BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NễNG NGHIỆP HÀ NỘI
----------eờf----------
Bùi thị hồng
Nghiên cứu xác định nhu cầu năng lượng, protein, axit amin (lysine, methionine) và khoáng
(canxi, photpho) của ngan Pháp nuôi thịt
LUẬN VĂN THẠC SĨ NễNG NGHIỆP
Chuyờn ngành : CHĂN NUễI
Mó số : 60.62.40
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần quốc việt
HÀ NỘI - 2009
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo v
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2642 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu xác định nhu cầu năng lượng, protein, axit amin (lysine, methyonine) và khoáng (canxi, photpho) của ngan Pháp nuôi thịt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn này được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Bùi Thị Hồng
Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi luôn nhận được sự giúp được quý báu, chỉ bảo tận tình của thầy hướng dẫn Trần Quốc Việt trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn cùng các cán bộ Bộ môn dinh dưỡng, thức ăn chăn nuôi và đồng cỏ - Viện Chăn Nuôi.
Tôi cũng xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu nhà trường, thư viện trường Đại học Nông Nghiệp - Hà Nội, Khoa Chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, Viện đào tạo sau đại học.
Đồng thời tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy cô đã giúp đỡ tôi nâng cao trình độ và tri thức mới trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi rất biết ơn bạn bè cùng những người thân trong gia đình đã tạo điều kiện và động viên tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, Ngày ..... tháng ..... năm .....
Tác giả luận văn
Bùi Thị Hồng
Mục lục
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt v
Danh mục bảng vi
Danh mục hình vii
Danh mục các chữ viết tắt
Ca : Canxi
C : Cao
dht : Dễ hấp thu
ME : Năng lượng trao đổi
NE : Năng lượng thuần
P : Photpho
TB : Trung bình
Th : Thấp
danh mục bảng
STT
Tên bảng
Trang
Bảng 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm I 34
Bảng 3.2: Sơ đồ bố trí thí nghiệm II 35
Bảng 3.3: Khẩu phần thức ăn cho ngan ở thí nghiệm I 37
Bảng 3.4: Thành phần dinh dưỡng của khẩu phần thí nghiệm I 38
Bảng 3.5: Khẩu phần thức ăn cho ngan ở thí nghiệm II giai đoạn 0 - 3 tuần tuổi. (%) 39
Bảng 3.6: Khẩu phần thức ăn cho ngan ở thí nghiệm II giai đoạn 4 - 7 tuần tuổi (%) 40
Bảng 3.7: Khẩu phần thức ăn cho ngan thí ở nghiệm II giai đoạn 8 - 10 tuần tuổi (%). 41
Bảng 4.1: Khối lượng ngan qua các tuần tuổi (gam) 46
Bảng 4.2: Tốc độ sinh trưởng (g/con/ngày) của ngan Pháp qua các giai đoạn sinh trưởng 49
Bảng 4.3: Hiệu quả chuyển hóa thức ăn của ngan Pháp qua các tuần tuổi 53
Bảng 4.4: Tỷ lệ móc hàm và tỷ lệ thịt xẻ của ngan Pháp nuôi thịt (%) 58
Bảng 4.5: Tỷ lệ thịt đùi, tỷ lệ thịt lườn và tỷ lệ mỡ bụng của ngan Pháp nuôi thịt (%) 60
Bảng 4.6: Thành phần hóa học của thịt ngan (%) 62
Bảng 4.7: Khối lượng cơ thể ngan qua các giai đoạn sinh trưởng (gam) 64
Bảng 4.8: Tốc độ sinh trưởng của ngan qua các tuần tuổi (g/con/ngày) 66
Bảng 4.9: Hiệu quả chuyển hóa thức ăn của ngan Pháp nuôi thịt 68
Bảng 4.10: Hàm lượng khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan (g/100g xương). 71
Bảng 4.11: ảnh hưởng của tỷ lệ Ca/P dht trong khẩu phần đến sinh trưởng của ngan 72
Bảng 4.12: ảnh hưởng của tỷ lệ Ca/P dht trong khẩu phần đến hiệu quả chuyển hóa thức ăn và tỷ lệ khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan 73
danh mục hình
STT
Tên hình
Trang
Hình 1: Khối lượng cơ thể ngan qua các tuần tuổi (ảnh hưởng của các mức năng lượng, protein và axit amin trong khẩu phần) 47
Hình 2: Tốc độ sinh trưởng của ngan qua các giai đoạn (ảnh hưởng của các mức năng lượng, protein và axit amin trong khẩu phần) 50
Hình 3: Lượng thức ăn thu nhận của ngan qua các giai đoạn (ảnh hưởng của các mức năng lượng, protein và axit amin trong khẩu phần) 54
Hình 4: Tiêu tốn thức ăn của ngan qua các giai đoạn (ảnh hưởng của các mức năng lượng, protein và axit amin trong khẩu phần) 54
Hình 5: Hàm lượng khoáng trong xương ống chân của ngan Pháp 72
1. Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề
Trong chăn nuôi gia cầm thì ngan là đối tượng sinh vật được quan tâm nghiên cứu và phát triển bởi vì chúng có nhiều đặc tính nổi trội hơn so với các loại gia cầm khác. Chúng có sức sống tốt, khả năng tận dụng thức ăn cao, tốc độ sinh trưởng nhanh và có thể nuôi thích ứng ở cả trên cạn và dưới nước, chúng không phụ thuộc vào tính chất thời vụ như vịt cũng không đòi hỏi chế độ dinh dưỡng nghiêm ngặt như ở gà. Mặt khác, ngan có tỷ lệ thân thịt cao, nạc nhiều, chất lượng thịt tốt, thịt ngan còn là một trong những loại thịt đỏ có tác dụng chữa bệnh nên được người tiêu dùng rất ưa chuộng. Theo kết quả nghiên cứu của Leclerg và Carville (1976) [47] thì trong thịt ngan chứa 22 - 23% protein; 1,43 - 1,66% lipit và 0,3% canxi - photpho; protein trong thịt ngan có giá trị cao, chứa đầy đủ các loại axit amin cần thiết cho cơ thể con người. Hiện nay trên thị trường, ngan được coi là món ăn đặc sản vì vậy giá trị 1kg thịt ngan có thể cao gấp 1,3 - 1,5 lần giá trị thịt gà; gấp 1,7 - 1,9 lần thịt vịt. Đây là, động lực thúc đẩy người chăn nuôi quan tâm đến con ngan nhiều hơn.
Trong chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi ngan nói riêng, một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến khả năng sản xuất của chúng là giá trị dinh dưỡng của thức ăn. Thức ăn chiếm hơn 70% giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, đến tận những năm 80 của thế kỷ XX vẫn chưa có một cơ sở dữ liệu nào về nhu cầu các chất dinh dưỡng cho các loài thủy cầm. Để thiết lập khẩu phần ăn cho vịt và ngan các nhà sản xuất thức ăn ở châu Âu vẫn phải sử dụng các khuyến cáo về nhu cầu các chất dinh dưỡng cho gà tây và gà broiler. Tuy cùng là lớp chim nhưng các loài thủy cầm có những đặc điểm sinh lý tiêu hoá, khả năng lợi dụng thức ăn, tốc độ sinh trưởng và thành phần thân thịt rất khác so với gà. Vì vậy, việc nghiên cứu thức ăn và dinh dưỡng cho ngan là rất cần thiết.
Khi khẩu phần thức ăn cân đối và đầy đủ các chất dinh dưỡng đáp ứng được nhu cầu sinh sản và sinh trưởng sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Thành phần dinh dưỡng quan trọng nhất đối với gia cầm nói chung và ngan nói riêng là năng lượng và protein, mặt khác phải có sự cân đối các axit amin và khoáng chất trong khẩu phần. Vì vậy, ngoài những yêu cầu về quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh phòng bệnh thì đòi hỏi phải có một chế độ dinh dưỡng hợp lý nhằm phát huy khả năng sinh sản và sinh trưởng của ngan Pháp. Xuất phát từ yêu cầu đó chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu xác định nhu cầu năng lượng, protein, axit amin (lysine, methyonine) và khoáng (canxi, photpho) của ngan Pháp nuôi thịt”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Xác định nhu cầu năng lượng, protein, axit amin (lysine, methionine) và khoáng (canxi, photpho) trong khẩu phần thức ăn của ngan Pháp nuôi thịt.
Góp phần hoàn thiện quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng ngan Pháp nuôi thịt ở Việt Nam.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Đặc tính sinh học của ngan
2.1.1. Nguồn gốc và đặc điểm ngoại hình của ngan
Thủy cầm (Waterfowl) là nhóm chim thuộc bộ Anseriformes, họ Anatidea gồm một số loài: vịt (gồm vịt nói chung (common ducks), ngan (moscovy ducks), vịt lai ngan (mule)); ngỗng và thiên nga. Trong đó vịt, ngan, ngỗng được thuần hoá từ lâu đời và được coi là nguồn thực phẩm quan trọng cho con người ở nhiều nước trên thế giới.
Ngan có nguồn gốc ở Nam Mỹ, được thuần hoá và đưa về nu`i ở một số nước trên thế giới như Anh, Pháp… Ban đầu, ngan có hai màu đen và trắng, sau quá trình thuần hóa ngan có nhiều màu khác nhau như trắng, đen, sôcôla và xanh. Ngan có đầu nhỏ, trán phẳng, con trống có mào màu đỏ to và rộng hơn con mái. Khác với vịt, tiếng kêu của ngan khàn khàn như câm, bộ lông đuôi có 18 chiếc, lông trán dựng đứng, mống thịt ở gốc mỏ có màu đỏ rượu vang kéo dài đến tận mang tai, hàm trên có 37 nếp gấp trong vòm trên. Mắt ngan sáng, dáng đi nặng nề và chắc chắn, cơ thể nằm ngang, có 8 xương cụt nên ngan có mỏm phao câu dài. Mỏ của ngan dẹt, dễ xúc thức ăn dưới nước và đưa vào miệng dễ dàng. So với vịt tính bầy đàn của ngan kém hơn, hiền lành và chậm chạp hơn [21].
Từ năm 1970 bằng con đường chọn lọc, cải tạo và nhân giống, trong vòng 20 năm hãng Nông nghiệp Grimaud Fresres đã tạo được 6 chủng ngan có kiểu hình tương đối thuần nhất, mỗi chủng có những đặc điểm riêng biệt:
3 dòng ngan trống:
Dòng lông nâu “Dominant”, tỷ lệ phôi: 93 - 94%.
Dòng lông trắng “Cabreur”, tỷ lệ phôi: 94 - 95%.
Dòng lông trắng R66, tỷ lệ phôi: 90 - 91%.
3 dòng ngan mái:
Dòng lông nâu “Dinamic”.
Dòng lông nâu “Typique”.
Dòng lông trắng “Casablanca”.
Sự phối hợp giữa các dòng thuần này cho ra các giống ngan thịt như R31, R32, R51, R71, ngan dòng siêu nặng, R41, R21, R61,…
2.1.2. Khối lượng cơ thể
Khối lượng cơ thể là một tính trạng số lượng, được quy định bởi các yếu tố di truyền, nó biến đổi mạnh dưới tác động của môi trường bên ngoài. Năm 1953, Godfrey đã phát hiện ra rằng trong sự di truyền khối lượng cơ thể phải có sự tham gia của ít nhất là một gen liên kết giới tính và tính trạng này được quy định ít nhất là 15 cặp gen. Khối lượng cơ thể là một tính trạng có hệ số di truyền cao. Powell, 1985 thấy hệ số di truyền về tính trạng khối lượng cơ thể của thủy cầm là h2 = 0,33 - 0,76. Ricard và Leclereq, 1983 tính được hệ số di truyền về khối lượng cơ thể của ngan lúc 70 ngày tuổi là h2 = 0,43 - 0,48. Khối lượng gia cầm con lúc mới nở, nói chung chỉ có tầm quan trọng với gia cầm dưới 1 tháng tuổi chứ không ảnh hưởng đến tốc độ lớn và khối lượng cơ thể sau đó. Khối lượng cơ thể có tương quan với khối lượng trứng cũng như với tất cả các kích thước cơ thể ở 8 tuần tuổi.
Theo nghiên cứu của Viện nông nghiệp quốc gia Pháp (INRA) thì tốc độ phát triển của ngan trống và ngan mái bắt đầu từ 1 ngày tuổi trở đi rất khác nhau. Ví dụ lúc mới nở, khối lượng của con trống so với con mái là 100% thì đến 70 ngày tuổi chỉ còn 58%. Tốc độ sinh trưởng của ngan con đạt cao nhất từ 2 - 7 tuần tuổi ở con mái và 2 - 8 tuần tuổi ở con trống. Trong giai đoạn này con mái có thể tăng trọng 400 g/tuần và con trống là 500 g/tuần. Sau đó, tốc độ sinh trưởng của chúng chậm dần rồi đột nhiên dừng lại ở tuần thứ 9 với con mái và tuần thứ 10 với con trống. Sự chênh lệch về khối lượng cơ thể của con mái và con trống là 600g ở 6 tuần đầu, 1000g ở 8 tuần và 1500g ở 10 tuần tuổi. Lúc 11 tuần tuổi, khối lượng của con mái đạt 2100g và con trống là 3500g (Carville, Croutte, 1985).
2.1.3. Tốc độ sinh trưởng
Sự khác nhau về tốc độ sinh trưởng giữa các giống hay trong phạm vi một giống một phần còn do ảnh hưởng của giới tính, mặc dù sự biến dị của tính trạng này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện ngoại cảnh. Tốc độ tăng trưởng có hệ số di truyền cao h2 = 0,37.
Ngan có sức lớn mạnh nhất từ lúc mới nở đến 2 tháng tuổi và đặc biệt khác với gà hay vịt là ngan trống lức 3 tháng tuổi lớn gần gấp đôi ngan mái. Lúc này con trống nặng 2,9 - 3,0 kg, trong khi con mái chỉ nặng 1,7 - 1,8 kg. Tốc độ sinh trưởng của ngan giảm dần từ tuần thứ 10 trở đi. Nhờ vào đặc điểm này người nuôi ngan có kinh nghiệm thường chọn con trống lúc mới nở để nuôi thịt.
Ngan mọc lông đầy đủ vào tuần thứ 11 hay tuần thứ 12, do vậy có những trận mổ nhau dữ dội vào tuần thứ 7 do thiếu hụt về protein, photpho. Vì vậy, cần chú ý điều chỉnh khẩu phần ăn hợp lý vào giai đoạn này. Từ lâu các nhà chăn nuôi đã nhận thấy giữa tốc độ sinh trưởng và sự mọc lông có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Ngan con 1 ngày tuổi đã mọc rất nhanh 6 lông cánh, đây là tiêu chuẩn về sự mọc lông nhanh, và đó cũng là sinh trưởng nhanh. Croutte và Carville cho biết xác định tuổi giết mổ thích hợp ở ngan liên quan rất lớn đến độ phát triển của lông. Tác giả cho biết ở con mái 10 tuần tuổi và con trống 11 tuần tuổi lông cánh đã phát triển thành thục.
