NGHIÊN CỨU VIỆC ĐƯA CHĂN NUÔI GIA CẦM TÁCH KHỎI KHU DÂN CƯ CỦA HUYỆN ĐÔNG ANH THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ---------------  NGUYỄN VĂN CƯỜNG NGHIÊN CỨU VIỆC ĐƯA CHĂN NUÔI GIA CẦM TÁCH KHỎI KHU DÂN CƯ CỦA HUYỆN ĐÔNG ANH THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Mã số: 60.31.10 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. PHẠM THỊ MỸ DUNG   HÀ NỘI – 2008 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoa

doc152 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu NGHIÊN CỨU VIỆC ĐƯA CHĂN NUÔI GIA CẦM TÁCH KHỎI KHU DÂN CƯ CỦA HUYỆN ĐÔNG ANH THÀNH PHỐ HÀ NỘI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả Nguyễn Văn Cường LỜI CẢM ƠN Trước hết với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô GS.TS. Phạm Thị Mỹ Dung, người đã định hướng, trực tiếp hướng dẫn và đóng góp ý kiến cụ thể cho kết quả cuối cùng để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, Khoa Sau đại học – Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Cho phép tôi được gửi lời cảm ơn tới Cục Thú Y, UBND thành phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp và PTNT, Trung tâm Khuyến Nông Hà Nội, UBND huyện Đông Anh đã cung cấp số liệu, thông tin và địa bàn tốt nhất để thực hiện luận văn. Xin cảm ơn sự giúp đỡ, động viên của tất cả bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và những người thân đã là điểm tựa về tinh thần và vật chất cho tôi trong suốt thời gian học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Hà Nội, ngày tháng năm 2008 Tác giả Nguyễn Văn Cường MỤC LỤC Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục các chữ viết tắt v Danh mục các bảng vii Danh mục các biểu đồ viii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNGC : Chăn nuôi gia cầm SL : Số lượng CC : Cơ cấu LMLM : Lở mồm long móng CNH – HĐH : Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá BQ : Bình quân NTTS : Nuôi trồng thuỷ sản TN : Thu nhập LĐ : Lao động NN : Nông nghiệp CSHT : Cơ sở hạ tầng ĐH, CĐ, THCN : Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp CN – TTCN&XD : Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng GTSX : Giá trị sản xuất KCN : Khu công nghiệp DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Trang 2.1 Số lượng gia cầm của Việt Nam qua các năm 6 2.2 Sản phẩm chăn nuôi của thế giới giai đoạn 1975-2005 12 2.3 10 quốc gia đứng đầu về sản lượng thịt gia cầm trên thế giới 13 3.1 Đất đai và tình hình sử dụng đất đai của huyện Đông Anh giai đoạn 2005 - 2007 26 3.2 Dân số và lao động của huyện Đông Anh giai đoạn 2005 - 2007 28 3.3 Cơ sở hạ tầng trang thiết bị cho huyện Đông Anh trong giai đoạn 2005 - 2007 30 3.4 Kết quả sản xuất kinh doanh của huyện Đông Anh qua các năm (2005-2007) 32 4.1 Kết quả chăn nuôi gia cầm của Hà Nội trong 8 năm gần đây 41 4.2 Số trang trại chăn nuôi gia cầm ngoài khu dân cư của các huyện ngoại thành Hà Nội 43 4.3 Tình hình phát triển chăn nuôi gia cầm của huyện Đông Anh 45 4.4 Lượng vi sinh vật của khu chuồng 10 hộ nuôi gia cầm trong khu dân cư 50 4.5 Lượng khí độc trong không khí của khu chuồng 10 hộ nuôi gia cầm 51 4.6 Kết quả đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của huyện Đông Anh 53 4.7 Kế hoạch và thực hiện việc đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của Đông Anh 55 4.8 Hướng sản xuất kinh doanh của các trang trại điều tra 59 4.9 Tình hình trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chăn nuôi gia cầm của nhóm hộ điều tra 60 4.10 Tình hình tiêm phòng và tỷ lệ chết tại các hộ điều tra trên địa bàn huyện 63 4.11 Hiệu quả chăn nuôi gia cầm của nhóm hộ điều tra năm 2007 64 4.12 Nguồn nhân lực của nhóm hộ điều tra 66 4.13 Quỹ đất tính bình quân trên nhóm 1 69 4.14 Quỹ đất của huyện Đông Anh 70 4.15 Vốn và nhu cầu về vốn cho chăn nuôi gia cầm của hộ 72 4.16 Hình thức