Nghiên cứu xác định đặc điểm di truyền một số tính trạng cơ bản về sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái M 3000 và MC 15

Tài liệu Nghiên cứu xác định đặc điểm di truyền một số tính trạng cơ bản về sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái M 3000 và MC 15: ... Ebook Nghiên cứu xác định đặc điểm di truyền một số tính trạng cơ bản về sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái M 3000 và MC 15

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2705 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu xác định đặc điểm di truyền một số tính trạng cơ bản về sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái M 3000 và MC 15, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC 3.4.1. Phân tích một yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng sinh sản của 2 nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 21 3.4.2. Xác định năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 21 3.4.3. Xác định hệ số di truyền của các tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 21 3.4.3. Xác định hệ số tương quan di truyền của các tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 21 3.4.4. Xác định hệ số di truyền của các tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 22 3.5. Phương pháp nghiên cứu 22 3.5.1. Bố trí thí nghiệm và thu thập số liệu theo dõi các chỉ tiêu về năng suất sinh sản 22 3.5.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản 22 3.5.3. Tính toán tham số thống kê một số tính trạng sinh sản 23 3.5.4. Ước tính hệ số di truyền, hệ số tương quan di truyền 23 3.6. Công cụ xử lý 24 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 25 4.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 25 4.2. Năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 28 4.2.1. Năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 ở tất cả các lứa đẻ 30 4.2.2. Số con sơ sinh sống/ổ của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 qua các lứa đẻ. 38 4.3. Hệ số di truyền của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 40 4.4. Hệ số tương quan di truyền giữa các tính trạng sinh sản của hai nhóm lợn MC3000 và MC15 44 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 49 5.1. Kết luận 49 5.1.1. Một số yếu tố ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 49 5.1.2. Năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 49 5.1.3. Hệ số di truyền 50 5.1.4. Hệ số tương quan di truyền 50 5.2. Đề nghị 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO 52 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Hiện nay trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước mọi mặt của đời sống đang thay đổi nhanh chóng, hoà nhập cùng sự phát triển của đất nước, nền nông nghiệp của nước ta đang đứng trước những nguy cơ và thách thức to lớn trong quá trình phát triển đi lên. Xu hướng chung là ngày càng chuyên sâu tăng lên về số lượng cao về chất lượng trong đó chăn nuôi chiếm phần quan trọng quyết định đến quá trình phát triển nông nghiệp. Trong chăn nuôi, do nhu cầu lợn thịt ngày càng cao để tiêu dùng và xuất khẩu và cũng để không ngừng nâng cao năng suất đàn lợn, trong thời gian qua các nhà chăn nuôi đã áp dụng nhiều biện pháp khoa học kỹ thuật mới về giống thức ăn, kỹ thuật chăn nuôi, thú y cũng như cải tiến chế độ quản lý tổ chức. Trong lĩnh vực công tác giống các nhà nghiên cứu đã tiến hành chọn lọc các giống lợn thuần, nhập nội một số lợn ngoại có năng suất cao để vừa thực hiện nhân thuần và tạo các tổ hợp lai nên năng suất và chất lượng đàn lợn tăng lên rõ rệt. Phần lớn các tính trạng sinh sản của vật nuôi là tính trạng số lượng. Các tính trạng số lượng thường có hệ số di truyền thấp, chịu nhiều tác động của ngoại cảnh. Vì vậy, để nâng cao khả năng sinh sản của lợn nái, các nhà chọn giống đang hướng công tác nghiên cứu, thực hiện vào các vấn đề tăng hiệu quả chọn lọc đối với tính trạng này, tiếp tục lựa chọn các giống lợn có tính mắn đẻ cao để