2.1.4. Kích thước các chiều đo
Kích thước các chiều đo cơ thể có mối tương quan với khối lượng cơ thể và hướng sản xuất của con giống. Tạo ra giống có khả năng sản xuất thịt ngực và thịt đùi cao, người ta có thể dựa vào các số liệu tính toán cơ ngực, cơ đùi của cá thể gia cầm hoặc thông qua mối quan hệ đo được của các nhóm con mái. Pingel. H (1969) [51] đã nghiên cứu độ dày cơ ngực, thấy rằng chúng có mối tương quan dương giữa các số đo và tỷ lệ (%) thịt ức của ngan, vịt và ngỗng. Đặc biệt, cho đến nay người ta không thấy mối tương quan giữa độ dày lớp cơ ngực với tỷ lệ da và mỡ dưới da.
2.1.5. Khối lượng và chất lượng thịt xẻ
Thân thịt của thủy cầm chủ yếu là các mô cơ bắp, có thể bao gồm cả lipit của nội bào, lipit của cơ và ở dưới da. Chất lượng của thân thịt phụ thuộc vào sản lượng của các thành phần đặc biệt như lườn, đùi và những mô đặc biệt như nạc, mỡ, da, xương cũng như trình bày thân thịt. Khối lượng thân thịt phụ thuộc vào giống, tuổi và tính biệt. Theo Phùng Đức Tiến, 2004 [21] dẫn theo Bonitz và Tegge (1990) xác định tuổi giết thịt tốt nhất đối với ngan trống là 74 ngày; tỷ lệ thịt móc hàm 69,0%; tỷ lệ thịt lườn, đùi 48,9% còn đối với ngan mái là 67 ngày; tỷ lệ thịt móc hàm 70,8%; tỷ lệ thịt lườn, đùi 47,3%.
Theo Klem, Pingel và Knust, 1985 cho biết chất lượng thịt thuỷ cầm được đánh giá qua các chỉ tiêu như giá trị dinh dưỡng (tỷ lệ % của protein, mỡ, nước); giá trị giác quan (vẻ ngoài, mùi vị, nước, độ mềm); giá trị cơ năng (khả năng giữ nước, khả năng nhũ dịch hoá, khả năng dùng để chế biến tiếp theo) và giá trị vệ sinh (sự nhiễm khuẩn, không chứa dư chất hoá học). Trong các chỉ tiêu trên người ta chú ý nhất đến giá trị dinh dưỡng và giá trị giác quan. Khi phân tích thành phần thân thịt xẻ của ngan, vịt và con lai Mulard, Pingel, 1989 [50] cho biết tỷ lệ xương trong thịt xẻ của Mulard thấp hơn so với ngan và đều cao hơn so với vịt. Tỷ lệ da và mỡ dưới da ở ngan và Mulard giảm khi tuổi tăng lên, phù hợp với sở thích của người tiêu dùng.
2.1.6. Tiêu tốn thức ăn
Đây là tính trạng quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi. Clayton và Powell (1979) cho biết hệ số di truyền của tính trạng này biến động từ 0,09 - 0,32. Nắm được nhu cầu dinh dưỡng theo giai đoạn tuổi để điều chỉnh nhằm đạt được hiệu suất sử dụng thức ăn cũng như chất lượng thịt là mục tiêu hàng đầu của các nhà chăn nuôi.
Nhu cầu dinh dưỡng của ngan, đặc biệt là nhu cầu về protein, axit amin trong quá trình sinh trưởng từ nhiều năm nay đã trở thành đối tượng của các công trình nghiên cứu của INRA. Carville và Croutte cho rằng ngan không tiêu thụ thêm thức ăn khi hạ thấp tỷ lệ protein thô từ 18% (thời kỳ khởi động) còn 12% (thời kỳ kết thúc). Do đó, có thể giảm bớt lượng thức ăn tới mức tối thiểu cho thời kỳ sinh trưởng mà không hại gì đến hiệu suất sử dụng thức ăn cũng như chất lượng thân thịt. Kết quả là có khả năng tiết kiệm được thức ăn bằng cách giảm lượng protein vào thời kỳ kết thúc. Riêng thời kỳ này, mức tiêu thụ thức ăn bằng 1/2 tổng số thức ăn của giai đoạn nuôi thịt. Ngược lại, tỷ lệ năng lượng của khẩu phần cũng không ảnh hưởng gì tới sinh trưởng. Ngan có khả năng tự điều chỉnh mức độ tiêu thụ thức ăn bằng cách hấp thụ một lượng calo ổn định.
Nếu như biểu thị mức tiêu thụ thức ăn bằng số gam cho mỗi đầu con trong một ngày (với khẩu phần thức ăn chứa 3000 kcal ME/kg thức ăn hỗn hợp) thì thấy rằng khối lượng ngan tăng nhanh từ 0 tới 4 tuần tuổi ở con mái và 5 tuần tuổi ở con trống, sau đó dừng lại ở lứa tuổi này.
2.2. Đánh giá giá trị dinh dưỡng của thức ăn
2.2.1. Đánh giá giá trị năng lượng của thức ăn
Khoảng giữa thế kỷ 20, ở Mỹ và một số nước khác đã dựa trên hệ thống năng lượng của Kellner để xây dựng hệ thống năng lượng thuần cho gia cầm, nhưng hệ thống này có nhiều mặt hạn chế nên chỉ sau một thời gian ngắn chúng đã không được sử dụng trong sản xuất. Ngày nay, tất cả các nước đều thống nhất sử dụng hệ thống năng lượng trao đổi cho gia cầm.
ở nước ta, trước năm 1978 chúng ta dùng đơn vị yến mạch (oat). Một đơn vị yến mạch là 1 kg yến mạch có giá trị 1,414 kcal NE. Sau đó chúng ta chuyển sang dùng hệ thống năng lượng trao đổi [33].
Phương trình hồi quy của Nerhing (1973) đã được nhiều nước sử dụng để tính nhu cầu năng lượng trao đổi cho gia cầm:
ME (kcal/kg) = 4,26 X1 + 9,5 X2 + 4,23 X3 + 4,23 X4
Các hệ số 4,26; 9,5; 4,23 và 4,23 lần lượt là giá trị ME kcal/g của các chất protein, chất béo, xơ và chất chiết không nitơ ở dạng tiêu hóa.
X1, X2, X3 và X4 là lượng protein, chất béo, xơ và chất chiết không nitơ ở dạng tiêu hóa, tính theo g/kg thức ăn.
Để chính xác hơn người ta tính năng lượng trao đổi ở gia cầm theo hệ số hiệu chỉnh lượng nitơ tích luỹ hàng ngày trong cơ thể:
MEC (kcal/kg) = ME - N g tích luỹ trong cơ thể x 8,22 (Hill và Anderson, 1958)
Để tìm nitơ thức ăn tích luỹ trong cơ thể gia cầm chúng ta dùng số liệu của Blum, 1988:
Gia cầm trưởng thành: N tích luỹ = 0
Gia cầm đẻ và sinh trưởng cuối kỳ: N tích luỹ = 30% N thức ăn
Gia cầm sinh trưởng đầu kỳ: N tích luỹ = 40% N thức ăn
Để thuận tiện, nước ta chọn dùng một con số N tích luỹ là 35% cho tất cả các loại gia cầm [34].
Tuy hệ thống năng lượng thức ăn khá phức tạp, nhưng hiện nay ở phần lớn các nước người ta dùng năng lượng trao đổi để tính toán năng lượng thức ăn và biểu thị nhu cầu năng lượng cho gia cầm. Để thuận tiện, người ta đã có tính toán sẵn năng lượng trao đổi trong các loại thức ăn cho gia súc, gia cầm và xây dựng thành những bảng thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc, gia cầm.
Dẫn theo Phùng Đức Tiến và cộng sự (2003) [23] thì ngan thịt giai đoạn 0 - 4 tuần tuổi nhu cầu năng lượng trao đổi là 2750 - 2850 kcal/kg thức ăn, giai đoạn 5 - 8 tuần tuổi cần 2950 - 3000 kcal ME/kg thức ăn, giai đoạn 9 - 12 tuần tuổi cần 3050 - 3100 kcal ME/kg thức ăn.
2.2.2. Đánh giá giá trị dinh dưỡng protein thức ăn
Trong chăn nuôi gia cầm người ta xác định nhu cầu protein của vật nuôi theo protein thô và protein tiêu hoá.
* Protein thô
Protein thô của thức ăn được xác định bằng cách đo hàm lượng nitơ (N) trong thức ăn nhân với hệ số 6,25.
Protein thô = N x 6,25
Hàm lượng nitơ của protein bình quân là 16%. Vì vậy, một chất hữu cơ nào đó chứa x gam nitơ thì lượng protein thô của chất hữu cơ đó là x.N.(100/16) = x.N.6,25
Thực chất protein của các loại thức ăn khác nhau chứa một hàm lượng nitơ khác nhau và thường biến động từ 15 đến 17,6% so với lượng protein. Vì thế, để xác định protein thô của các loại thức ăn khác nhau phải dùng các hệ số khác nhau. Ví dụ: 6,38 đối với sữa; 5,8 đối với ngũ cốc và khô dầu; 5,5 đối với các loại protein có chất lượng kém hơn [33].
Protein thô chứa protein thuần và hợp chất nitơ phi protein. Nitơ phi protein thường chiếm 20 - 25% lượng nitơ tổng số ở thức ăn xanh, 70 - 80% ở củ cải và 10% ở thức ăn hạt.
Đối với gia cầm, người ta thường xác định nhu cầu protein hàng ngày cho chúng theo khối lượng mỗi ngày hoặc theo nồng độ phần trăm trong thức ăn hỗn hợp. Ví dụ như ngan con cần 20 - 21%, ngan sinh trưởng cần 16 - 17% protein thô.
* Protein tiêu hóa
Protein tiêu hóa là phần protein hấp thu được so với phần ăn vào.
Protein tiêu hóa = Protein thô x Tỷ lệ tiêu hóa
Tỷ lệ protein tiêu hóa (%) =
Protein thu nhận (g) - Protein ở phân (g)
x 100
Protein thu nhận (g)
Tỷ lệ tiêu hóa của protein thức ăn khác nhau theo từng loại thức ăn. Tuy nhiên ở loài dạ dày đơn, sự chênh lệch về tỷ lệ tiêu hóa giữa các loại thức ăn không lớn (70 - 90%) nhưng ở loài nhai lại thì chênh lệch nhau nhiều (20 - 80%) [10].
2.3. Nhu cầu năng lượng của gia cầm
2.3.1. Các dạng năng lượng trong thức ăn
Có 4 dạng năng lượng trong thức ăn của gia cầm, đó là năng lượng thô, năng lượng tiêu hóa, năng lượng trao đổi và năng lượng thuần. Tỷ lệ giữa các dạng năng lượng này trong thức ăn của gia cầm được Smith (1993) [59] thể hiện như sau:
Năng lượng thô
(Gross energy - GE)
(100%)
Năng lượng trong phân
(Energy in faeces - FE)
(22,22%)
Năng lượng tiêu hóa
(Digestible energy - DE)
(77,78%)
Năng lượng trong nước tiểu
(Urine energy - UE)
(5,56%)
Năng lượng trao đổi
(Metabolizable energy - ME)
(72,22%)
Năng lượng toả nhiệt
(Heat Incriment - HI)
(11,11 - 33,33%)
Năng lượng thuần
(Net energy - NE)
(38,99 - 61,11%)
Năng lượng cho duy trì Năng lượng cho sản xuất
- Chuyển hóa cơ bản - Tăng trưởng cơ thể
- Các hoạt động tự động - Vỗ béo
- Duy trì thân nhiệt - Cho lông
Năng lượng thô (GE) là năng lượng giải phóng ra khi đốt mẫu thức ăn trong máy đo năng lượng (Bombe calorimetrique). Năng lượng này sẽ bị mất mát trong quá trình tiêu hóa và chuyển hóa.
Năng lượng tiêu hóa (DE) là phần còn lại sau khi đem năng lượng thô trừ đi năng lượng ở phân (FE).
Năng lượng trao đổi (ME) của gia cầm là phần năng lượng còn lại sau khi lấy năng lượng tiêu hóa trừ đi năng lượng chứa trong nước tiểu (UE).
Năng lượng tiêu hóa trong cơ thể gia cầm bị mất đi trong quá trình trao đổi chất dưới dạng chất thải axit uric (axit uric thấm lẫn vào phân có màu trắng). Cứ 1g axit uric chứa 1197 KJ còn gọi là năng lượng nước tiểu.
Năng lượng thuần (NE) là phần năng lượng còn lại sau khi lấy năng lượng trao đổi trừ đi năng lượng nhiệt (HI).
Năng lượng thuần là phần năng lượng cuối cùng dùng cho duy trì và sản xuất.
Đối với gia cầm, phân và nước tiểu được thải ra đồng thời. Vì thế trong thực tiễn sản xuất, giá trị năng lượng của thức ăn thường được biểu thị dưới dạng năng lượng trao đổi.
2.3.2. Nhu cầu năng lượng của gia cầm
Nhu cầu về năng lượng trao đổi của gia cầm nói chung và con ngan nói riêng được thể hiện bằng số Kcal hoặc KJ/con/ngày (Smith, 1993) [59] và phải được cân đối với protein và các chất dinh dưỡng khác. 40 - 50% năng suất của gia cầm phụ thuộc vào mức năng lượng được đưa vào cơ thể.
Nhu cầu năng lượng cho gia cầm bao gồm năng lượng cho duy trì, năng lượng cho sản xuất (tăng trưởng và tạo sản phẩm). Muốn có năng lượng cho sản xuất cần có năng lượng cho duy trì. Con vật luôn luôn sử dụng năng lượng của thức ăn trước tiên cho duy trì sau đó mới cho sản xuất (Singh, 1988) [58].
* Nhu cầu năng lượng cho duy trì
Mỗi một cơ thể gia cầm ngoài yêu cầu năng lượng cho sản xuất thịt và trứng sẽ cần một lượng năng lượng nhất định để duy trì mọi hoạt động sinh lý (hoạt động sống) của chúng, còn gọi là cho quá trình trao đổi cơ bản như quá trình tiêu hóa thức ăn, hoạt động cơ, hoạt động thần kinh thể dịch, điều hòa thân nhiệt. Với điều kiện nuôi dưỡng bình thường, nhu cầu năng lượng cho hoạt động chiếm khoảng 50% so với nhu cầu năng lượng cho trao đổi cơ bản (Singh, 1988) [58]. Tổng chi phí ME cho trao đổi cơ bản của gia súc lớn lớn hơn gia súc nhỏ nhưng nếu tính theo 1 kg thể trọng thì gia súc càng nhỏ chi phí ME cho trao đổi cơ bản càng lớn (nhu cầu ME cho trao đổi cơ bản/kg thể trọng ở gà cao gấp 3 lần so với bò) (Mc Donal,1988) [41].