tiêu thu sản phẩm của các hộ chăn nuôi gia cầm 74 4.17 Nhận thức của hộ về việc đưa CNGC tách khỏi khu dân cư 76 4.18 Mục tiêu đưa CNGC tách khỏi khu dân cư huyện Đông Anh dự kiến đến năm 2020 88 4.19 Quy hoạch xây dựng khu CNGC tập trung tách khỏi khu dân cư tại các xã thuộc huyện Đông Anh đến 2020 94 DANH MỤC BIỂU ĐỒ STT Tên biểu đồ Trang 4.1 Cơ cấu đàn gia cầm 42 4.2 Cơ cấu hộ chăn nuôi gia cầm 46 4.3 Yêu cầu kỹ thuật chuồng nuôi của các nhóm hộ 61 4.4 Trình độ học vấn của chủ hộ 67 4.5 Lý do chưa đưa chăn nuôi gia cầm ra khỏi khu dân cư 77 1. MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm đổi mới, ngành chăn nuôi gia cầm của Thủ đô Hà Nội có nhiều khởi sắc, tốc độ tăng tính trên đầu con bình quân hàng năm 4 - 5% năm, mỗi năm đã cung cấp ra thị trường khoảng 13 ngàn tấn thịt gia cầm, 80 ngàn quả trứng đáp ứng 35 - 40% nhu cầu của nhân dân thành phố. Chăn nuôi gia cầm là một nghề truyền thống đem lại cho nông dân, các chủ trang trại chăn nuôi thu nhập đáng kể và góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân. Hiện nay, Thành Phố Hà Nội có 4,5 - 5 triệu con gia cầm trong đó khoảng 3,3 triệu gà vịt, ngan, ngỗng. Huyện Đông Anh chiếm 65% tổn đàn gia cầm. Nhiều hộ nông dân trên địa bàn huyện đã nuôi từ vài nghìn gà đẻ trứng, gà thịt, ngan, hàng vạn chim cút. Song đa số chuồng trại vẫn nằm trong khu dân cư với quy mô hộ gia đình. Việc chăn nuôi này cho năng suất, hiệu quả thấp và gây ô nhiễm môi trường nông thôn, quản lý dịch bệnh kém hiệu quả, gặp nhiều khó khăn đồng thời có nguy cơ bùng phát dịch cúm H5N1 và lây sang người ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân. Thực tế cho thấy, đợt dịch cúm gia cầm do virut H5N1 gây ra năm 2004 và đầu năm 2005 là một bằng chứng. Hà Nội đã phải tiêu huỷ 2,4 triệu con gia cầm, chiếm 50% tổng đàn, làm thiệt hại trên một tỷ đồng, ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội. Gây hoang mang lo lắng cho nhân dân về nguy cơ lây nhiễm bệnh từ gia cầm sang người. Do dịch cúm gia cầm, thịt gia cầm không tiêu thụ được đã làm tăng giá các loại thực phẩm khác trên thị trường làm thị trường giá cả không ổn định. Dịch cúm gia cầm cũng ảnh hưởng lớn đến du lịch và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái [6]. Hiện nay, đàn gia cầm bước đầu được phục hồi, tập quán chăn nuôi gia cầm trong khu vực dân cư lại tiếp tục tăng. Vì vậy, để phát triển chăn nuôi gia cầm tốt hơn sau khi có dịch, đem lại nguồn thu nhập cho nông dân, nâng cao hiệu quả cho xã hội khắc phục những tồn tại chăn nuôi theo phương thức cũ thì dưới sự chỉ đạo của Thành Uỷ, UBND Thành Phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thành Phố Hà Nội đã xây dựng và triển khai đề án đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư theo quy mô trang trại. Là huyện ngoại thành Hà Nội, Đông Anh là huyện điển hình trong việc phát triển chăn nuôi gia cầm quy mô trang trại, đang trong quá trình thực hiện chăn nuôi gia cầm theo quy mô trang trại tách khỏi khu dân cư của Thành Uỷ, UBND Thành Phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thành Phố Hà Nội. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện còn chậm. Số lượng các trang trại chăn nuôi gia cầm còn ít, các trang trại đã được xây dựng chậm phát triển, chưa đáp ứng yêu cầu chỉ đạo và mong muốn của nhân dân. Thực tế tình hình chăn nuôi gia cầm trong khu dân cư của Đông Anh đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu việc đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của huyện Đông Anh - Thành Phố Hà Nội” 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Tìm hiểu thực trạng đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của huyên Đông Anh trong thời gian qua và đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư tại huyện Đông Anh trong thời gian tới. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về việc chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư theo quy mô trang trại. - Đánh giá thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến việc đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư ở huyện Đông Anh. - Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư trên địa bàn huyện Đông Anh. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu việc đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư tại huyện Đông Anh. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu a. Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu lý luận về đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư. Từ đó liên hệ với việc thực hiện chủ trương này ở Đông Anh và tập trung vào các giải pháp kinh tế, quản lý là chủ yếu. b. Phạm vi về không gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Đông Anh – Thành phố Hà Nội. Vì đây là một trong những huyện chăn nuôi gia cầm với mật độ cao. c. Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu việc đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư trên của huyện Đông Anh từ năm 2005 đến 2007. Để đảm báo tính khách quan, sát thực, cập nhật và hiệu quả trong giải pháp đề xuất, đề tài sử dụng số liệu điều tra hộ tại thời điểm nghiên cứu đề tài (năm 2008). Các số liệu thứ cấp khác được sử dụng trong nghiên cứu có thời gian đảm bảo tính cập nhật. 2. CƠ SƠ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư 2.1.1 Chăn nuôi gia cầm 2.1.1.1 Phân loại chăn nuôi gia cầm Chăn nuôi bao gồm chăn nuôi đại gia súc, tiểu gia súc, chăn nuôi gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản. Như vậy, chăn nuôi gia cầm là một ngành nhỏ, một hướng trong chăn nuôi nói chung. Với chăn nuôi gia cầm có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau: * Phân theo loại gia cầm: chăn nuôi gà, chăn nuôi vịt, chăn nuôi ngan, chăn nuôi chim cút, đà điểu, ngỗng, các loại chim cảnh,... * Phân theo điều kiện chăn nuôi: gồm có chăn nuôi gia cầm và chăn nuôi thuỷ cầm. Chăn nuôi gia cầm là việc chăn nuôi những loại thích nghi với điều kiện sống trên cạn, như: gà, đà điểu, chim cút,... Chăn nuôi thuỷ cầm là việc chăn nuôi những loại gia cầm thích nghi với môi trường sống dưới nước như: vịt, ngan, ngỗng,... * Phân loại theo hình thức chăn nuôi: gồm có chăn nuôi tập trung và chăn nuôi phân tán. Chăn nuôi tập trung là việc đàn gia cầm của một hộ hoặc một trang trại được nuôi tập trung trong một diện tích nhất định, như chăn nuôi công nghiệp, chăn nuôi trong chuồng kín. Chăn nuôi gia cầm phân tán là việc chăn nuôi gia cầm trên diện tích rộng, không cố định như: chăn nuôi gà thả vườn, chăn nuôi vịt chạy đồng,... Nếu nhìn tổng thể trong một vùng thì chăn nuôi gia cầm tập trung còn được hiểu là hình thức chăn nuôi gia cầm gồm nhiều trang trại chăn nuôi tập trung trong một khu nhất định, được quy hoạch tổng thể và có sự quản lý chung, còn chăn nuôi gia cầm phân tán được hiểu là việc các hộ, các trang trại chăn nuôi giải rác tại nhiều nơi khác nhau. * Phân theo hướng kinh doanh: chăn nuôi gia cầm lấy thịt, chăn nuôi gia cầm lấy trứng và chăn nuôi hỗn hợp (cả lấy thịt và lấy trứng). * Phân theo quy mô chăn nuôi: Quy mô chăn nuôi được hiểu là: số lượng gia súc, gia cầm được nuôi thường xuyên hoặc chăn nuôi theo các lứa, các đợt trong năm, để sản xuất ra khối lượng nhất định các sản phẩm (có thể là thịt, trứng, sữa, con giống,…) ở một cơ sở chăn nuôi (xí nghiệp, trang trại, nông hộ). Quy mô chăn nuôi gia cầm lớn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết phụ thuộc vào phương thức chăn nuôi. Nếu gia cầm được nuôi theo phương thức cổ truyền, thì quy mô thường nhỏ lẻ. Chăn nuôi theo lối công nghiệp, bán công nghiệp, thường có nhiều loại hình, nhiều quy mô khác nhau, trong đó có chăn nuôi gia cầm theo quy mô trang trại là chăn nuôi