đưa vào chương trình nhân lai giống. Trong đó duy trì và phát triển đàn lợn Móng Cái thuần với đặc tính tốt là khả năng sinh sản cao, sức chịu đựng tốt với điều kiện ngoại cảnh và tính thích ứng rộng là việc cần thiết và quan trọng. Những đặc điểm quý trên của lợn Móng Cái cần đươc phát huy chọn lọc, nhân rộng góp phần vào sự thành công của ngành chăn nuôi. Hơn nữa đây là vốn gen quý để làm tiền đề cho công tác lai tạo giống. Để giống lợn Móng Cái có thể phát triển nhanh và phục vụ đắc lực cho sản xuất, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi cấp bách của sản xuất, đặc biệt là các hộ chưa có điều kiện chăn nuôi tốt, tính trạng hạn chế của giống cần được nghiên cứu chọn lọc nhằm cải thiện nâng cao chất lượng và những tính trạng ưu điểm cần được phát huy trước khi cho lai với lợn nhập ngoại để tạo các tổ hợp lai cho năng suất cao và chất lượng tốt. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài "Nghiên cứu xác định đặc điểm di truyền một số tính trạng cơ bản về sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15" 1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Xác định được năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15. - Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tính trạng sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 - Xác định được hệ số tương quan di truyền của các tính trạng sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15. - Xác định được hệ số di truyền của các tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15. Từ đó làm nhằm làm giảm các yếu tố ảnh hưởng và xác định được các phương pháp chọn lọc các tính trạng sinh sản của hai nhóm lợn lợn Móng Cái MC3000 và MC15 có hiệu quả chọn lọc là tốt nhất. PHẦN 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Nguồn gốc và đặc điểm sinh học của lợn Móng Cái 2.1.1. Nguồn gốc Là một giống lợn quý ở nước ta, thuộc lớp động vật có vú Maminalia, nằm trong bộ gốc chẵn Artiodactyla, thuộc họ Sllidae, chủng Sus và thuộc loài Sus domesticus. Lợn Móng Cái là giống lợn phổ biến nhất ở Việt Nam, có nguồn gốc từ huyện Hà Cối nay thuộc huyện Đầm Hà và Móng Cái tỉnh Quảng Ninh (Nguyễn Văn Đức, 2005). 2.1.2. Đặc điểm sinh học của lợn Móng Cái Hình dáng của giống lợn Móng Cái khá đặc trưng của một giống lợn địa phương. Mình ngắn, cổ ngắn, tai nhỏ, chân nhỏ và ngắn, lưng võng, bụng xệ. Do hai đặc tính lưng võng và chân lùn nên gần như toàn bộ bụng đặc biệt là lợn nái luôn sa xuỗng mặt đất. Màu sắc da lông của lợn Móng Cái đen toàn bộ cơ thể. Trên nền đen ấy có một đốm trắng hình tam giác hoặc hình thoi nằm giữa trán, mõm trắng, cuối chúp đuôi có lông trắng, bụng và 4 chân trắng. Đặc biệt có một khoang trắng nối giữa hai bên hông với nhau vắt qua vai trông giống như cái "Yên Ngựa" là nét đặc trưng nhất về màu sắc của lợn Móng Cái. Giống lợn Móng Cái thường có từ 10 - 16 vú xếp thành 2 dãy đều nhau, song song với nhau trên hai bên bẹ bụng. Hầu như không có cá thể nào của giống lợn Móng Cái có số vú lẻ. Giống lợn Móng Cái có khả năng sinh sản tốt, đẻ nhiều con nhất trong các giống lợn nội Việt Nam. Sức đề kháng của giống lợn Móng Cái rất cao, trong quá trình chăn nuôi hầu như ít bị mắc bệnh. Lợn Móng Cái có tốc độ tăng trưởng 350 - 400g/ngày, tiêu tốn thức ăn 5 - 4,5 kg thức ăn/kg khối lượng, tỷ lệ nạc thấp 33 - 36%. 2.2. Tính trạng số lượng 2.2.1. Khái niệm về tính trạng số lượng - Tuổi phối lần đầu là số ngày được tính từ khi lợn cái sinh ra đến ngày phối giống lần đầu tiên. - Tuổi đẻ lứa đầu là số ngày tính từ khi lợn cái sinh ra cho đến ngày lợn cái đó đẻ lứa đầu tiên. - Khoảng cách lứa đẻ là số ngày tính từ ngày đẻ lứa này đến ngày đẻ lứa tiếp theo. - Số con sơ sinh sống/ổ là tổng số lợn con còn sống trong vòng 24h kể từ khi lợn mẹ đẻ xong con cuối cùng của lứa đó (không tính những con P <0,02kg). - Số con cai sữa/ổ là tổng số lợn con do chính nái đó sinh ra còn sống đến thời điểm tách mẹ (lúc 60 ngày tuổi). - Khối lượng sơ sinh/con là khối