Người ta xác định nhu cầu năng lượng duy trì cho con vật bằng cách nghiên cứu năng lượng trao đổi cơ bản của con vật lúc nhịn đói. Con vật được nhốt trong phòng kín có nhiệt độ môi trường thích hợp và dường như không vận động. Nhu cầu năng lượng này là nhu cầu năng lượng trao đổi cơ bản hay năng lượng duy trì lý thuyết. Nghiên cứu mối tương quan giữa năng lượng trao đổi cơ bản với 1 kg khối lượng cơ thể và nhận thấy chỉ tiêu này rất biến động ở các loài gia cầm khác nhau. Tiếp theo người ta tìm mối tương quan giữa năng lượng trao đổi cơ bản với 1m2 bề mặt da thì nhận thấy chỉ tiêu này ít biến động hơn, nhưng do việc đo diện tích bề mặt da của gia cầm là rất khó. Cuối cùng người ta tìm ra mối tương quan chặt chẽ giữa năng lượng trao đổi cơ bản với 1 kg của tổng khối lượng cơ thể có số mũ là 0,75. Khối lượng cơ thể (W) với số mũ 0,75 (W0,75) được gọi là khối lượng cơ thể trao đổi. Các số liệu thực nghiệm cho thấy nhu cầu năng lượng trao đổi cơ bản ở những con vật trưởng thành tính trên 1 kg khối lượng cơ thể trao đổi đều xấp xỉ 70 kcal trong 1 ngày đêm. Tuy nhiên, con số này chỉ mang tính tương đối vì năng lượng trao đổi cơ bản còn phụ thuộc vào đặc điểm cá thể, giới tính, trạng thái sinh lý cũng như các giai đoạn phát triển của con vật [10].
Người ta xác định năng lượng trao đổi cơ bản của vật nuôi bằng cách tính lượng oxy tiêu thụ của con vật trong 1 ngày đêm và lượng nitơ thải ra qua nước tiểu khi nhốt con vật trong chuồng thí nghiệm đặc biệt. Năng lượng trao đổi cơ bản được coi là năng lượng duy trì lý thuyết. Trong thực tế sản xuất, năng lương duy trì của con vật thường cao hơn đáng kể so với năng lượng duy trì lý thuyết. Bởi vì con vật được nuôi trong điều kiện bình thường, chúng chịu ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường và tiêu thụ nhiều năng lượng hơn cho vận động cơ thể, chẳng hạn như vận động tìm kiếm thức ăn. Do đó, trong thực tế thường phải đưa thêm các hệ số vào để tính năng lượng duy trì cho từng loại gia súc gia cầm ở các lứa tuổi khác nhau.
Những vật nuôi có khối lượng cơ thể càng lớn thì năng lượng duy trì càng cao. Năng lượng thức ăn dùng để duy trì cơ thể là không có lợi cho người chăn nuôi. Do đó, người chăn nuôi cần cho con vật ăn đầy đủ để rút ngắn thời gian nuôi đối với những vật nuôi lấy thịt. Như vậy là đã làm giảm tổng năng lượng duy trì. Mặt khác cũng cần giữ ấm cho vật nuôi khi thời tiết lạnh để giảm bớt nhiệt thất thoát, góp phần giảm bớt chi phí thức ăn.
* Nhu cầu năng lượng cho sản xuất
Nhu cầu năng lượng cho sản xuất phụ thuộc vào các loại sản phẩm chăn nuôi khác nhau như thịt, trứng, sữa hay sức kéo cũng như năng suất thực tế của chúng. ở gia cầm đang sinh trưởng và vỗ béo, nhu cầu năng lượng cho sản xuất phụ thuộc vào tăng trọng hàng ngày và thành phần thân thịt xẻ. Còn đối với gia cầm đẻ trứng, nhu cầu này phụ thuộc vào sản lượng, khối lượng trứng và tỷ lệ đẻ của cả đàn.
Về mặt lý thuyết ta tách năng lượng duy trì và năng lượng sản xuất để hiểu rõ hơn vai trò và mối quan hệ hữu cơ giữa hai dạng năng lượng này, nhưng trong thực tế sản xuất ở nhiều nước người ta gộp hai dạng năng lượng này với năng lượng nhiệt thất thoát thành năng lượng trao đổi. ở nước ta đã dùng năng lượng trao đổi để biểu thị năng lượng có trong thức ăn và tính toán nhu cầu năng lượng cho gia cầm [10].
Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng của gia cầm
Nhu cầu năng lượng cho gia cầm bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Theo Scott, 1980 [55] thì những yếu tố cơ bản đó bao gồm:
- Những yếu tố sinh lý như giống, tuổi, tính biệt, khối lượng cơ thể, tốc độ sinh trưởng…
- Yếu tố dinh dưỡng như thành phần và tính chất của thức ăn, sự cân bằng các chất dinh dưỡng.
- Những yếu tố thuộc môi trường sống như nhiết độ môi trường, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng.
Cũng theo Scott và cộng sự (1976) [54] trong những yếu tố trên thì tốc độ sinh trưởng, nhu cầu năng lượng cho duy trì, khối lượng cơ thể, nhiệt độ môi trường, lượng thức ăn thu nhận và tính chất của khẩu phần là những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng của gia cầm.
2.4. Nhu cầu protein và axit amin của gia cầm
2.4.1. Nhu cầu protein
Protein là thành phần cấu trúc quan trọng nhất của cơ thể động vật nói chung và gia cầm nói riêng. Tất cả những biểu hiện của sự sống đều gắn liền với protein và không có bất cứ một vật chất nào nào khác có thể thay thế chúng về mặt chức phận.
Sự tổng hợp protein trong cơ thể chỉ có thể được tiến hành sau khi đã thu nhận được những thành phần cấu trúc cơ bản của protein là các axit amin.
Protein có các chức năng quan trọng như sau:
- Tạo các chất xúc tác enzim, nhờ các enzim này mà tốc độ các phản ứng hóa học trong cơ thể tăng lên tới 1012 lần.
- Thực hiện chức năng vận chuyển và dự trữ. Ví dụ như Hemoglobin vận chuyển CO2 và O2.
- Tham gia chức năng cơ giới như colagen tạo độ bền chắc của da, xương và răng.
- Chức năng vận động như sự co cơ.
- Chức năng bảo vệ như các chất kháng thể.
- Các quá trình thông tin như protein thị giác (rodospin).
Nhu cầu protein cho gia cầm thịt nói chung và ngan thịt nói riêng bao gồm nhu cầu cho duy trì, cho tăng trưởng và cho tổng hợp lông.
2.4.1.1. Nhu cầu protein cho duy trì
Protein rất cần thiết cho việc duy trì sự sống động vật. Vì vậy, sự trao đổi protein xảy ra ngay cả khi cơ thể động vật không nhận được protein trong thức ăn. Nếu kéo dài tình trạng thiếu hụt protein trong thức ăn để duy trì cho sự hoạt động thì động vật phải huy động protein riêng của cơ thể để cung cấp cho mọi sự hoạt động sinh trưởng của chúng. Trong quá trình trao đổi protein (đồng hóa và dị hóa), tạo ra sản phẩm trung gian chứa nitơ, lượng nitơ này thải ra ngoài cùng với nước tiểu, người ta gọi đó là nitơ nội sinh. Nó đặc trưng cho lượng nitơ mất đi tối thiểu cần thiết để tồn tại sự sống. Sự xác định nhu cầu protein cho duy trì sự sống được xác định từ giá trị trao đổi chất của cơ thể và mối tương quan chặt chẽ với nhu cầu năng lượng cho quá trình trao đổi cơ bản. Qua thí nghiệm trên động vật sống, các nhà khoa học đã xác định được rằng trung bình cứ 1 kcal năng lượng trao đổi cơ bản tạo ra 2 mg nitơ nội sinh trong nước tiểu (Bùi Đức Lũng, 1995) [2].
Vào năm 1976, qua nghiên cứu theo phương pháp yếu tố trên gia cầm, Herrie (dẫn theo Bùi Đức Lũng, 1995) [2] đã đưa ra công thức tính yêu cầu protein cho duy trì ở gia cầm như sau:
CP = 201 x W0,75 x 6,25
Hoặc có thể tính theo công thức:
CP =
0,0016 x W
0,64
Trong đó :
CP : Protein cho duy trì (g)
W : Khối lượng cơ thể (g)
0,0016: Lượng protein (g) cần cho sự duy trì/1g khối lượng sống cơ thể/ngày.
0,64 : Hiệu quả sử dụng protein thức ăn của gia cầm hướng thịt.
2.4.1.2. Nhu cầu protein cho tăng trưởng
Sự phát triển của cơ thể gắn liền với sự tích lũy protein trong cơ thể chúng. Sự tích lũy xảy ra nhanh ở gia cầm non và giảm dần theo lứa tuổi (Baker, 1993) [39].
Khi tăng hàm lượng protein trong khẩu phần có thể làm tăng tốc độ sinh trưởng nhưng tăng có giới hạn theo tuổi và theo khối lượng cơ thể.
Nhu cầu protein cho tăng trưởng đối với gia cầm:
CP =
WC - WO
x 0,18
0,64
Trong đó : CP : Protein cho tăng trưởng (g)
WO : Khối lượng cơ thể lúc ban đầu (g)
WC : Khối lượng cơ thể lúc kết thúc (g)
0,18 : Hàm lượng protein trong thịt
0,64 : Hiệu quả sử dụng protein thức ăn của gia cầm hướng thịt
2.4.1.3. Nhu cầu protein cho tạo lông
CP =
0,07 x W x 0,82
0,64
Trong đó : CP : Protein cho tạo lông (g)
W : Khối lượng cơ thể (g)
0,07 : Tỷ lệ khối lượng bộ lông so với khối lượng cơ thể
0,82 : Tỷ lệ protein trong lông
Nhu cầu protein cho gia cầm hướng thịt sẽ bằng tổng số nhu cầu protein cho duy trì, nhu cầu protein cho tăng trọng và nhu cầu protein cho phát triển lông. Như vậy nhu cầu protein cho gia cầm thịt sẽ là:
CP =
0,0016 x W + 0,18 x ΔW + 0,07 x W x 0,82
0,64
2.4.2. Nhu cầu axit amin
Axit amin là thành phần cơ bản của protein. Nó chứa 2 nhóm chức là cacboxyl - COOH mang tính axit và nhóm amin - NH2 mang tính kiềm. Tất cả các axit amin được phát hiện trong protein thuộc nhóm α - amino axit vì hầu hết nhóm amin của các axit amin đều nằm ở vị trí Cα.
Axit amin có công thức cấu tạo chung là:
R
CαH
H2N COOH
Hiện nay, người ta đã phát hiện được trên 150 loại axit amin khác._. nhau. Nhưng để tạo thành protein của cơ thể động thực vật chủ yếu có 22 axit amin tham gia [32].
* Axit amin thay thế và axit amin không thay thế
Căn cứ theo yêu cầu và khả năng tổng hợp axit amin của cơ thể động vật người ta chia axit amin thành 2 loại:
Axit amin không thay thế là những axit amin mà cơ thể động vật không thể tự tổng hợp được hoặc không thể tạo thành bằng cách chuyển hóa từ các axit amin khác. Động vật buộc phải lấy các axit amin đó từ thức ăn. ở gia cầm có 10 loại axit amin không thay thế là arginin, lyzin, histidin, leucin, isoleucin, valin, methionin, treonin, tryptophan và phenylalanin. Riêng glixin là axit amin không thay thế với gia cầm con còn với gia cầm trưởng thành thì nó là axit amin thay thế [3].
Axit amin thay thế là các axit amin mà cơ thể động vật có thể tổng hợp được hoặc tạo được bằng cách chuyển hóa từ các axit amin khác nhau. Người ta đã xác định được 13 axit amin thay thế trong cơ thể gia cầm đó là: alanin, asparaginin, aspartic, xystin, glutamic, glyxin, hydroprolin, prolin, serin, xitrulin, tyrozin, xystein và hydroxylizin. Axit amin thay thế này có thể không cần thiết phải cung cấp qua thức ăn. [3].
Sự phân chia axit amin thành axit amin thay thế và không thay thế chỉ là tương đối. Một axit amin là thay thế hoặc không thay thế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiêu chuẩn đánh giá (sinh trưởng, duy trì, cân bằng nitơ), tuổi con vật, sự có mặt của các axit amin khác trong khẩu phần, sự cung cấp các chất dinh dưỡng khác (đặc biệt là vitamin) và trạng thái sinh lý của con vật.
* Axit amin hạn chế
Trong khẩu phần thức ăn của gia cầm có các axit amin mà hàm lượng của nó thấp hơn so với nhu cầu của con vật từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng protein. Người ta gọi các axit amin thiếu trong khẩu phần là axit amin giới hạn hay là yếu tố hạn chế. Như vậy, axit amin giới hạn là axit amin mà số lượng của nó thường thiếu so với nhu cầu, từ đó làm giảm giá trị sinh học của protein trong khẩu phần (Shimada, 1984). Axit amin nào thiếu nhất và làm giảm hiệu suất lợi dụng protein lớn nhất thì gọi là axit amin hạn chế thứ nhất (yếu tố số một) và theo cách lý giải như vậy, những axit amin tiếp theo đó ít thiếu hơn so với nhu cầu và với mức axit amin khác được gọi là axit amin giới hạn thứ 2, rồi đến thứ 3, thứ 4... [31]. Nguyên tắc cơ bản để bổ sung axit amin vào khẩu phần vật nuôi là theo trình tự giới hạn. Axit amin giới hạn thứ nhất được bổ sung đầu tiên sau đó đến axit amin giới hạn thứ 2, thứ 3...
Nếu khẩu phần cho gia cầm chủ yếu sử dụng nguyên liệu ngô và đậu tương thì axit amin giới gạn thứ nhất là methionine (Lã Văn Kính, 1995) [11].
Vai trò của axit amin trong cơ thể rất đa dạng, là thành phần chủ yếu của protein, axit amin giữ vai trò quan trọng trong nuôi dưỡng gia cầm. Để quá trình tạo và đổi mới protit được tiến hành liên tục và cơ thể gia cầm phát triển một cách tối ưu, cần phải cung cấp cho chúng một lượng axit amin cần thiết với tỷ lệ nhất định trong thức ăn.
* Vấn đề cân bằng axit amin trong khẩu phần
Cơ thể gia cầm chỉ có thể tổng hợp nên protein của nó theo một mẫu cân đối về axit amin. Những axit amin nằm ngoài mẫu cân đối sẽ bị oxy hóa cho năng lượng. Do vậy, khi sử dụng các khẩu phần được cân đối phù hợp với nhu cầu axit amin của gia cầm thì sự sinh trưởng và sức sản xuất sẽ cao hơn, hiệu quả lợi dụng protein tốt, do đó tiết kiệm được protein thức ăn. Hiệu quả này còn phụ thuộc vào các axit amin thay thế và không thay thế của protein.
Cân bằng axit amin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cân bằng các chất dinh dưỡng. Bởi vì, thứ nhất tất cả các axit amin cần thiết cho vật nuôi đều được lấy từ thức ăn, thứ 2 ngoại trừ một lượng nhỏ axit amin dùng cho mục đích đặc biệt còn lại tất cả các axit amin được dùng chủ yếu để tổng hợp protein cơ thể. Và điều quan trọng nhất là không có sự dự trữ các axit amin trong cơ thể. Sự vắng mặt của một axit amin không thay thế trong khẩu phần sẽ ngăn cản việc sử dụng các axit amin khác để tổng hợp protein. Điều đó làm giảm tính ngon miệng, giảm sinh trưởng, cân bằng nitơ âm nghiêm trọng. Tức là mất protein cơ thể (Rose, 1986) [53].
