nên sự biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu, làm cho rủi ro hoả hoạn ngày càng cao. Thực tế cho thấy xảy ra những vụ cháy rừng lớn trên diện rộng, gây tổn thất lớn ở Inđônêxia, Malaixia và cả ở Việt Nam trong những năm gần đây mà nguyên nhân được xác định là do hạn hán.Có thể nói, hàng vạn ha rừng bị cháy gây thiệt hại về vật chất lên tới hàng tỷ USD, gây hậu quả nặng nề về môi trường. Cùng với sự phát triển của xã hội, giá trị tài sản trong sản xuất và sinh hoạt càng lớn. Nếu rủi ro xảy ra, các tổ chức, cá nhân phải đương đầu với nhiều khó khăn về tài chính và có thể bị phá sản. Khi họ tham gia bảo hiểm hoả hoạn, nếu rủi ro xảy ra họ có thể giảm thiểu được rủi ro , nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất và hoạt động trở lại Xuất phát từ nhu cầu thực tế là đảm bảo an toàn cho cuộc sống cũng như giảm thiểu thiệt hại khi rủi ro xảy ra thì bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thật sự cần thiết và đóng vai trò quan trọng 2.Tác dụng của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Bảo hiểm hoả hoạn là một loại hình bảo hiểm tài sản, trong đó đối tượng được bảo hiểm có giá trị bảo hiểm thường rất lớn.Từ khi ra đời cho đến nay vai trò của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt(gọi tắt là bảo hiểm hoả hoạn) luôn được đề cao và có tác dụng rất lớn. Thứ nhất, đó là bảo hiểm hoả hoạn góp phần khắc phục tổn thất từ đó góp phần ổn định cuộc sống sản xuất và sinh hoạt của con người. Đối với các cá nhân, hộ gia đình giá trị tài sản đều nằm trong phạm vi ngôi nhà của họ. Tỷ lệ xảy ra hoả hoạn ở các hộ dân cư khá cao chiếm khoảng 70,1% số vụ cháy, vì vậy khi hoả hoạn xảy ra thì họ sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn trong cuộc sống Ở các doanh nghiệp, quy mô sản xuất càng mở rộng, giá trị tài sản của doanh nghiệp càng lớn. Giá trị tài sản càng lớn thì khi rủi ro xảy ra họ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn về tài chính, gián đoạn sản xuất kinh doanh trong thời gian dài, trường hợp xấu nhất là phá sản, ảnh hưởng đến cả nhiều doanh nghiệp và cá nhân khác có liên quan. Việc tham gia bảo hiểm hoả hoạn cho những tài sản của mình với việc đóng góp một khoản phí có tỷ lệ nhỏ, các cá nhân và doanh nghiệp nhận được cam kết bồi thường từ phía các công ty bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra.Thông qua việc bồi thường nhanh chóng, chính xác, kịp thời bảo hiểm sẽ giúp các cá nhân và doanh nghiệp ổn định cuộc sống và tình hình sản xuất. Có thể nói bảo hiểm là lá chắn kinh tế hữu hiệu để đảm bảo vốn cho các doanh nghiệp khi không may xảy ra sự cố bảo hiểm, từ đó họ yên tâm tiến hành sản xuất kinh doanh và mở rộng đầu tư, góp phần tăng trưởng kinh tế , xã hội . Bảo hiểm hoả hoạn chính là chỗ dựa tinh thần cho mọi người , mọi tổ chức, giúp họ yên tâm trong cuộc sống và sản xuất, góp phần ổn định xã hội, làm cho xã hội tốt đẹp và yên bình hơn. Hậu quả của rủi ro hoả hoạn sẽ gây khó khăn về tài chính, kinh doanh bị gián đoạn, phá sản…dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng do nhà máy đóng cửa, đình công, bạo loạn gây mất ổn định xã hội. Do đó, nó đã và đang góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Thứ hai, bảo hiểm hoả hoạn góp phần tích cực vào công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Phòng cháy bao giờ cũng hơn là chữa cháy. Tham gia bảo hiểm hoả hoạn cũng đồng thời thực hiện những biện pháp phòng cháy, chữa cháy hữu hiệu nhất. Hoả hoạn có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, rất khó kiểm soát, đặc biệt là nguyên nhân của hoả hoạn thì rất nhiều. Trong quá trình bảo hiểm, các công ty bảo hiểm rất quan tâm đến công tác quản trị rủi ro. Các công ty phối hợp với khách hàng thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất : Tổ chức tập huấn về phòng cháy, chữa cháy, hỗ trợ khách hàng trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy…Để làm tốt công tác này, công ty bảo hiểm có những cán bộ chuyên môn giỏi về đánh giá và quản lí rủi ro và dành cho công tác này một khoản kinh phí đáng kể. Bên cạnh đó, công ty cũng trích một phần phí thu được để thực hiện các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả như: thường xuyên thống kê tình hình tai nạn hàng năm, xác định các nguyên nhân gây tổn thất, đề ra các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất hữu hiệu nhất, đóng góp kinh phí cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy của nhà nước. Thứ ba, bảo hiểm hoả hoạn góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về công tác phòng cháy, chữa cháy và tham gia bảo hiểm. Khi triển khai các nghiệp vụ, công tác thống kê đóng vai trò rất quan trọng, vì có làm tốt công tác này thì việc tính toán tỉ lệ phí, tỷ lệ tổn thất, tỷ lệ bồi thường mới chính xác được. Qua thống kê bảo hiểm, số liệu về các vụ cháy trong quá khứ cũng như xác xuất xảy ra cháy … được thu thập đầy đủ và khoa học.Những tài liệu này có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của người dân về rủi ro này. Bên cạnh đó, các hoạt động quảng cáo, truyền thông, phổ biến kiến thức về phòng cháy chữa cháy và sự nguy hiểm của loại rủi ro này góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng. Thứ tư, bảo hiểm hoả hoạn mang lại lợi ích kinh tế - xã hội cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và nhà nước Khi nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn được thực hiện ngày càng mở rộng, khoản phí thu được từ khách hàng hình thành nên quỹ bảo hiểm hoả hoạn lớn.Các công ty bảo hiểm chỉ giữ lại một khoản tiền nhất định trong nguồn quỹ này để đảm bảo khả năng thanh toán, số còn lại sẽ được mang đi đầu tư sinh lợi. Các công ty đầu tư vào nhiều hạng mục khác nhau như: bất động sản, cổ phiếu, trái phiếu, gửi tiền ngân hàng…và lợi nhuận đầu tư thu được rất lớn, đôi khi còn lớn hơn lợi nhuận hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang lại. Khi mà nhận thức tham gia bảo hiểm cháy của người dân cang cao, nghiệp vụ này càng phát triển, góp phần tạo ra nguồn quỹ đầu tư dồi dào kích thích thị trường vốn phát triển. Doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo ra bàn tay vô hình thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hậu quả của hoả hoạn để lại thường rất nặng nề, số tiền để có thể khắc phục được hậu quả là rất lớn, không một tổ chức, cá nhân nào có khả năng gánh chịu mà phải viện tới sự trợ giúp từ ngân sách Nhà nước.Như vậy,bảo hiểm hoả hoạn góp phần giảm bớt gánh nặng của ngân sách quốc gia trong việc chi khắc phục hậu quả. Bảo hiểm hoả hoạn còn góp phần tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước. Nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn là nghiệp vụ mà đối tượng bảo hiểm có giá trị rất lớn và để đảm bảo khả năng thanh toán bồi thường, các công ty bảo hiểm phải tiến hành tái bảo hiểm. Như vậy, thị trường bảo hiểm hoả hoạn càng phát triển, càng có nhiều đơn tái bảo hiểm, từ đó mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Ngày nay, nền kinh tế đang được mở cửa, nước ta đã và đang thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ rất an tâm khi đầu tư vào Việt Nam vì các công ty bảo hiểm trong nước có đủ khả năng cung cấp các dịch vụ để bảo hiểm đối với lĩnh vực mà họ hoạt động. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy quá trình mở rộng phát triển kinh tế đối ngoại trong công cuộc xây dựng đất nước. Như vậy, lợi ích cả về kinh tế và xã hội mà bảo hiểm cháy mang lại cho xã hội là rất lớn và luôn được đánh giá cao. Xuất phát từ tầm quan trọng của bảo hiểm hoả hoạn, chính phủ nhiều nước quy định đây là bảo hiểm bắt buộc. Ở Việt Nam, điều 8 của luật kinh doanh bảo hiểm và điều 9 của luật phòng cháy chữa cháy cũng đã quy định bắt buộc cho nghiệp vụ này. II. Nội dung của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 1. Một số khái niệm. Trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có một số khái niệm thuật ngữ như sau: - Cháy: là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng. - Hoả hoạn: là cháy xảy ra không kiểm soát được, lửa không phải là lửa chuyên dùng, gây thiệt hại cho tài sản và con người ở xung quanh. - Sét : là tác động trực tiếp của tia chớp vào tài sản được bảo hiểm - Nổ : là hiện tượng cháy với tốc độ nhanh, toả ra nhiều sức nóng, sinh ra nhiều hơi, thường gây thiệt hại có tính cơ học cho môi trường xung quanh như phá huỷ, lật đổ, hay lan sang rất mạnh. - Đơn vị rủi ro: là một nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với khoảng cách không cho phép lửa cháy lan từ nhóm này sang nhóm khác. Đơn vị rủi ro có thể là một hay một nhóm ngôi nhà, hoặc kho hàng ngoài trời, cách nhau theo tiêu chuẩn: +Giữa các ngôi nhà hoặc kho bãi ngoài trời bằng vật liệu không cháy phải đảm bảo cách nhau tối thiểu 10m +Giữa các ngôi nhà hoặc kho bãi ngoài trời bằng vật liệu dễ cháy phải đảm bảo tối thiểu 20m Trên một tầng nhà, các phòng được ngăn chống cháy khi đảm bảo điều kiện: + Phòng đó có diện tích không lớn hơn 10% diện tích của cả tầng. + Được ngăn cách với các bộ phận khác của tầng nhà bằng tường chống cháy. + Trần làm vật liệu không cháy. - Tường ngăn cháy : là cấu trúc xây dựng để phân chia ngôi nhà hoặc kho ngoài trời thành nhiều đơn vị rủi ro khác nhau và để ngăn cho lửa không cháy lan giữa các đơn vị rủi ro. Tường ngăn cháy phải đáp ứng các yếu tố kỹ thuật sau: + Có giới hạn chịu lửa ít nhất là 90 phút + Phải chịu được nhiệt độ lớn hơn 10000C + Nếu là nhà cao tầng thì phải được xây kín ở hết các tầng và không được so le với nhau + Nếu mái nhà làm bằng vật liệu khó cháy thì phải được xây dựng đến sát và khít với mái nhà. Nếu mái nhà làm bằng loại dễ cháy thì phải được xây vượt quá phần mái nhà ít nhất là 30 cm + Không được để vật liệu hay cấu kiện xây dựng dễ cháy vắt nganh qua tường ngăn cháy + Phải xây cách những lỗ hở trên mái ít nhất là 5m - Bậc chịu lửa của công trình: Đặc trưng cho khả năng chịu lửa theo tính chất của nhà và công trình, được xác định bằng giới hạn chịu lửa của các kết cấu xây dựng chính. Các công trình có bậc chịu lửa khác nhau thì tỷ lệ phí bảo hiểm cũng khác nhau. - Giới hạn chịu lửa: là thời gian tính từ khi bắt đầu thử chịu lửa theo một tiêu chuẩn nhất định cho tới khi xuất hiện một trong các trạng thái giới hạn của kết cấu. - Tổn thất toàn bộ: trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, được phân thành 2 loại + Tổn thất toàn bộ thực tế: là tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoặc hư hỏng hoàn toàn hoặc số lượng còn nguyên nhưng giá trị không còn gì. + Tổn thất toàn bộ ước tính: là tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ đến mức nếu sửa chữa bằng hoặc lớn hơn số tiền bảo hiểm. Sau khi nhà bảo hiểm bồi thường cho tổn thất toàn bộ thì phần tài sản còn lại sẽ thuộc quyền sở hữu và quản lý của nhà bảo hiểm. 2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 2.1. Đối tượng, phạm vi bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 2.1.1. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là tất cả các loại tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị, tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Tuy nhiên để giúp cho việc tính phí bảo hiểm chính xác, giúp cho công tác giám định bồi thường nhanh chóng đồng thời giúp cho người tham gia bảo hiểm nhận biết một cách dễ dàng thực trạng tài sản tham gia, các công ty bảo hiểm chia đối tượng bảo hiểm thành 5 nhóm cơ bản: - Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng ( trừ đất đai ) - Máy móc, thiết bị, phượng tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh - Sản xuất vật tư, hàng hoá dự trữ trong kho - Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm đang trên dây truyền sản xuất - Các loại tài sản khác như: kho bãi, chợ, nhà hàng, khách sạn, cây xăng Vì mỗi nhóm tài sản có đặc điểm riêng về lý học, hoá học, cơ học, môi trường xung quanh…nên khả năng xảy ra hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt như giông bão, cháy ngầm, động đất…là hoàn toàn khác nhau, khi rủi ro xảy ra thì mức độ thiệt hại cũng rất khác nhau. Việc phân loại như trên giúp cho các công ty bảo hiểm đánh giá và quản lý chính xác hơn, tính phí phù hợp hơn, đặc biệt giúp cho chủ tài sản và các công ty bảo hiểm xây dựng được các phương án phòng cháy chữa cháy. Ngoài ra, khi hoả hoạn xảy ra có thể dẫn đến các tổn thất gián tiếp(phi vật chất). Các tổn thất gây ra cho người thứ 3 v..v..thuộc về trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm như: thiệt hại về kinh doanh, thiệt hại gây cho người hàng xóm, người thứ 3 v..vv.Do đó, trong thực tế cùng với bảo hiểm hoả hoạn, công ty bảo hiểm còn có thể bảo hiểm thêm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự. bảo hiểm thiệt hại kinh doanhv..v, với điều kiện các thiệt hại này do hậu quả của hoả hoạn và chỉ khi người được tham gia bảo hiểm hoả hoạn mới nhận được những rủi ro này. Như vậy, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có đối tượng bảo hiểm khá rộng và đa dạng. Nếu quy định bắt buộc được thực hiện nghiêm túc và triệt để thì đối tượng tham gia bảo hiểm cháy rất lớn 2.1.2. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và giới hạn trách nhiệm của các công ty bảo hiểm. Trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, công ty bảo hiểm có trách nhiệm bảo hiểm các thiệt hại và chi phí sau: - Những thiệt hại do những rủi ro được bảo hiểm gây ra cho tài sản - Những chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất tài sản được bảo hiểm trong và sau khi cháy - Những chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi cháy. Những rủi ro được bảo hiểm: Thuật ngữ “THIỆT HẠI” được viết hoa là sự mất mát, phá huỷ hay hư hại của những tài sản được bảo hiểm tại địa điểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Rủi ro chính: Hoả hoạn (Rủi ro A ) Rủi ro này bao gồm : cháy, sét, và nổ - Cháy : được coi là hoả hoạn và thuộc phạm vi bảo hiểm khi hội tụ đủ 3 yếu tố: + Phải thực sự có phát lửa + Lửa đó không phải lửa chuyên dùng + Lửa đó bất ngờ hay ngẫu nhiên phát ra chứ không do hành động cố ý của người được bảo hiểm hay có sự đồng loã của họ. Nhưng cháy do sự bất cẩn của họ thì thuộc phạm vi bảo hiểm Nhưng loại trừ đối với trường hợp: Động đất, núi lửa phun hay biến động khác của thiên nhiên THIỆT HẠI gây ra do: Tài sản tự lên men hoặc tự toả nhiệt Chịu tác động của một quá trình xử lý có dùng nhiệt - Sét : Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ trực tiếp do sét hoặc do sét đánh gây cháy. Nếu sét đánh mà không phát lửa hoặc không phá huỷ trực tiếp tài sản thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường. Khi sét đánh phá huỷ trực tiếp các thiết bị điện tử thì được bồi thường còn sét đánh làm thay đổi dòng điện dẫn đến thiệt hại cho thiết bị điện tử thì không được bồi thường - Nổ: nổ trong rủi ro A, phạm vi bảo hiểm gồm: + Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt + Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng, hay sưởi ấm trong một ngôi nhà không phải nhà xưởng làm các công việc sử dụng hơi đốt. + Các trường hợp nổ gây ra hoả hoạn + Những thiệt hại do nổ mà không gây cháy thì không được bồi thường trừ trường hợp nổ nồi hơi, khí phục vụ sinh hoạt với điều kiện là sự nổ đó không phải là do các nguyên nhân bị loại trừ. Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ cháy, thiệt hại ban đầu do cháy được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không được bồi thường. Các rủi ro đặc biệt - Rủi ro B: Nổ Là rủi ro không nằm trong rủi ro A, công ty bảo hiểm bồi thường những thiệt hại do nổ nhưng loại trừ: + THIỆT HẠI xảy ra đối với nồi hơi, bình tiết kiệm, bình chứa, máy móc hoặc thiết bị có sử dụng áp lực hoặc đối với các chất liệu chứa trong các máy móc thiết bị đó do chúng bị nổ + THIỆT HẠI gây nên bởi hoặc do hoặc là hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của những hành động khủng bố. - Rủi ro C: Máy bay và các phương tiện hàng không khác hoặc các thiết bị trên các phương tiện đó rơi vào. - Rủi ro D: Gây rối, đình công, công nhân bế xưởng Những THIỆT HẠI gây nên trực tiếp bởi: + Hành động của bất kỳ người nào cùng với những người khác tham gia vào công việc làm mất trật tự xã hội (dù có liên quan đến đình công, bế xưởng bãi công hay không): + Hành động của bất kỳ chính quyền hợp pháp nào trong việc trấn áp hoặc cố gắng trấn áp các hành động gây rối hoặc trong việc hạn chế hậu quả của những hành động gây rối đó; + Hành động cố ý của bất kỳ người đình công hay người bế xưởng bãi công nào nhằm ủng hộ bãi công hoặc nhằm chống lại bế xưởng bãi công; + Hành động của bất kỳ chính quyền hợp pháp nào nhằm ngăn chặn hoặc cố gắng ngăn chặn những hành động như vậy hay hạn chế hậu quả của những hành động đó. Nhưng loại trừ: + Những THIỆT HẠI gây nên bởi, hay hậu quả, trực tiếp hay gián tiếp của: Những hành động khủng bố; Phong trào quần chúng có quy mô hoặc có thể phát triển thành một cuộc khởi nghĩa quần chúng; Hành động ác ý của bất cứ người nào ( dù cho hành động ấy có được thực hiện trong việc gây mất trật tự xã hội hay không) khác với hành động cố ý của người tham gia đình công hoặc của công nhân bế xưởng bãi công nhằm ủng hộ bãi công hoặc nhằm chống lại bế xưởng bãi công; Hành động ác ý xoá làm mất mát sai lệch hay làm hư hỏng thông tin trên hệ thống máy tính hay các hồ sơ chương trình phần mềm khác. + THIỆT HẠI do mất thu nhập, do chậm trễ, do mất thị trường hay bất kỳ tổn thất nào mang tính chất hậu quả hay mang tính chất gián tiếp khác dưới bất kỳ phương tiện và hình thức nào; + THIỆT HẠI do mất thu nhập, do chậm trễ, do mất thị trường hay bất kỳ tổn thất nào mang tính chất hậu quả hay mang tính chất gián tiếp khác dưới bất kỳ phương tiện và hình thức nào; + THIỆT HẠI do ngừng toàn bộ hay một phần công việc hoặc do chậm trễ hoặc do gián đoạn bất kỳ một quy trình hay hoạt động nào + THIỆT HẠI do bị tước quyền sở hữư vĩnh viễn hay tạm thời bất kỳ ngôi nhà nào do việc chiếm hữu bất hợp pháp các toà nhà đó của bất kỳ người nào. - Rủi ro E : Hành động ác ý THIỆT HẠI xảy ra đối với tài sản được bảo hiểm mà nguyên nhân trực tiếp là hành động ác ý của bất cứ người nào ( dù hành động này có xảy ra trong quá trình gây rối trật tự hay không ) nhưng loại trừ những THIỆT HẠI do trộm cắp hay thực hiện mưu toan trộm cắp. - Rủi ro F : Động đất, núi lửa phun, bao gồm cả lụt và nước biển tràn do hậu quả của động đất và núi lửa phun. - Rủi ro G : giông bão nhưng loại trừ THIỆT HẠI + Gây ra do : Nước thoát ra khỏi ranh giới bình thường của các nguồn nước tự nhiên hay nhân tạo, các kênh, hồ, đê, đập, các bể chứa nước, thiết bị chứa nước hay đường ống dẫn; Nước tràn từ biển dù là do bão hay các nguyên nhân khác. + Gây ra do sương muối, sụt lở, trượt đất. + Đối với bạt mái hiên che nắng, mành che, bảng biển hoặc các trang thiết bị lắp đặt phía ngoài, hàng rào, cổng ngõ và các động sản khác để ngoài trời. + Đối với các công trình đang trong giai đoạn xây dựng, cải tạo hay sửa chữa, trừ khi tất cả các cửa ra vào, cửa sổ và các lỗ thông thoáng khác đã được hoàn thành và được bảo vệ chống giông bão. + Do nước hoặc mưa, ngoại trừ nước hoặc mưa tràn vào toà nhà thông qua các cửa và lỗ thông thoáng do tác động trực tiếp của giông bão. - Rủi ro H : Nước thoát ra từ các bể chứa nước, thiết bị chứa nước hoặc đường ống dẫn nước nhưng loại trừ + THIỆT HẠI do nước thoát ra, rò rỉ từ hệ thống chữa cháy tự động Sprinkler. + THIỆT HẠI