lượng của mỗi một lợn con đẻ ra còn sống trong vòng 24h kể từ khi lợn nái đẻ xong và được biểu thị đơn vị bằng kg. - Khối lượng cai sữa là khối lượng của mỗi lợn con lúc 60 ngày tuổi, tính bằng kg. 2.2.2. Bản chất tính trạng số lượng Bản chất sinh học của mỗi giống vật nuôi được thể hiện qua kiểu hình đặc trưng của riêng nó. Kiểu gen dưới tác động của các yếu tố môi trường cụ thể sẽ biểu hiện thành kiểu hình tương ứng của vật nuôi đó. Để giúp cho công tác chọn lọc giống vật nuôi đạt được kết quả tốt, đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn trong chăn nuôi lợn đặc biệt là chăn nuôi các giống lợn nội thì trước hết cần phải hiểu biết những kiến thức cơ bản về di truyền giống, phải nắm vững được bản chất di truyền của từng tính trạng. Tính trạng số lượng là những tính trạng được quy định bởi nhiều cặp gene, mỗi gene chỉ có hiệu ứng nhỏ (minor gene). Tính trạng số lượng bị tác động rất lớn bởi môi trường và sự sai khác giữa các cá thể. Sự sai khác giữa các cá thể là sự sai khác về mức độ hơn là sự sai khác về chủng loại, đó là các tính trạng đa gen (polygene). Hầu hết, những tính trạng có giá trị kinh tế của gia súc đều là những tính trạng số lượng (Nguyễn Văn Thiện,1995) và (Kiều Minh Lực,1999). Có hai hiện tượng di truyền cơ bản liện quan đến tính trạng số lượng, mỗi một hiện tượng di truyền này là một cơ sở lý luận cho việc cải tiến di truyền giống vật nuôi. Trước hết là sự giống nhau giữa các con vật thân thuộc, quan hệ thân thuộc càng gần thì con vật càng giống nhau, đó là sơ sở di truyền của chọn lọc, thứ nữa là hiện tượng suy hoá cận thân và hiện tượng ngược lại về sức sống của con lai hoặc ưu thế lai, đây là cơ sở di truyền của sự chọn phối để nhân thuần hoặc tạp giao (Nguyễn Văn Thiện, 1995). Các tính trạng năng suất sinh sản là các tính trạng số lượng, do nhiều gene điều khiển, mỗi gen đóng góp một mức độ khác nhau về cấu thành năng suất của con vật. Giá trị kiểu hình của các tính trạng năng suất sinh sản và khả năng sản xuất có sự phân bố liên tục và chịu tác động nhiều của yếu tố ngoại cảnh (Falconer D.S, 1993). 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng Các giá trị kiểu hình (P) của bất kỳ một tính trạng số lượng nào cũng có thể phân chia thành giá trị kiểu gene (G) và sai lệch môi trường (E). Giá trị (G) có thể phân chia thành giá trị cộng gộp của các gen (A), giá trị trội của các gene (D), giá trị át gene (I). Giá trị E gồm hai thành phần là sai lệch môi trường chung (Eg) và sai lệch môi trường riêng (Es). Giá trị kiểu hình (P) Được biểu thị như sau: P=G + E P= A +D + I + Eg + Es 2.3.1. Giá trị kiểu gene (G- Genotypic Value) Giá trị kiểu gene của tính trạng số lượng do nhiều cặp gene quy định. Phương thức di truyền của các cặp gene này tuân theo các quy luật di truyền cơ bản của di truyền: phân ly, tái tổ hợp, liên kết. Tác dụng khác nhau của các gene lên cùng một tính trạng có thể là cộng gộp (A) nhưng cũng có thể là không cộng gộp. Giá trị cộng gộp (Additive Value - hay còn gọi là giá trị giống) Bố mẹ chỉ truyền cho con cái các gene của chúng chứ không phải truyền kiểu gene cho thế hệ sau. Kiểu gene phải được sáng tạo lại mới ở mỗi thế hệ. Để đo lường giá trị di truyền truyền từ bố mẹ cho đời con phải có một giá trị đo lường có quan hệ với gene chứ không phải có liên quan tới kiểu gene, đó là "hiệu ứng trung bình" của các gene. Hiệu ứng trung bình của một gene là sai lệch trung bình của cá thể so với trung bình của quần thể mà nó đã nhận gene đó từ một bố hoặc một mẹ nào đó, còn gene kia nhận được từ mẹ hoặc bố khác trong quần thể. Tổng các hiệu ứng trung bình của các gene mà nó mang (tổng các hiệu ứng được thực hiện với từng cặp gene ở mỗi locus và trên tất cả các locus) được gọi là giá trị cộng gộp hoặc giá trị giống của cá thể. Giá trị giống là thành phần quan trọng của kiểu gene vì nó cố định và có thể di truyền được, do đó nó là nguyên nhân chính gây ra sự giống nhau giữa các con vật thân thuộc, nghĩa là nó là