Trong khẩu phần một vài axit amin không thay thế bị thiếu so với nhu cầu sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất ở gia cầm gây giảm khối lượng, chậm lớn, gia cầm con chậm phát triển, khả năng chống chịu bệnh kém. Khi không có isolơxin hoặc valin trong thức ăn gà con sẽ chết sau 19 ngày. Trong khẩu phần không có histidin gà con chỉ sống được 2 tháng. Còn nếu không có lysine gà sống được 53 ngày. Nếu loại trừ tất cả các axit amin ra khỏi khẩu phần ăn thì thời gian sống trung bình của gà con là 35 ngày.
Nếu axit amin dư thừa so với nhu cầu, axit amin không được sử dụng cho tổng hợp protein của cơ thể sẽ bị phân huỷ tạo ra axit uric, từ đó làm mất cân bằng axit amin, tạo ra yếu tố hạn chế mới, giảm sự lợi dụng protein trong khẩu phần làm gia cầm giảm sinh trưởng, giảm khả năng sản xuất (Yanning Han, 1994) [61]. Sự dư thừa axit amin còn gây ra sự đối kháng giữa các axit amin. Ví dụ như lysine với arginine, khi khẩu phần thừa lysine dẫn đến tăng cường hoạt động của enzim argininaza trong cơ thể, emzim này phân giải axit amin arginine ở ống thận do đó tăng hấp thu arginine.
* Phương pháp biểu thị nhu cầu axit amin trong khẩu phần
Trong dinh dưỡng vật nuôi, nhu cầu về axit amin chủ yếu là nhu cầu về các axit amin không thay thế. Khi thiếu bất kỳ một axit amin không thay thế nào trong khẩu phần thì quá trình tổng hợp protein bị rối loạn, thậm chí còn phá hủy trao đổi chất của cơ thể. Điều đó làm giảm khả năng sinh trưởng cũng như sức sản xuất của gia cầm. Vì vậy, cần cung cấp đầy đủ các axit amin không thay thế theo đúng nhu cầu của mỗi loại vật nuôi. Theo Tôn Thất Sơn, 2005 [31] (dẫn theo Scott, 1982) có 4 cách thông thường biểu thị nhu cầu axit amin:
- Số gam axit amin cho vật nuôi một ngày.
- Số gam axit amin cho 1000 kcal năng lượng trao đổi (ME) của khẩu phần.
- Tỷ lệ phần trăm axit amin tính theo khẩu phần.
- Tỷ lệ phần trăm axit amin tính theo protein.
Cách tính thứ nhất là cách chính xác nhất để thể hiện nhu cầu về axit amin nhưng rất khó áp dụng trong sản xuất. Cách thứ hai có ưu thế vì nó gắn nhu cầu axit amin với nồng độ năng lượng trong khẩu phần. Phương pháp này tiện lợi trong thực tế lập khẩu phần ăn cho gà.
Hiện nay cách thứ ba và thứ tư vẫn đang được sử dụng nhiều hơn.
* Xác định nhu cầu axit amin
Theo Fisher (1984) [44] khi xác định nhu cầu axit amin cho gia cầm cần chú ý đến các nhu cầu sau:
- Nhu cầu cho tăng trọng tối đa.
- Nhu cầu cho hiệu quả chuyển hóa thức ăn tối ưu.
- Nhu cầu cho tỷ lệ thịt xẻ tối đa.
- Nhu cầu cho thành phần hóa học thân thịt tối ưu.
- Nhu cầu cho tỷ lệ thịt lườn (cơ ngực) cao nhất.
Những kết quả đã nghiên cứu cho biết hàm lượng axit amin cần cung cấp cho mỗi nhu cầu trên không hoàn toàn đồng nhất. Vì vậy, rất khó để đưa ra nhu cầu về các axit amin đảm bảo tối ưu cho cả 5 nhu cầu trên. Chính vì vậy, tùy từng điều kiện cụ thể về kinh tế và kỹ thuật mà nên ưu tiên cho nhu cầu nào được coi là quan trọng nhất [17].
NRC, 1994 [49] đã đề xuất tỷ lệ các loại axit amin theo lysine trong khẩu phần cho gia cầm như sau:
Tỷ lệ axit amin lý tưởng theo lysine
Axit amin
Baker (1993)
NRC (1994)
Lysine
100
100
Arginine
105
110
Treonine
70
74
Valine
82
82
Methionine
37
38
Cysteine
38
43
NRC: National Research Councill
* Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu axit amin của gia cầm
- Giống, giới tính, hướng sản xuất và lứa tuổi: Nhu cầu về axit amin giữa các dòng, giống là khác nhau. Những giống có khối lượng lớn, có tốc độ sinh trưởng nhanh, năng suất trứng cao thì nhu cầu về axit amin của chúng lớn hơn những giống nhẹ cân, tốc độ sinh trưởng kém, khả năng sản xuất thấp. Gia cầm mái có nhu cầu axit amin thấp hơn gia cầm trống vì cùng lứa tuổi nhưng có tốc độ sinh trưởng lớn hơn con mái. Gia cầm con cần nhiều arginine và glycine hơn gia cầm trưởng thành, gia cầm đẻ trứng cần nhiều glutamic.
- Mức năng lượng trong khẩu phần: Nồng độ năng lượng trong khẩu phần cao thì nhu cầu axit amin cũng cao. Khẩu phần có nồng độ năng lượng thấp sẽ được động vật ăn nhiều hơn so với khẩu phần có nồng độ năng lượng cao. Nếu nồng độ các axit amin là không đổi thì ở khẩu phần có nồng độ năng lượng cao, lượng thức ăn thu nhận sẽ giảm vì thế mà nhu cầu về axit amin có thể không được thoả mãn. Như vậy, khi khẩu phần có nồng độ năng lượng tăng thì cũng cần tăng nhu cầu về axit amin. Ví dụ như, nếu trong 1 kg thức ăn có 1900 kcal ME, nhu cầu về lysine là 0,53% thì khi tăng nồng độ năng lượng đến 2300 kcal ME thì nhu cầu về lysine phải là 0,71%.
- Mức protein thô trong khẩu phần: Mức protein trong khẩu phần cao sẽ gây ra quá trình phân giải protein cho năng lượng đã sinh ra một lượng lớn các chất có hại cho cơ thể. Nếu protein thừa, khi xuống manh tràng sẽ bị vi sinh vật lên men gây thối làm viêm sưng ruột, tiêu chảy. Nếu nhu cầu axit amin được biểu thị bằng % protein trong khẩu phần thì khi hàm lượng protein trong khẩu phần tăng kéo theo nhu cầu axit amin tăng lên.
- Nhiệt độ môi trường: Theo Robert và cộng sự (1994) [52] cho biết tỷ lệ tiêu hoá các axit amin trong điều kiện nhiệt độ cao (320C) thấp hơn ở nhiệt độ bình thường (210C). Mức độ giảm tỷ lệ tiêu hóa của các axit amin cũng khác nhau. Tỷ lệ tiêu hóa của lysine, methionine và izoleucine tương ứng ở 210C là 83%, 92% và 87% thì ở 310C là 80%, 87% và 80% [19].
- ảnh hưởng của vitamin: Nhu cầu về axit amin chịu ảnh hưởng bởi các chất có hoạt tính sinh học như vitamin và một số nguyên tố đa vi lượng. Khi đưa vitamin B12 vào trong khẩu phần thì việc sử dụng các axit amin là rất tốt vì vitamin B12 tham gia vào thành phần của enzim methyl transferaza, enzim này có chức năng chuyển hormon cystine thành methionine (Lã Văn Kính, 1995) [11]. Methionine cung cấp nhóm metyl cho sự tổng hợp cholin và ngược lại, nếu trong khẩu phần không chứa đủ cholin thì đòi hỏi một lượng tối thiểu methionine chủ yếu để tổng hợp protein mô. Như vậy, chỉ có thể xác định nhu cầu về methionine khi sử dụng khẩu phần có đủ cholin. Ngoài ra trong cơ thể gia cầm axit nicotinic có thể tổng hợp từ tryptophan, axit này là chất rất cần thiết cho quá trình tổng hợp ADN. Vì vậy, nếu trong khẩu phần thức ăn thiếu axit nicotinic dẫn đến tăng nhu cầu về tryptophan.
* Mối quan hệ giữa năng lượng, protein và axit amin trong khẩu phần
Khả năng tiêu hóa, hấp thu và đồng hóa protein phụ thuộc lớn vào mức năng lượng trong khẩu phần. Bởi vì, năng lượng dưới dạng tích luỹ mỡ hoặc glucogen không những tham gia vào việc cấu trúc tế bào, các men, hormon để xúc tác quá trình tiêu hóa và trao đổi protein mà còn cung cấp năng lượng cho việc chuyển tải các sản phẩm của protein_axit amin từ thức ăn qua đường tiêu hóa vào tế bào.
Gia cầm thu nhận thức ăn trước hết là để thỏa mãn nhu cầu năng lượng. Khi đã thu nhận đủ năng lượng rồi thì gia cầm sẽ không ăn nữa mặc dù nhu cầu các chất dinh dưỡng khác như protein, axit amin, khoáng, vitamin... vẫn còn thiếu [19]. Còn trong trường hợp thiếu năng lượng, một phần axit amin có thể bị biến thành đường để thoả mãn nhu cầu năng lượng. Chính vì vậy, việc sử dụng chúng cho sinh tổng hợp protein bị giảm đi [17].
Sự quan hệ chặt chẽ giữa năng lượng trao đổi với protein theo một hằng số nhất định trong khẩu phần thức ăn cho từng giai đoạn phát triển và sản xuất của gia cầm. Hằng số đó được tính bằng tỷ lệ giữa số kcal năng lượng trao đổi (ME) với một phần trăm protein thô của thức ăn [3].
ME / %CP =
Kcal ME
1% protein thô
Theo Farrell (1983) [43] thì tỷ lệ này với mỗi giống gia cầm năng suất, lứa tuổi, nhiệt độ môi trường là khác nhau. NRC (1994) [49] đưa ra tỷ lệ năng lượng/protein tối ưu cho gà hướng thịt ở 0 - 5 tuần tuổi là 132 - 143 và ở 6 - 9 tuần tuổi là 152 - 165.
Khi trời lạnh cần áp dụng tỷ lệ ME/protein rộng, còn khi trời nóng cần áp dụng tỷ lệ hẹp. Khi trời nóng thu nhận thức ăn của gia cầm giảm, cần giảm bớt nồng độ năng lượng khẩu phần và tăng nồng độ protein.
Peter và cộng sự (1986) [17] cho biết yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất tới lượng mỡ của gia cầm là tỷ lệ năng lượng/protein. Khi tỷ lệ này cao, lượng mỡ trong cơ thể gia cầm sẽ tăng và ngược lại. Theo Guilaume (1975), dẫn theo Vũ Duy Giảng, 2001 [33], nếu tăng mức năng lượng lên 100 kcal ME/kg thức ăn thì mỡ thân thịt sẽ tăng lên khi protein khẩu phần giảm đi 1%.
Nhu cầu dinh dưỡng của ngan 1 - 28 ngày tuổi có năng lượng trao đổi 2850 kcal/kg ; protein thô 20 - 21%. Ngan 5 - 8 tuần tuổi năng lượng trao đổi 3000 kcal/kg ; protein thô 18 - 19%. Giai đoạn 9 - 12 tuần tuổi ngan có tốc độ sinh trưởng chậm lại nên có nhu cầu protein thấp hơn nhưng năng lượng lại cao hơn giai đoạn trước, tỷ lệ protein 16 - 17%, năng lượng trao đổi 3050 - 3100 kcal/kg (Phùng Đức Tiến, 2004) [21].
2.5. Nhu cầu khoáng của gia cầm
Chất khoáng chiếm trên dưới 3% khối lượng cơ thể gia cầm, trong đó chứa 40 nguyên tố khoáng. Đến nay người ta đã phát hiện được 14 nguyên tố khoáng cần thiết cho gia cầm, kể cả chức năng sinh lý trong cơ thể. Các nguyên tố khoáng tham gia cấu tạo nên toàn bộ bộ xương, cấu tạo tế bào dưới dạng muối của chúng [3].
Dựa vào hàm lượng các nguyên tố khoáng có mặt trong cơ thể vật nuôi, hoặc dựa vào khối lượng từng loại chất khoáng mà vật nuôi đòi hỏi cần được cung cấp trong thức ăn hàng ngày. Người ta chia chất khoáng thành hai nhóm là khoáng đa lượng và khoáng vi lượng. Cả hai nhóm khoáng đều có vai trò quan trọng cho quá trình trao đổi chất nhưng nhóm khoáng vi lượng có hàm lượng thấp hơn nhiều so với nhóm đa lượng. Khoáng đa lượng gồm canxi, photpho, magiê, kali, natri, clo và lưu huỳnh. Khoáng vi lượng gồm sắt, đồng, mangan, molipđen, coban, kẽm, selen, iôt, flo, vanaddi, niken… Trong các nguyên tố khoáng thì canxi và photpho là hai nguyên tố có số lượng lớn và giữ một vị trí trọng yếu trong đời sống của mọi loài sinh vật. Vì vậy, chúng cần có trong khẩu phần thức ăn với số lượng lớn hơn nhiều so với các nguyên tố khác [10]. Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu sâu hơn về hai nguyên tố này trong đời sống động vật.
2.5.1. Canxi (Ca)
Trong cơ thể gia cầm canxi có hàm lượng cao nhất trong các chất khoáng. Gần 90% canxit tập trung trong bộ xương và răng, chỉ có 1% tồn tại trong tế bào và dịch các mô.
Canxi và photpho là hai chất khoáng chính có vai trò kiến tạo và phát triển bộ xương. Canxi chiếm tới 36% tổng chất khoáng trong xương, photpho chiếm 17% còn magiê chỉ chiếm 1%. Trong các tế bào xương, canxi và photpho liên kết với nhau ở dạng tinh thể hydroxyapatit 3[Ca3(PO4)2].Ca(OH)2. Các tinh thể này nằm xen vào các sợi collagen của tế bào xương tạo cho xương bền vững và cứng cáp. Nguồn canxi, photpho này dễ dàng được cơ thể huy động khi khẩu phần thức ăn thiếu hụt chúng, đặc biệt là ở gia cầm trong giai đoạn đẻ trứng [10].
Các tinh thể canxi, photpho trong bộ xương luôn luôn ở trạng thái trao đổi với thể dịch xung quanh. ở gia cầm non, quá trình hấp thụ, lắng đọng các tinh thể canxi, photpho vào xương chiếm ưu thế còn ở gia cầm trưởng thành thì quá trình này cân bằng. Ngược lại, ở gia cầm già quá trình giảm sút hàm lượng khoáng trong xương diễn ra từ từ nhưng khi khẩu phần ăn không đủ canxi, photpho thì quá trình này lại diễn ra nhanh chóng làm cho bộ xương bị xốp, xương nhẹ, dòn, dễ gẫy…
Canxi ngoài vai trò kiến tạo và phát triển bộ xương nó còn có vai trò:
- Giúp cho quá trình đông máu, điều hòa tính thẩm thấu của màng tế bào.
- Cần thiết cho hoạt động bình thường của hệ thần kinh và sự co bóp của tim.
- Tham gia vào việc cân bằng axit và bazơ của cơ thể.