tại những công trình, ngôi nhà bỏ trống hoặc không có người sử dụng. - Rủi ro I : Va chạm bởi xe cơ giới hay động vật, THIỆT HẠI trực tiếp phát sinh từ việc va chạm với xe cơ giới hay động vật. Rủi ro loại trừ: Trong bảo hiểm hoả hoạn, các rủi ro loại trừ được áp dụng như sau: - Tổn thất do hành động cố ý hoặc đồng loã của người được bảo hiểm gây ra. - Những tổn thất về: + Hàng hoá nhận uỷ thác hay ký gửi trừ khi những hàng hoá đó được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm, và người được bảo hiểm trả thêm phí bảo hiểm theo tỷ lệ phí quy định. + Tiền bạc, kim loại của đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tem phiếu, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy vi tính điện tử, bản mẫu, văn bằng khuôn mẫu, bản vẽ tài liệu thiết kế trừ khi những khi những hạng mục này được xác nhận trong giấy chứng nhận là được bảo hiểm + Chất nổ nhưng không bao gồm nhiên liệu xăng dầu + Người, động vật và thực vật sống + Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo đơn._. bảo hiểm hoả hoạn, trừ phần thiệt hại vượt quá số tiền được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải hoặc lẽ ra được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải. + Tài sản bị cướp hay bị mất cắp. Trong trường hợp tài sản bị cướp, mất cắp trong khi xảy ra hoả hoạn mà người được bảo hiểm không chứng minh được là mất cắp thì vẫn được bồi thường. + Những thiệt hại mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào trừ thiệt hại về tiền thuê nhà được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm. + Những thiệt hại gây ra cho bên thứ 3. + Những thiệt hại trong phạm vi mức miễn thường. 2.2 Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm 2.2.1. Giá trị bảo hiểm Gía trị bảo hiểm(GTBH) trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là giá trị của tài sản được bảo hiểm hiểm.Giá trị này bảo gồm giá trị thực tế ( giá ban đầu trừ đi phần khấu hao) hoặc giá mua mới của tài sản được bảo hiểm.Nhưng do tài sản được bảo hiểm bị cháy thường có giá trị lớn vì vậy khi xác định giá trị bảo hiểm người ta cũng chia ra các loại sau đây: - Đối với nhà ở, xí nghiệp,văn phòng, nhà xưởng, GTBH được xác định theo giá trị mới hoặc giá trị còn lại.Giá trị mới là giá trị mới xây của ngôi nhà bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế.Giá trị còn lại là giá trị mới trừ đi hao mòn do sử dụng theo thời gian. - Đối với máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác GTBH được xác định trên cơ sở giá mua mới(bao gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt nếu có) hoặc giá trị còn lại. - Đối với thành phẩm và bán thành phẩm GTBH được xác định trên cơ sở giá thành sản xuất. - GTBH của hàng hoá mua về để trong kho, cửa hàng được xác định theo giá mua cộng với chi phí vận chuyển Giá trị bảo hiểm được xác định chính xác là cơ sở để xác định số tiền bảo hiểm và phí baỏ hiểm. 2.2.2. Số tiền bảo hiểm Trong bảo hiểm hoả hoạn thuật ngữ số tiền bảo hiểm được sử dụng phổ biến bởi vì có rất nhiều loại tài sản biến động liên tục thường xuyên cho nên phải dùng thuật ngữ số tiền bảo hiểm mới thể hiện được. Số tiền bảo hiểm(STBH) là giới hạn bồi thường tối đa của người bảo hiểm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Có nghĩa là trong bất cứ trường hợp nào, STBH cao nhất của công ty bảo hiểm cho khách hàng cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm. Cơ sở để xác định STBH là GTBH. Căn cứ vào giá trị bảo hiểm được xác định, khách hàng có thể tham gia bảo hiểm dưới giá trị, ngang giá trị, hay bảo hiểm trên giá trị.Số tiền baỏ hiểm bằng bao nhiêu phần trăm giá trị bảo hiểm sẽ được ghi trong hợp đồng bảo hiểm và giấy chứng nhận baỏ hiểm để khi tổn thất bộ phận xảy ra thì bồi thường áp dụng nguyên tắc bồi thường theo tỷ lệ. STBH còn là căn cứ để xác định phí bảo hiểm, việc xác định chính xác STBH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đối với các tài sản cố định STBH được xác định căn cứ vào GTBH của tài sản, giá mua mới hoặc giá còn lại. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, xu hướng chung là quy mô sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng, số lượng và giá trị bảo hiểm của các loại tài sản ngày càng tăng, đặc biệt là tài sản lưu động số lượng và giá trị biến động thường xuyên. Đối với một số loại tài sản thường xuyên biến động thì công việc xác định chính xác STBH khi đi khai thác và ký kết hợp đồng không phải là dễ dàng. Chẳng hạn như các mặt hàng lưu kho, nhập xuất thường xuyên như xăng dầu, nguyên vật liệu sản xuất…có số lượng và quy mô thay đổi liên tục trong ngày. Vì vậy đối với loại tài sản lưu động, nhà bảo hiểm có thể xác định STBH theo giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa. - Loại 1: Giá trị trung bình Nếu bảo hiểm theo giá trị trung bình, người được bảo hiểm thông thường phải ước tính và thông báo cho công ty bảo hiểm giá trị số hàng hoá trung bình có trong kho, trong cửa hàng, trong toàn bộ thời gian tham gia bảo hiểm. Giá trị trung bình này là STBH trong suốt thời hạn bảo hiểm. Nếu tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì nhà bảo hiểm sẽ bồi thường với số tiền không vượt quá giá trị trung bình này. - Loại 2: Giá trị tối đa Nếu bảo hiểm theo giá trị tối đa thì người được bảo hiểm ước tính và thông báo cho công ty bảo hiểm biết số lượng và giá trị hàng hoá tối đa đạt tại một thời điểm nào đó trong thời gian bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa này nhưng nhà bảo hiểm chỉ thu trước 75% mức phí. Tuy nhiên, hai bên thoả thuận với nhau cứ đầu tháng, đầu quý khách hàng phải thông báo về số hàng và giá trị tối đa thực tế trong tháng. Cuối thời hạn bảo hiểm, trên cơ sở các giá trị được thông báo, công ty bảo hiểm tính giá trị số hàng tối đa bình quân của cả thời gian bảo hiểm và tính lại phí bảo hiểm. Nếu phí bảo hiểm tính lại trên cơ sở giá trị tối đa nhiều hơn số phí đã nộp thì người được bảo hiêm trả thêm cho công ty bảo hiểm số phí còn thiếu. Nếu nhỏ hơn thì hai bên thoả thuận và căn cứ vào những chi phí đã chi ra trong suốt thời hạn bảo hiểm mà công ty bảo hiểm phải hoàn lại cho khách hàng hay không. Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá tại tối đa đã khai báo. Trong thời gian bảo hiểm, tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm được người bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân thì phí bảo hiểm được tính dựa vào số tiền bồi thường đã trả. Trong trường hợp này số tiền được bồi thường được coi là số tiền bảo hiểm. Có thể nói cách xác định này rất phức tạp đòi hỏi người bảo hiểm phải biết giá trị hàng hoá được bảo hiểm, theo dõi chặt chẽ số hàng hoá đó trong suốt thời gian bảo hiểm. Những tài sản có giá trị lớn công ty bảo hiểm khó có thể tái bảo hiểm vì tính phức tạp và khó khăn. Cách xác định theo giá trị trung bình đơn giản hơn, dễ theo dõi. Với những hàng hoá được bảo hiểm giá trị ít biến động trên thị trường thì áp dụng theo phưong pháp này rất thuận tiện, tiết kiệm dược thời gian và tiền bạc cho nhà bảo hiểm. 2.3. Phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm hàng hoá thực chất là giả cả của dịch vụ bảo hiểm này. Tính toán mức giá vừa phải, phù hợp với yêu cầu của khách hàng đảm bảo hoạt động kinh doanh không phải là đơn giản. Bảo hiểm hoả hoạn có đối rượng là tài sản rất đa dạng về chủng loại, giá trị, và mức độ rủi ro khác nhau do đó phí bảo hiểm cũng khác nhau. Phí bảo hiểm hoả hoạn được tính theo công thức: P = Sb x R Trong đó : Sb: Số tiền bảo hiểm R: Tỷ lệ phí bảo hiểm P: Phí bảo hiểm Với công thức trên, tỷ lệ phí được xác định theo một tỷ lệ phần trăm hoặc phần nghìn và được quy định riêng cho từng rủi ro được lựa chọn. Cách tính này có ưu điểm là khách hàng dễ dàng xác định được số phí phải nộp là bao nhiêu. Tỷ lệ phí bảo hiểm hoả hoạn của các đối tượng tham gia chia thành hai bộ phận: tỷ lệ phí thuần và tỷ lệ phụ phí. R = R1 + R2 Trong đó: R1: Tỷ lệ phí thuần R2: Tỷ lệ phụ phí Khi xác định tỉ lệ phí thuần thường phải căn cứ vào số liệu thống kê một số năm trước đó như: tổng số đơn vị rủi ro tham gia bảo hiểm cháy, số dơn vị rủi ro bị cháy, tổng số tiền bảo hiểm cháy, số tiền bồi thường bảo hiểm cháy…Có 2 phương pháp xác định tỷ lệ phí thuần Phương pháp 1: xác định tỷ lệ phí thuần theo phân loại Đây là cách kết hợp các đơn vị có thể so sánh được với nhau cùng 1 loại, sau đó tính tỷ lệ mỗi loại, phản ánh số tổn thất và các chi phí khác của loại đó. Phương pháp này phù hợp với những tài sản tương đối đồng nhất với nhau như: nhà ở của dân cư, các nhà thờ…Khi xác định phí bảo hiểm cho từng loại, nhà bảo hiểm cần chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí sau: + Vật liệu xây dựng của công trình + Khả năng phòng cháy chữa cháy của các cơ sở đó và của cộng đồng xung quanh + Người sử dụng công trình đó( chủ nhà hay cho thuê) +Những vật tài sản khác bố trí xung quanh bên ngoài Phương pháp 2: Xác định tỷ lệ phí thuần theo danh mục Phương pháp này gồm 3 bước cơ bản sau: Bước 1: Rà xét lại các danh mục tài sản tham gia bảo hiểm.Sau đó tiến hành phân loại theo các danh mục khác nhau.(Bởi vì mỗi loại tài sản có khả năng cháy nổ khác nhau) Bước 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để chọn ra một tỷ lệ phí thích hợp trong bảng tỷ lệ phí có sẵn. Bước 3: Điều chỉnh tỷ lệ phí theo các yếu tố tăng ( giảm) phí. Việc điều chỉnh này phải căn cứ vào vật liệu xây dựng, phòng cháy chữa cháy… Các công ty bảo hiểm thường quy định như sau: Loại D: + Bộ phận chịu lực: bao gồm các trụ, xà, dầm, tường chịu lửa làm bằng vật liệu chống cháy, mái nhà có khả năng chịu lửa ít nhất là 30 phút + Bộ phận không chịu lực: gồm tường vách, tường ngăn bên trong và bên ngoài, trần không chịu lửa…được làm bằng các vật liệu không cháy( gạch ngói, xi măng, bê tông). Loại này giảm tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí. Loại N: gồm các công trình không đạt tiêu chuẩn như loại D nhưng các bộ phận chịu lực và các cấu kiện khác cũng phải làm bằng vật liệu khó cháy. Loại này giữ nguyên tỷ lệ phí bảo hiểm. Loại L: công trình này không đạt tiêu chuẩn như hai loại trên. Loại này tăng tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí. Công ty bảo hiểm cũng cần phải quan tâm đến các yếu tố làm mức độ rủi ro vì những yếu tố này là cơ sở để làm giảm mức phí cơ bản. Tuy nhiên tổng mức giảm phí về các thiết bị và phương tiện phòng cháy, chữa cháy của mỗi đơn vị rủi ro không quá 45%. Các yếu tố làm giảm rủi ro thường bao gồm: + Thiết bị phòng cháy, chữa cháy như: Công trình có hệ thống phun nước Có hệ thống dập cháy bằng CO2 Có hệ thống tự động dập tắt tia lửa điện Có ô tô chữa cháy và nhân viên chữa cháy + Việc trực kiểm tra,canh gác + Gần đội cứu hoả công cộng Trong nghiệp vụ này, còn áp dụng các mức miễn thường. Tuỳ theo từng loại tài sản được bảo hiểm mà mức miễn thường được quy định khác nhau. Thông thường trong bảo hiểm cháy áp dụng mức miễn thường có khấu trừ tối thiểu 2% số tiền bảo hiểm nhưng không dưới 100USD trên mỗi vụ tổn thất và tối đa không quá 2000 USD trên mỗi vụ tổn thất. Đây là mức miễn thường bắt buộc không được giảm phí. Nếu người tham gia bảo hiểm muốn lựa chọn mức miễn thường cao hơn để được giảm phí thì sẽ có thoả thuận riêng về mức miễn thường và tỷ lệ giảm phí. Thời gian nộp phí tuỳ theo sự thoả thuận giữa công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm có thể thực hiện các hình thức đóng phí bảo hiểm khác nhau như đóng một lần hoặc đóng nhiều lần. Trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn, thường áp dụng hình thức đóng một lần. 3. Đặc điểm của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Bảo hiểm hoả hoạn thuộc loại hình bảo hiểm tài sản nên cũng mang đặc điểm chung của nhóm như: nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc thế quyền hợp pháp…Rủi ro được bảo hiểm ở đây là hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nên nghiệp vụ vẫn có những đặc điểm riêng: Đối tượng của bảo hiểm hoả hoạn thường là các công trình, xí nghiệp. Giá trị tài sản của các đối tượng này rất lớn, nên số tiền bảo hiểm thường rất lớn, khi rủi ro bảo hiểm xảy ra tổn thất thường rất lớn đôi khi mang tính thảm hoạ. Điều này đòi hỏi các công ty luôn thực hiện việc tái bảo hiểm như là một cách để phân tán rủi ro, và để đảm bảo cho quỹ tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong nghiệp vụ này, các công ty cũng phải đặc biệt quan tâm tới nguồn tài chính dự trữ dự phòng. Tuy có thể xác định khá chính xác phí bảo hiểm nhưng do các vụ cháy xảy ra không mang tính quy luật nên biên độ tổn thất dao động của nghiệp vụ là rất lớn, hậu quả không lường trước được.Do vậy, việc duy trì và đảm bảo an toàn cho quỹ dự phòng dao động lớn là rất quan trọng. Trong hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn có mang tính chất kỹ thuật rất phức tạp. Vì đối tượng tham gia bảo hiểm thường là các tài sản như: máy móc, nguyên vật liệu, hàng hoá…và các công trình kiến trúc như nhà