yếu tố chủ yếu sinh ra đặc tính di truyền của quần thể và sự đáp ứng của quần thể đối với sự chọn lọc. Hơn nữa đó là thành phần duy nhất mà người ta có thể xác định được từ sự đo lường các tính trạng đó ở quần thể. Tác động của các gene gọi là cộng gộp khi giá trị kiểu hình của gene dị hợp luôn luôn là trung gian so với kiểu hình của hai kiểu gene đồng hợp. Giá trị cộng gộp (giá trị giống) là cố định và có thể di truyền được. Bố mẹ luôn truyền 1/2 giá trị cộng gộp của mỗi tính trạng của chúng cho đời con.Tiềm năng di truyền do tác động cộng gộp của bố và mẹ tạo nên gọi là giá trị di truyền của con vật hay còn gọi là giá trị giống. Giá trị giống được dùng để chọn lọc có khả năng di truyền cho đời sau. Giá trị không cộng gộp Bao gồm sai lệch trội (D) và sai lệch át gene hoặc tương tác (I). Sai lệch trội "Dominant Deviation" là sai lệch được sản sinh ra do sự tác động qua lại giữa các alen ở trong cùng một locus (đặc biệt là các cặp alen dị hợp tử). Sai lệch trội cũng là một phần thuộc tính của quần thể. Sai lệch trội có thể là: - Trội hoàn toàn: AA = Aa > aa - Siêu trội : Aa > AA >aa - Trội không hoàn toàn: AA > Aa >aa Quan hệ trội ở bố mẹ không di truyền được sang con cái. Sai lệch át gene (Epistatic Devition) hoặc sai lệch tương tác (Interaction Deviation) Là sai lệch được sản sinh do sự tác động qua lại giữa các gene không cùng một alen thuộc các locus khác nhau. Từ đó, giá trị kiểu gene biểu thị chi tiết bằng công thức sau: G = A + D + I 2.3.2. Sai lệch môi trường (E- Environmental Deviation) Sai lệch môi trường thể hiện thông qua hai thành phần sai lệch môi trường chung (General Environmental Deviation) và sai lệch môi trường đặc biệt (Special Environmental Deviation). Sai lệch môi trường chung (Eg) là sai lệch giữa các cá thể do hoàn cảnh thường xuyên và không cục bộ gây ra. Sai lệch môi trường đặc biệt (Es) là sai lệch trong cá thể do hoàn cảnh tạm thời và cục bộ gây ra. Như vậy, khi một kiểu hình của một cá thể được cấu tạo từ hai locus trở lên thì giá trị kiểu hình của nó được biểu thị một cách chi tiết như sau: P = A + D + I + Eg + Es Qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng, chúng ta có thể thấy muốn nâng cao năng suất của vật nuôi cần phải: Tác động về mặt di truyền (G), bao gồm: - Tác động vào hiệu ứng cộng gộp (A) bằng cách chọn lọc. - Tác động vào các hiệu ứng trội (D) và át gene (I) bằng cách phối giống hoặc tạp giao. Tác động về mặt môi trường (E) bằng cách cải tiến điều kiện chăn nuôi chuồng trại,... 2.4. Các yếu tố di truyền và ngoại cảnh ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản 2.4.1. Các yếu tố di truyền ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản Yếu tố di truyền ở nghiên cứu này là nhóm lợn Móng Cái (MC). Giống là quần thể vật nuôi đủ lớn trong cùng một loài, có một nguồn gốc chung có một số đặc điểm chung về hình thái và ngoại hình, sinh lý và năng suất sinh vật học và khả năng chống chịu bệnh, đồng thời có thể truyền đạt các đặc điểm đó cho đời sau (Nguyễn Văn Thiện, 1995). Tất cả, các chức năng trong cơ thể động vật đều chịu sự điều khiển của yếu tố di truyền để đạt đến mức độ lớn hơn hay bé đi. Dĩ nhiên, các tính trạng sinh sản đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố di truyền. Yếu tố di truyền hay nhóm giống lợn Móng Cái (MC) cũng ảnh hưởng đến tính trạng, năng suất sinh sản của lợn (Nguyễn Văn Đức, 1997). Để phân tích dữ liệu không đồng đều giữa các nhóm nhằm tách riêng ảnh hưởng của các yếu tố này, người ta đã dùng phương pháp phân tích phương sai của Fisher R.A. (1967) hoặc dùng kỹ thuật bình phương tối thiểu của Harvey W.R (1960). Phương pháp gần đúng nhất (Maximum Likelihood), phương pháp BLUP là các phương pháp hiện tại đang được dùng một cách rộng rãi hiện nay là phát triển của hai phương pháp trên. Chính nhờ các phương pháp "tách" các yếu tố trên mà các nhà khoa học đã tiến hành phân tích di truyền, xác định giá trị giống của vật nuôi trên các tính trạng khác nhau