Thức ăn động vật như bột cá, bột thịt xương, bột xương… là nguồn cung cầp canxi lý tưởng. Lá cây hòa thảo, lá cây thức ăn xanh (rau muống, khoai lang...) đặc biệt lá cây họ đậu rất giàu canxi, nhưng hạt ngũ cốc như củ sắn, khoai lang... lại nghèo canxi. Premix khoáng là nguồn cung cấp canxi và các chất khoáng quan trọng khác cần thiết cho gia cầm.
Tỷ lệ thích hợp giữa canxi và photpho trong khẩu phần cho gia cầm biến thiên từ 1:1 đến 2:1 tuỳ theo loại gia cầm và mục đích sản xuất của chúng.
Quá trình hấp thu canxi: Sau khi canxi được hấp thu, một lượng lớn của nó được duy trì cho các hoạt động sinh lý bình thường như sự hình thành xương, vỏ trứng. Nếu thừa nó được tích lũy trong xương khoảng 20% còn lại thải ra ngoài. Sự tích lũy và sử dụng luôn luôn xảy ra trong cơ thể để đảm bảo chức năng sinh lý bình thường.
2.5.2. Photpho (P)
Mối liên kết chặt chẽ giữa canxi và photpho tạo thành các tinh thể hydroxyapatit lắng đọng giữa các sợi collagen của tế bào xương làm cho bộ xương cứng cáp đã được mô tả ở trên. Nhưng vai trò quan trọng nữa của photpho là:
- Tạo vật chất di truyền (các axit nucleic).
- Là thành phần cấu tạo của nhóm “photpho dinh dưỡng” có tên chung là photphoprotein (vitelin, casein…).
- Tham gia vào trung tâm hoạt động của nhiều enzim.
- Hoạt động như một hệ thống đệm, điều tiết pH của cơ thể.
- Mang năng lượng (ATP, GTP) là yếu tố chủ lực trong quá trình điều tiết sinh học thông qua sự photphoryl hóa.
Khi thiếu photpho trong thức ăn của gia cầm sẽ gây còi xương, xốp xương, giảm tính thèm ăn, ảnh hưởng tới việc hình thành vỏ trứng, giảm khả năng làm việc của gia cầm trống [4].
Hàm lượng photpho trong đất thấp làm cho hàm lượng nguyên tố này trong cây cỏ và các hạt ngũ cốc cũng thấp. Nhưng trong sữa bò, bột cá, bột xương… hàm lượng này rất cao. Phần lớn photpho trong thực vật (50 - 75%) đều ở dạng phytat là muối của axit phytic, rất khó tiêu hóa hấp thu cho gia cầm. Muốn tiêu thụ nó cần phải có enzim phytaza của cây xanh, enzim này có trong bột cỏ.
Nhu cầu canxi và photpho của gia cầm phụ thuộc vào loài, tuổi, tính năng sản xuất, tỷ lệ Ca/P, hàm lượng mỡ trong khẩu phần, nhiệt độ môi trường, hàm lượng vitamin D và chế độ chiếu sáng.
Có 2 phương pháp để xác định nhu cầu canxi và photpho cho gia cầm đó là phương pháp nhân tố (dựa vào lượng canxi tích luỹ trong cơ thể và lượng canxi mất mát nội sinh) và phương pháp cân bằng [35].
Nhu cầu Canxi và photpho cho gia cầm sinh trưởng (ARC, 1969)
Nguyên tố
0 - 8 tuần tuổi
8 - 18 tuần tuổi
Canxi (%)
1,1
1,1
Photpho (%)
0,77
0,66
2.6. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.6.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Hiện nay vẫn chưa rõ ngan được đưa vào nước ta từ khi nào. Theo “La production du canard au Việt Nam”, Sài Gòn (1961) nói rằng ngan được đưa từ Thái Lan vào Việt Nam từ thế kỷ 19. Vì vậy, người dân ở miền Nam gọi ngan là vịt Xiêm. So với tài liệu của Romantzoff (1981) thì thấy các đặc trưng ngoại hình của ngan Việt Nam cơ bản giống ngan nuôi tại Pháp. Về năng suất, ngan ở Việt Nam chưa được cải tạo, năng suất trứng và thịt thấp nên hiệu quả trong chăn nuôi ngan chưa được cao. Đến nay, tại Việt Nam chưa có một xí nghiệp hay cơ sở quốc doanh nào chăn nuôi ngan, chỉ có 3 nơi đang nuôi ngan tập trung đó là Viện Chăn Nuôi, Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam và trường Đại học Cần Thơ với mục đích phục vụ cho các thí nghiệm nghiên cứu khoa học về con ngan với quy mô vừa và nhỏ. Những năm gần đây nhiều trang trại chăn nuôi ngan của tư nhân đã hình thành và phát triển.
Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học của ngan nội cũng như sử dụng giống ngan này cho chương trình lai giống còn quá ít. Từ năm 1991 đến nay, được sự quan tâm của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ khoa học và Công nghệ, việc nghiên cứu về con ngan đang được chú ý.
Để nâng cao năng suất và chất lượng thịt ngan, tháng 10/1992 Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho nhập 500 ngan Pháp với mục đích cải tạo đàn ngan nội và giao cho Viện Chăn Nuôi chủ trì đề tài. Kết quả nuôi đã cho thấy, đàn ngan bước đầu tỏ ra thích nghi tốt, tỷ lệ nuôi sống cao, sản lượng trứng đạt 107 quả/mái/năm, tăng 46% so với giống ngan nội. Viện Chăn Nuôi quốc gia tiếp tục chủ trì đề tài “Nghiên cứu phát triển các giống ngan miền Bắc” và “Lưu giữ qũy gen con ngan nội” trong chương trình bảo tồn quỹ gen vật nuôi và đã thu được một số kết quả bước đầu như “Kết quả điều tra chăn nuôi ngan trong các hộ gia đình nông dân” (Viện Chăn Nuôi, 1991 - 1992); “Một số ứng dụng thụ tinh nhân tạo trong lai khác loài giữa ngan và vịt” (Viện Chăn Nuôi, 1992); “Một số đặc điểm về khả năng sinh sản của ngan nội” (Viện Chăn Nuôi, 1993); “Kết quả nghiên cứu về một số tính trạng năng suất của ngan trắng nội nuôi ở nông hộ” (trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, 1993)...
Do đặc tính còn hoang dã, con giống chưa được cải tạo. Theo Lê Thị Thuý và cộng sự (1995) [14] khi nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất của ngan nội ở miền Bắc cho biết: Ngan có cường độ sinh trưởng cao, khối lượng giết thịt lúc 12 tuần tuổi con trống có khối lượng 2,8 - 3,0 kg; con mái 1,7 - 1,8 kg. Ngan nội có tuổi thành thục sinh dục từ 225 - 235 ngày. Sản lượng trứng ở ngan loang là 63,31 quả/mái/năm còn ở ngan trắng là 70,83 quả/mái/năm.
Nhu cầu của sản xuất về giống ngan có năng suất chất lượng cao ngày càng tăng. Để đáp ứng nhu cầu đó tháng 8/2001 Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn cho phép nhập 4 dòng ngan Pháp ông bà R51 trong dự án “Phát triển giống vịt, ngan”. Sau khi nghiên cứu nhóm tác giả Phùng Đức Tiến, Trần Công Xuân, Dương Thị Anh Đào, Vũ Thị Thảo và ctv, 2003 đã cho biết: Ngan ông bà R51 có tỷ lệ nuôi sống cao từ 97,37 - 100%. Đến 25 tuần tuổi khối lượng trống đạt 4 kg, khối lượng mái đạt 2,55 kg. Ngan bố mẹ R51 đến 25 tuần tuổi con trống đạt 4,46 kg, con mái đạt 2,58 kg; lượng thức ăn tiêu thụ tương ứng là 24,72 và 16,73 kg. Năng suất trứng đạt 110,71 quả/mái/chu kỳ. Ngan thương phẩm đến 84 ngày tuổi con trống đạt 4,1 kg và con mái đạt 2,46 kg. Tiêu tốn thức ăn 3,12 kg/kg tăng trọng. Tỷ lệ thân thịt 71 - 74%. Trung tâm đã chuyển giao vào sản xuất 9.400 ngan bố mẹ và 28.800 ngan thương phẩm để nuôi trong nông hộ.
Phùng Đức Tiến, Trần Công Xuân và ctv (2003) [23] đã khuyến cáo về mức năng lượng và protein thích hợp trong khẩu phần cho ngan Pháp sinh sản và nuôi thịt là 2900, 2850, 2800, 2700, 2750, 2800 kcal/kg và 200, 190, 180, 140, 160, 180 g/kg tương ứng với các giai đoạn 0 - 4; 5 - 8; 9 - 12; 13 - 20; 21 - 24 và trên 24 tuần tuổi.
Các tác giả Phùng Đức Tiến, Dương Thị Anh Đào, Lê Thị Nga và Vũ Thị Thảo (2003) [22] khi xác định tỷ lệ axit amin (lysine, methionine) thích hợp trong khẩu phần thức ăn nuôi ngan Pháp siêu nặng lấy thịt đã bố trí thí nghiệm bổ sung mức lysine: 1; 0,8; 0,8%; mức methionine: 0,5; 0,4; 0,4% và mức lysine 1,15; 0,92; 0,88%; mức methionine: 0,55; 0,44; 0,44% ở mức protein 22; 20; 18% ứng với các giai đoạn 0 - 4; 5 - 8; 9 - 12 tuần tuổi trong khẩu phần thức ăn cho ngan Pháp nuôi thịt cho kết quả cao: Tỷ lệ nuôi sống đạt 98,3%. Khối lượng cơ thể 3601,7 - 3622,7g. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng thấp 3,03 kg. Chỉ số sản xuất là 140,01 - 137,93. Chỉ số kinh tế là 20,389 - 20,039.
Tháng 7/1992 - 12/2006 được sự giúp đỡ của hãng Grimaud Fresres (Pháp) bằng hợp tác khoa học các dòng ngan R31, R51, R71 và siêu nặng đã lần lượt được nhập vào nước ta với mục đích cải tạo tầm vóc và năng suất của ngan nội. Đồng thời định hướng và mở rộng vùng chăn nuôi ngan thịt, tạo các tổ hợp lai mới có năng suất, chất lượng thịt và trứng cao.
So với một số nước trong khu vực, những nghiên cứu về thủy cầm ở nước ta, đặc biệt là những nghiên cứu về dinh dưỡng và thức ăn còn rất khiêm tốn, ít về số lượng, hẹp về phạm vi. Tuy có những công trình nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cho vịt và ngan nhưng còn tản mạn, thiếu tính hệ thống và đặc biệt là chưa đi sâu nghiên cứu quan hệ cân bằng và các mối tương tác giữa năng lượng, protein với các yếu tố dinh dưỡng khác trong khẩu phần.
2.6.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Những nghiên cứu về con ngan đầu tiên và nhiều nhất là ở Pháp, Đức, ý, Đài Loan. Những công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học, màu sắc lông, tính bầy đàn, tính năng sản xuất đã được đề cập bởi các tác giả như Wanatable (1961), Romantzoff (1981), Rouvier (1987, 1989) Auvergne, Balile (1987, 1991)... Theo kết quả nghiên cứu của Romantzoff (1985) - trích theo Phùng Đức Tiến (2004) [21] về một số đặc điểm của ngan nuôi tại Pháp cho biết: Ngan có nguồn gốc nhiệt đới Nam Mỹ. Thời gian thành thục của ngan trống từ 30 - 40 tuần tuổi và khối lượng dịch hoàn thời kỳ sinh sản là 25 - 30g, còn ngan mái thành thục sinh dục từ 26 - 28 tuần tuổi và có thời gian ấp 35 ngày, khối lượng con mái bằng 51% khối lượng ngan trống.
Bằng con đường chọn lọc, cải tạo và nhân giống bắt đầu từ năm 1970 hãng Nông nghiệp Grimaud Fresres đã tạo được 6 chủng ngan có kiểu hình tương đối thuần nhất, mỗi chủng có những đặc tính sinh học riêng biệt. Đó là 3 dòng trống (Dominant, Cabreur, R66) và 3 dòng mái (Dinamic, Casablanca, Typique). Sự phối hợp giữa các giống thuần này đã cho ra các giống ngan thịt như: R31, R32, R51, R71 và siêu nặng. Ngoài ra còn có các con lai R41, R21, R61… Chúng đã có những tác dụng tích cực đối với sản xuất.
Theo P.Stevens và B.Sauveur (1985) - dẫn theo Đỗ Văn Hoan (2004) chương trình cải tạo giống của hãng Grimaud Fresres sau 20 năm thực hiện đạt kết quả như sau:
Năm
Khả năng sinh sản
Khả năng sinh trưởng
Trứng/mái
/năm (quả)
Ngan con/
mái/năm (con)
Tỷ lệ
chết (%)
Trọng lượng cơ thể (kg)
TTTă
(kg Tă/kgP)
Trống
Mái
1970
95
61
6
3,1
1,8
3,30
1982
145
106
4
3,9
2,2
2,75
Các công trình nghiên cứu nâng cao tính năng sản xuất cũng như cải tiến chất lượng sản phẩm thịt ngan ngày càng có nhiều thành tựu đáng kể. Từ năm 1943, theo các báo cáo của Hội chăn nuôi Taichung (Đài Loan) tỷ lệ phôi khi nhảy trực tiếp giữa ngan trống và vịt mái chỉ đạt 42,3%. Do hiện tượng bất thụ giữa chúng nên những con lai sinh ra đều bất dục, buồng trứng và ống dẫn trứng ở con mái kém phát triển, con trống không có khả năng thụ tinh vì tinh trùng đa nhân. Đến năm 1985, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo ngan lai vịt đã trở lại sau thành công của các nhà khoa học Đài Loan. Kỹ thuật này thực tế đã được sử dụng phổ biến để tạo con lai Mulard với tỷ lệ phôi khoảng 70%, con lai này nuôi nhồi béo để lấy gan rất tốt, trung bình cho năng suất khoảng 500 g/gan/con.
Leclercq và Carvill (1985) [48] khi nghiên cứu trên ngan từ 0 - 3 tuần tuổi đã rút ra kết luận: với khẩu phần cơ sở là ngô và khô dầu đậu tương (2952 kcal ME/kg) mức protein thô cho sinh trưởng cao nhất là 19,3% đối với ngan trống và 17,7% đối với ngan mái. Các tác giả này cũng cho biết để đạt được tăng trọng cao nhất, ngan trống từ 4 - 10 tuần tuổi cần được ăn khẩu phần có hàm lượng protein thô không cao hơn 15%.
Leclercq và Carvill (1979) [47] cũng nghiên cứu về nhu cầu methionine của ngan trống từ 3 - 6 và 7 - 10 thì thấy với khẩu phần có 15,5% protein thô thì hàm lượng lysine, methionine và cystine thích hợp tương ứng là 0,65; 0,25 và 0,3%.