theo quy mô lớn, cho khối lượng sản phẩm hàng hóa cao. 2.1.1.2 Vai trò của chăn nuôi gia cầm Chăn nuôi gia cầm có vị trí quan trọng trong ngành nông nghiệp, trong nền kinh tế quốc dân và trong đời sống của nhân dân. Nó cung cấp cho con người thức ăn giàu đạm, giàu năng lượng, đồng thời có tác động để các ngành liên quan khác phát triển như ngành trồng trọt, công nghiệp chế biến nông sản… Theo tài liệu thống kê của Tổ chức lương thực thế giới (FAO), sản lượng thịt gia cầm thế giới năm 2003 đạt 75,9 triệu tấn, trong đó sản lượng thịt gia cầm của Châu Phi 3,3 triệu tấn (4,34%), Châu Mỹ 33,6 triệu tấn (44,27%), Châu Á 25,4 triệu tấn (33,46%), Châu Âu 12,7 triệu tấn (16,73%) [2]. Tỷ lệ tiêu thụ thịt gia cầm của thế giới chiếm tới 30% trong tổng số các loại thịt gia súc, gia cầm. Ở Việt Nam, chăn nuôi gia cầm là một nghề chăn nuôi truyền thống, có tốc độ phát triển nhanh, tạo việc làm, góp phần nâng cao đời sống của người nông dân Việt Nam. Chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam là một nghề truyền thống có từ lâu đời, đầu tư ít, tiêu tốn thức ăn để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm thấp (FCR trên dưới 2kg thức ăn/kg thịt hơi), quay vũng nhanh (gà giống chuyên thịt nuôi 40-60 ngày/lứa, gà nội 90- 120 ngày/lứa) phát triển được khắp mọi miền của đất nước, sản phẩm dễ tiêu thụ, được coi là món ăn "bổ dưỡng" và chưa có sản phẩm động vật nào thay thế được. Sau những năm đổi mới chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng có tốc độ phát triển rất nhanh: Bảng 2.1: Số lượng gia cầm của Việt Nam qua các năm STT Năm SL Gia cầm (triệu con) So sánh (%)/năm 1 Năm 1990 103,820 2000/1990: + 8,92% 2 Năm 2000 196,1 3 Năm 2001 218,12 2001/2000: + 11,22% 4 Năm 2002 233,29 2002/2001: + 6,96% 5 Năm 2003 254,64 2003/2002: + 8,90% 6 Năm 2004 218,150 2004/2003: - 14,33% 7 Năm 2005 219,910 2005/2003: - 13,64% 8 Năm 2006 214,564 2006/2003: - 15,74% (Nguồn: Hiệp Hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam) Cuối năm 2003 dịch cúm gia cầm xuất hiện, đến nay đã tái phát 3 đợt làm ảnh hưởng lớn đến việc phát triển đàn gia cầm ở nước ta. Năm 2004; 2005; 2006 so với năm 2003 không những không tăng trưởng mà còn giảm từ 14-15%. - Hiện nay trên 80% hộ nông dân chăn nuôi gia cầm, từ chăn nuôi nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp đã chuyển dần sang chăn nuôi tập trung hàng hoá, góp phần nâng cao đời sống của người nông dân Việt Nam. Chăn nuôi gia cầm chiếm khoảng 18-19% tổng thu ngành chăn nuôi [9]. Chăn nuôi gia cầm cung cấp khối lượng thực phẩm lớn thứ hai sau chăn nuôi lợn. Nếu dịch cúm không xảy ra năm 2003 và tái phát nhiều lần đến nay tổng đàn gia cầm có khả năng lên tới 4201 triệu con (mỗi năm tăng 8,5%) và sản xuất ra khoảng 1,536,818 tấn thịt gia cầm qua đó cho thấy dịch cúm gia cầm xảy ra đã ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất và phát triển của ngành chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam. Khối lượng thực phẩm chiếm 16- 17% tổng sản lượng thịt và đứng thứ hai sau chăn nuôi lợn [9]. 2.1.2 Chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư 2.1.2.1 Thế nào là chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư Khi dựa vào khoảng cách chăn nuôi tới khu ở của dân cư, được phân thành chăn nuôi gia cầm trong khu dân cư và chăn nuôi gia cầm ngoài khu dân cư. Chăn nuôi gia cầm trong khu dân cư là việc chăn nuôi gia cầm ngay trong khu vực dân cư sinh sống hoặc rất gần khu dân cư. Chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư là việc chăn nuôi gia cầm xa khu vực dân cư sinh sống, việc chăn nuôi gia cầm rất ít ảnh hưởng tới môi trường sống của khu dân cư. Chăn nuôi gia cầm nếu để trong khu dân cư sẽ làm ô nhiễm môi trường sống của con người. Theo ước tính mỗi con gia cầm một ngày đêm ăn vào khoảng 100 - 150 gam thức