Nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Tỉnh Hải Dương

Tài liệu Nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Tỉnh Hải Dương: ... Ebook Nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Tỉnh Hải Dương

doc135 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr­êng ®¹i häc N«ng nghiÖp hµ néI --------------- NguyÔn thanh hoµn Nghiªn cøu vèn ®Çu t­ vµo ph¸t triÓn kinh tÕ khu vùc n«ng th«n tØnh h¶i d­¬ng luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp M· sè: 60.31.10 Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: PGS.ts. §ç V¨n viÖn Hµ néi – 2008 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan r»ng, sè liÖu vµ kÕt qu¶ nghiªn cøu trong luËn v¨n lµ trung thùc vµ ch­a ®­îc sö dông ®Ó b¶o vÖ mét häc vÞ nµo. T«i xin cam ®oan r»ng c¸c th«ng tin trÝch dÉn trong luËn v¨n nµy ®· ®­îc chØ râ nguån gèc. Hà Néi, ngµy th¸ng n¨m 2008 T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn Thanh Hoµn Lời cảm ơn Trong thời gian thực tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của các thầy cô Trường Đại học Nông nghiệp I, của cơ quan công tác, gia đình và bè bạn. Cho phép tôi gửi lời cám ơn chân thành tới các thầy cô Khoa sau đại học, Khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn, Bộ môn Quản trị kinh doanh đã tận tình hỗ trợ giúp đỡ trong suốt quá trình đào tạo. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Đỗ Văn Viện, người thầy hướng dẫn hết lòng tận tụy vì học sinh. Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời cám ơn chân thành tới toàn thể gia đình và bạn bè đã cổ vũ động viên tôi trong suốt quá trình học tập. Hà Nội, ngày tháng năm 2008 Người thực hiện luận văn Nguyễn Thanh Hoàn môc lôc Lêi cam ®oan i Lêi c¶m ¬n ii Môc lôc iii Danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t v Danh môc c¸c b¶ng vi Danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t DN Doanh nghiệp ĐT Đầu tư GTSX Giá trị sản xuất CC Cơ cấu SL Sản lượng FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ĐN Đồi núi NTT Nông thôn tỉnh ĐB Đồng bằng ĐVT Đơn vị tính KQSX Kết quả sản xuất KT Kinh tế DT Diện tích NN Nhà nước KVNT Khu vực nông thôn PTKT Phát triển kinh tế UBND Uỷ ban nhân dân CS Chính sách CCN Cụm công nghiệp KCN Khu công nghiệp NHTM Ngân hàng thương mại CNKT Công nhân kỹ thuật CMKT Chuyên môn kỹ thuật THPT Trung học phổ thông LĐ Lao động Danh môc b¶ng STT Tªn b¶ng Trang 2.1 Tổng vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn 33 phân theo nguồn hình thành vốn 33 2.2 Tổng đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn phân theo ngành kinh tế 35 3.1 Tình hình sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Hải Dương 39 3.2 Dân số trung bình và lao động của tỉnh Hải Dương giai đoạn 1995 – 2007 41 3.3 Cơ cấu các ngành kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hải Dương 45 3.4 Đối tượng thu thập và số mẫu điều tra 46 4.1 Tổng đầu tư vốn vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn 51 phân theo nguồn hình thành vốn 51 4.2 Tổng đầu tư vốn vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn 54 phân theo ngành kinh tế 54 4.3 Tình hình đầu tư vốn vào ngành nông nghiệp 55 phân theo nguồn hình thành vốn 55 4.4 Tình hình đầu tư vốn vào ngành công nghiệp phân theo nguồn hình thành vốn 58 4.5 Tình hình đầu tư vốn vào ngành dịch vụ phân theo nguồn hình thành vốn 62 4.6 Tình hình đầu tư vốn của Nhà nước vào khu vực nông thôn 66 4.7 Tình hình đầu tư vốn của Hộ gia đình và các DN ngoài quốc doanh vào khu vực nông thôn 68 4.8 Tình hình đầu tư vốn FDI vào khu vực nông thôn 72 4.9 Các hình thức đầu tư vốn FDI 74 4.10 Vốn FDI phân theo lĩnh vực đầu tư 75 4.11 Tình hình đầu tư vốn vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn 78 phân theo thành phần kinh tế 78 4.12 Tổng đầu tư vốn vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn phân theo nguồn vốn năm 2007 81 4.13 Tổng đầu tư vốn vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn phân theo ngành kinh tế năm 2007 82 4.14 Giá trị sản xuất và mối tương quan giữa vốn đầu tư và kết quả sản xuất 84 4.15 Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp và mối tương quan giữa vốn đầu tư với kết quả sản xuất 86 4.16 Giá trị sản xuất ngành công nghiệp và mối tương quan giữa vốn đầu tư với kết quả sản xuất 89 4.17 Giá trị sản xuất ngành dịch vụ và mối tương quan giữa vốn đầu tư với kết quả sản xuất 92 4.18 Kết quả sản xuất của các thành phần kinh tế và tương quan giữa vốn đầu tư và kết quả sản xuất 94 4.19 Kết quả sản xuất theo lãnh thổ và mối tương quan giữa vốn đầu tư và kết quả sản xuất 96 4.20 Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế khu vực nông thôn 97 4.21 Mục tiêu thu hút vốn vào khu vực nông thôn tỉnh năm 2010 103 4.22 Mục tiêu đào tạo chất lượng nguồn nhân lực 106 4.23 Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI trong các thời kỳ sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 109 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển của đất nước ta. Đảng đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chủ trương này, Đảng và Nhà nước đã có nhiều điều chỉnh về kinh tế, chính trị, xã hội cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Sau gần 20 năm đổi mới, nước ta đã có được những thành công đáng kể trên con đường đưa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nước ta đã hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, việc huy động các nguồn lực vào phát triển kinh tế trở nên vô cùng quan trọng. Vốn đầu tư là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, chính vì vậy huy động vốn đầu tư nhằm phát triển kinh tế là một trong những vấn đề trọng yếu hiện nay. Những điều chỉnh căn bản về pháp luật của nước ta đã phần nào giúp cho các thành phần trong xã hội dễ dàng hơn trong việc bỏ vốn vào đầu tư. Nhưng trong điều kiện có nhiều cạnh tranh gay gắt như hiện nay, Nhà nước cần phải có những giải pháp huy động vốn hợp lý hơn để có thể huy động tốt nhất mọi nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế. Đặc biệt, do sự phân bố vốn đầu tư không đồng đều, tập trung chủ yếu tại vùng thành thị nên khoảng cách giữa nông thôn và thành thị càng ngày càng xa . Điều này cho thấy, thu hút vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn là vấn đề rất nóng bỏng đối với nhiều nước trên thế giới nói chung, và nóng bỏng hơn với những nước có ¾ dân số sống tại nông thôn và có nền nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn như Việt Nam. Hải Dương tuy là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm nhưng trên địa bàn tỉnh có 11 huyện nông thôn, dân cư chủ yếu sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp. Phần diện tích cũng như dân số của vùng này chiếm tỷ trọng lớn. Do vậy, tỉnh Hải Dương đặt vấn đề phát triển kinh tế khu vực nông thôn lên hàng đầu. Chính vì vậy vấn đề thu hút vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Hải Dương là rất cần thiết. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra ở đây là: làm thế nào để huy động vốn đầu tư vào khu vực nông thôn? đầu tư vốn phát triển kinh tế khu vực nông thôn tỉnh Hải Dương những năm qua đã đạt được những kết quả như thế nào? Bộc lộ những hạn chế nào? Và đâu là nguyên nhân của những hạn chế đó? Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Tỉnh Hải Dương” 1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.2.1 Mục tiêu chung Đánh giá tình hình đầu tư vốn vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn tỉnh Hải Dương 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Góp phần hệ thống hoá và khái quát hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về đầu tư, vốn đầu tư, phát triển kinh tế nông thôn. - Phân tích đánh giá thực trạng đầu tư và đầu tư vốn vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn ở Tỉnh Hải Dương. Từ đó phát hiện những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình và kết quả đầu tư vốn trên địa bàn nghiên cứu. - Định hướng và đề xuất các giải pháp có tính khả thi để thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong phát triển kinh tế khu vực nông thôn tại tỉnh Hải Dương trong thời gian tới. 1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu: Là vốn đầu tư của các thành phần kinh tế , vốn từ các nguồn hình thành nên vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn tỉnh Hải Dương. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: Nghiên cứu ở khu vực nông thôn tỉnh Hải Dương. - Về thời gian: + Đề tài nghiên cứu số liệu biến động trong vòng 3 năm 2005 – 2007 + Thời gian nghiên cứu từ tháng 12/2007 đến tháng 8/2008 và định hướng đến năm 2015. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1.1 Những khái niệm cơ bản 2.1.1.1 Khái niệm, phân loại và đặc điểm của đầu tư * Khái niệm Thuật ngữ “đầu tư” có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó, có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Theo cách hiểu chung nhất, có thể định nghĩa: Đầu tư là việc xuất vốn hoạt động nhằm thu lợi. Theo định nghĩa này mục tiêu là các lợi ích mà nhà đầu tư mong muốn mà phương tiện của họ là vốn đầu tư xuất ra. * Phân loại đầu tư - Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trị để hưởng lãi suất định trước (gửi tiền tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. - Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó nguời có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và người đầu tư với khách hàng của họ. - Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang hoạt động và tạo tiềm lực mơi cho nền kinh tế xã hội. * Đặc điểm của đầu tư Thứ nhất, đầu tư được coi là yếu tố khởi đầu cơ bản của sự phát triển và sinh lời. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố tạo nên tăng trưởng và sinh lời, trong đó có yếu tố đầu tư. Nhưng để bắt đầu một quá trình sản xuất hoặc tái mở rộng quá trình này, trước hết phải có vốn đầu tư. Nhờ sự chuyển hoá vốn đầu tư thành vốn kinh doanh tiến hành hoạt động, từ đó tăng trưởng và sinh lời. Trong các yếu tố tạo ra sự tăng trưởng và sinh lời này vốn đầu tư được coi là một trong những yêú tố cơ bản. Đặc điểm này không chỉ nói lên vai trò quan trọng của đầu tư trong việc phát triển kinh tế mà còn chỉ ra động lực quan trọng kích thích các nhà đầu tư nhằm mục đích sinh lời. Tuy nhiên, động lực này thường vấp phải những lực cản bởi một số đặc điểm khác. Thứ hai, đầu tư đỏi hỏi một khối lượng vốn lớn, khối lượng vốn đầu tư lớn thường là tất yếu khách quan nhằm tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển kinh tế như: Xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở công nghiệp luyện kim, chế tạo máy, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp lương thực thực phẩm, ngành điện năng... Vì sử dụng một khối lượng vốn khổng lồ, nên nếu sử dụng vốn kém hiệu quả sẽ gây nhiều phương hại đến sự phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài với khối lượng vốn lớn và kém hiệu quả thì gánh nợ nước ngoài ngày càng chồng chất vì không có khả năng trả nợ, tình hình tài chính khó khăn sẽ dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ. Các cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Mêhicô và các nươc Đông nam Á vừa qua là những điển hình về tình trạng này. Thứ ba, quá trình đầu tư XDCB phải trải qua một quá trình lao động rất dài mới có thể đưa vào sử dụng được, thời gian hoàn vốn vì sản phẩm XDCB mang tính đặc biệt và tổng hợp. Sản xuất không theo một dây truyền hàng loạt mà mỗi công trình, dự án có kiểu cách, tính chất khác nhau lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố điều kiện tự nhiên, địa điểm hoạt động thay đổi liên tục và phân tán, thời gian khai thác và sử dụng thường là 10 năm, 20 năm, 50 năm hoặc lâu hơn tuỳ thuộc vào tính chất dự án. Quá trình đầu tư thường gồm ba giai đoạn: Xây dựng dự án, thực hiện dự án và khai thác dự án. Giai đoạn xây dựng dự án, giai đoạn thực hiện dự án là giai đoạn tất yếu, những giai đoạn này lại kéo dài mà không tạo ra sản phẩm. Đây chính là nguyên nhân của công thức “Đầu tư mâu thuẫn với tiêu dùng”, vì vậy, có nhà kinh tế cho rằng đầu tư là quá trình làm bất động hoá một số vốn nhằm thu lợi nhuận trong nhiều thời kỳ nối tiếp sau này, cho nên muốn nâng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần chú ý tập trung các điều kiện đầu tư có trọng điểm nhằm đưa nhanh dự án vào khai thác. - Khi xét hiệu quả đầu tư cần quan tâm xem xét toàn ba giai đoạn của quá trình đầu tư, tránh tình trạng thiên lệch, chỉ tập trung vào giai đoạn thực hiện dự án mà không chú ý vào cả thời gian khai thác dự án. - Do chú ý sản xuất kéo dài nên việc hoàn vốn được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm, phải lựa chọn trình tự bỏ vốn thích hợp để giảm mức tối đa thiệt hại do ứ đọng vốn ở sản phẩm dở dang, việc coi trọng hiệu quả kinh tế do đầu tư mang lại là rất cần thiết nên phải có các phương án lựa chọn tối ưu, đảm bảo trình tự XDCB. Thời gian hoàn vốn là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đo lường và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Thứ tư, đầu tư là một lĩnh vực có rủi ro lớn. Rủi ro, trong lĩnh vực đầu tư XDCB chủ yếu do thời gian của quá trình đầu tư kéo dài. Trong thời gian này, các yếu tố kinh tế, chính trị và cả tự nhiên ảnh hưỏng sẽ gây nên những tổn thất mà các nhà đầu tư không lường định hết khi lập dự án. Các yếu tố liên quan đến đầu tư: Sự thay đổi chính sách như quốc hữu hoá các cơ sở sản xuất, thay đổi chính sách thuế, mức lãi suất, sự thay đổi thị trường, thay đổi nhu cầu sản phẩm cũng có thể gây nên thiệt hại cho các nhà đầu tư, tránh được hoặc hạn chế rủi ro sẽ thu được những món lời lớn, và đây là niềm hy vọng kích thích các nhà đầu tư. Trên phương diện này Samuelson cho rằng: đầu tư là sự đánh bạc về tương lai vơi hy vọng thu nhập của quá trình đầu tư sẽ lớn hơn chi phí của quá trình này. Đặc điểm chỉ ra rằng, nếu muốn khuyến khích đầu tư cần phải quan tâm đến lợi ích của các nhà đầu tư. Lợi ích mà các nhà đầu tư quan tâm nhất là hoàn đủ vốn đầu tư của họ và lợi nhuận tối đa thu được nhờ hạn chế hoặc tránh rủi ro. Do đó họ mong muốn hoàn vốn nhanh và có lãi. Vì vậy, các chính sách khuyến khích đầu tư cần quan tâm đến những ưu điểm miễn, giảm thuế trong thời kỳ đầu về khấu hao cao, về lãi suất vay vốn thấp, về chuyển vốn và lãi về nước nhanh, thuận tiện (vốn đầu tư nước ngoài). 2.1.1.2 Khái niệm, phân loại và bản chất của vốn đầu tư * Khái niệm Dưới mỗi một phương diện nghiên cứu khác nhau, chúng ta có thể có những quan niệm khác nhau về nguồn vốn đầu tư. Theo khái niệm của Bộ môn Kinh tế đầu tư trường Đại học Kinh tế quốc dân nguồn vốn đầu tư được quan niệm như sau: Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho phát triển kinh tế xã hội đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Có quan điểm cho rằng: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác nhau như liên doanh, liên kết hoặc tài trợ của nước ngoài... nhằm để: tái sản xuất, các tài sản cố định để duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, để đổi mới và bổ sung các cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, cho các ngành hoặc các cơ sở kinh doanh dịch vụ, cũng như thực hiện các chi phí cần thiết tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới được bổ sung hoặc mới được đổi mới. * Phân loại vốn đầu tư Hiện nay, có nhiều cách phân loại nguồn vốn đầu tư, trong chuyên đề này để thuận tiện trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng cách phân loại nguồn vốn đầu tư thành hai nguồn chính đó là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. a. Vốn trong nước Có nhiều nguồn vốn khác nhau tạo thành nguồn vốn trong nước như: nguồn vốn Nhà nước, nguồn vốn từ khu vực tư nhân, thị trường vốn trong nước. Mỗi nguồn vốn có một vai trò khác nhau trong cơ cấu vốn trong nước. Để có thể phát huy được tác dụng của các nguồn vốn chúng ta cần tìm hiểu kỹ về các nguồn vốn này. * Nguồn vốn Nhà nước Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước. - Đối với nguồn vốn ngân sách Nhà nước: đây chính là nguồn chi tiêu của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người đi vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh điều tiết kinh tế vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội. * Nguồn vốn từ khu vực tư nhân Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: - Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp). - Tập quán tiêu dùng của dân cư. - Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội. Với vài vạn doanh nghiệp ngoài nhà nước ở nước ta hiện nay đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tông quy mô vốn của toàn xã hội. Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Tổng đầu tư xã hội Nguồn vốn trong nước Nguồn vốn nước ngoài Nhà nước Khu vực tư nhân ODA Đầu tư gián tiếp Kiều hối Ngân sách Tín dụng DNNN Đầu tư trực tiếp của dân cư Đầu tư gián tiếp FDI Dân cư Sơ đồ: Các kênh thu hút vốn ở Việt Nam * Thị trường vốn Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn dỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được. Bằng việc phát hành và mua bán chứng khoán, các khoản vốn manh mún, rải rác trong dân cư và các tổ chức kinh tế sẽ được huy động nhằm đáp ứng những nhu cầu đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. So sánh với hình thức huy động vốn qua ngân hàng, thị trường vốn huy động tiền rộng rãi hơn, phương thức tín dụng linh hoạt, đa dạng, có thể đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu khác nhau của người cần vốn, đảm bảo về hiệu quả và thời gian lựa chọn. b. Vốn nước ngoài Nguồn vốn nước ngoài có thể đến dưới nhiều dạng khác nhau, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau: - Tài trợ phát triển chính thức (ODF), nguồn này bao gồm: viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình thức tài trợ phát triển khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF. - Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). - Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế. * Nguồn vốn ODA Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn vốn ODF (Tài trợ phát triển chính thức) nào khác. Ngoài các ưu đãi về mặt lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%. Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường...). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. * Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không gắn với các dàng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này khá khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của các nước đi vay là sáng sủa. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận đối với nguồn vốn này còn khá hạn chế. * Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh ở các nước nhận đầu tư. * Thị trường vốn quốc tế Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên dáng vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Đối với Việt Nam, để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đằu tư phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sông nhân dân. Trong đó, nguồn huy động qua thị trường vốn cũng được chính phủ quan tâm. Các đề án về phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài cũng đã được xây dựng và xem xét. Tuy nhiên, đây là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ và còn phức tạp đối với Việt Nam. * Bản chất của vốn đầu tư Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị Mác - Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển, khi nghiên cứu vấn đề này đã chỉ ra rằng: “Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”. Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ. C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất, khu vực II sản xuất tư tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + v + m) trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v + m) là phần giá trị mới sáng tạo. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v + m) cuả khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất của khu vực II. Đối với khu vực II, toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuât của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng. Quan điểm bản chất cuả nguồn vốn đầu tư lại được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Khi John Maynard Keynes nghiên cứu về việc làm, lãi suất và tiền tệ, ông đã chứng minh được rằng: “Đầu tư chính bằng phần thu nhập không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng. Tức là: Đầu tư = Tiết kiệm Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Mặc dù nguồn gốc hình thành vốn đầu tư chính là nguồn lực dùng để tái đầu tư sản xuất giản đơn (khấu hao, vốn ứng) và nguồn tích luỹ, nhưng tất cả những nguồn đó chưa được gọi là vốn đầu tư nếu chúng chưa được dùng để chuẩn bị cho quá trình tái sản xuất. Tức là, tất cả những nguồn lực này lúc đó chỉ đơn thuần là nguồn tích luỹ mà thôi. Chính vì vây, để quá trình đầu tư diễn ra một cách năng động đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách thu hút vốn đầu tư, khuyến khích tạo động lực thu hút nguồn tích luỹ tiếp tục tham gia vào quá trình tái sản xuất. Những nguồn lực này dưới sự tác động của các biện pháp kinh tế tham gia vào quá trình tái sản xuất với kỳ vọng nhận được những kết quả tốt hơn trong tương lai. Lúc đó, những tiềm năng này mới thực sự được gọi là nguồn vốn đầu tư của xã hội. Vốn đầu tư sau khi trải qua quá trình thực hiện đầu tư sẽ được chuyển dạng thành những năng lực sản xuất nhất định (năng lực sản xuất, tài sản cố định, kỹ năng, nguồn nhân lực...) và cứ như vậy quá trình chu chuyển vốn đầu tư bao giờ cũng đi trước một bước gắn với quá trình tái sản xuất. 2.1.1.3 Khái quát về phát triển kinh tế, kinh tế nông thôn và vốn đầu tư vào phát triển kinh tế nông thôn a) Phát triển kinh tế Theo quan niệm của Kinh tế phát triển, tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế, người ta thường dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay bình quân đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được xem xét trên 2 mặt biểu hiện: đó là mức tăng tuyệt đối hay mức tăng phần trăm (%) hàng năm, hoặc bình quân trong một giai đoạn. Cũng theo quan điểm của Kinh tế phát triển, phát triển kinh tế có thể hiểu là quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Nhân tố chủ yếu tác động đến quy mô và chất lượng đầu ra đó chính là vốn đầu tư (hiểu theo nghĩa rộng) mà chúng ta có thể phân ra thành các hình thức khác nhau đó là : vốn sản xuất, vốn nhân lực (lao động), vốn tài nguyên (đất đai) và vốn trí tuệ (khoa học công nghệ). b) Vai trò của phát triển kinh tế nông thôn Phát triển kinh tế nông thôn sẽ tiếp tục đóng vai trò chủ chốt vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vai trò đó được thể hiện qua các nhiệm vụ sau: - Đảm bảo an ninh lương thực cho nhân dân cả nước - Cung cấp nguyên liệu và sức lao động cho các ngành công nghiệp và dịch vụ - Tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, hạn chế việc di dân tự phát từ nông thôn ra thành thị. - Tạo nguồn thu nhập ngoại tệ thông qua xuất khẩu các sản phẩm từ nông, lâm, ngư nghiệp và ngành nghề thủ công. - Bảo vệ và làm giàu môi trường sinh thái và cảnh quan, duy trì và bảo tồn nền dân tộc. c) Các hoạt động kinh tế trong nông thôn Kinh tế của một nước nói chung, của nông._. thôn nói riêng bao gồm các hoạt động kinh tế thuộc ba loại lớn sau: - Những hoạt động sản xuất chính (là những hoạt động liên quan đến trồng trọt, thu hoạch hoặc khai thác nguyên liệu…) - Những hoạt động sản xuất thứ sinh (hoặc chế biến) (là những hoạt động liên quan đến việc chế biến những nguyên liệu từ hoạt động sản xuất chính và sản xuất các mặt hàng có thể sử dụng hoặc tiêu thụ) - Những hoạt động thứ ba (hoặc dịch vụ) (là những hoạt động liên quan đến việc cung cấp dịch vụ) d) Các thành phần kinh tế trong nông thôn Giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang làm thay đổi vai trò của các thành phân kinh tế. Các thành phần kinh tế chính được Chính phủ công nhận bao gồm: - Hộ gia đình - Hợp tác xã - Doanh nghiệp nhà nước - Doanh nghiệp tư nhân tồn tại dưới các hình thức pháp lý: Doanh nghiệp cá nhân, công ty hợp doanh, công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. c) Vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Vốn là biểu hiện bằng tiền của các nguồn lực sử dụng vào hoạt động cho các lĩnh vực kinh tế trong khu vực nông thôn. Vốn trong khu vực nông thôn không ngừng vận động từ hình thái giá trị sang hình thái hiện vật, từ sản xuất sang lưu thông và trở về sản xuất. Tại khu vực nông thôn, sự hiểu biết các qui luật vận động của vốn qua sự tác động của các qui luật kinh tế và các qui luật tự nhiên, qua đó tìm ra các nguyên nhân của những hạn chế và tạo những điều kiện cho vốn vận động và sử dụng có hiệu quả là nhiệm vụ của các chủ đầu tư vốn. Từ phân tích trên cho thấy: Vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn là đầu tư tiền vào các ngành kinh tế trong khu vực nông thôn nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế nhất định, với những điều kiện và thời gian xác định. Vốn là điều kiện cần thiết và không thể thiếu được để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh của mọi ngành, mọi thành phần kinh tế trong khu vực nông thôn. Nông thôn nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng là lĩnh vực, ngành có sức hấp dẫn vốn đầu tư kém. Điều này do các đặc điểm của nông nghiệp và nông thôn chi phối. Do vậy quá trình đầu tư vốn cho khu vực nông thôn bao gồm hai phần quan trọng: Huy động vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn (giảm tỷ trọng ngành sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ) và chuyển tải vốn đến các ngành, lĩnh vực của nông thôn giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả. 2.1.2 Ý nghĩa của đầu tư vốn vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn nói chung và nông thôn Hải Dương nói riêng - Khai thác thế mạnh tổng hợp vốn đầu tư từ các nguồn hình thành vốn đầu tư và các thành phần kinh tế. - Khai thác sử dụng tốt nguồn lực khan hiếm trong khu vực nông thôn. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng - Xóa dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị - Nâng cao thu nhập cho người dân khu vực nông thôn - Góp phần xây dựng nông thôn mới 2.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào khu vực nông thôn nói chung 2.1.3.1 Nhóm điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên... có thể nói là những yếu tố được xem xét đầu tiên khi nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư. Vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện để giao lưu kinh tế với các địa phương trong và ngoài nước, từ đó mở ra những cơ hội to lớn để phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp phục vụ xuất khẩu, phát triển các ngành dịch vụ, du lịch, đẩy mạnh hợp tác phát triển và hội nhập. Tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, rừng, biển, tài nguyên khoáng sản) tạo lợi thế quan trọng cho phát triển một số ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu đầu vào khai thác từ thiên nhiên như: công nghiệp khai khoáng, công nghiệp chế biến... Tuy nhiên, đây không hoàn toàn là yếu tố có ảnh hưởng quyết định tới quyết định cuối cùng của nhà đầu tư và ngày càng mất dần lợi thế trong việc thu hút đầu tư. 2.1.3.2 Nhóm kinh tế - xã hội Các yếu tố cơ bản của nhóm kinh tế - xã hội bao gồm: a) Chất lượng nguồn nhân lực Trong bất kỳ nền sản xuất nào, thời đại nào, lao động bao giờ cũng là yếu tố cơ bản quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn lao động chính là một bộ phận dân cư của đất nước. Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô dân số và tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động. Một nguồn lao động có số lượng lớn sẽ đáp ứng được nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất của nền kinh tế. Tuy nhiên ngày nay với đội ngũ lao động "đông mà không mạnh" không còn là lợi thế mang ý nghĩa quyết định. Bởi trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như hiện nay chất lượng nguồn lao động mới là yếu tố được quan tâm. Chất lượng lao động quyết định khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, khả năng thích ứng với mọi môi trường làm việc từ đó giúp giảm chi phí đào tạo cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, vấn đề cơ cấu về cấp bậc, chuyên ngành giữa những lao động đã qua đào tạo cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quyết định đầu tư. Xu thế hiện nay có nhu cầu cao về công nhân kỹ thuật lành nghề hơn là các cán bộ quản lý, vì vậy, việc điều chỉnh cơ cấu cũng là vấn đề không nhỏ trong việc thu hút đầu tư. Như vậy, có thể nói, chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng tới việc thu hút được những dự án có trình độ công nghệ cao, đầu tư có chiều sâu, sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hay những dự án có công nghệ nguồn vào địa phương. Do đó, yếu tố lao động giá rẻ với chất lượng thấp không còn là lợi thế thu hút vốn đầu tư mà nó có thể là nguyên nhân gây trở ngại cho các nhà đầu tư công nghệ cao. Bởi vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng làm mạnh lên môi trường đầu tư trong thu hút đầu tư trong nước và quốc tế trong điều kiện hội nhập. b) Cơ sở vật chất – kỹ thuật - Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước... - Cơ sở hạ tầng xã hội: các công trình phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí, ăn uống, đi lại... Cơ sở hạ tầng là nền móng vững chắc cho mọi hoạt động đầu tư, vì muốn sản xuất kinh doanh phải có điện nước đảm bảo, giao thông thuận tiện, các dịch vụ công cộng phát triển. Nó không chỉ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn đóng góp không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng sống của người dân, từ đó gián tiếp làm tăng nhu cầu cho nền kinh tế. Song trong xu hướng hiện nay, hầu hết các địa phương đã quan tâm đầu tư hệ thống cơ sở vật chất, cho nên đây cũng không còn là yếu tố đóng vai trò chủ yếu trong việc ra quyết định đầu tư. c) Cơ chế, chính sách của địa phương Một môi trường đầu tư thông thoáng, thuận tiện góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, là nơi mà các nhà đầu tư tìm đến. Vì vậy Đảng, Nhà nước ta đã và đang không ngừng xây dựng và hoàn thiện hơn nữa cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Trên cơ sơ khung pháp lý ấy, các địa phương đưa ra các cơ chế áp dụng của riêng mình nhằm cạnh tranh trong việc thu hút vốn với các địa phương khác. Tuy nhiên, do sự chênh lệch về ưu đãi giữa các địa phương là không lớn do đều phải tuân thủ các quy định của nhà nước. Nên có thể nói, các ưu đãi đầu tư không phải là cái mà các doanh nghiệp quan tâm nhiều. Bởi trong thực tế không phải lúc nào các ưu đãi này cũng đến được với các doanh nghiệp. d) Năng lực của chính quyền địa phương Việc ban hành hàng loạt các ưu đãi đầu tư như: giảm thuế thu nhập và tiền thuê đất, hỗ trợ chi phí đào tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý thuận lợi... không phải là yếu tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tư. Bởi những chi phí này không là gì so với chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra do năng lực của chính quyền địa phương kém. Năng lực này được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu: - Tính minh bạch và trách nhiệm: Chỉ số cấu thành này đánh giá khả năng doanh nghiệp có thể tiếp cận được những kế hoạch của tỉnh và văn bản pháp lý cần thiết cho việc điều hành công việc của mình, tính sẵn có của các loại tài liệu, văn bản đó, tính chất có thể dự đoán được của các quy định và chính sách mới, việc chúng có được đưa ra tham khảo ý kiến doanh nghiệp trước khi ban hành hay không, và mức độ phổ biến của trang Web tỉnh. - Chi phí về thời gian và việc thực hiện các quy định của nhà nước: chỉ số cấu thành này đo lường thời gian mà các doanh nghiệp phải bỏ ra khi chấp hành các thủ tục hành chính, cũng như mức độ thường xuyên và thời gian doanh nghiệp phải tạm dựng kinh doanh để các cơ quan pháp luật của tỉnh thực hiện việc thanh tra, kiểm tra. - Các chi phí không chính thức: Chỉ số cấu thành này đo lường mức chi phí không chính thức doanh nghiệp phải trả và những trở ngại do những chi phí này gây nên cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước: Chỉ số cấu thành này đo lường mức độ ưu đãi của chính quyền tỉnh đối với các doanh nghiệp nhà nước xét trên khía cạnh những ưu đãi, chính sách và việc tiếp cận nguồn vốn. - Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh: Chỉ số cấu thành này đo lường tính sáng tạo, sáng suốt của tỉnh trong quá trình thực thi chính sách của Trung ương cũng như trong việc đưa ra những sáng kiến riêng nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, có thể nói, cái mà các doanh nghiệp quan tâm nhiều nhất chính là thái độ của chính quyền địa phương đối với doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng tập trung về 1 tỉnh mà không về những nơi khác, rõ ràng đã có nhiều tín hiệu phát ra và được thu nhận về những đối xử trên thực tế (chứ không phải trên văn bản, bởi không phải lúc nào các qui định chính thức cũng được thực thi triệt để) của các tỉnh đối với các nhà đầu tư ngoài quốc doanh. 