Theo Carville de H và Sauveur B (1985) - dẫn theo Đỗ Văn Hoan (2004) ngan có thể đẻ sớm lúc 22 - 23 tuần tuổi nhưng tốt nhất tuổi thành thục là đẻ 10% lúc 29 - 30 tuần tuổi, nếu đẻ trước 27 - 28 tuần tuổi thì không được tốt. Theo các tác giả thì vấn đề này có liên quan chính đến khối lượng trứng, nếu điều chỉnh tốt tuổi thành thục thì khối lượng trứng luôn luôn lớn hơn 70g. Mặt khác, khi ngan thành thục sớm sẽ tăng khả năng thương tổn dương vật con trống sau khi giao phối. Vậy cách điều khiển thành thục về tính là thông qua hạn chế thức ăn, giai đoạn từ 9 - 28 tuần tuổi chỉ cho ngan ăn 80 - 120 g/con/ngày.
Bagliaca, Pacc và Avanzi (1988) thí nghiệm trên 360 con ngan từ 1 - 66 ngày (con trống) và 1 - 59 ngày (con mái) trên cơ sở thức ăn chính là ngô, đậu tương, có nghiên cứu cân bằng năng lượng và protein nhưng chứa lượng hạt 4,6 - 6%. Khối lượng cơ thể lúc 66 ngày tuổi ở con trống là 3800, 3792, 3697g với thức ăn chi phí tương ứng là 2,6; 2,76; 2,75 kg/kg tăng trọng. ở con mái là 2256, 2050, 2089g với chi phí 2,85; 3,01; 2,39 kg/kg tăng trọng. P.Auvergne, Baudonnet và Babile (1991) thí nghiệm bổ sung thêm 0,22 và 0,52g methionine/kg thức ăn cho ngan trong 15 ngày ở 11 tuần tuổi cho 3 loại ngan (loại cân nặng, loại nhẹ cân và con lai Hybird R61) cho thấy khối lượng lúc giết thịt của các lô thí nghiệm và lô đối chứng không thay đổi, song đã làm tăng tỷ lệ cơ ngực ở ngan.
Trong 4 thập kỷ qua, con ngan ngày càng được chú ý vì nó có những ưu điểm về tốc độ sinh trưởng, phẩm chất thịt. Do thị hiếu và chất lượng sản phẩm, từ chỗ là nguồn đặc sản qúy hiếm đến nay thịt ngan đã trở thành nguồn thịt gia cầm chủ yếu ở một số nước trên thế giới. ở Pháp, sản phẩm thịt ngan hàng năm chiếm 71,5% trong tổng sản phảm thịt thủy cầm. Năm 1994, số lượng thịt ngan lên tới 34 triệu con, sản xuất ra 80.000 tấn thịt chiếm 85% thịt thủy cầm, đứng đầu thị trường Châu Âu về sản phẩm thịt ngan.
3. đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Mỗi thí nghiệm đều được tiến hành trên 675 ngan Pháp (R71 x R51) thương phẩm từ 0 đến 12 tuần tuổi.
Địa điểm nghiên cứu: Tại các hộ nông dân chăn nuôi ngan tập trung tại huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Thời gian nghiên cứu: Thí nghiệm I được tiến hành từ tháng 10/2008 đến tháng 01/2009. Thí nghiệm II được tiến hành từ tháng 04/2009 đến tháng 07/2009.
3.2. Nội dung nghiên cứu
ảnh hưởng của các mức năng lượng, protein và axit amin trong khẩu phần đến sinh trưởng, hiệu quả chuyển hóa thức ăn, một số chỉ tiêu về năng suất và chất lượng thịt của ngan Pháp nuôi thịt.
ảnh hưởng của các mức canxi và photpho dễ hấp thu trong khẩu phần đến sinh trưởng, hiệu quả chuyển hóa thức ăn và hàm lượng khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan Pháp nuôi thịt.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi nội dung nghiên cứu trên được thực hiện bằng một thí nghiệm nuôi dưỡng.
3.3.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm I: Nghiên cứu xác định nhu cầu năng lượng, protein và một số axit amin thiết yếu trong khẩu phần thức ăn của ngan Pháp nuôi thịt.
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hai nhân tố. Nhân tố thứ nhất là năng lượng với 3 mức: mức trung bình (2850 - 2900 - 3000 kcal/kg) theo khuyến cáo của hãng Grimaud Fresres (2006); mức cao (2950 - 3000 - 3100 kcal/kg) và mức thấp (2750 - 2800 - 2900 kcal/kg); tương ứng với các giai đoạn 0 - 3; 4 - 7 và 8 - 12 tuần tuổi. Tương ứng với mỗi mức năng lượng là một mức protein gồm mức trung bình (200 - 180 - 160 g/kg) theo khuyến cáo của hãng Grimaud Fresres (2006); mức cao (210 - 190 - 170 g/kg) và mức thấp (190 ._.ng tôi thấy trong tất cả các giai đoạn sinh trưởng khối lượng cơ thể ngan đều thấp nhất ở nhóm ngan được ăn khẩu phần có mức canxi thấp và photpho thấp (lô 9) và cao nhất ở nhóm ngan được ăn khẩu phần có mức canxi cao và photpho cao (lô 1). Khối lượng ngan ở 3, 7 và 10 tuần tuổi đạt cao nhất tương ứng là 659g, 2763g và 3924g ở những lô được ăn khẩu phần có mức canxi cao và photpho cao.
Bảng 4.7: Khối lượng cơ thể ngan qua các giai đoạn sinh trưởng (gam)
3 tuần tuổi
7 tuần tuổi
10 tuần tuổi
Trống
Mái
TB
Trống
Mái
TB
Trống
Mái
TB
ảnh hưởng của các mức canxi khẩu phần
Ca-th
607a
508a
559a
2812a
2172a
2503a
4349a
2871a
3644
Ca-tb
618a
562b
590b
2878b
2269b
2580b
4331a
2900a
3648
Ca-c
654b
590c
623c
2964c
2320c
2649b
4474b
3006b
3750
SE
5.6
4.2
4.3
10.4
13.2
22.6
8.4
15.3
49.8
P
0.000
0.000
0.000
0.000
0.000
0.000
0.000
0.000
0.231
ảnh hưởng của các mức photpho khẩu phần
P-th
611a
539a
575a
2842a
2213a
2533a
4306a
2875a
3610
P-tb
625a
557b
592b
2888b
2243a
2575ab
4403b
2937b
3696
P-c
644b
564b
605c
2925c
2305b
2624b
4446c
2965b
3736
SE
5.6
4.2
4.3
10.4
13.2
22.6
8.4
15.3
49.8
P
0.000
0.000
0.000
0.000
0.000
0.017
0.000
0.000
0.188
ảnh hưởng tương tác giữa các mức canxi và photpho khẩu phần
Th*Th
585a
490a
538a
2757a
2152a
2458
4225a
2812a
3528
Th*TB
625ab
528b
580bc
2865bc
2208ab
2558
4495d
2968b
3781
Th*C
612ab
507ab
561ab
2815ab
2157ab
2494
4327bc
2835ac
3623
TB*Th
621ab
560c
591bc
2871bc
2240abc
2559
4311b
2908abc
3647
TB*TB
610ab
562c
586bc
2880bc
2250abc
2565
4340bc
2891abc
3635
TB*C
624ab
563c
595bc
2884bc
2317c
2616
4344bc
2900abc
3661
C*Th
628b
566c
598bc
2898bc
2246abc
2581
4381c
2906abc
3654
C*TB
638b
582c
611c
2918c
2272bc
2603
4375c
2952bc
3673
C*C
697c
621d
659d
3077d
2441d
2763
4667e
3161d
3924
SE
9.7
7.2
7.4
18.0
22.9
39.2
14.6
26.6
86.2
P
0.000
0.000
0.000
0.000
0.000
0.056
0.000
0.000
0.123
Ghi chú: TB: trung bình; Ca-th: mức canxi thấp; Ca-tb: mức canxi trung bình; Ca-c: mức canxi cao; P-th: mức photpho thấp; P-tb: mức photpho trung bình; P-c: mức photpho cao; các giá trị trung bình ở các hàng trong cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê.
4.7. ảnh hưởng của các mức canxi và photpho dễ hấp thu trong khẩu phần đến tốc độ sinh trưởng của ngan Pháp nuôi thịt
ảnh hưởng của các mức canxi và photpho dễ hấp thu trong khẩu phần đến tốc độ sinh trưởng của ngan Pháp nuôi thịt được chúng tôi trình bày ở bảng 4.8.
Kết quả ở bảng 4.8 cho thấy, trong giai đoạn từ 0 - 3 tuần tuổi tăng trọng của ngan tăng rõ rệt cùng với sự tăng hàm lượng canxi trong khẩu phần. Tăng trọng trung bình của ngan (27,3 g/con/ngày) ở các lô được ăn khẩu phần có mức canxi cao cao hơn so với các lô được ăn khẩu phần có mức canxi thấp (P < 0,001). Sang giai đoạn 4 - 7 tuần tuổi, tốc độ sinh trưởng của ngan cũng có xu hướng tương tự nhưng sự chênh lệch giữa nhóm có mức canxi cao so với nhóm có mức canxi trung bình và thấp không lớn. Đến giai đoạn 8 - 10 tuần tuổi đáp ứng về tốc độ sinh trưởng đối với các mức canxi lại khác hẳn so với các giai đoạn trước. Tốc độ sinh trưởng của ngan cao nhất (54,8 g/con/ngày) thấy ở nhóm ngan được ăn khẩu phần có mức canxi thấp.
Bảng 4.8 cho thấy trong giai đoạn từ 0 - 7 tuần tuổi, khi tăng hàm lượng photpho trong khẩu phần sẽ làm tăng tốc độ sinh trưởng của ngan. Tuy nhiên đáp ứng của ngan đối với sự tăng giảm hàm lượng photpho trong khẩu phần không mạnh và rõ như đối với các mức canxi.
Khi nghiên cứu chúng tôi thấy có quan hệ tương tác rõ rệt giữa hàm lượng canxi và photpho trong khẩu phần đối với tốc độ sinh trưởng của ngan ở hầu hết các giai đoạn sinh trưởng, đặc biệt là giai đoạn từ 0 - 7 tuần tuổi. Trong giai đoạn từ 0 - 3 và 4 - 7 tuần tuổi chúng tôi thấy tốc độ sinh trưởng trung bình của ngan đạt cao nhất (tương ứng là 29,0 và 75,1 g/con/ngày) thấy ở nhóm ngan được ăn khẩu phần có mức canxi cao và photpho cao (lô 1). Đến giai đoạn 8 - 10 tuần tuổi tốc độ này lại đạt cao nhất 58,3 g/con/ngày ở nhóm ngan được ăn khẩu phần có mức canxi thấp và photpho trung bình (lô 8).
Bảng 4.8: Tốc độ sinh trưởng của ngan qua các tuần tuổi (g/con/ngày)
0 - 3 tuần tuổi
4 - 7 tuần tuổi
8 - 10 tuần tuổi
0 - 10 tuần tuổi
Trống
Mái
TB
Trống
Mái
TB
Trống
Mái
TB
Trống
Mái
TB
ảnh hưởng của các mức canxi khẩu phần
Ca-th
26.6a
21.8a
24.3a
78.7a
59.3a
69.7
73.0a
32.9a
54.8
61.4a
40.1a
51.8
Ca-tb
27.1a
24.4b
25.7b
80.5b
60.9ab
71.2
69.5b
29.6b
51.1
61.1a
40.5a
51.6
Ca-c
28.8b
25.7c
27.3c
82.5c
61.9b
72.1
71.8a
32.7a
52.0
63.1b
42.3b
52.6
SE
0.3
0.2
0.2
0.3
0.5
0.7
0.6
0.5
1.4
0.1
0.2
0.7
P
0.000
0.000
0.000
0.000
0.001
0.065
0.000
0.000
0.153
0.000
0.000
0.623
ảnh hưởng của các mức photpho khẩu phần
P-th
26.7a
23.3a
25.0a
79.6a
59.7a
70.0
69.7a
31.2a
51.6
60.8a
40.3a
51.1
P-tb
27.4a
24.2c
25.8b
80.8b
60.2a
70.8
72.1b
32.8b
53.2
62.1b
41.1b
52.0
P-c
28.3b
24.5c
26.4b
81.3b
62.1b
72.2
72.4b
31.1a
53.2
62.8c
41.5b
52.9
SE
0.3
0.2
0.2
0.3
0.5
0.7
0.6
0.5
1.4
0.1
0.2
0.7
P
0.000
0.000
0.000
0.001
0.001
0.093
0.002
0.036
0.659
0.000
0.001
0.233
ảnh hưởng tương tác giữa các mức canxi và photpho khẩu phần
Th*Th
25.5a
21.0a
23.2a
77.6a
58.9a
69.0
69.9a
30.8bcd
52.6
59.6a
39.1a
50.5
Th*TB
27.4ab
22.8b
25.2bc
80.0abc
60.0a
70.7
77.6b
36.2a
58.3
63.5d
41.7c
53.3
Th*C
26.8ab
21.8ab
24.3ab
78.7ab
58.9a
69.5
71.5a
31.6bcd
53.6
61.1bc
39.6ab
51.5
TB*Th
27.2ab
24.3c
25.8bc
80.1bc
60.0a
70.0
69.0a
31.4bcd
51.0
60.9b
40.8bc
51.3
TB*TB
26.7ab
24.4c
25.5bc
81.1bc
60.2a
71.4
69.5a
29.9bc
51.7
61.3bc
40.3abc
51.8
TB*C
27.4ab
24.4c
25.9c
80.2bc
62.4b
72.1
70.0a
27.4c
50.6
61.3bc
40.5abc
51.8
C*Th
27.6b
24.6c
26.1c
81.1bc
60.2a
70.9
70.3a
31.4cd
51.2
61.8c
40.9bc
51.5
C*TB
28.0b
25.3c
26.7c
81.4c
60.4a
70.3
69.2a
32.4abd
49.5
61.6bc
41.5c
50.8
C*C
30.8c
27.2d
29.0d
85.0d
65.0b
75.1
75.7b
34.3ad
55.3
66.0e
44.4d
55.3
SE
0.5
0.3
0.4
0.6
0.8
1.3
1.0
0.9
2.5
0.2
0.4
1.3
P
0.000
0.000
0.000
0.000
0.007
0.191
0.000
0.000
0.257
0.000
0.000
0.124
Ghi chú: TB: trung bình; Ca-th: mức canxi thấp; Ca-tb: mức canxi trung bình; Ca-c: mức canxi cao; P-th: mức photpho thấp; P-tb: mức photpho trung bình; P-c: mức photpho cao; các giá trị trung bình ở các hàng trong cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê.
Từ các kết quả trên chúng tôi rút ra nhận xét rằng: trong giai đoạn từ 0 - 7 tuần tuổi, ngan rất nhạy cảm với sự thay đổi mức canxi và photpho trong khẩu phần. NRC (1994) khuyến cáo về mức canxi trong khẩu phần thức ăn cho vịt Bắc Kinh từ 0 - 2 tuần tuổi là 0,65% và 3 - 7 tuần tuổi là 0,6%. Như vậy với kết quả của chúng tôi, để đạt được tốc độ sinh trưởng cao nhất thì nhu cầu về canxi và photpho của ngan là khá cao so với khuyến cáo của NRC cho vịt Bắc Kinh.