với số liệu thu được từ nhiều đàn gia súc có năng suất rất chênh lệch, nhiều năm và mùa vụ. 2.4.2. Các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến năng suất sinh sản Cùng với yếu tố di truyền, các yếu tố ngoại cảnh cũng gây ảnh hưởng lớn đến tính trạng sinh sản. Các yếu tố ngoại cảnh chính ảnh hưởng lớn đến tính trạng sinh sản của lợn là năm đẻ, lứa đẻ, mùa vụ, đực phối, dinh dưỡng, ngoại cảnh xã hội chuồng trại, bệnh tật... Ảnh hưởng của yếu tố năm đẻ Yếu tố cố định năm đẻ ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất sinh sản. Johanson K.and Kenedy B.W. (1985) nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của yếu tố cố định đàn và năm đẻ thấy rằng sự sai khác có ý nghĩa đối với tính trạng tuổi đẻ lần đầu và khoảng cách giữa hai lứa đẻ của hai giống lợn Yorkshire và Landrace (sai khác này dao động từ 17,4% đến 19,9% đối với tính trạng tuổi đẻ lần đầu và 11,5% đến 13,9 % đối với tính trạng khoảng cách giữa hai lứa đẻ) tương ứng do hai giống nói trên. Năm có ảnh hưởng rõ rệt đến tính trạng số con sơ sinh sống/ổ, khối lượng con/ổ, số con sai sữa/ổ và số lượng con/ổ với mức P < 0,01 - P <0,001 (Nguyễn Văn Đức, 1997). Ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ. Yếu tố cố định mùa vụ cũng ảnh hưởng rõ rệt đến các tính trạng năng suất sinh sản. Ở Việt Nam có 2 mùa chính là mùa nóng và lạnh ảnh hưởng rõ rệt nhất tới tính trạng sinh sản ở lợn. Thời gian cai sữa lứa trước đến thụ thai lứa tiếp theo đã tăng lên trong các tháng mùa hè. Thông thường có khoảng 10% - 20% lợn hậu bị và nái được phối bị giảm khả năng sinh sản vào mùa hè và có sự sai khác rõ rệt về khoảng thời gian từ cai sữa đến động dục lại giữa các mùa (8,2 ngày ở mùa mưa và 10,9 ngày ở mùa khô). Nhiệt độ thích hợp của lợn nái là 18 - 200C. Nếu vượt quá ngưỡng này theo "Pigreproductionxal-sep-2003" khi nhiệt độ không khí tăng lên 10C mức ăn của lợn nái giảm 0,2 pao còn nếu nuôi lợn từ 300C trở lên thí sẽ làm giảm tỷ lên thụ thai và tỷ lệ chết phôi sẽ cao do mùa hè sức sinh sản thấp hơn so với các mùa khác. Lợn nái trong thời kỳ nuôi con nhiệt độ thấp quá sẽ giảm tỷ lên nuôi sống đàn con. Do lợn con dễ bị cảm lạnh. YJu.T. và cộng sự (1994) nghiên cứu trên 3 trại lợn giống Thái Lan đã có kết luận về giảm tỷ lệ đẻ (3,4%) và số con/lứa (0,39 con/ lứa) ở các nái Yorkshire, Landrace và Duroc được phối trong mùa nóng. Dan T.T. và Summer P.M.(1995) cũng đã kết luận rằng sự ảnh hưởng có ý nghĩa rõ rệt đến yếu tố mùa phối với tính trạng tỷ lệ đẻ ở 3 đàn lợn nuôi ở miền Nam Việt Nam và 3 đàn lợn nuôi ở miền bắc Autralia. Yếu tố mùa đẻ ảnh hưởng có ý nghĩa rõ rệt đến tính trạng khoảng cách giữa hai lứa đẻ. Tóm lại, biểu hiện chính của sự giảm khả năng sinh sản theo mùa là sự giảm tỷ lệ đẻ ở lợn nái và hậu bị. Ở Việt Nam nói riêng thì yếu tố mùa vụ có ảnh hưởng rõ rệt tới khối lượng của lợn con trong quả trình mang thai dẫn tới lợn con được đẻ vào mùa đông có khối lượng sơ sinh và cai sữa cao hơn các mùa khác trong năm đặc biệt cao hơn mùa hè. Ảnh hưởng của yếu tố lứa đẻ. Yếu tố lứa đẻ có ảnh hưởng rất lớn đến tính trạng số lượng con/lứa. Nhiều nghiên cứu liên quan đến yếu tố này đều đưa ra kết luận chung là số con/lứa tăng từ lứa đẻ thứ nhất đến lứa đẻ thứ 4 và 5 và sau đó chậm dần đến lứa thứ 10 (Nguyễn Văn Đức và cộng sự,1997). Dan T.T. và Summer P. M. (1995), khi tuổi thụ thai lần đầu tăng thì số con/lứa cũng tăng. Lợn nái đẻ đứa thứ nhất có số con/lứa ít hơn nái đẻ từ lứa thứ 2 trở đi (Rydhhmer L và cộng sự, 1995); (Phùng Thị Vân và cộng sự, 1999) điều này có là do tỷ lệ rụng trứng tăng lên từ lứa thứ 2 ( Đặng Vũ Bình, 1994) Dan T.T. và Summer P. M. (1995). Ảnh hưởng của yếu tố đực phối. Vị trí ô chuồng nuôi lợn đực là một yếu tố ngoại cảnh quan trọng tác động đến tính trạng sinh sản của lợn nái. Nếu lợn đực được nằm xen với các ô lợn cái hậu bị sẽ kích thích tuổi thành thục về tính sớm hơn và tỷ lệ thụ thai tăng lên. Việc lạm dụng lợn đực là một nguyên nhân làm giảm khả năng sinh sản của lợn nái. Những lợn đực được nghỉ ngơi một cách hợp lý thì số con sinh ra/lứa sẽ tăng. Thời điểm phối giống thích hợp và phương thức phối cũng là một nguyên nhân quan trọng đối với năng suất sinh sản của lợn nái. Ngoài các yếu tố trên đây, năng suất sinh sản của lợn còn chịu ảnh hưởng các yếu tố ngoại cảnh khác như dinh dưỡng, chuồng trại, bệnh tật... Ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng: Thức ăn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn, trong thức ăn cần phải chú ý đến thành phần thức ăn. Trong thành phần thức ăn cần có: tinh bột, protein, khoáng (đa lượng và vi lượng), vitamin, nước. - Tinh bột có trong các sản phẩm cám, gạo , ngô, khoai , sắn... Tinh bột cần thiết cho cung cấp năng lượng dưới dạng nhiệt năng cung cấp cho các bộ phận cơ thể phát triển. Nhu cầu tinh bột cho các loại lợn như sau Lợn đực cần: 62 - 70% tinh bột trong khẩu phần ăn Lợn nái chửa cần 58 - 66% tinh bột trong khẩu phần ăn Nái nuôi con cần 65 - 70% tinh bột trong khẩu phần ăn - Protein là chất mang sự sống cho quá trình tiêu hoá như có cá men phân giải axit amin và màu Protein của cơ thể . Protein có nhiều chức năng khác nhau tạo ra các men tham gia vào phản ứng của cơ thể. Ví dụ: Peptin tripin, amilaza, unfa tạo ra các hooc mon. hooc mon sinh trưởng, hooc mon sinh dục tạo ra các kháng thể Thiếu protein trong thức ăn lợn con bị đình hệ sinh dục, lợn sinh sản hoạt động rối loạn, nếu tình trạng thiếu protein kéo dài sẽ gây rối loạn cơ thể, cơ thể phát triển không bình thường dẫn đến chết. Protein có trong các lại thức ăn như bột cá bột xương và ở thực vật trong dầu lạc và đỗ tương. Nhu cầu potein của các loại lợn: Lợn con: 15-17% Lợn đực: 11-13% Lợn nái chửa: 13-14% Lợn nái nuôi con và lợn đực làm việc cần: 14-16% - Khoáng: cơ thể lợn cần cung cấp đầy đủ, khoáng có vai trò quan trọng duy trì hoạt động sống cũng như cấu tạo cơ thể. Người ta chia khoáng ra làm 3 loại: khoáng đa lượng, khoáng vi lượng, khoáng siêu vi lượng Khoáng đa lượng có mặt trong cơ thể tương đối lớn là Ca, P, Ca (1,3% - 1,8%), P (0,8% - 1%). Khoáng đa lượng có vai trò đặc biệt đối với cơ thể gia súc, nằm trong xương dưới dạng phức tạp tạo cho xương có tính chất dẻo và cứng. Ca và P tạo ra bộ khung cơ thể. Nếu thiếu Ca và P: Sinh trưởng giảm, sinh trưởng không bình thường Con vật giảm tính thèm ăn, ít ăn, đặc tính sinh lý bị rối loạn làm nhiễu loạn về sinh sản: rối loạn động dục, tỷ lệ thụ thai giả. Khi thiếu Ca và P con đẻ ra bị yếu mang nhiều bệnh về xương. Khoáng vi lượng: Cu, Fe Cu: là yếu tố có nhiều trong gan xương, tham gia vào quá trình sinh trưởng và quá trình tạo máu. Nếu thiếu Cu làm cho sinh trưởng giảm và thiếu máu, ảnh hưởng đến sự phát triển của xương. Nếu thiếu nhiều làm xương xốp, còi xương, thai bị tiêu biến. Fe: Tham qua vào quá trình tạo máu, nếu thiếu sẽ dẫn đến thiếu máu. Đối với gia súc có chửa hoặc gia súc còn non cần phải cung cấp đầy đủ cho cơ thể. - Vitamin Vitamin A: Đây là loại Vitamin thiết yếu nhất cho sự sinh trưởng cũng như sinh sản ở lợn. Nếu thiếu lợn sẽ bị mất khả năng sinh sản, con đực bị teo tinh hoàn. Ở con cái mang nhau thai của tử cung sẽ bị sứng hoá, khó thụ thai, dễ bị sảy thai hoặc đẻ non. Vitamin E: có tác dụng duy trì sinh dục bình thường, thúc đẩy tuyến yên tiết ra hooc mon làm cho trứng chín và rụng. Vitamin E còn gọi là Vitamin sinh sản. Nếu thiếu vitamin E ảnh hưởng đến chức năng sinh sản: con đực quá trình sinh tinh trì trệ (mất khả năng sinh tinh trúng, tinh trùng yếu không có khả năng thụ tinh), con cái niêm mạc tử cung khô trứng không phát triển. Vitamin B: Đặc biệt là B1 và B2 nếu thiếu lợn con chân sau sẽ yếu có bào thai chéo, sinh con yếu. Tóm lại lợn dinh dưỡng cho lợn rất cần Vitamin E, B, A. - Nước: là thành phần quan trọng trong cơ thể. Ảnh hưởng đến hàng loạt các quá trình sống và phát triển. Vì vậy, phải cho lợn uống đủ nước. Tính trạng trao đổi chất là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng đáp ứng của con vật đối với các yếu tố kích thích, làm ảnh hưởng đến sự bắt đầu động dục. Lợn nái sau cai sữa có thể động dục bình thường hay không hay động dục bị chậm lại phụ thuộc dinh dưỡng trong thời kỳ nuôi con. Neil M. và cộng sự (1996) đã thông báo rằng với khẩu phần ăn hạn chế trong thời kỳ mang thai và ăn tự do trong thời kỳ nuôi con thì con cái sẽ cho năng suất tốt hơn. Mc phee C. P (2001) đã thông báo rằng đối với lợn hậu bị sau khi được chọn lọc ở khối lượng 50 kg và trong 6 tuần nuôi tiếp theo nên cho ăn khẩu phần hạn chế bằng 80% khẩu phần ăn tư do thì có biểu hiện giảm động dục duy trì, nhưng không ảnh hưởng đến khối lượng lợn con sau khi sinh. Phùng Thị Vân và cộng sự (1999) cho rằng lợn cái hậu bị giống ngoại chuyển sang chế độ ăn hạn chế từ 65 kg - 90 kg thể trọng và có chế độ ăn tăng 109 ngày trước khi dự kiến phối giống có xu hướng tăng số con đẻ sống, tỷ lệ nuôi sống lợn đến cai sữa, số con sai sữa/lứa, khối lượng cai sữa/lứa. Nguyễn Nghi và cộng sự (1995) nghiên cứu ảnh hưởng hàm lượng năng lượng và protein trong khẩu phần ăn của lợn nái ngoại cũng kết luận rằng mức tăng năng lượng và protein cao sẽ làm cho lợn nái chóng béo, ảnh hưởng xấu đến năng suất sinh sản. Ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh xã hội và chuồng trại Thực tiễn quản lý và phương thức chăn nuôi lợn nái là những yếu tố ngoại cảnh xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh sản. Thời gian phối, điều kiện nuôi dưỡng, chuồng trại, quy mô đàn, cách sử dụng đực, trình độ chuyên môn của người chăn nuôi, phương thức quản lý... là những yếu tố ngoại cảnh xã hội quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng suất sinh sản lợn. Ảnh hưởng của các yếu tố bệnh tật Bệnh sẽ làm giảm năng suất sinh sản ở lợn nái. Ở vùng nhiệt đới, nhiệt độ cùng với độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của vi sinh vật gây bệnh. Hơn nữa, ở các nước đang phát triển sức khỏe của động vật chưa được kiểm tra tốt, bệnh tật sẽ làm tăng giá thành các sản phẩm của ngành chăn nuôi. Hệ thống chuồng trại và thực tiễn quản lý phải được quan tâm để làm giảm sự nhiễm bệnh vì đó là nguyên nhân làm giảm khả năng sinh sản, đặc biệt là trong chăn nuôi công nghiệp. Ảnh hưởng của bệnh tật đến năng suất sinh sản ở lợn có thể được phân ra các loại như là mất khả năng thụ thai, mất toàn bộ lứa đẻ, số con sống/ổ ít cùng với việc số con sơ sinh chết và thai gỗ tăng lên. Các yếu tố ngoại cảnh nêu trên đều là những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới tính trạng năng suất sinh sản của lợn nái Móng Cái. Tuy nhiên trong nghiên cứu này chỉ đi sâu vào ba yếu tố chính đó là yếu tố đực phối, lứa đẻ, nhóm giống. Ba yếu tố này các yếu tố đại diện cho các yếu tố môi trường tự nhiên, nuôi dưỡng và quản lý thể hiện tổng thể các tác động khác nhau đến năng suất các đàn vật nuôi được nuôi dưỡng ở các vùng sinh thái, năm và mùa khác nhau. Cho đến nay, trong nghiên cứu nhân giống người ta chưa thấy có một phương pháp mới nào đưa thêm được yếu tố ngoại cảnh nào khác ngoài các loại yếu tố đã nêu trên. Phương pháp dự đoán không chệch tuyến tính tốt nhất (BLUP) cũng dừng lại ở phạm vi này (Hammond K. và cộng sự, 1992) . 2.5. Các tham số di truyền 2.5.1. Hệ số di truyền Hệ số di truyền ( h2) của một tính trạng số lượng là tỷ lệ của phần do gen quy định trong việc tạo nên giá trị kiểu hình. Có thể hiểu hệ số di truyền theo hai cách: Hệ số di truyền theo nghĩa rộng là tỷ lệ giữa phần biến dị do các nguyên nhân di truyền và không di truyền gây ra: h2g = Vg/ Vp Hệ số di truyền theo nghĩa hẹp là tỷ lệ giữa phần biến dị do tác động cộng gộp của các gen và toàn bộ sự biến dị do các nguyên nhân di truyền và không di truyền h2a = Va/Vp Trong thực tế người ta thường sử dụng hệ số di truyền theo nghĩa hẹp (Falconer D.S., 1993; Trần Đình Miên và cộng sự, 1994; Nguyễn Văn Thiện, 1995 ; Kiều Minh Lực, 1999). - Giá trị của hệ số di truyền biến động từ 0 đến 1. - Giá trị của hệ số di truyền phụ thuộc vào từng tính trạng, cấu trúc quần thể và mức độ đồng nhất của môi trường. Hiện nay, người ta dùng phương pháp gần đúng nhất (Maximum Likelihood) hoặc gần đúng nhất hạn chế (Restricted Maximum Likelihood) để xác định hệ số di truyền của các tính trạng. 