ăn. Mỗi ngày thải ra 70 - 80 gam phân. Với số lượng một nghìn con mỗi tháng thải ra khoảng 500kg phân. Nếu nuôi một lứa 3 tháng sẽ thải ra 7.500kg phân, sẽ có số lượng lớn khí ôi thối H2S cùng khí độc khác như cacbonic, khí amoniac... sẽ gây ra nhiều bệnh tật cho con người [4]. Mặt khác, chủ yếu là phải thực hiện cho được “An toàn sinh học” đảm bảo cho chăn nuôi thành công: + Một trong nội dung chính của An toàn sinh học quy định vị trí xây dựng chuồng trại: - Những cơ sở chăn nuôi tập trung phải ở cách xa khu dân cư, xa các trại chăn nuôi khác, xa các công trình công cộng, quốc lộ, bến cảng, đặc biệt cần phải xa chợ bán động vật, các cơ sở giết mổ động vật. - Có hàng rào hoặc tường rào bao quanh khu chăn nuôi cách biệt với khu hành chính. + Nuôi riêng biệt theo từng giai đoạn sản xuất hoặc theo nguồn gốc: - Trong một trại chăn nuôi nên bố trí các khu riêng biệt để nuôi gà mới nở, gà hậu bị, gà kết thúc giai đoạn đẻ, gà nhập từ nơi khác về. - Không nuôi chung nhiều loại động vật trong cùng một trại. Ví dụ nuôi chung gà vịt, ngan, gia cầm chung với lợn. - Cùng nhập cùng xuất: Đây là cách tốt nhất tránh được nguy cơ bệnh xâm nhập do gia cầm mới đồng thời sau khi xuất chuồng toàn bộ tiến hành tiêu độc để trống chuồng để phá vỡ vòng luân chuyển mầm bệnh ở trong đàn… Về khoảng cách xa khu dân cư với trại chăn nuôi gia cầm và các trại lớn không có tài liệu nào quy định cụ thể. Tuy nhiên để tham khảo có thể căn cứ vào quy định của một số quốc gia có dịch cúm gia cầm vừa qua giữ cho dịch không lây lan đã có hiệu quả. Các khoảng cách cấm vận chuyển không lưu thông gia cầm từ ổ dịch: Hàn Quốc : 3km Trung Quốc : 3 - 8km Nhật Bản : 30km Lào : 10km Đài Loan : 5km Thái Lan : 10km Cambodia : 3 - 10km Việt Nam : 5km Inđônêxia : 1km Như vậy ở Hà Nội có thể quy định khoảng cách giữa trang trại và khu dân cư và trại này cách trại khác từ 1km trở lên. Khoảng cách càng gần thì phải có tường rào và các biện pháp cách ly càng chặt chẽ [3]. Chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư theo quy mô trang trại sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các hộ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phòng trừ dịch bệnh, quản lý kinh tế tốt hơn. Ở các nước có nền chăn nuôi gia cầm tiên tiến có Bộ luật thú y từ rất sớm. Các nước này có nền kinh tế thị trường nên quy luật cạnh tranh xảy ra gay gắt. Các chủ trang trại chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng trước khi tổ chức kinh doanh đều tự trang bị cho mình các kiến thức về chăn nuôi thú y hoặc theo các trường trung cấp, đại học nông nghiệp để đảm bảo cho công việc kinh doanh thành công. Ví dụ như ở Thái Lan kết quả điều tra số học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp ngành nông nghiệp nói chung, ngành chăn nuôi thú y nói riêng khoảng 40% làm thuê cho các chủ trang trại khác, khoảng 10% không tìm được việc làm phải chuyển nghề khác [5]. Vì vậy các trang trại đã thu hút 80% số học sinh, sinh viên tốt nghiệp vào làm việc. Nên hầu hết các trại có bác sĩ thú y, kỹ sư chăn nuôi. Ngay từ khi xây dựng trại họ đã có kiến thức về chăn nuôi thú y và chấp hành nghiêm chỉnh luật thú y, luật bảo vệ môi trường. Các trang trại có quy mô vừa và lớn đề dựng xa khu dân cư. Còn ở Việt Nam do điều kiện các chủ trang trại chưa đủ đáp ứng kiến thức về kỹ thuật chăn nuôi thú y một cách đầy đủ nên xây dựng trại tùy tiện ngay trong khu dân cư hoặc quá gần khu dân cư. Vì vậy có thể nghiên cứu và rút ra những kinh nghiệm của các nước có nền chăn nuôi tiên tiến việc đầu tiên là trang bị kiến thức cho các chủ trang trại và đào tạo kỹ thuật về chăn nuôi thú y cho công nhân chăn nuôi. Về quy mô, phải di chuyển ra khỏi khu dân cư: qua tìm hiểu chăn nuôi gia cẩm ở các gia đình nông thôn của các nước có nền chăn nuôi gia cầm tiên tiến vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Vì