Rush và cộng sự (2005) đã thông báo nhu cầu canxi cho sinh trưởng tối đa của vịt Bắc Kinh là 0,95% (cao hơn nhiều so với khuyến cáo của NRC, 1994). Rodehutscord và cộng sự (2005) khi so sánh hiệu quả chuyển hóa photpho khẩu phần của gà broiler, vịt Bắc Kinh, gà tây và chim cút cho thấy, hiệu quả chuyển hóa photpho thức ăn của vịt thấp hơn rất nhiều so với gà và chim cút. Điều đó có nghĩa là để đáp ứng nhu cầu photpho của vịt và ngan cần lưu ý đến hiệu quả chuyển hóa photpho trong thức ăn của chúng. Tuy nhiên, để có thể rút ra những kết luận về nhu cầu canxi và photpho cho ngan trong nghiên cứu này cần phải căn cứ vào hiệu quả chuyển hóa thức ăn.
4.8. ảnh hưởng của các mức canxi và photpho dễ hấp thu trong khẩu phần đến hiệu quả chuyển hóa thức ăn của ngan Pháp nuôi thịt
Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của các mức canxi và photpho dễ hấp thu trong khẩu phần đến hiệu quả chuyển hóa thức ăn của ngan Pháp được chúng tôi trình bày ở bảng 4.9.
* Lượng thức ăn thu nhận (g/con/ngày)
Ngoại trừ giai đoạn 0 - 3 tuần tuổi còn lại ở hầu hết các giai đoạn sinh trưởng lượng thức ăn thu nhận của ngan không chịu ảnh hưởng của các mức canxi và photpho trong khẩu phần và cũng không có quan hệ tương tác giữa mức canxi và photpho trong khẩu phần đối với khả năng tiêu thụ thức ăn của ngan.
Bảng 4.9: Hiệu quả chuyển hóa thức ăn của ngan Pháp nuôi thịt
Thức ăn thu nhận
(g/con/ngày)
Tiêu tốn thức ăn
(kg/kg tăng trọng)
Chi phí thức ăn
(nghìn đồng/kg tăng trọng)
0-3tt
4-7tt
8-10tt
0-10tt
0-3tt
4-7tt
8-10tt
0-10tt
0-3tt
4-7tt
8-10tt
0-10tt
ảnh hưởng của các mức canxi khẩu phần
Ca-th
35a
169
198
137
1.43a
2.42a
3.62
2.65
8.98a
14.3a
21.0a
15.6
Ca-tb
36b
168
194
136
1.41a
2.36ab
3.79
2.64
8.89a
13.9
22.1b
15.6
Ca-c
37b
167
195
137
1.36b
2.32b
3.75
2.60
8.54b
13.8
21.9ab
15.4
SE
0.3
1.5
1.5
0.9
0.0
0.0
0.1
0.0
0.09
0.14
0.29
0.14
P
0.000
0.773
0.142
0.639
0.007
0.029
0.052
0.289
0.005
0.073
0.030
0.535
ảnh hưởng của các mức photpho khẩu phần
P-th
36
168
196
137
1.43a
2.41
3.79
2.68
8.99
14.2
22.0
15.7
P-tb
36
167
196
136
1.39ab
2.36
3.70
2.62
8.73
13.9
21.6
15.5
P-c
36
169
195
137
1.38b
2.34
3.67
2.59
8.69
13.9
21.5
15.4
SE
0.3
1.5
1.5
0.9
0.0
0.0
0.1
0.0
0.09
0.14
0.29
0.14
P
0.547
0.628
0.856
0.899
0.030
0.179
0.237
0.059
0.053
0.418
0.422
0.188
ảnh hưởng tương tác giữa các mức canxi và photpho khẩu phần
Th*Th
33a
170
197
137
1.44ab
2.46a
3.74ab
2.71a
9.06bc
14.4a
21.6ab
15.9a
Th*TB
34ab
167
200
137
1.35ac
2.36ab
3.43a
2.57ab
8.52ac
13.9ab
19.9a
15.1ab
Th*C
36abc
170
197
138
1.48b
2.44a
3.68ab
2.68a
9.36b
14.5a
21.4ab
15.8a
TB*Th
37c
166
193
135
1.43ab
2.37ab
3.78ab
2.64ab
8.98ab
14.0ab
21.9ab
15.5ab
TB*TB
36abc
166
197
136
1.41ab
2.32ab
3.82ab
2.63ab
8.89ab
13.8ab
22.3ab
15.5ab
TB*C
36bc
171
191
137
1.40ab
2.38ab
3.78ab
2.64ab
8.81ab
14.1ab
22.1ab
15.7ab
C*Th
37c
169
197
138
1.43ab
2.38ab
3.85ab
2.68a
8.93ab
14.1ab
22.4b
15.8a
C*TB
37c
168
191
136
1.40c
2.39ab
3.86ab
2.67a
8.77ab
14.2ab
22.6b
15.8a
C*C
37bc
165
196
136
1.26
2.20b
3.55ab
2.46b
7.92a
13.1b
20.8ab
14.6b
SE
0.5
2.6
2.6
1.6
0.0
0.0
0.1
0.0
0.15
0.25
0.51
0.24
P
0.033
0.394
0.198
0.799
0.000
0.025
0.042
0.007
0.000
0.026
0.038
0.006
Ghi chú: TB: trung bình; Ca-th: mức canxi thấp; Ca-tb: mức canxi trung bình; Ca-c: mức canxi cao; P-th: mức photpho thấp; P-tb: mức photpho trung bình; P-c: mức photpho cao; các giá trị trung bình ở các hàng trong cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê.
Khi xét ảnh hưởng tương tác giữa các mức canxi và photpho trong khẩu phần thì thấy lượng thức ăn thu nhận trong cả giai đoạn từ 0 - 10 tuần tuổi của ngan thấp nhất 135 g/con/ngày ở lô có khẩu phần canxi trung bình và photpho thấp (lô 6).
* Tiêu tốn thức ăn (kg/kg tăng trọng)
Bảng 4.9 cho thấy, trong giai đoạn từ 0 - 3 và 4 - 7 tuần tuổi mức tiêu tốn thức ăn của ngan tăng cùng với sự giảm hàm lượng canxi trong khẩu phần. Ngược lại, từ 8 - 10 tuần tuổi, ngan ở những lô được ăn khẩu phần có mức canxi thấp lại có tiêu tốn thức ăn thấp hơn những lô khác (hiệu quả chuyển hóa thức ăn tốt hơn).
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy đáp ứng về tiêu tốn thức ăn của ngan đối với hàm lượng photpho trong khẩu phần không rõ như đối với canxi. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các lô chỉ thấy ở giai đoạn 0 - 3 tuần tuổi. Trong các giai đoạn còn lại thì mức tiêu tốn thức ăn giảm khi tăng mức photpho trong khẩu phần nhưng sự sai khác giữa các lô không có ý nghĩa thống kê.
* Chi phí thức ăn (nghìn đồng/kg tăng trọng)
Nguồn thức ăn ở Việt Nam chứa rất nhiều canxi bên cạnh đó giá thành lại rẻ nên chi phí thức ăn phụ thuộc vào hiệu quả chuyển hóa thức ăn hơn là giá thành của nguyên liệu chứa nhiều canxi trong khẩu phần. Kết quả ở bảng 4.9 cho thấy trong giai đoạn từ 0 - 3 và 4 - 7 tuần tuổi chi phí thức ăn thấp nhất ở những lô ngan được ăn khẩu phần có mức canxi cao vì những lô này có hiệu quả chuyển hóa thức ăn tốt hơn, nhưng sự khác biệt có ý nghĩa thống kê chỉ thấy ở giai đoạn 0 - 3 tuần tuổi. Sang 8 - 10 tuần tuổi, chi phí thức ăn lại thấp nhất ở những lô ngan đươc ăn khẩu phần có mức canxi thấp.
So với canxi thì photpho là thành phần dinh dưỡng tương đối đắt nên chi phí thức ăn không chỉ phụ thuộc vào hiệu quả chuyển hóa thức ăn mà còn phụ thuộc vào giá tiền của một đơn vị photpho (khối lượng hoặc tỷ lệ) trong khẩu phần. Kết quả ở bảng 4.9 cho thấy, trong giai đoạn 0 - 3 tuần tuổi, sự khác biệt về chi phí thức ăn giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê theo hướng mức chi phí thức ăn giảm khi hàm lượng photpho trong khẩu phần tăng, nhưng giai đoạn sau 3 tuần tuổi sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Khi khảo sát quan hệ tương tác giữa các mức canxi và photpho trong khẩu phần chúng tôi thấy từ 0 - 3 và 4 - 7 tuần tuổi tiêu tốn và chi phí thức ăn thấp nhất ở những lô được ăn khẩu phần có mức canxi cao và photpho cao (lô 1). Sang giai đoạn 8 - 10 tuần tuổi tiêu tốn và chi phí thức ăn lại thấp nhất ở lô có mức canxi thấp và photpho trung bình (lô 8).
4.9. ảnh hưởng của các mức canxi và photpho dễ hấp thu trong khẩu phần đến hàm lượng khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan
Canxi và photpho chiếm tới 98 - 99% thành phần của xương (Dudek, 1997). Vì vậy, hàm lượng khoáng tổng số trong xương là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá mức độ khoáng hóa xương. Mức độ khoáng hóa xương lại liên quan chặt chẽ tới những bệnh về xương của gia cầm (NRC, 1994) [49]. Chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của các mức canxi và photpho trong khẩu phần đến hàm lượng khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan Pháp nuôi thịt. Kết quả được trình bày ở bảng 4.10 và hình 5.
Kết quả ở bảng 4.10 cho thấy hàm lượng khoáng trong xương của ngan tăng cùng với sự tăng hàm lượng canxi trong khẩu phần. Nhưng sự khác biệt rõ rệt thấy ở các lô ngan được ăn khẩu phần có mức canxi thấp và cao. Trung bình hàm lượng khoáng trong xương thấp nhất 48,45 g/100g xương ở nhóm ngan ăn khẩu phần có mức canxi thấp và tăng dần lên cao nhất 50,29 g/100g xương ở nhóm ngan ăn khẩu phần có mức canxi cao. Đáp ứng với các mức photpho trong khẩu phần của ngan tới hàm lượng khoáng trong xương cũng giống như với canxi.
Bảng 4.10 và hình 5 cho thấy khi khảo sát quan hệ tương tác giữa các mức canxi và photpho trong khẩu phần đối với hàm lượng khoáng trong xương của ngan thì hàm lượng khoáng trong xương tốt nhất (51,84 g/100g xương) ở nhóm ngan được ăn khẩu phần có mức canxi cao và photpho cao (lô 1).
Bảng 4.10: Hàm lượng khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan (g/100g xương)
Các chỉ tiêu
Trống
Mái
Trung bình
ảnh hưởng của các mức canxi khẩu phần
Ca-th
48.53a
48.36a
48.45a
Ca-tb
48.81a
48.50a
48.66a
Ca-c
50.06b
50.52b
50.29b
SE
0.24
0.21
0.22
P
0.001
0.000
0.000
ảnh hưởng của các mức photpho khẩu phần
P-th
48.28a
48.37a
48.33a
P-tb
49.46b
49.30b
49.38b
P-c
49.67b
49.71b
49.69b
SE
0.24
0.21
0.22
P
0.001
0.001
0.000
ảnh hưởng tương tác giữa các mức canxi và photpho khẩu phần
Th*Th
47.08a
48.58a
47.83ab
Th*TB
50.42b
48.09a
49.25ac
Th*C
48.11ac
48.42a
48.26ab
TB*Th
48.49abc
48.10a
48.29ab
TB*TB
48.16ac
49.26ab
48.71bc
TB*C
49.79bc
48.15a
48.97bc
C*Th
49.29bc
48.44a
48.87bc
C*TB
49.80bc
50.54b
50.17cd
C*C
51.10b
52.58c
51.84d
SE
0.41
0.37
0.38
P
0.000
0.000
0.003
Ghi chú: TB: trung bình; Ca-th: mức canxi thấp; Ca-tb: mức canxi trung bình; Ca-c: mức canxi cao; P-th: mức photpho thấp; P-tb: mức photpho trung bình; P-c: mức photpho cao; các giá trị trung bình ở các hàng trong cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê.
Hình 5: Hàm lượng khoáng trong xương ống chân của ngan Pháp
4.10. ảnh hưởng của tỷ lệ canxi/photpho dễ hấp thu trong khẩu phần đến sinh trưởng, hiệu quả chuyển hóa thức ăn và hàm lượng khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan
Nhu cầu canxi và photpho trong khẩu phần phụ thuộc rất lớn vào tỷ lệ Ca:P. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ Ca/P trong khẩu phần đến sinh trưởng, hiệu quả chuyển hóa thức ăn và hàm lượng khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan Pháp nuôi thịt. Kết quả được trình bày ở bảng 4.11 và 4.12.
Bảng 4.11: ảnh hưởng của tỷ lệ Ca/P dht trong khẩu phần đến sinh trưởng của ngan
Tỷ lệ
Ca/P dht
Khối lượng cơ thể (g)
Tốc độ sinh trưởng (g/con/ngày)
3 tuần
7 tuần
10 tuần
Trống
Mái
TB
1.8
571a
2517
3623
61.1a
39.6a
51.5
2.0
587ab
2586
3700
62.5b
41.1ab
52.6
2.2
595b
2599
3696
62.3b
41.5b
52.7
2.5
603b
2588
3660
61.2a
41.2ab
51.1
2.75
599b
2578
3654
61.8ab
40.9ab
51.5
SE
6.4
32.4
69.8
2.25
2.25
2.25
P
0.015
0.552
0.882
0.000
0.021
0.607
Ghi chú: Ca = Canxi; P dht = Photpho dễ hấp thu; TB = Trung bình.
Số liệu ở bảng 4.11 cho thấy ở 3 tuần tuổi, khối lượng cơ thể trung bình của ngan tăng dần khi tăng tỷ lệ Ca/P từ 1,8 đến 2,5. Nhưng khi tăng tỷ lệ này từ 2,5 đến 2,75 thì khối lượng cơ thể ngan lại giảm. Sang 7 tuần tuổi, khối lượng cơ thể ngan tăng dần khi tăng tỷ lệ Ca/P từ 1,8 đến 2,2 ; khi tăng từ 2,2 đến 2,75 thì khối lượng cơ thể ngan lại giảm dần. Đến 10 tuần tuổi, khối lượng cơ thể ngan tăng khi tăng tỷ lệ Ca/P từ 1,8 đến 2,0 ; khi tăng dần tỷ lệ này từ 2,0 đến 2,75 thì khối lượng cơ thể ngan lại giảm dần.
Trong cả giai đoạn từ 0 - 10 tuần tuổi tốc độ sinh trưởng của cả ngan trống và ngan mái đều tăng lên rõ rệt khi tăng tỷ lệ Ca/P trong khẩu phần từ 1,8 đến 2,2. Khi tiếp tục tăng tỷ lệ này lên đến 2,75 thì tốc độ sinh trưởng của ngan lại giảm dần. Tốc độ sinh trưởng trung bình của ngan đạt cao nhất 52,7 g/con/ngày ở nhóm ngan được ăn khẩu phần có tỷ lệ Ca/P là 2,2.