2.5.2. Hệ số tương quan di truyền Giữa các tính trạng khác nhau của cùng một cơ thể thường có mối lên hệ với nhau. Để biểu thị các mối quan hệ này người ta xây dựng lên hệ số tương quan di truyền (r). Các nhà di truyền giống thường sử dụng tham số hệ số tương quan di truyền nhiều hơn so với tương quan kiểu hình vì nó có ý nghĩa trong công tác chọn lọc. Hệ số tương quan kiểu hình (rp). Hệ số tương quan kiểu hình biểu thị mối quan hệ giữa các giá trị kiểu hình của các tính trạng. Ví dụ lợn đẻ nhiều con thì khối lượng sơ sinh thấp, khối lượng sơ sinh/con cao thì khối lượng cai sũa/con cũng cao. Hệ số tương quan di truyền (rG). Hệ số tương quan di truyền là mối tương quan do các gen quy định đồng thời hai hoặc nhiều tính trạng gây ra. Mối quan hệ này do tác động đa hiệu gene, nghĩa là một gene đồng thời điều khiển cả hai tính trạng mà cũng có thể là do hai hệ thống gene liên kết điều khiển cả hai tính trạng. Như vậy, nguyên nhân chủ yếu của tương quan di truyền là hiện tượng tính đa hiệu gene. Một gene có thể làm tăng hoặc giảm đồng thời cả hai tính trạng tương quan (+), một số gene có thể làm tăng tính trạng này nhưng lại giảm tính trạng khác tương quan (-) (Falconer d.S.,1993, Trần Đình miên và cộng sự, 1994 ; Nguyễn Văn Thiện, 1995; Kiều Minh Lực, 1999). Tương quan di truyền và tương quan kiểu hình cá thể khác nhau về độ lớn và chiều. Giữa hai tính trạng có thể có hệ số tương quan kiểu hình cao, trong lúc đó tương quan di truyền lại thấp và ngược lại. Mặt khác, có thể gặp tương quan kiểu hình giữa hai tính trạng là âm nhưng tương quan di truyền lại dương và ngược lại. Công thức tính hệ số tương quan như sau : rxy : Hệ số tương quan kiểu hình giữa hai tính trạng δxy : Hiệp phương sai giữa hai tính trạng x và y δx: Độ lệch chuẩn của tính trạng x δy: Độ lệch chuẩn của tính trạng y 2.6. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2.6.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Ở nước ngoài đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm di truyền của các giống lợn như Rydhmer L. và cộng sự (1995); McPhee C.P. và cộng sự (1995) ; Kerr J.C. và Cameron N. D (1996). Bidanel J. P và cộng sự (1996) đã xác định được tính trạng di truyền của các tính trạng kinh tế quan trọng như số con sơ sinh sống/ổ, tăng trọng, tiêu tốn thức ăn, tỷ lệ nạc... Estany J. và Sorensen D. và cộng sự (1995) đã nghiên cứu đánh giá các thông số di truyền cho số con/ổ ở lợn Landrace (LR) và Yorkshire ở Đan Mạch. Haley C.S. và cộng sự (1995) đã nghiên cứu so sánh khả năng sinh sản giữa các giống lợn Meishan và Yorkshier với tổ hợp lai của chúng. Tholen E và cộng sự (1996) đã nghiên cứu mối tương quan giữa cai sữa lợn con với khoảng cách lứa đẻ, năng suất sinh sản lợn nái nuôi tại Autralia. Hermesch S. và cộng sự (1995) đã nghiên cứu mối tương quan giữa tính trạng số con sơ sinh với các tính trạng khác. Bass T J. và cộng sự (1992) đã áp dụng chọn lọc và xác định hệ số lặp lại trong chương trình chọn giống lợn và thu được kết quả đáng kể. 2.6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng sinh sản, hệ số di truyền, tương quan di truyền. Phần lớn các tác giả tập trung vào nghiên cứu đặc điểm sinh học, quy trình nuôi dưỡng, các công thức lai kinh tế giữa lợn nội với lợn ngoại ở các cơ sở giống nhà nước. Nguyễn Văn Đức và cộng sự (2001); Nguyễn Văn Nhiệm và cộng sự (2002); Nguyễn Văn Đức và Trần Thị Minh Hoàng (2002) đã nghiên cứu sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng sinh sản và sản xuất cơ bản trên các giống lợn Móng Cái, Landrace, LargeWhite và con lai của chúng, đã rút ra những kết luận quan trọng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctranthingoc_Kn901.doc