2.1.3.3 Nhóm tổ chức quản lý và khai thác vốn đầu tư a) Công tác tổ chức quản lý đầu tư xây dựng. Tổ chức quản lý đầu tư xây dựng là một lĩnh vực rất rộng, bao gồm nhiều nội dung nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư do nhà nước quản lý, chống thât thoát lãng phí. Bảo đảm xây dựng dự án theo quy hoạch xây dựng yêu cầu bền vững mỹ quan, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong xây dựng, áp dụng công nghệ tiên tiến, bảo đảm chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý, bảo hành công trình xây dựng. Việc tổ chức quản lý chặt chẽ theo đúng trình tự XDCB đối với các dự án thuộc nguồn vốn NSNN, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước và vốn do doanh nghiệp Nhà nước. Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, chủ đầu tư, tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình đầu tư và xây dựng nhằm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Theo đó, nội dung gồm: Phân loại dự án đầu tư theo tính chất, quy mô đầu tư để phân cấp quản lý. Công tác kế hoạch hoá đầu tư để tổng hợp cân đối vốn đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, dự báo các cân đối vĩ mô. ở các doanh nghiệp cân đối và phản ánh đầy đủ các nguồn vốn khấu hao cơ bản, tích luỹ từ lợi tức sau thuế, các nguồn huy động trong và ngoài nước. Công tác giám định đầu tư các dự án do cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư. Công tác xây dựng cơ chế chính sách về quản lý quy hoạch quản lý đầu tư xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, quy phạm, quy chuẩn xây dựng, quy trình thiết kế xây dựng, các quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng, hệ thống định mức chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí tư vấn, xây dựng đơn giá,... Công tác chuẩn bị đầu tư, thăm dò thị trường, thu thập tài liệu, môi trường sinh thái, điều tra khí tượng thuỷ văn, lập dự án đầu tư, điều tra, khảo sát thiết kế,... Công tác đấu thầu xây dựng theo quy chế. Công tác tổ chức chuẩn bị thực hiện dự án, quản lý thi công xây lắp, triển khai thực hiện dự án đầu tư. Công tác kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn đầu tư. Công tác tạm ứng, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành. Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản theo trình tự XDCB có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nhóm nhân tố này ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, trước hết là tác động đến việc tạo ra kết quả đầu tư ( các đối tượng đầu tư hoàn thành) và tác động đến chi phí đầu tư. Chất lượng của công tác tổ chức quản lý đầu tư xây dựng nói trên sẽ tạo điều kiện cho việc tiết kiệm hay thất thoát lãng phí vốn đầu tư, cũng tạo điều kiện cho các kết quả đầu tư tăng hay giảm về mặt khối lượng và mang lại nhiều hay ít các lợi ích kinh tế - xã hội khi khai thác sử dụng các kết quả đầu tư này. Do những thiếu sót trong công tác quản lý đầu tư xây dựng đã làm cho vốn đầu tư bị thất thoát lãng phí. Một số đối tượng đầu tư hoàn thành mang lại hiệu quả sử dụng không như mong muốn làm cho số vốn đầu tư sử dụng kém hiệu quả. b) Tổ chức khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành. Nhân tố này thuộc mắt xích cuối cùng của sợi dây chuyền hiệu quả. Tổ chức khai thác các đối tượng đầu tư hoàn thành sẽ mang lại một khối lượng cung ứng hàng hoá, dịch vụ nhất định. So sánh khối lượng hàng hoá dịch vụ này với nhu cầu hàng hóa dịch vụ của nền kinh tế sẽ xác định lợi ích kinh tế của vốn đầu tư. Đây là một trong hai nhân tố cấu thành hiệu quả vốn đầu tư. Tổ chức khai thác các đối tượng đầu tư hoàn thành có kết quả tốt hay không lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố: Do tác động của việc chọn mô hình chiến lược kinh tế và tác động của công tác tổ chức quản lý đầu tư xây dựng các nhân tố này tuỳ theo mức độ đúng đắn, thích hợp của chúng mà tác động tích cực hay tiêu cực đến kết quả khai thác các đối tượng đầu tư hoàn thành. Các nhân tố thuộc bản thân tổ chức khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành như công tác quản lý, tổ chức sản xuất, công tác nghiên cứu triển khai áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, công tác tiếp thị chiếm lĩnh và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, công tác cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm... Các nhân tố này, theo vị trí riêng của chúng, có thể tác động độc lập và theo mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa chúng có thể tác động tổng hợp đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 2.1.4 Nội dung nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển khu vực nông thôn theo các nội dung chính sau: - Nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn phân theo nguồn hình thành, bao gồm: Vốn Nhà nước, vốn từ dân cư và các doanh nghiệp tư nhân, vốn đầu tư có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn phân theo ngành sản xuất, bao gồm: ngành nông – lâm – thủy sản; ngành công nghiệp và ngành dịch vụ của từng nguồn vốn. - Nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn phân theo thành phần kinh tế, bao gồm các thành phần kinh tế trong nông thôn được Chính phủ công nhận: hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân (trong đó có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). - Nghiên cứu vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn phân theo vùng lãnh thổ, bao gồm: vùng đồng bằng, vùng đồi núi, vùng đất trũng… 2.1.5 Nguyên tắc thu hút, sử dụng và quản lý vốn đầu tư - Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế. Tức là vốn đầu tư càng được sử dụng có hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. Năng lực tăng trưởng để đảm bảo cho khả năng tích lũy và triển vọng tăng trưởng là tín hiệu tốt thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Đảm bảo sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô có thể được coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Để thu hút các nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước, phải đảm bảo được nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao. - Bên cạnh tiềm năng tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, để huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển, Nhà nước, địa phương và doanh nghiệp cần có các chính sách và giải pháp đồng bộ và hợp lý trên cơ sở có sự tính toán tổng hợp đảm bảo khuyến khích, định hướng các hoạt động thi hút và cung ứng vốn nhằm huy động tổng lực của nền kinh tế cho công nghiệp hóa đất nước. - Nguyên tắc sử dụng vốn đầu tư là phải có hiệu quả, đúng mục đích và phải bảo toàn vốn đầu tư. - Những nguyên tắc quản lý vốn đầu tư bao gồm nguyên tắc thống nhất giữa chính trị và kinh tế, kết hợp hài hòa giữa hai mặt kinh tế và xã hội; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ; Nguyên tắc kết hợp hài hòa các loại lợi ích trong đầu tư và nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả. 2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN 2.2.1 Tình hình đầu tư vốn vào phát triển kinh tế nông thôn của một số nước châu Á 2.2.1.1 Hàn Quốc Kể từ thập kỷ 80, Hàn Quốc đã đầu tư mạnh vào sản xuất nông nghiệp. Ngân sách cho nông nghiệp tăng nhanh chóng, năm 1992 là 21 tỷ USD lên 45 tỷ USD năm 1997, chủ yếu nhằm chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông nghiệp, cụ thể là: Tăng cường năng lực sản xuất về hệ thống thuỷ lợi, chất lượng đất, giao thông nông thôn... Hiện đại hoá nông nghiệp, Tăng quy mô đất canh tác trên đầu người Phát triển công nghệ Đẩy mạnh giáo dục cho nông dân Cải tổ thị trường nông sản theo hướng tự do hoá Cải tổ cơ cấu của ngành chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp, nâng cao thu nhập nông thôn Trong các lĩnh vực trên, Hàn Quốc chú trọng mạnh mẽ vào việc điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp. Các bước thực hiện chính sách chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp của Hàn Quốc gồm: Bước 1: Đầu tư lớn cho ngành nông nghiệp nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Bước 2: Thay đổi cơ chế trợ cấp và cho vay. Cơ chế ra quyết định thay đổi "từ trên xuống dưới" thành "từ dưới lên trên". Quá trình thực hiện trợ cấp và cho vay cũng được mở rộng và minh bạch hơn. Bước 3: Hệ thống trợ cấp và cho vay được điều chỉnh lại hoạt động thông qua thị trường tài chính. Hiện nay, mặc dù tự cung cấp được 99,8% nhu cầu lúa gạo trong nước nhưng chiến lược của Hàn Quốc trong những năm tới vẫn là đảm bảo an ninh lương thực, tự cung cấp một số mặt hàng lương thực, thực phẩm chính. Để đạt được mục tiêu này, Hàn Quốc tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất lúa gạo và hệ thống theo dõi biến động của thị trường lúa gạo thế giới, hỗ trợ sản xuất lúa gạo trong nước. Đồng thời, Hàn Quốc chú trọng cải tiến hệ thống vệ sinh dịch tễ, cải cách hệ thống tiếp thị và ổn định quản lý trang trại. 2.2.1.2 Philippin Thập kỷ 90, Philippin chi đầu tư cho ngành lúa gạo khá lớn (khoảng 50 % tổng đầu tư nông nghiệp), chiếm khoảng 15% GDP của ngành. Trong tổng đầu tư cho nông nghiệp, thuỷ lợi chiếm khoảng 12%, tuy nhiên thời gian gần đây giảm xuống còn 8%. Chi cho nghiên cứu nông nghiệp và khuyến