Bảng 4.12: ảnh hưởng của tỷ lệ Ca/P dht trong khẩu phần đến hiệu quả chuyển hóa thức ăn và tỷ lệ khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan
Tỷ lệ
Ca/P dht
Hiệu quả chuyển hóa thức ăn
Tỷ lệ khoáng tổng số (%)
TĂTN
TTTĂ
CPTĂ
Trống
Mái
TB
1.8
138
2.68
15.85
48.1
48.4
48.3
2.0
137
2.60
15.39
50.1
48.1
49.1
2.2
136
2.60
15.34
48.8
50.1
49.5
2.5
136
2.66
15.68
49.1
49.3
49.2
2.75
138
2.68
15.79
49.3
48.4
48.9
SE
1.07
0.04
0.23
0.61
0.65
0.47
P
0.569
0.521
0.461
0.254
0.088
0.512
Ghi chú: Ca = Canxi; P dht = Photpho dễ hấp thu; TĂTN = Thức ăn thu nhận; TTTĂ = Tiêu tốn thức ăn; CPTĂ = Chi phí thức ăn; TB = Trung bình.
Bảng 4.12 cho thấy lượng thức thu nhận, tiêu tốn và chi phí thức ăn ít chịu ảnh hưởng của tỷ lệ Ca/P trong khẩu phần. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hiệu quả chuyển hóa thức ăn của ngan tốt nhất thấy ở tỷ lệ Ca/P là 2,2/1,0.
Bảng 4.12 cũng cho thấy, tỷ lệ khoáng tổng số trong xương ống chân của ngan cũng không bị chi phối bởi tỷ lệ Ca/P trong khẩu phần. Nhưng tỷ lệ khoáng tổng số trung bình trong xương ống chân của ngan Pháp cao nhất (49,5%) ở tỷ lệ Ca/P là 2,2/1,0.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy đối với ngan Pháp, tỷ lệ Ca/P dễ hấp thu trong khẩu phần thích hợp nhất là 2,2/1,0. Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của Singh và Panda (1996) [58] khi cho rằng tỷ lệ Ca/P dễ hấp thu tối ưu trong khẩu phần cho gà broiler là từ 1:1 đến 2,2:1.
Trên cơ sở những đáp ứng của ngan về sinh trưởng, lượng thức ăn thu nhận, hiệu quả chuyển hóa thức ăn và tích lũy khoáng trong xương ở thí nghiệm II. Chúng tôi rút ra rằng: nhu cầu canxi trong thức ăn hỗn hợp có 88% vật chất khô của ngan Pháp là: 1,10 - 1,00 - 0,95% và photpho dễ hấp thu là: 0,50 - 0,45 - 0,40% tương ứng với các giai đoạn 0 - 3, 4 - 7 và 8 tuần tuổi đến xuất chuồng. Tương ứng với tỷ lệ Ca/P dễ hấp thu tối ưu trong khẩu phần là 2,2/1,0. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác với kết quả nghiên cứu của Leclercq và cộng sự (1979) trên ngan và mức khuyến cáo của NRC (1994) trên vịt nhưng khá gần so với khuyến cáo của hãng Grimaud Fresres cho ngan thương phẩm. Sự khác biệt so với khuyến cáo của hãng Grimaud Fresres là nhu cầu canxi và photpho dễ hấp thu trong thức ăn hỗn hợp cho ngan trong giai đoạn 0 - 3 tuần tuổi rút ra từ nghiên cứu của chúng tôi cao hơn.
5. Kết luận và đề nghị
5.1. Kết luận
Từ kết quả thu được qua 2 thí nghiệm trên ngan Pháp nuôi thịt chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Nhu cầu năng lượng trong khẩu phần của ngan Pháp nuôi thịt được biểu thị bằng hàm lượng trong 1 kg thức ăn hỗn hợp có hàm lượng vật chất khô 88% là: 2850; 2900 và 3000 kcal/kg tương ứng với các giai đoạn: 0 - 3; 4 - 7 tuần tuổi và từ 8 tuần tuổi đến xuất chuồng.
Nhu cầu protein thô trong khẩu phần của ngan Pháp nuôi thịt được biểu thị bằng hàm lượng trong 1 kg thức ăn hỗn hợp có hàm lượng vật chất khô 88% là: 200; 180 và 160 g/kg tương ứng với các giai đoạn như trên.
Nhu cầu lysine tiêu hoá trong khẩu phần của ngan Pháp nuôi thịt được biểu thị bằng tỷ lệ % trong 1 kg thức ăn hỗn hợp có hàm lượng vật chất khô 88% là: 1,00 ; 0,90 và 0,80 % tương ứng với các giai đoạn như trên.
Nhu cầu canxi trong khẩu phần của ngan Pháp nuôi thịt được biểu thị bằng tỷ lệ % trong thức ăn hỗn hợp có hàm lượng vật chất khô 88% là: 1,10; 1,00 và 0,95% tương ứng với các giai đoạn như trên.
Nhu cầu photpho dễ hấp thu trong khẩu phần của ngan Pháp nuôi thịt được biểu thị bằng tỷ lệ % trong thức ăn hỗn hợp có hàm lượng vật chất khô 88% là: 0,50; 0,45 và 0,40% tương ứng với các giai đoạn như trên.
Tỷ lệ Ca/P dễ hấp thu trong thức ăn hỗn hợp tối ưu cho sinh trưởng, hiệu quả chuyển hóa thức ăn và khoáng hóa xương của ngan Pháp là 2,2/1,0.
5.2. Đề nghị
Cho phép sử dụng chế độ dinh dưỡng nuôi ngan Pháp với mức năng lượng: 2850 - 2900 - 3000 kcal/kg, protein thô: 200 - 180 - 160 g/kg và lysine tiêu hóa: 1,00 - 0,90 - 0,80% tương ứng với các giai đoạn 0 - 3, 4 -7 và 8 - 12 tuần tuổi trong điều kiện ở Việt Nam.
Cho phép sử dụng chế độ dinh dưỡng nuôi ngan Pháp với mức canxi: 1,10 - 1,00 - 0,95% và photpho: 0,50 - 0,45 - 0,40% tương ứng với các giai đoạn như trên trong điều kiện ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
i. tài liệu trong nước
1. Bùi đức lũng (1992), “Nuôi gà broiler năng suất cao”, Báo cáo chuyên đề hội nghị quản lý kỹ thuật ngành chăn nuôi gia cầm, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bùi đức lũng (1995). Thức ăn và nuôi dưỡng gia cầm. NXB Nông Nghiệp.
3. Bùi đức lũng, Lê hồng mận (2001). Thức ăn và nuôi dưỡng gia cầm. NXB Nông Nghiệp. Hà Nội.
4. Bùi hữu đoàn (1999). Nghiên cứu hiện trạng dinh dưỡng khoáng và một số biện pháp năng cao hiệu quả sử dụng canxi, phôtpho cho gà giống hướng thịt. Luận văn tiến sỹ khoa học nông nghiệp. Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
5. Bùi quang tiến (1993). Phương pháp mổ khảo sát gia cầm. Thông tin khoa học kỹ thuật chăn nuôi, số 4. Viện Chăn Nuôi.
6. Bùi thị oanh (1996). Nghiên cứu ảnh hưởng của các mức năng lượng, tỷ lệ protein, lysine, methionine và cystine trong thức ăn hỗn hợp đến năng suất của gà sinh sản hướng thịt và gà broiler nuôi theo mùa vụ. Luận án phó tiến sĩ khoa học nông nghiệp. Viện Chăn Nuôi.
7. Dương thanh liêm (1990). Thăm dò mức protein thích hợp trong thức ăn cho gà công nghiệp. Tạp chí KHKT và quản lý kỹ thuật Nông nghiệp.
8. Đặng thái hải (2001). ảnh hưởng của khẩu phần protein thấp được bổ sung axit amin tới sức sản xuất của gà thịt. Kỷ yếu khoa học kỹ thuật 1999-2000, Khoa CNTY, trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
9. Grigoriev. N. G (1981). Dinh dưỡng axit amin của gia cầm. NXB khoa học kỹ thuật. Phí Văn Ba dịch.
10. Hội chăn nuôi Việt nam (2000). Cẩm nang chăn nuôi gia súc - gia cầm. NXB Nông Nghiệp. Hà Nội.
11. Lã văn kính (1995), Xác định mức năng lượng, protein, lysine và methionie tối ưu cho gà thịt, Luận án phó tiến sĩ khoa học nông nghiệp, Viện khoa học Nông nghiệp miền nam.
12. Lê Hồng mận (2004). Nuôi ngan vịt siêu thịt. NXB Thanh Hoá.
13. Lê khắc thận (1997). Giáo trình hoá sinh động vật. NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
14. Lê thị thuý (1995). Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, tính năng sản xuất và biện pháp nâng cao khả năng sản xuất của ngan nội ở miền Bắc. Luận án tiến sỹ Nông Nghiệp.
15. Lương vĩnh lạng, đặng minh tháp (1962). Đời sống ngan, ngỗng. NXB khoa học.
16. Ngô thị nga (2005). Khảo sát khả năng sản xuất của ngan Pháp R15 cho giao phối với ngan trống R71 trong điều kiện nuôi ở nông hộ tại huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh. Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp. Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
17. Nguyễn phúc hưng (2003). Sử dụng khẩu phần protein thấp được bổ sung một số axit amin không thay thế cho gà thịt. Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp. Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
18. Nguyễn thị mai (2001), Xác định năng lượng trao đổi (ME) của một số loại thức ăn cho gà và mức năng lượng thích hợp trong khẩu phần ăn cho gà broiler, Luận án tiến sỹ khoa học nông nghiệp, trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
19. Nguyễn thị mai (2008). Năng lượng - protein - axit amin trong dinh dưỡng gia cầm. Bài giảng cho cao học. Tủ sách trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
20. Nguyễn văn thưởng (1992). Sổ tay thành phần dinh dưỡng thức ăn gia súc Việt Nam. NXB Nông Nghiệp.
21. Phùng đức tiến (2004), "Con ngan ở Việt Nam". NXB Nông nghiệp.
22. phùng đức tiến, dương thị anh đào, vũ thị thảo, lê thị nga (2003). Xác định tỷ lệ axit amin (lysine, methionine) thích hợp trong khẩu phần thức ăn nuôi ngan Pháp siêu nặng lấy thịt. Tuyển tập Báo cáo khoa học của Viện Chăn Nuôi.
23. phùng đức tiến, Trần công xuân, dương thị anh đào, vũ thị thảo, nguyễn mạnh hùng, hoàng thanh hải, trần thị cương, phạm nguyệt hằng (2003). Nghiên cứu mức protein và năng lượng thích hợp nuôi ngan Pháp siêu nặng lấy thịt. Tuyển tập báo cáo khoa học của Viện Chăn Nuôi.
24. Thành phần giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc, gia cầm việt nam (2001), NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
25. Tiêu chuẩn việt nam (TCVN) - 1525 (2001), NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
26. Tiêu chuẩn việt nam (TCVN) - 1526 (1986), NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
27. Tiêu chuẩn việt nam (TCVN) - 4326 (2001), NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
28. Tiêu chuẩn việt nam (TCVN) - 4328 (2001), NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
29. Tiêu chuẩn việt nam (TCVN) - 4329 (1993), NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
30. Tiêu chuẩn việt nam (TCVN) - 4331 (2001), NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
31. Tôn thất sơn (2005). Cơ sở dinh dưỡng thức ăn động vật. Bài giảng cho cao học. Tủ sách Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
32. Từ quang hiển (2002). Giáo trình thức ăn và dinh dưỡng gia súc. NXB Nông Nghiệp.
33. Vũ duy giảng (2001), dinh dưỡng và thức ăn gia súc, Giáo trình cao học nông nghiệp, NXB Nông nghiệp Hà Nội.
34. Vũ duy giảng (2008), dinh dưỡng động vật. Bài giảng cho cao học. Tủ sách trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
35. Vũ Duy giảng, Nguyễn thị lương hồng, tôn thất sơn (1999). Dinh dưỡng và thức ăn gia súc. Giáo trình dinh dưỡng. NXB Nông Nghiệp. Hà Nội.
ii. tài liệu nước ngoài
36. Ajinomoto Animal Nutrition (1998), “Apprent ileal digestibility of crude protein and essential amino acids in feedstuffs for poultry”.
37. Baker D.H (1996), “Utilisation of isomers and analogs of amino acids and other sulfur – containing compounds”, Progress in Food and Nutrition Sciense.
38. Baker D.H (1997), “Ideal amino acid profiles for swine and poultry and their applications in feed formulation”, Kyowa Hakko Techical Review.
39. Baker d. h (1993). Amino acid nutrition of pigs and poultry.
40. Dean. W. f (1981). Calcium repuirment of breeder ducks. Duck research progress report. Cornell university Duck research laboraoty.
41. Donald. P. Mc (1988). Animal nutrition. Fourth edition. Newyork.
42. Edwin. T and Moran. Jr (1985). Digestive physiology of the ducks. In: Duck production Science and World pratice (D. H. Farrel and P. Stapleton, eds) Univ. of New England, Armidade.
43. Farrel D.J (1983). Feeding standards for Australian livestock - poultry. SCA Technical report series. No. 12. Canberra - Australia.
44. Fisher (1984). Fats in animal nutrition in fast deposition in Broilers. J. Wiseman, ed. Butterworths - London, England.
45. Grimaud freres selection (2006). Rearing guide roasting canedins. La Corbere 49450 Roussay.
46. Huang J.F, lee S.R, Cai-Chang lin, tsung-yi lin, hsui-chou liu, meng-chin hsino and cheng-taung wang (2007). Duck production in Taiwan. Proceeding of the International Seminar on Improved Duck production of small – scale farmers in ASPAC.
47. Leclerq and Carville (1976). L’amlimentation azotee du caneton de barbarie: etude du besoin du caneton male entre les ages de et 12 semaines. Ann. Zootech.
48. Leclerq and Carville (1985). Dietary energy, protein and phosphrous requirement of muscovy ducks. In: Duck production Science and World pratice (D. J. Farrel and P. Stapleton, eds) Univ. of New England, Armidade.
49. NRC (1994), “Nutrient Requirements of Puoltry. Ninth Revised Edition”, National Academy Press. Washington, D.C.
50. Olayiwola adeola (2003). Energy values of feed ingredients for White Pekin Ducks. International Journal of Poultry Science.
51. Pingel. H (1969). Soaring poultry breeding in Thailand. Tierzucht.
52. Robert and Blaxter (1994). Feeding and management considerations for broilers durong heat stress. Technical Bulletin.
53. Rose (1986). Energy and protein relations in the broiler chicken. Poul. Sci.
54. Scott. M. L (1976). Cornel, Nutrition Confer.
55. Scott, M.L (1980). “Dietary nutrient allowances for chickens, turkeys. (Feedstuffs).
56. Scott, M. L, R.J. Young, M.C. Nesheim (1976), (Alimentacion de la saves), Editorial cientifico - technical, Lahabana.
57. Shen, T. F (1977). Studies on duck nutrition I. Protein and energy requirements of mule duckling. Chin. Soc. Anim. Sci. 6, 2-29.
58. Singh. K. S (1988). Poultry nutrition. Kalyani.
59. Smith (1993). Poultry. CTA Macmilan.
60. Winson, B. J (1973). Effects of diet form on the performance of table duckling. Br. Poult. Sci. 14, 580-593.
61. Yanming Han (1994). Digestible Lysine requirement of male and female broiler chicks during the period three to six weeks.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHCN006.doc