các gia đình này không làm ô nhiễm môi trường tới mức vượt các chỉ tiêu cho phép của Luật bảo vệ môi trường. Chính vì vậy một số trang trại chăn nuôi gia cầm quy mô vừa (khoảng 50 - 1000 con gia cầm) ở Thái Lan, Inđônêxia... vẫn còn tồn tại gần khu dân cư. Không có nước nào quy định cụ thể chỉ tiêu được nuôi bao nhiêu con gia cầm đó đã làm ảnh hưởng đến môi trường: lượng khí độc CO2NH3, H2S... lượng bụi thải ra không khí xung quanh trại và lượng nước thải ra của trang trại đó gây ô nhiễm nguồn nước xuang quanh và nguồn nước ngầm hay không. Lẽ tất nhiên nếu khi hộ chăn nuôi càng lớn càng gây ô nhiễm môi trường nhiều. Tuy nhiên cũng không hoàn toàn tuyệt đối như vậy. Có các trang trại cùng nuôi quy mô như nhau, nhưng có trạng trại gây ô nhiễm nhiều hơn trang trại kia vì do có phương tiện biện pháp bảo vệ môi trường. Vì vậy ở Hà Nội chúng ta có thể áp dụng kinh nghiệm này, sử dụng các quy định tiêu chuẩn của Bộ luật bảo vệ môi trường để xem xét trại nào cần di chuyển [3]. Di chuyển đến địa điểm nào? - ở các nước có nền chăn nuôi tiên tiến người ta xây dựng các trại giống thuần, giống ông bà ở địa điểm có điều kiện cách ly tốt nhất nhưng lại không quá xa các trang trại chăn nuôi giống bố mẹ và thương phẩm. Việc di chuyển các trang trại chăn nuôi gia cầm tách khu dân cư ở Việt Nam là vấn đề mới có tính đặc thù sinh ra nhiều vấn đề phải khảo sát thực nghiệm. 2.1.2.2 Sự cần thiết phải đưa các trang trại chăn nuôi gia cầm ra khỏi khu vực dân cư Chăn nuôi gia cầm trong những năm gần đây phát triển mạnh, nhưng hầu hết các hộ chăn nuôi quy mô lớn lại nuôi trong khu vực dân cư và chính so sự gia tăng mạnh về đầu con gia cầm trong khu vực dân cư đã gây nên tình trạng bức súc: - Phân thải của gia cầm quá nhiều, lại không được xử lý kịp thời, chứa chất bừa bãi ở khắp nơi: Xung quanh nhà, sân, vườn, đường làng, ngõ xóm. Làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường sống rất nặng nề. Theo kết quả khảo sát của Viện Y Học lao động và vệ sinh môi trường tại các chuồng nuôi gia cầm ở huyện Đông Anh: + Vi khuẩn hiếm khí: 65.963,2 vi khuẩn/m3 không khí. + Vi khuẩn Ecoli: 510,1 vi khuẩn/m3 không khí. + Khí NH3: 1.119 mg/m3 không khí. + Khí H2S: 4,194 mg/m3 không khí. Đó là những chỉ số vượt quá mức cho phép, trong khi đó ở nông thôn hộ gia đình nào cũng chăn nuôi trong không gian hạn hẹp, môi trường bị ô nhiễm nặng nề làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người và gia súc, gia cầm [5]. - Các loại dịch bệnh gia súc, gia cầm rễ phát sinh và lây lan thành dịch lớn. Trận đại dịch cúm gia cầm năm 2003 - đầu năm 2004, Hà Nội đã phải tiêu huỷ hơn 2 triệu con gia cầm, chiếm49,8% tổng số gia cầm của vùng và tiêu huỷ gần 80.000 quả trứng, làm thiệt hại 97 tỷ đồng. Dịch cúm gia cầm không chỉ làm ảnh hưởng đến kinh tế mà còn ảnh hưởng đến nhiều mặt xã hội khác [6]. Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khu dân cư, khắc phục tình trạng lây lan dịch bệnh và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, phải sớm có biện pháp đưa chăn nuôi gia cầm ra khỏi khu vực dân cư. Mặt khác cũng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy chăn nuôi phát triển, tăng hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập cho nông hộ. 2.2 Thực tiễn về phát triển chăn nuôi gia cầm và chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư 2.2.1 Trên thế giới 2.2.1.1 Phát triển chăn nuôi gia cầm trên thế giới Chăn nuôi gia cầm cũng như thương mại các sản phẩm gia cầm trên thế giới phát triển mạnh trong vòng 35 năm qua. Sản lượng thịt và trứng gia cầm tăng nhanh hơn sản lượng thịt bò và thịt lợn. Sản lượng thịt và trứng của các nước đang phát triển cao hơn các nước phát triển. Hiện tại, sản lượng thịt của các nước đang phát triển chiếm 55% sản lượng thịt thế giới, sản lượng trứng