nông chiếm tương ứng 4% và 7%. Hệ thống nghiên cứu của Philippin còn yếu kém do các hoạt động nghiên cứu thiếu liên kết, giữa nghiên cứu và khuyến nông thiếu phối hợp với nhau. Philippin chủ trương không đầu tư nhiều vào các ngành hàng thay thế nhập khẩu, khả năng cạnh tranh yếu, đặc biệt là đối với mía đường và ngô. Ngân sách phân bổ cho ngành mía đường chỉ chiếm khoảng 0,5% GDP của ngành, và đối với ngô chỉ còn 0,1% GDP. Những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng đối với phát triển nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp Philippin đã đề ra Chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như xây dựng đường từ trang trại đến chợ, cải tạo và phát triển hệ thống thuỷ lợi, nâng cấp công nghệ sau thu hoạch nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản. Trong chương trình thuỷ lợi, đáng chú ý nhất là dự án giếng khoan phục vụ tưới tiêu. Giai đoạn 1995-1997 đã có tổng cộng 13800 giếng được lắp đặt, tưới cho 7000 ha. Trong Chương trình Ngô, một số thiết bị sau thu hoạch đã được đưa tới cho nông dân như sân phơi sấy đa năng, máy sấy trong nhà, nhà kho ngoài trời và máy đo độ ẩm. Máy đo độ ẩm được dùng để giám sát độ ẩm của ngô để ngừa và kiểm soát aflatoxin và các chất mycotoxin khác. Cục Nghiên cứu sau thu hoạch ước tính có khoảng 79% trữ lượng ngô cả trong các nhà kho của Chính phủ và tư nhân nhiễm aflatoxin do độ ẩm cao. Đối với ngành chăn nuôi, thông qua Chương trình Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp sẽ nâng cấp các chợ bán đấu giá sản phẩm chăn nuôi, lập thêm 34 lò giết mổ, 8 nhà máy giết mổ gia cầm và 98 nhà máy chế biến thịt. Hiện nay chỉ có khoảng 1% số lò mổ và 21% số nhà máy giết mổ gia cầm được xếp hạng là phù hợp tiêu chuẩn quốc tế. 2.2.1.3 Thái lan Thái Lan trích 1,3 triệu USD từ quỹ hỗ trợ nông nghiệp Myazawa (Nhật Bản) để thành lập Cơ quan Giám sát và Kiểm tra Lương thực Nhà nước. Cơ quan này tiến hành nghiên cứu và sáng chế các kỹ thuật mới, trao đổi kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản. Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường của Thái Lan đang triển khai dự án trị giá 10 triệu USD xây dựng đường ống dẫn nước tưới cho đồng ruộng ở khu vực Đông Bắc, nơi chiếm tới 60% diện tích đất nông nghiệp, nhưng mới chỉ có 12% diện tích đất được tưới tiêu. Quỹ Myazawa còn giành 500 triệu USD để đầu tư xây dựng cơ cơ sở hạ tầng, phát triển thêm hệ thống thuỷ lợi, cải thiện đời sống cộng đồng ở nông thôn. Đáng chú ý là kế hoạch xây dựng các tuyến đường vận chuyển nông sản từ nơi sản xuất đến các kho bãi lưu trữ và xuất khẩu. Dự tính dự án đi vào hoạt động sẽ tạo thêm 400 ngàn việc làm cho các vùng nông thôn. 2.2.2 Tình hình đầu tư vốn vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Việt Nam Khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam chiếm hơn 70% dân số và hơn 72% lực lượng lao động những chỉ chiếm khoảng 30% tổng số vốn đầu tư xã hội của cả nước. Mặc dù hiện nay, trong khu vực nông thôn đang được tiếp nhận rất nhiều nguồn vốn đầu tư đa dạng như: vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng nhà nước lãi suất ưu đãi đầu tư các dự án, vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, vốn tự có của hộ gia đình, và vốn đầu tư nước ngoài… Tuy nhiên, chưa có thống kế đầy đủ về tổng nguồn vồn đầu tư cho khu vực nông thôn và nhu cầu vốn đầu tư cho từng địa bàn, từng đối tượng cụ thể trong vấn đề phát triển nông thôn. Do vậy, trong đề tài chúng tôi chia ra các nguồn vốn đầu tư vào khu vực nông thôn là vốn Nhà nước, vốn đầu tư của khu vực nông thôn và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các nguồn vốn này đầu tư vào các ngành kinh tê trong khu vực nông thôn là: ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp và dịch vụ. Qua bảng 2.1 cho thấy: Tổng số vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn Việt Nam tăng dần qua các năm. Cụ thể: năm 2007 tăng 3,47% (tương ứng 3800,5 tỷ đồng) so với năm 2006 và tăng 10,57% (tương ứng 10831,75 tỷ đồng) so với năm 2005. Nguồn vốn Nhà nước cũng tăng về số lượng qua các năm nhưng giảm tỷ trọng trong tổng số vốn đầu tư vào khu vực nông thôn. Về số lượng: năm 2006 tăng 699,01 tỷ đồng (tương ứng 1,27%) so với năm 2005 và năm 2007 tăng 1089,8 tỷ đồng (tương ứng 1,95%) so với năm 2006. Về tỷ trọng: nguồn vốn Nhà nước giảm dần tỷ trọng qua các năm và cụ thể các năm 2005, 2006, 2007 chiếm lần lượt 53,85%, 51,03% và50,28% tổng số vốn đầu tư vào khu vực nông thôn Việt Nam. Nguồn vốn từ khu dân cư và các thành phần kinh tế ngoài nhà nuớc lại tăng cả về số lượng và tăng cả về tỷ trọng trong tổng số vốn đầu tư vào khu vực nông thôn. Năm 2005, nguồn vốn dân cư và ngoài nhà nước chiếm 29.37% tổng số vốn đầu tư vào khu vực nông thôn. Năm 2006 chiếm 29.96% và năm 2007 chiếm 31, 38%. Và năm 2007 số vốn đầu tư của dân cư và ngoài Nhà nước tăng 8,38% (tương ứng với 2747,21 tỷ đồng) so với năm 2006 và năm 2006 tăng 9,01% (tương ứng 2711,01 tỷ đồng) so với năm 2005. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng tăng dần qua các năm và tăng cả về số luợng vốn đầu tư và tỷ trọng trong tổng số vốn. Cụ thể: năm 2007 tăng 10131,64 tỷ đồng (tương ứng 51,41%) so với năm 2006 và tăng 12647,14 tỷ đồng (tương ứng 73,57%) so với năm 2005. Cơ cấu của nguồn vốn FDI tăng mạnh qua các năm. Năm 2005 chiếm 16,78% tổng số vốn đầu tư, năm 2006 chiếm 18% và năm 2007 chiếm 26,34%. Giải thích cho hiện tượng này là do: sự chuyển dịch cơ cấu các nguồn vốn đầu tư. Do Việt Nam thay đổi môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, kích thích các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước đầu tư vốn nhằm phát triển kinh tế. Đặc biệt là khuyến khích các hộ gia đình mạnh bạo phát triển kinh tế để cải thiện đời sống của bản thân, từ đó góp phần đổi mới bộ mặt của nông thôn nói chung. Do vậy tỷ trọng của vốn đầu tư Nhà nước giảm và tỷ trọng các nguồn vốn dân cư và ngoài Nhà nước cũng như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng qua các năm. Bảng 2.1 Tổng vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn phân theo nguồn hình thành vốn Diễn giải Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh (%) Số tiền (tỷ VNĐ) Tỷ lệ (%) Số tiền (tỷ VNĐ) Tỷ lệ (%) Số tiền (tỷ VNĐ) Tỷ lệ (%) 07/06 06/05 07/05 Tổng vốn 102448.25 100.00 109479.50 100.00 113280.00 100.00 103.4714 106.86 110.57 Vốn Nhà nước 55168.38 53.85 56962.18 52.03 47894.78 42.28 84.08172 103.25 86.816 Vốn dân cư và ngoài Nhà nước 30089.05 29.37 32800.06 29.96 35547.26 31.38 108.3756 109.01 118.14 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 17190.82 16.78 19706.31 18.00 29837.95 26.34 151.4132 114.63 173.57 (Nguồn số liệu: Tổng cục thống kê) Các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế khu vực nông thôn chủ yếu đầu tư vào phát triển các ngành kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Khu vực nông thôn Việt Nam đang trong qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ sang công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp. Tuy nhiên, không vì thế mà bỏ qua ngành nông, lâm, thủy sản. Khu vực nông thôn vẫn tập trung đầu tư vào ngành nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực. Qua bảng 2.2 cho thấy: Số vốn đầu tư cho ngành nông lâm thủy sản biến động giảm trong giai đoạn 2005 – 2007. Cụ thể: toàn ngành nông – lâm – thủy sản năm 2007 giảm 3020,01 tỷ đồng (tương ứng 10,47%) so với năm 2006 và giảm 3165,01 tỷ đồng (tương ứng 10,92%) so với năm 2005. Có điều này là do những rủi ro của ngành nông, lâm thủy sản những năm gần đây mang lại về dịch bệnh và thiên tai. Do vậy làm cho hộ gia đình và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hạn chế trồng trọt và chăn nuôi với qui mô lớn, đồng thời chuyển sang sản xuất phi nông nghiệp. Như vậy nguồn vốn đầu tư cho nông – lâm – thủy sản giảm. Đồng thời, ngành công nghiệp và dịch vụ tăng về cả số lượng vốn đầu tư và cơ cấu trong tổng số vốn. Cơ cấu ngành công nghiệp trong tổng số vốn đầu tư cho khu vực nông thôn giai đoạn 2005 – 2007 là 38,05%; 39,47%; 40,5% và ngành dịch vụ là 33,65%; 34,18%; 36,7%. Việc phân bổ vốn đầu tư còn mất cân đối và chưa hợp lý, thiếu trọng điểm, trọng tâm còn có nhiều tình trạng ban phát; nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp – nông thôn có nhiều kênh đáp ứng cho nhiều đối tượng, nhưng chưa được phối hợp đồng bộ để đầu tư, sử dụng có hiệu quả mà còn trong tình trạng dàn trải, chồng chéo… Đây là một trong những lý do để giải thích cho câu hỏi tại sao tình hình khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam chưa có những cải thiện mạnh mẽ về cả mức sống và trình độ kinh tế. Bảng 2.2 Tổng đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn phân theo ngành kinh tế Diễn giải Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh (%) SL (tỷ.đ) CC (%) SL (tỷ.đ) CC (%) SL (tỷ.đ) CC (%) 07/06 06/05 07/05 Tổng vốn 102448.25 100.00 109479.50 100.00 113280.00 100.00 103.47 106.86 110.57 A. Nông lâm nghiệp, thủy sản 28992.85 28.30 28847.85 26.35 25827.84 22.80 89.53 99.50 89.08 1. Nông nghiệp 12687.27 43.76 12020.90 41.67 9737.10 37.70 81.00 94.75 76.75 2. Lâm nghiệp 6981.48 24.08 7079.26 24.54 6449.21 24.97 91.10 101.40 92.38 3. Thuỷ sản 9324.10 32.16 9747.69 33.79 9641.53 37.33 98.91 104.54 103.40 B. Công nghiệp 38981.56 38.05 43211.56 39.47 45878.40 40.50 106.17 110.85 117.69 C. Dịch vụ 34473.84 33.65 37420.09 34.18 41573.76 36.70 111.10 108.55 120.60 (Nguồn số liệu: Tổng cục thống kê ) 2.2.3 Bài học kinh nghiệm trong chiến lược phát triển kinh tế nông thôn Bài học thứ nhất: Ở những khu vực vùng sâu, vùng xa, bị chia cắt, tiếp cận thị trường khó khăn, sản xuất mang đặc trưng chủ yếu là tự cung, tự cấp, năng suất thấp, hộ tiểu nông luôn là cơ sở kinh tế có sức sống mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế tiến lên sản xuất hàng hóa, liên kết kinh tế tăng, công nghiệp chế biến phát triển đào tạo điều kiện công nghiệp gắn kết với nông nghiệp, liên kết giữa các thị trường tăng, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra cạnh tranh, công nghệ lạc hậu, sản xuất manh mún, giá thành cao, chất lượng thấp… Phát triển, cần có sự phối hợp giữa các cá nhân đơn lẻ theo mô hình hợp tác đồng thời các nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế phải được phân bổ và sử dụng hợp lý hiệu quả. Bài học thứ hai: Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, các hoạt động sản xuất nông nghiệp là động lực quan trọng ban đầu để phát triển nông thôn. Tuy nhiên, về lâu dài, chỉ thúc đẩy phát triển hoạt động sản xuất nông nghiệp đơn thuần sẽ không đủ sức tạo nên chuyển đổi căn bản cho khu vực nông thôn. Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiêp công nghiệp nông thôn, là hướng đi hiệu quả trong việc giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân, và có thể tạo nên một động lực thúc đẩy khu vực nông thôn phát triển, làm thay đổi bộ mặt và đẩy mạnh quá trình đô thị hóa nông thôn. Bài học thứ ba: Để cho các chính sách phát triển nông thôn phát huy hiệu quả đòi hỏi các cơ quan hoạch định và thực hiện chính sách tiếp cận đa ngành và các cơ chế phối hợp hoạt động đồng bộ. 2.3 MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VỐN ĐẦU TƯ VÀO PHÁ._.ghiệp tư nhân 1674718.55 2093398.19 2428341.90 Doanh nghiệp có FDI 2758492.79 3448115.99 3999814.55 (Nguồn số liệu: Sở kế hoạch & Đầu tư tỉnh Hải Dương và tính toán của tác giả) Các công trình công cộng như kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi… thường có nhu cầu đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và lợi nhuận thấp nên được nhà nước quan tâm đầu tư, thông qua nguồn vốn ngân sách là chính. Đối với các công trình sản xuất – kinh doanh, yêu cầu đầu tư nhỏ hơn, lợi nhuận cao hơn với thời gian thu hồi vốn ngắn hơn việc phát huy nội lực, kích thích, huy động nguồn vốn đầu tư tư nhân và nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Trong cơ cấu vốn đầu tư phát triển, các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng lớn. Đầu tư vào khu vực nông nghiệp chú trọng chuyển dịch khu vực này sang sản xuất hàng hóa: ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; chế biến sâu hơn các sản phẩm nông nghiệp; tăng khả năng tiếp cận với thị trường;… Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tranh thủ tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ trung ương trong các chương trình phát triển. Xây dựng các dự án trong tất cả các lĩnh vực nhằm vay vốn đầu tư ưu đãi. Vốn tín dụng đầu tư thường thông qua các quĩ đầu tư của nhà nước, các quĩ hỗ trợ …, do đó cần vận dụng mềm dẻo các chính sách, các biện pháp tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế, thủ tục. 4.3.2 Nhóm giải pháp tăng cường vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn tỉnh Hải Dương 4.3.2.1 Giải pháp huy động vốn đầu tư a) Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan trọng tới sự phát triển lâu dài của nền kinh tế, song đây lại là lĩnh vực đầu tư mang lại ít lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn dài... do đó không hấp dẫn các nguồn vốn đầu tư ngoài quốc doanh mà chủ yếu là vốn ngân sách nhà nước. Song với khả năng tích luỹ thấp của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, ngân sách cấp cho các tỉnh là có hạn. Do đó đẩy mạnh xã hội hoá trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường... sẽ giúp chia sẻ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, lại vừa thu hút thêm nguồn lực của các thành phần kinh tế, tạo sự cạnh tranh để nâng cao chất lượng, giảm độc quyền là giải pháp khả thi và hợp lí nhất. - Tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh là chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng trên diện rộng, bởi khi kinh tế phát triển, nguồn thu dài hạn tăng lên, việc nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng của địa phương sẽ dựa vào nguồn thu đó. Nên có thể coi đây là chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng dài hạn. - Tập trung đầu từ xây dựng, hoàn thiện đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật tại các KCN, CCN tập trung để kêu gọi đầu tư. b) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Chất lượng nguồn nhân lực thấp là nguyên nhân chính dẫn tới việc Hải Dương chưa thu hút được các dự án công nghệ cao, dây chuyền thiết bị hiện đại. Do đó, để cải thiện những cơ sở sản xuất công nghệ lạc hậu, nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, cũng như thu hút những dự án đầu tư có trình độ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng lao động Hải Dương là bước đi đầu tiên, có ý nghĩa quyết định. + Phát triển các hình thức đào tạo, dạy nghề, chuyển giao công nghệ, trang bị những kiến thức nghề nghiệp cho người lao động để tăng sức cạnh tranh trên thị trường lao động + Phải coi đào tạo là đầu tư chứ không phải chi phí + Việc thu hút nhân tài cũng rất cần được quan tâm. - Có những ưu đãi, hỗ trợ cụ thể đối với những sinh viên có nguyện vọng làm việc tại Hải Dương. Tạo mọi điều kiện giúp họ có cơ hội học tập nâng cao trình độ chuyên môn. - Các cơ quan chức năng cần phối hợp với các doanh nghiệp của tỉnh trong việc tuyên truyền, giới thiệu với sinh viên về cơ hội việc làm tại Hải Dương. Bảng 4.22 Mục tiêu đào tạo chất lượng nguồn nhân lực (ĐVT: %) Diễn giải Năm 2007 Năm 2010 Năm 2015 - Cơ cấu LĐ + Nông, lâm, ngư nghiệp 68,85 50 40 + Công nghiệp, xây dựng 16,5 25 30 + Dịch vụ 14,6 25 30 - Trình độ học vấn + Mù chữ 0,33 0 0 + Chưa tốt nghiệp tiểu học 3,3 0 0 + Tốt nghiệp TH và THCS 76,37 70 55 + Tốt nghiệp THPT 20,00 30 45 - LĐ qua đào tạo + Không có CMKT 75,5 35 20 + Tử sơ cấp, học nghề 7,05 40 50 + Từ bằng CNKT trở lên 17,45 25 30 (Nguồn số liệu: Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Hải Dương và tính toán của tác giả) c) Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư ngoài quốc doanh Chính sách ưu đãi đầu tư ngoài quốc doanh được Nhà nước ban hành đã góp phần làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dưong nói riêng đối với các nhà đầu tư dân doanh trong và ngoài nước. Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách của Nhà nước. Để đẩy mạnh phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế quốc tế hiện nay. Cụ thể, cần tập trung nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề sau: + Tiếp tục tạo hành lang pháp lý, điều kiện, môi trường thuận lợi, bình đẳng để các thành phần kinh tế phát huy hết tiềm năng. Cần tiếp tục rà soát, phát hiện sự chồng chéo, sự bất hợp lý giữa các văn bản đã ban hành để bổ sung chỉnh sửa; đồng thời, tiếp tục ban hành một số đạo luật mới để tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn. Trước mắt, chúng ta cần sớm thực hiện một số công việc sau: - Hướng tới thống nhất việc ban hành các đạo luật theo hành vi cần điều chỉnh chứ không phải theo chủ thể cần điều chỉnh. Sớm tạo lập một hệ thống pháp luật theo hướng chỉ có một luật áp dụng chung, bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, hoặc giữa các luật cần có sự thống nhất chung. Nghĩa là, chúng ta phải đặt các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong cùng một "luật chơi" thật sự công bằng. Có như vậy mới tạo ra cạnh tranh thực sự lành mạnh giữa các loại hình doanh nghiệp. - Sớm ban hành Luật Cạnh tranh và Kiểm soát độc quyền, Luật Chống bán phá giá,... nhằm hình thành khung pháp luật cho việc bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền, hạn chế các tiêu cực trong kinh doanh. - Chú trọng công tác xúc tiến thương mại và đầu tư, đẩy nhanh tiến độ tiếp cận với thế giới trong quá trình hội nhập. + Đẩy mạnh tiến độ cải cách hành chính nhà nước. Hiện nay, thái độ, tâm lý làm việc và phương thức, công cụ quản lý của hầu hết các cơ quan nhà nước có liên quan chưa có sự thay đổi rõ nét, và do đó, chưa thật sự phù hợp với cơ chế, chính sách mới về phát triển kinh tế. Tính khoa học, chuyên môn, chuyên nghiệp theo cơ chế thị trường trong các công việc của các cơ quan quản lý nhà nước còn thấp. Trước mắt, cần hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức, đơn vị quản lý hành chính các cấp để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước với các thành phần kinh tế. Khắc phục và tiến tới xóa bỏ tình trạng trùng lắp trong quản lý, điều hành; làm rõ trách nhiệm và có chế độ thưởng, phạt nghiêm minh đối với người đứng đầu tổ chức, đơn vị. Đẩy nhanh tiến độ xóa bỏ chế độ chủ quản để các doanh nghiệp tự chủ hơn trong việc sản xuất, kinh doanh. + Hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô nền kinh tế. Trước hết, cần hoàn thiện một số chính sách sau: - Có chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dân doanh tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng bằng cách: đơn giản hóa thủ tục vay vốn, đa dạng hóa các hình thức cho vay vốn như bảo lãnh tín dụng, thuê mua tài chính. - Hoàn thiện chính sách thuế, khắc phục tình trạng vừa bất hợp lý, vừa sơ hở, lại vừa bất bình đẳng hiện nay... Để khắc phục tình trạng trốn lậu thuế, khai khống hóa đơn liên tục xảy ra trong thời gian qua, cần thực hiện nguyên tắc bình đẳng về thuế giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; xác định mức thuế hợp lý để vừa bảo đảm thu đủ cho ngân sách nhà nước, vừa bảo đảm cho doanh nghiệp tích lũy vốn đầu tư phát triển, và vừa hạn chế tình trạng trốn thuế; nhanh chóng khắc phục những sơ hở trong hệ thống thuế, tiến tới hoàn thiện hệ thống thuế một cách hợp lý. Hai là, nâng cao vai trò quản lý kinh tế của chính quyền các cấp. Mặc dù có nhiều chuyển biến, nhưng vai trò quản lý các thành phần kinh tế của các bộ, chính quyền các cấp vẫn còn bất cập, vừa lấn sân nhau vừa có nhiều sơ hở. Thời gian tới, cần hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao vai trò quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và quản lý các thành phần kinh tế nói riêng của các bộ, các ngành, và các địa phương. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc các bộ, ngành thể chế hóa, hoàn thiện một số công cụ, chính sách như chính sách tín dụng, chính sách thuế... Hình thành các tổ chức phù hợp, thống nhất với nhiệm vụ cụ thể để thực hiện có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, các thành phần kinh tế. Bảng 4.23 Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI trong các thời kỳ sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Lĩnh vực c/sách Luật sử đổi năm 1992 đến 1995 Luật sửa đổi năm 1996 đến hết 1999 Luật sửa đổi năm 2000 đến nay Trình tự đăng ký + Dự án FDI được nhận giấy phép đầu tư trong vòng 45 ngày + Sau khi có giấy phép, DN FDI vẫn phải xin đăng ký hoạt động + DN FDI được tự lựa chọn loại hình đầu tư, tỷ lệ góp vốn, địa điểm đầu tư, đối tác đầu tư. + DN xuất nhập khẩu sản phẩm trên 80% được ưu tiên nhận giấy phép sớm + Ban hành danh mục DN FDI được đăng ký kinh doanh, không cần xin giấy phép + Bỏ chế độ thu phí đăng ký đầu tư FDI Phân cấp đăng ký/ cấp phép lĩnh vực đầu tư + Khuyến khích các dự án liên doanh với doanh nghiệp trong nước; hạn chế dự án 100% vốn nước ngoài + Khuyển khích DN FDI đầu tư vào những lĩnh vực định hướng xuất khẩu, công nghệ cao. + Ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư FDI cho giai đoạn 2001 – 2005 + Mở rộng lĩnh vực cho phép FDI đầu tư xây dựng nhà ở + Đa dạng hóa hình thức đầu tư; được mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước Đất đai + Phía Việt Nam chịu trách nhiệm đền bù giải phóng mặt bằng cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài + Dự án có vốn FDI được thuê đất để hoạt động nhưng không được cho các doanh nghiệp khác thuê lại + UBND địa phương tạo điều kiện mặt bằng kinh doanh khi dự án được duyệt; DN thanh toán tiền giải phóng mặt bằng cho UBND + Được quyền cho thuê lại đất đã thuê tại các khu CN, khu chế xuất + Được thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất; Quy định về vốn + Qui định vốn pháp định không được thấp hơn 30% tổng vốn đầu tư. Chính sách tỷ giá, quy định về ngoại tệ + Các dự án FDI đầu tư hạ tầng và thay thế nhập khẩu được nhà nước đảm bảo cân đối ngoại tệ; + Các DN FDI thuộc các lĩnh vực khác phải tự lo cân đối ngoại tệ; nhà nước không chịu trách nhiệm về cân đối ngoại tệ đối với các dự án này + Tự bảo đảm cân đối nhu cầu về ngoại tệ cho hoạt động của mình + Áp dụng tỷ lệ kết hối ngoại tệ do tác động khủng hoảng tài chính khu vực (80%), sau đó nới dần tỷ lệ này + DN cóc thể mua ngoại tệ với sự cho phép của Ngân hàng nhà nước + Được mua ngoại tệ tại NHTM để đáp ứng nhu cầu giao dịch theo luật định + Bãi bỏ yêu cầu chuẩn y khi chuyển nhượng vốn; giảm mức phí chuyển lợi nhuận ra nước ngoài + Giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ từ 80% xuống 50% đến 30% và 0%. Chính sách xuất nhập khẩu + DN phải đảm bảo tỷ lệ XK theo đã ghi trong giấy phép đầu tư; + Sản phẩm của DN FDI không được bán ở thị trường VN qua đại lý + DN không được làm đại lý XNK + Bãi bỏ hoàn toàn việc duyệt kế hoạch xuất khẩu của DN FDI + Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa đối với xét xuất xứ hàng hóa XNK + Thu hẹp lĩnh vực yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu 80% sản lượng; + DN FD được tham gia dịch vụ đại lý XNK Chính sách thuế + Áp dụng thuế ưu đãi cho các lĩnh vực đặc biệt ưu tiên với mức thu nhập 10% trong vòng 15 năm kể từ khi hoạt động; + Mức thuế thu nhập của DN 100% vốn đầu tư nước ngoài không bao gồm phần bù lợi nhuận của năm sau để bù cho lỗ của những năm trước + DN FDI không được tính vào chi phí sản xuất một số khoản chi nhất định; + Thuế nhập khẩu được áp với mức giá thấp trong khung giá do Bộ tài chính qui định; + Miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, vận tải chuyên dùng, nguyên liệu vật tư phục vụ sản xuất kinh doanh của DN FDI; + Miến thuế nhập khẩu đối với DN đầu tư vào những lĩnh vực ưu tiên, địa bàn ưu tiên trong 5 năm đầu hoạt động; + DN xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để XK sản phẩm; + DN cung ứng sản phẩm đầu vào cho DN XK cũng được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu trung gian với tỷ lệ tương ứng; + Bãi bỏ qui định bắt buộc DN FDI trích quĩ dự phòng; + Tiếp tục cải thiện hệ thống thuế, từng bước thu hẹp khoảng cách về thuế giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. (Nguồn: Trích trong Nguyễn Thị Tuệ Anh et al, 2005) Những giải pháp từ phía Nhà nước sẽ góp phần làm tăng sức hấp dẫn của Việt Nam, đồng thời là khuôn khổ giúp các địa phương chủ động đưa ra những hướng đi cho riêng mình. d) Nâng cao năng lực của chính quyền địa phương Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của Hải Dương, một số giải pháp nhằm nâng cao các chỉ số cấu thành chỉ tiêu đánh giá năng lực của chính quyền địa phương bao gồm: + Tính minh bạch và trách nhiệm - Tiến hành phổ biến rộng rãi thông tin về đất đai và các kế hoạch phát triển, các văn bản quy định... của chính quyền. - Các quy định và văn bản pháp quy của chính quyền tỉnh cần được lấy ý kiến của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những đối tượng trong phạm vi điều chỉnh. Đồng thời các văn bản này cần có tính ổn định cao, tức là thời gian áp dụng không quá ngắn. Thường xuyên cập nhật các thông tin mới nhất về các cơ chế của tỉnh, các chương trình hỗ trợ, nguồn cung đất đai, các khu công nghiệp và các thông tin liên quan đến kinh doanh... trên trang Web của tỉnh. + Chi phí về thời gian và việc thực hiện các quy định của Nhà nước - Đẩy nhanh quá trình hậu đăng ký để các doanh nghiệp sớm đi vào hoạt động. Có thể nói, hiện nay đây chính là khâu khiến doanh nghiệp chậm đi vào hoạt động. - Giảm các cuộc thanh kiểm tra đối với các doanh nghiệp, bởi nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành khi thực thi chức năng của mình đã có những hành vi can thiệp gây tốn kém cho doanh nghiệp. + Các chi phí không chính thức - Nâng cao tính trung thực trong việc công bố quy hoạch. Việc tiến hành công khai bản đồ quy hoạch sử dụng đất sẽ giúp doanh nghiệp nắm được khả năng cung ứng của địa phương, để từ đó chủ động trong việc thuê đất phục vụ nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất. + Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước Việc tạo lập một sân chơi bình đẳng đảm bảo các công ty kinh doanh có hiệu quả sẽ tồn tại và phát triển là điều kiện tiên quyết thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Và để làm được điều này, trước hết cần phải giảm dần và đi đến xoá bỏ các ưu đãi giành riêng cho các doanh nghiệp quốc doanh như hiện nay. Một số việc cần làm: - Xoá dần tình trạng “rót” vốn từ ngân sách, dần hình thành phương thức tự thu tự chi đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Từ đó buộc các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, cũng như tuân thủ mọi trách nhiệm đối với Nhà nước. - Cải cách thủ tục vay vốn tại các ngân hàng, dần xác lập cơ chế tự chịu trách nhiệm để buộc các ngân hàng phải có trách nhiệm với các khoản cho vay của mình. + Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh Trong bối cảnh hệ thống pháp luật của Việt Nam còn đang trong quá trình điều chỉnh để phù hợp với chuẩn mực quốc tế và các luật mới ra đời của Việt Nam hẳn vẫn còn những điểm mâu thuẫn với hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành chưa đổi mới kịp thời, các doanh nghiệp mong đợi rất nhiều ở tính năng động tiên phong của lãnh đạo tỉnh trong việc giúp doanh nghiệp vượt qua những khó khăn về môi trường pháp lý phức tạp này một cách nhanh chóng và hợp pháp. e) Tiếp tục thực hiện công tác cải cách hành chính theo mô hình “một cửa”, “1 cửa tại chỗ” tại các cơ quan hành chính của tỉnh. Việc cải cách thủ tục hành chính sẽ góp phần làm giảm thời gian giải quyết công việc trong quá trình đầu tư, triển khai thực hiện dự án của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cần phải mẫu hoá các văn bản, giấy tờ liên quan đến thủ tục hành chính để tạo sự thống nhất trong giải quyết, thụ lý hồ sơ. f) Đẩy mạnh công tác quy hoạch Quy hoạch phải được ưu tiên hàng đầu. Quy hoạch phải đi trước một bước để tạo điều kiện thuận lợi trong việc bố trí, sắp xếp các dự án đầu tư cho phù hợp với lĩnh vực, tính chất của dự án. Hải Dương hiện có 7 khu công nghiệp, 23 cụm công nghiệp tập trung. Tuy nhiên ngoài các KCN, các CCN thì quy hoạch mới ở dạng định hướng, chưa xác định đến tính chất cụ thể. Một thực tế còn tồn tại nhiều năm trên địa bàn tỉnh Hải Dương là dự án nằm ngoài quy hoạch khu, cụm CN. Các dự án này nằm ven các Quốc lộ 5, 18, 183 nên gặp rất nhiều khó khăn do không có đường vào . Do vậy, tỉnh lại phải xây dựng các tuyến đường gom dọc các Quốc lộ nơi có dự án. Từ đó dẫn đến việc hàng năm tỉnh phải bỏ ra rất nhiều tiền để xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ các dự án này. g) Công tác giải phóng mặt bằng. Đây là khâu mất nhiều thời gian, tiền bạc và khó khăn nhất đối với các nhà đầu tư. Ở Hải Dương, tính trung bình 1 dự án phải mất từ 3 – 6 tháng mới thực hiện xong công việc này . Việc mất nhiều thời gian trong GPMB đã làm các doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội đầu tư, gây tốn kém thời gian, tiền bạc cho các nhà đầu tư do phải đi lại nhiều lần để thương thuyết, giải quyết với chính quyền địa phương và các hộ dân bị thu hồi đất. Để tháo gỡ khó khăn, tỉnh nên quy hoạch các CCN, cụm làng nghề để tập trung các doanh nghiệp vào các CCN, làng nghề này. Sau khi duyệt xong quy hoạch, tỉnh trích kinh phí từ nguồn XDCB tập trung để tiến hành giải phóng mặt bằng và xây dựng đường trục chính trên các CCN. Theo ý kiến của các nhà đầu tư GPMB là khâu doanh nghiệp “ngại” và “sợ” nhất. Nên nếu làm được việc trên chắc chắn Hải Dương sẽ thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước. h) Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong giải quyết các thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính rườm rà cùng lối làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm đã làm nảy sinh không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, từ đó làm giảm cơ hội đầu tư. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thông qua đào tạo và đào tạo lại không chỉ về chuyên môn mà cả ý thức trách nhiệm đang là đòi hỏi cấp thiết của không chỉ khối hành chính của Hải Dương. 4.3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư a) Xây dựng các quy hoạch phát triển kinh tế tổng thể khu vực nông thôn cho tỉnh Hải Dương - Xây dựng công nghiệp hóa nông thôn một cách hợp lý, tức là phải khuyến khích mở các xí nghiệp ở nông thôn gắn với vùng nguyên liệu từ nông nghiệp. Hình thành các ngành công nghiệp cần đến hình thức gia công và thu dụng nhiều sức lao động trong các vùng nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản, tỉnh có thế mạnh, công nghiệp chế biến này có vai trò quan trọng đối với phát triển nông – lâm nghiệp và kinh tế nông thôn. - Ưu tiên cho mục đích nâng cao mức sống của nhân dân nông thôn. Chính quyền địa phương phải xác định được tình hình phát triển của địa phương mình để khai thác tiềm năng, đồng thời đưa các chương trình hỗ trợ họ trong việc sản xuất. Ngoài việc huy động vốn đầu tư trong nước từ các thành phần kinh tế với các chính sách hấp dẫn, ưu đãi thuế, lãi suất… Nhà nước cần tăng tỷ lệ đầu tư ngân sách (kể cả vồn tài trợ quốc tế) cho các ngành mũi nhọn, các vùng trọng điểm trong tỉnh. - Tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch… để phục vụ yêu cầu của sản xuất, đời sống và giao lưu hàng hóa thuận tiện. - Đa dạng hóa các loại hình tổ chức sản xuất trong nông nghiệp và gắn nông nghiệp với công nghiệp. Các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp không thể đơn điệu. Tỉnh phải hình thành một cách linh hoạt theo sự biến đổi của lực lượng sản xuất và hướng thị trường. Các loại hình ấy phải xuất phát từ nông hộ để đi tới các hình thức liên kết giữa các hộ, rồi liên kết giữa nông hộ với doanh nhân và hình thành nhiều kiểu kinh doanh tùy theo đặc điểm của các loại sản phẩm khác nhau về trồng trọt cũng như chăn nuôi. - Từng bước chuyển từ kinh tế hộ tiểu nông tự cấp tự túc, ít trao đổi là cơ sở kinh tế của mô hình sản xuất đóng đã tồn tại bao nhiêu năm ở nông thôn tỉnh Hải Dương. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa thì việc hình thành trang trại với tư cách là một tổ chức kinh doanh nông nghiệp, mở rộng trao đổi cả ở đầu vào và đầu ra của sản xuất nông nghiệp. - Xây dựng ngân hàng tín dụng và đầu tư phát triển nông thôn. Ngoài ra hình thức cho vay ngắn hạn hay trung hạn, cần phải trực tiếp đầu tư vào quá trình sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nhỏ và vừa, xây dựng kết cấu hạ tầng từ khâu đầu đến cuối, theo phương châm cùng chia sẻ lợi nhuận cũng như rủi ro của doanh nghiệp và nông dân, các ngân hàng này phải phối hợp hoạt động với chế định tư vấn và nghiên cứu thị trường thành một hệ thống thu nhập, xử lý thông tin và ra quyết định đầu tư đúng. - Đào tạo cán bộ cho nông thôn, đào tạo chuyên viên nông nghiệp cho các cấp cơ sở, đến tận làng xã. Hệ thống đào tạo này cần linh hoạt về nội dung, thời hạn, đối tượng, cách tổ chức trường lớp để đáp ứng các nhu cầu về tri thức và kỹ năng của các nông hộ và con cái của họ. - Phát triển hệ thống dịch vụ nông nghiệp, nông thôn, bao gồm: Dịch vị thủy lợi, thông tin và chuyển giao công nghệ mới, dich vụ về điện, giao thông vận tải, dịch vụ cung ứng vật tư cho nông nghiệp và công nghiệp chế biến ở nông thôn, dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa. b) Xây dựng hệ thống pháp luật phục vụ chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế nông thôn Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, muốn quản lý có hiệu quả vốn đầu tư vào phát triển KT nông thôn, phải có hệ thống pháp luật về kinh tế hoàn thiện và hiệu lực liên quan tới việc sử dụng vốn đầu tư. Muốn vậy, một số giải pháp đưa ra là: Một là: cần sớm xây dựng và thông qua Luật qui hoạch, Luật quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước cũng như các chế tài cụ thể, chi tiết, đủ mạnh để đủ sức răn đe, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới của công tác quản lý vốn đầu tư đang đặt ra. Hai là: thường xuyên xem xét, sử đổi, bổ sung những nội dung còn thiếu, có nhiều khe hở, không chặt chẽ, khó hiểu của các luật, văn bản dưới luật hiện có phù hợp với yên cầu, nhiệm vụ quản lý vốn đầu tư trong điều kiện mới đặt ra. c) Những dự án phải có sự kiểm soát của chính phủ một cách chặt chẽ - Yêu cầu tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, chống thất thoát lãng phí trong đầu tư, Nhà nước đã nhiều lần đổi mới cơ chế quản lý đầu tư, qui chế quản lý vốn đầu tư đã sửa đổi, bổ sung… - Kiểm tra, kiểm soát tình hình thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án vốn đầu tư các cấp, các ngành, các đơn vị địa phương có sử dụng vốn đầu tư. - Kiểm tra, kiểm soát việc thi công thiết kế kỹ thuật, chất lượng hiệu quả của các công trình, dự án đầu tư. - Kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện và việc chấp hành các qui định, qui chế quản lý công trình, dự án vốn đầu tư. - Kiểm tra, kiểm soát các hành vi của các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quản lý tài chính, ngân sách nói chung và quản lý vốn ĐTNN nói riêng. Ngoài công việc kiểm tra nêu trên, các cơ quan có liên quan phải thực hiện một số nhiệm vụ sau: Một là: Thường xuyên tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo của Kho bạc Nhà nước, Tỉnh ủy, HĐND, UBND và các cấp chính quyền địa phương. Hai là: Không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của Nhà nước, thường xuyên giáo dục, rèn luyện bồi dưỡng phẩm chất chính trị, thái độ phục vụ cũng như trình độ chuyên môn, thực hiện “ văn minh công sở, văn hóa nghề Kho bạc”. Ba là: Thông báo công khai qui trình nghiệp vụ, chủ động hướng dẫn nghiệp vụ đối với các chủ đầu tư, khách giao dịch. Bốn là: Tăng cường thời gian kiểm tra công trình của cán bộ quản lý, qua đó nắm chắc tình hình có biện pháp hướng dẫn đôn đốc các chủ đầu tư thanh toán ngay từ đầu năm có kế hoạch. Năm là: Có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư trên địa bàn, chú trọng kiểm tra hồ sơ ban đầu và dự án được duyệt, kịp thời kiến nghị những vấn đề chưa thống nhất, trao đổi với cơ quan thẩm định để có biện pháp hướng dẫn chủ đầu tư cách giải quyết các khó khăn vướng mắc. d) Cải tiến phương thức sử dụng vốn đầu tư cho nông thôn Trong điều kiện kinh tế của tỉnh chưa phát triển, tỉnh càng phải tích lũy nguồn vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, để đảm bảo cho việc phát triển kinh tế nông thôn ở Hải Dương theo hướng công nghiệp hóa một cách có hiệu quả, chú trọng thu hút vốn trong dân. - Ưu tiên các ngành chế biến nguyên liệu từ sản phẩm nông nghiệp, các hoạt động du lịch - Ngành công nghiệp ở tỉnh Hải Dương trong thời gian tới phải tập trung vào việc xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc, gia cầm, xây dựng nhà máy thủy điện và khai thác khoáng sản. - Xác định phạm vi quản lý các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, theo quy định của Chính phủ. - Hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào. Để tăng cường hiệu quả của việc sử dụng vốn đúng hướng và phù hợp với các dự án trước mắt cần thay đổi cơ cấu đầu tư. Nguồn vốn nhà nước và các thành phần kinh tế, các tổ chức nước ngoài được phân bổ trên cơ sở tỉnh cung cấp thông tin đầy đủ và rõ ràng về nhu cầu cần thiết của tỉnh và xem xét khả năng cung ứng vốn đối ứng. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 KẾT LUẬN Từ những nghiên cứu ở trên, chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau: 1) Khu vực nông thôn tỉnh Hải Dương có những tiềm lực về nguồn đất đai, nguồn nhân lực, điều kiện tự nhiên… hấp dẫn các nhà đầu tư. Do vậy tổng số vốn đầu tư năm sau vào khu vực tăng khoảng 20% so với năm trước. 2) Vốn đầu tư từ các nguồn hình thành vốn khác nhau vào phát triển các ngành kinh tế trong khu vực nông thôn cũng có sự khác biệt. Cụ thể: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư chủ yếu vào ngành công nghiệp và đặc biệt là công nghiệp chế biến (chiếm trên 90% tổng số vốn đầu tư của FDI). Trong khi đó, tại tỉnh Hải Dương, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước lại tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp (chiếm trên 85% tổng số vốn đầu tư của vốn Nhà nước) bao gồm công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất, phân phôi điện nước. Nguồn vốn từ dân cư và các doanh nghiệp tư nhân được chia đều cho cả ba ngành kinh tế: sản xuất nông nghiệp chiếm gần 40%, ngành công nghiệp chiếm gần 40% và ngành dịch vụ chiếm hơn 20%. 3) Vốn đầu tư phân theo vùng lãnh thổ tại khu vực nông thôn tỉnh Hải Dương cho thấy: Vùng đồi núi tỉnh Hải Dương tuy có 2 huyện nhưng chiếm gần 30% tổng số vốn đầu tư. Có điều này là do các ngành công nghiệp khai thác và sản xuất điện nước đều tập trung ở 2 huyện vùng đồi núi Kinh Môn và Chí Linh. 4) Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư có hiệu quả nhưng chưa cao. Tỷ số thể hiện mối tương quan giữa vốn đầu tư và kết quả sản xuất từ nguồn vốn đó còn cao (trên 60%). 5) Vốn đầu tư vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn tỉnh Hải Dương đã làm cho kinh tế khu vực nông thôn tăng trưởng, nâng cao thu nhập của người dân trong khu vực nông thôn và rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. 6) Do thể chế, chính sách thu hút vốn đầu tư của Nhà nước và địa phương còn nhiều bất cập nên tốc độ thu hút vốn đầu tư vào khu vực nông thôn chưa cao. 5.2 KIẾN NGHỊ - Hoàn thiện các cơ chế chính sách khuyến khích và thu hút vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và vốn đầu tư nước ngoài - Nâng cao năng lực quản lý của chính quyền địa phương, cải cách thủ tục hành chính nhằm quản lý tốt và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư đăng ký kinh doanh. - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế ứng dụng công nghệ cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế phát triển - trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội - trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân Giáo trình Kinh tế đầu tư – trường Đại học kinh tế quốc dân Giáo trình Phát triển Nông thôn – Đại học Nông nghiệp I – Hà Nội Giáo trình Phân tích chính sách nông nghiêp, nông thôn – Đại học Kinh tế Quốc dân Viện Chính sách chiến lược nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005. Tổng quan các nghiên cứu về môi trường đầu tư nông thôn Việt Nam Viện Kinh tế nông nghiệp, 2005. Phát triển nông nghiệp nông thôn trong quá trình cải cách và công nghiệp hóa của Việt Nam, Bản tin nông nghiệp số 7. Nguyễn Thi Tuệ Anh, 2005. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bùi Bá Bổng, 2004. Một số vấn đề trong phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam hiện nay và những năm tới (Bài trình bày của thứ trưởng Bùi Bá Bổng, Chủ tịch Ban điều hành ISG tại Hội nghị lần thứ 8 của Ban điều hành) Trần Nam Bình, 2004. Báo cáo: FDI Nông nghiệp 1988 – 2003 và định hướng tới 2010. Lê Vinh Danh, 2004. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thành phố Hồ Chí Minh hiện trạng và giải pháp. Lương Hữu Định, 1992. Vốn để phát triển nông thôn ngoại thành Phạm Quang Diệu (biên dịch), 2003. Một số vấn đề phát triển nông thôn Đặng Kim Sơn, 2001. Tổng quan về Chiến lược và Chính sách phát triển nông nghiệp một số nước Châu Á trong thời gian gần đây. Chu Tiến Quang, 2003. Môi trường kinh doanh nông thôn: thực trạng và giải pháp Hồng Vinh, 1998. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn một số vấn đề lý luận và thực tiến, NXB Chính trị Quốc Gia Vũ Quốc Tuấn, 2006. Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội Trang Web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov Trang Web của Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn Trang Web tỉnh Hải Dương: www.haiduong.gov Bản tin kinh tế - xã hội trên website của trường Đại học Kinh tế quốc dân: www.neu.edu.com Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương 2006 Luật đầu tư năm 2005, 2006. NXB Tư Pháp Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5năm 2006 – 2010 - Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương Báo cáo thực hiện đề tài: Thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư để phát triển của tỉnh Hải Dương giai đoạn 2001 – 2005 – Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHOAN LOP THU VIEN.doc
Tài liệu liên quan