máy, sân vận động, bệnh viện..v..v nên quy trình triển khai sẽ liên quan nhiều đến các yếu tố kỹ thuật. Đặc điểm này thể hiện rõ trong từng khâu của nghiệp vụ: xác định giá trị bảo hiểm, phân chia đơn vị rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro, đề phòng và hạn chế tổn thất, xác định nguyên nhân cháy, xác định giá trị thiệt hại. Phí bảo hiểm hoả hoạn phụ thuộc nhiều vào yếu tố tăng giảm rủi ro. Đây là loại hình bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tài sản và rủi ro là rủi ro hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, do vậy các yếu tố như: kết cấu của loại tài sản như vật liệu xây dựng lắp đặt, vật liệu làm bao bì, chất lượng tài sản, cách thức khu vực bố trí tài sản, các phương tiện phòng cháy chữa cháy v..v. ảnh hưởng rất lớn đến phí bảo hiểm. Nếu khả năng xảy ra rủi ro càng ít thì cả người được bảo hiểm sẽ phải đóng phí thấp, các nhà bảo hiểm ít có khả năng phải bồi thường. Khi tổn thất xảy ra khâu giám định của nghiệp vụ này cũng rất khó khăn và phức tạp vì cháy do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Nếu công tác giám định thực hiện không tốt thì không thể xác định chính xác số tiền bảo hiểm phải bồi thường và dễ phát sinh kiện cáo, ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp. Vì vậy mà các giám định viên của công ty phải được đào tạo bải bản và có nhiều kinh nghiệm Như vậy, trong quá trình triển khai nghiệp vụ, các doanh nghiệp bảo hiểm phải đặc biệt chú ý đến những đặc điểm trên. Nhà bảo hiểm phải thiết lập và duy trì mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền địa phương, cảnh sát phòng cháy chữa cháy và các đơn vị khác để phối hợp thực hiện tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất, cũng như tiến hành giám định hiện trường chính xác, giải quyết nhanh chóng các khiếu nại đòi bồi thường. Điều này mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp bảo hiểm, giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian, tiền bạc cũng như công sức trong suốt quá trình bảo hiểm 4. Hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn là một bản cam kết giữa người tham gia bảo hiểm và công ty bảo hiểm thể hiện quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên đối với dịch vụ bảo hiểm hoả hoạn. Một hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn bao gồm những nội dung cơ bản sau: Tên và địa chỉ người yêu cầu Ngành nghề kinh doanh Những rủi ro yêu cầu bảo hiểm Địa điểm được bảo hiểm Tài sản được bảo hiểm ( làm theo danh mục tài sản) Tổng giá trị tài sản theo danh mục Số tiền bảo hiểm Điều khoản mở rộng Phí bảo hiểm Yêu cầu giảm phí Phí phải nộp Hình thức thanh toán phí Mức miễn thường Thời hạn bảo hiểm Trong bảo hiểm hoả hoạn có thể sử dụng giấy chứng nhận bảo hiểm thay cho hợp đồng bảo hiểm . Giấy chứng nhận bảo hiểm là chứng nhận về hợp đồng, là cơ sở đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cho một hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. Về thời hạn hợp đồng : thời hạn bảo hiểm thường là một năm, có thể ngắn hơn hoặc dài hơn cũng có thể là một năm nhưng quy định đóng phí nhiều lần nên hợp đồng chỉ có hiệu lực khi trong những giai đoạn đó phí bảo hiểm được đóng. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hiểm người tham gia bảo hiểm có thể tiếp tục đóng phí bảo hiểm và yêu cầu công ty bảo hiểm tiến hành tái tục. Trong thời hạn bảo hiểm, nếu tài sản được bảo hiểm bị di chuyển ra ngoài khu vực được bảo hiểm hoặc không còn thuộc quyền sở hữu của người được bảo hiểm thi hợp đồng bảo hiểm sẽ mất hiệu lực. Hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn sẽ bị huỷ bỏ trong các trường hợp sau đây: Một trong hai bên thông báo trước 30 ngày bằng văn bản cho bên kia về việc huỷ bỏ bảo hiểm. Có những thay đổi làm tăng mức độ rủi ro của đối tượng được bảo hiểm, trừ khi những thay đổi đó được công ty bảo hiểm chấp nhận bằng văn bản. Thay đổi quyền sở hữu hay quyền quản lý đối với toàn bộ tài sản được bảo hiểm . Hiệu lực của hợp đồng được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Thường thì hiệu lực của hợp đồng được bắt đầu khi người tham gia bảo hiểm nộp khoản phí lần đầu tiên và kết thúc vào 16 giờ ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm. Tuỳ theo yêu cầu của người tham gia bảo hiểm mà hợp đồng có thể có thời hạn 1 năm hoặc ngắn hơn ( tháng, quý) phí đóng 1 lần hoặc nhiều lần… III. Quy trình triển khai nghiệp vụ 1. Khai thác. Đây là khâu quan trọng nhất của một quá trình bảo hiểm vì nó trực tiếp tạo ra doanh thu cho doanh nghiệp. Mục đích của khâu này là tìm được khách hàng và thuyết phục họ ký hợp đồng. Để làm được thì khai thác viên bảo hiểm phải chủ động, tích cực tìm đến khách hàng. Bằng sự khéo léo mềm mỏng, mang hiểu biết về nghiệp vụ để giải thích cho khách hàng về những lợi ích khi tham gia bảo hiểm, giải đáp những thắc mắc về sản phẩm, về các quy tắc cũng như là về bản thân công ty. Khi khách hàng có ý muốn mua bảo hiểm, công ty cần cử nhân viên tiến hành tìm hiểu, phân tích và đánh giá rủi ro, sau đó đàm phán và chào phí. Khi gửi bản chào phí cho khách hàng, cán bộ khai thác cần liên hệ với khách hàng để biết tình trạng bản chao phí. Ngay sau khi nhận được thông báo đồng ý tham gia bảo hiểm từ khách hàng, cán bộ khai thác tiến hành cấp đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. 2.Đề phòng và hạn chế tổn thất. Đề phòng và hạn chế tổn thất là các hoạt động được thực hiện với mục đích nhằm ngăn ngừa những hậu quả rủi ro được dự báo là có thể xảy ra gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm. Công tác này có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đáng kể đến kết quả kinh doanh của công ty. Vì nếu được thực hiện tốt sẽ giúp công ty giảm được tỷ lệ bồi thường, giảm xác suất rủi ro, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm hoả hoạn là những tài sản có giá trị rất lớn, nhiều khi thiệt hại do hoả hoạn gây ra không chỉ trong phạm vi đối tượng được bảo hiểm mà còn cả cho nhiều đối tượng lân cận. Người tham gia bảo hiểm khi gặp phải rủi ro ngoài tổn thất về tài sản bị cháy họ còn phải chịu tổn thất do bị gián đoạn kinh doanh. Vì vậy ngăn ngừa rủi ro và tổn thất là rất quan trọng. Để làm tốt công tác này cán bộ làm công tác nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn phải nắm vững nghiệp vụ, có phương án quản lý rủi ro tốt để có các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất ở mức độ tối thiểu trong trường hợp xảy ra. 3. Giám định và bồi thường. Khi đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro thì công ty bảo hiểm tiến hành giám định và bồi thường. Đây là công tác đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình bảo hiểm. Vì nó giải quyết quyền lợi cho khách hàng trong khách hàng khi có tổn thất xảy ra. Công tác này làm tốt sẽ có tác dụng trong việc xây dựng hình ảnh của công ty, khuyến khích khách hàng tham gia bảo hiểm ngày càng đông. Do đó phải coi trọng công tác bồi thường cũng như khai thác. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN I. Khái quát chung về công ty 1. Quá trình hình thành và phát triển. Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC), tiền thân là công ty liên doanh Bảo Hiểm Việt – Úc (là công ty liên doanh bảo hiểm giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và công ty Bảo hiểm Quốc tế QBE thuộc tập đoàn Bảo hiểm QBE của Úc). Việt - Úc được cấp giấy phép thành lập theo giấy phép đầu tư số 2126/GP của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 16 tháng 07 năm 1999. Theo Giấy phép điều chỉnh số 11/GPĐC4/KDBH ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ tài chính, Công ty Liên doanh Bảo hiểm Việt – Úc đổi tên thành công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam dựa trên cơ sở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mua lại toàn bộ phần vốn góp của Công ty Bảo hiểm Quốc tế QBE thuộc tập đoàn bảo hiểm QBE trong Công ty Liên doanh Bảo hiểm Việt – Úc. Theo giấy phép số 11GP/KDBH ngày 10 tháng 4 năm 2006 Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chính thức được cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một đơn vị thành viên thuộc hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập theo quyết định số 292/QĐ-HĐQT ngày 28/12/2005 của Hội đồng Quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có vốn điều lệ 200 tỷ đồng do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đầu tư 100% vốn, có con dấu riêng và hạch toán độc lập. BIC chính thức hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Thời hạn hoạt động là 89 năm, có tên gọi chính thức là: Tên Việt Nam: Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Tên Tiếng Anh: BIDV Insurance Company. Tên viết tắt: BIC Có trụ sở chính ở: Tầng 10, toà tháp A, VINCOM CITY TOWERS, số 191 Bà Triệu, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Số điện thoại liên lạc: (+84) 4 220082 và số Fax: (+84) 4 2200281 Hiện nay quyền giám đốc là: Ông Phạm Quang Tùng BIC là công ty bảo hiểm phi nhân thọ, theo giấy phép đã cấp công ty hoạt động ở các lĩnh vực sau: kinh doanh các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ; tái bảo hiểm phi nhân thọ trong và ngoài nước; hoạt động đầu tư tài chính, cụ thể như sau: + Kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ: Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại; Bảo hiểm thân tàu; Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường hàng không; Bảo hiểm trách nhiệm chung; Bảo hiểm xe cơ giới; Bảo hiểm cháy; Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính; Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh; Bảo hiểm con người và các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác. + Kinh doanh tái bảo hiểm phi nhân thọ: BIC đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác kinh doanh với các công ty bảo hiểm có uy tín trên thế giới như Swiss Re, Labuan Re, B.E.S.T Re, Malaysian Re Berhad, Caisse Centrale De Reassurance và ở Việt nam như Tổng công ty tái bảo hiểm quốc gia Vinare. Tái bảo hiểm là một trong những công cụ quản lý rủi ro, đảm bảo khả năng tài chính cho các hợp đồng có giá trị bảo hiểm lớn và tăng doanh thu từ phí nhận tái bảo hiểm và hoa hồng từ nhượng tái bảo hiểm. + Đầu tư tài chính: Công ty bảo hiểm BIDV sẽ thực hiện hoạt động đầu tư tài chính theo hướng chuyên nghiệp hoá nhằm nâng cao năng lực tài chính của công ty, hỗ trợ hoạt động khai thác. Ngoài ra, hoạt động đầu tư tài chính là một kênh chính tạo ra lợi nhuận cho công ty điều hoà nguồn vốn và sử dụng hợp lý tối đa nguồn vốn nhàn rỗi. Với nhiệp vụ đầu tư tài chính chuyên nghiệp Công ty bảo hiểm BIDV sẽ có điều kiện thực hiện chiến lược mở rộng đầu tư, chiến lượcvào các doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm cũng như lĩnh vực có nhiều tiềm năng. + Các dịch vụ có liên quan: Giám định, điều tra, tính toán, phân bổ tổn thất, đại lý giám định, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ ba. Công ty đã thành lập được các chi nhánh và văn phòng đại diện trên toàn quốc: Chi nhánh BIC tại Thành phố Hồ Chí Minh: +Địa chỉ: Tầng 7, Trung tâm thương mại Sài Gòn, Số 37 Tôn Đức Thắng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. +Điện thoại: (+84) 8 9105869 – 9105 870 +Fax: (+84) 8 9105 868 + Giám đốc chi nhánh: Ông Hoàng Văn Sơn Chi nhánh BIC tại Đà Nẵng: +Địa chỉ: tầng 4, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đà Nẵng, Số 90 Nguyễn Chí Thanh, Thành phố Đà Nẵng. +Điện thoại: (+84) 511 865 803 - Fax: (+84) 511 865 804 +Giám đốc: Ông Nguyễn Văn Báu. Chi nhánh BIC tại Hải Phòng: + Địa chỉ: Số 20 Bến Bính, Thành phố Hải Phòng. +Điện thoại: (+84) 31 747 373 +Fax: (+84)31 747 727 + Giám đốc: Ông Nguyễn Thành Minh Chi nhánh BIC tại Nghệ An + Địa chỉ: Số 216, Lê Duẩn, Thành phố Vinh, Nghệ An. +Điện thoại: (+84) 38 592 877 +Fax: (+84) 38 592 878 +Giám đốc: Ông Mai Nguyên Đông Chi nhánh BIC tại Bình Định + Địa chỉ: Số 72 Lê Duẩn, Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định Chi nhánh BIC tại Tây Nguyên +Địa chỉ: Số 41 Đường Nguyễn Tất Thành, Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh ĐakLak. Chi nhánh BIC Đồng Nai + Địa chỉ: Lô F, Khu phố 1, Phường Long Bình Tân, Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. Chi nhánh BIC tại Vũng Tàu +Địa chỉ: Số 24 Trần Hưng Đạo, Thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng tàu. Chi nhánh BIC tại Cần Thơ + Địa chỉ: Số 27-29 Châu Văn Liêm, Thành phố Cần Thơ. Đại lý của BIC là tất cả các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tại các tỉnh và thành phố trên cả nước.- Cơ cấu tổ chức 3. Cơ cấu tổ chức Sơ đồ 1: Cơ cấu, bộ máy tổ chức của BIC GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC P. KIỂM TRA NỘI BỘ P.HÀNH CHÍNH NHÂN SỰ P. KHIẾU NẠI P. KẾ TOÁN P. ĐẦU TƯ P. QLÝ NGHIỆP VỤ P. KINH DOANH 1 P. KINH DOANH 2 CN.TP HCM CN ĐÀ NẴNG CN.HẢI PHÒNG CN NGHỆ AN CN TÂY NGUYÊN CN ĐỒNG NAI CN VŨNG TÀU CN BÌNH ĐỊNH CN CẦN THƠ PHÓ GIÁM ĐỐC Mô hình tổ chức của BIC gồm các cấp độ như sau: Trụ sở chính tại Hà Nội: điều hành chung toàn bộ hoạt động của BIC và là đầu mối báo cáo, tiếp nhận thông tin với ban điều hành tại hội sở chính của BIDV. Các chi nhánh BIC tại các vùng trọng điểm: sẽ là đơn vị trực tiếp kinh doanh. BIC sẽ giao địa bàn phụ trách cho từng chi nhánh của mình. Các dịch vụ phát sinh từ chi nhánh BIDV sẽ được gửi/liên hệ về chi nhánh BIC được giao phụ trách địa bàn. Các văn phòng đại diện: Các văn phòng đại diện của BIC tại những vùng tiềm năng sẽ là cầu nối, cung cấp thông tin, hỗ trợ hoạt động khai thác bảo hiểm của chi nhánh BIDV. + Theo kế hoạch phát triển mạng lưới năm 2007, BIC sẽ phân công các chi nhánh phụ trách các địa bàn như sau: Các phòng kinh doanh tại trụ sở chính BIC tại Hà Nội: đầu mối hợp tác đại lý bảo hiểm của BIC đối với các chi nhánh BIDV khu vực phía bắc (ngoài địa bàn đã giao cho chi nhánh). BIC Hải Phòng phụ trách địa bàn Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định. BIC Nghệ An phụ trách địa bàn Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. BIC Đà Nẵng : phụ trách địa bàn từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi. BIC Bình Định: phụ trách địa bàn Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Gia Lai, Kontum. BIC Hồ Chí Minh: phụ trách địa bàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Bình Thuận, Ninh Thuận, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. BIC Cần Thơ phụ trách toàn bộ địa bàn các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long. + Hệ thống hỗ trợ đại lý bảo hiểm của BIC đối với các chi nhánh BIDV được thực hiện như sau: BIC sẽ phân công/cử cán bộ hỗ trợ trực tiếp các chi nhánh BIDV cán bộ chuyên quản lý đại lý là đầu mối liên hệ: Đào tạo nhân viên ngân hàng các kỹ năng, quy trình bán bảo hiểm và kiến thức sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. Hỗ trợ các cán bộ bán bảo hiểm của ngân hàng xây dựng kế hoạch khai thác bảo hiểm, tìm kiếm khách hàng. Trực tiếp phối hợp cùng cán bộ bán bảo hiểm của ngân hàng gặp gỡ thuyết phục khách hàng tham gia bảo hiểm. BIC sẽ cử cán bộ hỗ trợ thông qua điện thoại, Email, fax: Trả lời những thắc mắc của cán bộ bán bảo hiểm của ngân hàng và khách hàng liên quan về sản phẩm. Trợ giúp cán bộ chuyên quản lý trong việc đào tạo nhân viên ngân hàng. Tại trụ sở chính cũng như các chi nhánh của BIC đều có số điện thoại nóng (có cán bộ trực trong giờ hành chính và sẽ thực hiện chuyển cuộc gọi sang máy di động ngoài giờ hành chính). Các cán bộ bảo hiểm của ngân hàng, khách hàng có thể liên hệ với số điện thoại nóng để thông báo tổn thất và sẽ được hướng dẫn các thủ tục giải quyết khiếu nại nhanh chóng. Số điện thoại nóng tại trụ sở chính BIC là 042200286 3. Danh mục sản phẩm bảo hiểm. Các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ mà công ty đang tiến hành kinh doanh là: +Bảo hiểm tài sản Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh + Bảo hiểm kỹ thuật Bảo hiểm mọi rủi ro trong xây dựng Bảo hiểm mọi rủi ro trong lắp đặt Bảo hiểm máy móc thiết bị xây dựng Bảo hiểm đổ vỡ máy móc Bảo hiểm nồi hơi Bảo hiểm thiết bị điện tử Bảo hiểm kho lạnh Bảo hiểm tổn thất lợi nhuận do đổ vỡ máy móc + Bảo hiểm tai nạn con người Bảo hiểm tai nạn con người 24/24 Bảo hiểm bồi thường cho người lao động + Bảo hiểm xe cơ giới Bảo hiểm vật chất xe Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe + Bảo hiểm trách nhiệm Bảo hiểm trách nhiệm công cộng Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp + Bảo hiểm hàng hoá Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu (đường biển, đường hàng không) Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa (đường bộ, đường sắt, nội thuỷ) + Bảo hiểm tàu Bảo hiểm thân tàu Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu đối với tàu hoạt động trong vùng nội thuỷ và lãnh hải Việt Nam + Bảo hiểm khác Bảo hiểm tiền Bảo hiểm trộm cắp Bảo hiểm tính trung thực Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 4. Kết quả kinh doanh bảo hiểm 4.1. Kết quả chung. Từ khi được cấp giấy phép chính thức thành lập và hoạt động ngày 01 tháng 01 năm 2006.Sau một năm hoạt động , công ty đã đạt được những kết quả cơ bản và tiêu biểu sau: - Hoàn thành giao dịch chuyển nhượng vốn, chuyển giao và bàn giao thành công. Đây là lần đầu tiên một Ngân hàng mua một công ty bảo hiểm có vốn nước ngoài nhưng việc chuyển giao đã đáp ứng yêu cầu pháp lý, không ảnh hưởng tới sự ổn định của thị trường bảo hiểm, đáp ứng được mục tiêu của từng bên tham gia và khách hàng, đáp ứng được yêu cầu của Bộ Tài chính. - Tiếp nối hoạt động của công ty cũ, đặc biệt trong việc giữ cam kết với khách hàng và đối tác, không để xảy ra phàn nàn, khiếu nại trong việc xử lý bồi thường. BIC đã nỗ lực tối đa để tái tục những hợp đồng bảo hiểm có khả năng tái tục để giữ quan hệ với khách hàng. - Đã xác định, xây dựng được định hướng hoạt động phù hợp với mô hình và điều kiện hoạt động mới. Ổn định tư tưởng cán bộ, những cán bộ ở lại đã yên tâm công tác. Đã xây dựng hoạt động các cơ cấu tổ chức chính theo quy định: Chi bộ, Công đoàn, Đoàn thanh niên. - Phát triển mạnh mạng lưới hoạt động: Trong năm 2006, BIC đã phát triển được 9 chi nhánh tại tất cả các trung tâm vùng trong toàn quốc. Đến cuối tháng 12 năm 2006 BIC đã đào tạo, phát triển được 440 đại lý bảo hiểm trong toàn quốc. - Kết quả kinh doanh đáng khích lệ, đặc biệt là về lợi nhuận: mặc dù có nhiều khó khăn trong năm đầu tiên hoạt động nhưng doanh thu đạt cao hơn năm trước (đạt 49217 triệu đồng), lợi nhuận 12460 triệu đồng. Nếu không phải chịu khoản lỗ tỷ giá và điều chuyển vốn vượt mức thực có tại thời điểm 31/12/2005 gần 6 tỷ đồng thì mức lợi nhuận của năm 2006 của BIC còn cao hơn nữa. Công ty đã có lãi ngay từ năm hoạt động đầu tiên. Tổng quỹ dự phòng (nghiệp vụ và phải thu) tại thời điểm 31/12/2006 đã đạt 43 799 triệu đồng, tăng 26% so với năm 2005. - Đã xây dựng và chuyển đổi mô hình tổ chức, mô hình kinh doanh phù hợp với định hướng hoạt động mới. Từ đầu năm 2007, BIC sẽ hoạt động theo mô hình tổ chức mới. Theo đó, toàn bộ hoạt động kinh doanh, cung cấp dịch vụ trực tiếp cho khách hàng sẽ được tách ra khỏi trụ sở chính công ty để trụ sở chính tập chung cho vai trò định hướng, điều hành, quản lý, hỗ trợ, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, kiểm tra, giám sát và chi nhánh tập trung cho việc phát triển, quan hệ khách hàng, phát triển th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32027.doc