chiếm 68%. Mặt khác, do tốc độ phát triển nhanh nên đã tạo ra sự mất cân đối: Bắc, Trung Mỹ và Châu Âu bị chia sẻ thị phần bởi các nước châu á, Mỹ La tinh như: Trung Quốc, Brazil. Bảng 2.2: Sản phẩm chăn nuôi của thế giới giai đoạn 1975-2005 (ĐVT: 1000 tấn) Năm Thịt bò Thịt lợn Thịt gia cầm Trứng gia cầm 1970 38.349 35.799 15.101 19.538 1975 43.724 41.674 18.684 22.232 1980 45.551 52.683 25.965 26.251 1985 49.285 59.973 31.206 30.764 1990 53.363 69.873 41.041 35.232 1995 54.207 80.091 54.771 42.857 2000 56.951 90.095 69.191 51.690 2005 60.437 102.523 81.014 59.233 Tốc độ tăng (%) 57,6 186,4 436,5 203,2 (Nguồn: World’s Poultry Science Journal, Volume 62, December 2006) Trong các loại thịt gia cầm thì thịt gà chiếm tỷ lệ cao. Trong những năm giữa của thập kỷ 80 thịt gà chiếm 88,3% tổng lượng thịt gia cầm sau đó giảm xuống và ổn định ở mức 86%, phần còn lại là các loại thịt gia cầm khác như thịt gà tây, thịt vịt, thịt ngan và thịt ngỗng. ở các nước đang phát triển chủ yếu sản xuất các loại thịt gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng), còn thịt gà tây chỉ được sản xuất với lượng nhỏ ở các nước phát triển [2]. Bảng 2.3: 10 quốc gia đứng đầu về sản lượng thịt gia cầm trên thế giới Quốc gia Sản lượng năm 1970 (1.000 tấn) Tỷ lệ (%) Quốc gia Sản lượng năm 2005 (1000 tấn) Tỷ lệ (%) Mỹ 4.645 30,8 Mỹ 18.538 22,9 Liên Xô 1.071 4,1 Trung Quốc 14.689 18,1 Trung Quốc 971 6,4 Brazil 8.895 11,0 Pháp 637 4,2 Mêhico 2.272 2,8 Italia 626 4,1 Pháp 1.971 2,4 Anh 578 3,8 Italia 1.965 2,4 Tây Ban Nha 499 3,3 Anh 1.573 1,9 Nhật Bản 490 3,2 Tây Ban Nha 1.341 1,7 Canada 447 3,0 Indonesia 1.268 1,6 Brazil 378 2,5 Nhật 1.240 1,5 Tổng 10 nước 10342 68,4 Tổng 10 nước 53.752 66,3 Thế giới 15101 100 Thế giới 81.014 100 (Nguồn: World’s Poultry Science Journal, Volume 62, December 2006) Trong mấy thập kỷ trở lại đây, vùng chăn nuôi gia cầm chuyển từ Bắc và Trung Mỹ, Châu Âu sang khu vực Nam và Đông á. Nếu năm 1970 chỉ có 2 quốc gia châu á trong 10 quốc gia đứng đầu về chăn nuôi gia cầm đó là Trung Quốc và Nhật Bản, thì đến nay Mỹ vẫn đứng ở vị trí đầu (chiếm 22,9%), nhưng Trung Quốc và Brazil đã ở vị trí thứ 2 và 3. Năm 2005, sản lượng thịt gia cầm ở các nước đang phát triển chiếm 54,7% sản lượng thịt gia cầm thế giới. Thị phần của Bắc, Trung Mỹ và châu Âu bị chia sẻ bởi các nhà sản xuất lớn khác ở châu á và Nam Mỹ đó là Trung Quốc và Brazil. Năm 1970, sản lượng thịt của khu vực Bắc và Trung Mỹ, Châu Âu (EU) và Liên bang Nga chiếm hơn 71% sản lượng thịt gia cầm thế giới, còn châu á và Nam Mỹ chiếm ít hơn 24%. Đến năm 2005, tỷ lệ này là gần 50%, tốc độ tăng trưởng cao nhất là ở khu vực châu á gần 25 triệu tấn trong giai đoạn 1975-2005, sau đó là Nam Mỹ 12 triệu tấn [2]. 2.2.1.2 Xu hướng chuyển đổi chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư ở một số nước trong khu vực Chăn nuôi gia cầm trong khu dân cư là một thói quen có tính phổ biến của tất cả các nước đang và kém phát triển. Hầu hết các nước trong khu vực thì chăn nuôi gia cầm vẫn gắn chặt với khu vực dân cư. Nhưng do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm nên xu hướng chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư ngày càng rõ. Sau đây là kinh nghiệm của một số nước: * Với Thái Lan Vương quốc Thái Lan là một quốc gia có nền chăn nuôi tương đối phát triển, đặc biệt là chăn nuôi gia cầm. Cộng đồng quốc tế biết đến nhiều sản phẩm gia cầm của nước này có mặt ở nhiều nước nhập khẩu trên thế giới. Tương tự như ở Việt Nam, Thái Lan cũng phân loại 4 hình thức chăn nuôi gia cầm gồm chăn nuôi công nghiệp với an toàn sinh học cao, chăn nuôi bán công nghiệp có an toàn sinh học trung bình, chăn nuôi gia cầm hàng hoá qui mô nhỏ có mức độ an toàn sinh học thấp và chăn nuôi gia cầm qui mô nhỏ tại nông hộ không đảm bảo an toàn sinh học. Thái Lan đã, đang và sẽ thực hiện tái cơ cấu chăn nuôi gia cầm để nâng cao an toàn sinh học thông qua các giải pháp sau: - Đẩy mạnh chăn nuôi gia cầm công nghiệp, khép kín tất cả các khâu từ con giống, thức ăn, giết mổ chế biến và bán sản phẩm. Hình thành hệ thống trang trại chăn nuôi áp dụng công nghệ cao để điều khiển tự động hoàn toàn các hoạt động của trại như điều hoà nhiệt độ, độ ẩm, thông gió, lượng khí độc, thức ăn, nước uống, khẩu phần thức ăn, kiểm tra tăng trọng, hồ sơ theo dõi... - Chuyển đổi mạnh từ chăn nuôi gà qui mô nhỏ tại nông hộ sang chăn nuôi gà theo trang trại tiêu chuẩn do Cục Phát triển chăn nuôi thẩm định và cấp phép. Ví dụ như tỉnh Sakaeo trước dịch cúm gia cầm có 300.000 trang trại gia cầm nhưng hiện nay chỉ còn 60 trang trại tiêu chuẩn. - Hỗ trợ chuyển đổi từ hình thức chăn nuôi gà không kiểm soát sang chăn nuôi có kiểm soát tại các nông hộ. - Hệ thống chăn nuôi, giết mổ, chế biến công nghệ cao phục vụ xuất khẩu các sản phẩm gia cầm của Tập đoàn CP đã chuyển hướng từ xuất khẩu sản phẩm gia cầm chưa chế biến sang các sản phẩm gia cầm đã chế biến để đáp ứng yêu cầu mới của thị trường xuất khẩu. Ở Thái Lan, chăn nuôi vịt thả đồng cũng là một nghề truyền thống như ở Việt Nam. Hiện nay, Thái Lan có khoảng 10 triệu con vịt, trước dịch cúm gia cầm 80% đàn vịt là nuôi không kiểm soát. Sau dịch cúm gia cầm, nước này nhanh chóng tổ chức lại hình thức chăn nuôi này để nâng cao an toàn sinh học. Chính phủ Thái Lan có chính sách hỗ trợ các chủ trại chăn nuôi vịt thả đồng sang nuôi nhốt; đầu tư 5 tỉ bạt thông qua 5 ngân hàng để hỗ trợ chủ trang trại vay vốn với lãi suất 2% năm để phục vụ chuyển đổi. Đồng thời Thái Lan cũng tài trợ cho việc chuyển đổi; tính bình quân, mỗi chủ trại nuôi một đàn vịt khoảng 3.000 con sẽ được tài trợ 3.500 bạt. Trong quá trình chuyển đổi, hàng loạt hợp tác xã chăn nuôi vịt được thành lập. 10-15% số người chăn nuôi gia cầm tại nông hộ chuyển đổi sang nghề khác với sự trợ giúp đào tạo và hỗ trợ chuyển đổi nghề từ Cục Phát triển chăn nuôi [1]. Bên cạnh các trang trại nuôi bán chăn thả, đã hình thành các trang trại hiện đại chăn nuôi vịt có sử dụng công nghệ cao để điều khiển tự động hoàn toàn các hoạt động của trại như điều hoà nhiệt độ, độ ẩm, thông gió, lượng khí độc, thức ăn, nước uống, khẩu phần thức ăn, kiểm tra tăng trọng, hồ sơ theo dõi... Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp phòng chống dịch cúm gia cầm tốt hơn Việt Nam nhưng nước này vẫn có nguy cơ cao tái lây nhiễm và bùng phát dịch cúm gia cầm. Các nguyên nhân sau có thể được đề cập: - Chăn nuôi gia cầm tại nông hộ, đặc biệt là chăn nuôi vịt thả đồng vẫn chưa quản lý hiệu quả và cách ly triệt để, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa. - Nguyên cơ lây nhiễm vi rút cúm gia cầm từ các đàn chim hoang dã đối với gia cầm nuôi tại nông hộ cao. - Do Thái Lan không sử dụng vắcxin cúm gia cầm trong suốt thời kỳ bị dịch nên nguồn vi rút bài xuất ra môi trường sẽ là một nguồn lây nhiễm tiềm tàng. - Để nâng cao an toàn sinh học, Thái Lan tăng cường kiểm soát chặt chẽ chăn nuôi gia cầm bản địa tại nông hộ, chuyển đổi từ hình thức chăn nuôi không kiểm soát sang chăn nuôi có kiểm soát với sự hỗ trợ từ Chính phủ Thái Lan. * Với Trung Quốc Trung Quốc là nước sản xuất gia cầm lớn trên thế giới, sau Brazil và Mỹ. Theo báo cáo của ngân hàng Rabo và Reuters, Trung Quốc gia nhập WTO có ảnh hưởng sâu sắc đến ngành công nghiệp chăn nuôi gia cầm trong nước. Năm 2001, sản lượng thịt gia cầm là 12,7 triệu tấn, khối lượng xuất khẩu đạt xấp xỉ 1 triệu tấn. Năm 2002, một năm sau khi gia nhập WTO, khối lượng xuất khẩu lập tức giảm 160 nghìn tấn, kéo theo kim ngạch giảm 196 triệu đô la do vướng phải các rào cản về kiểm dịch động thực vật [1]. Trung Quốc cũng là nước chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch H5N1. So với các nước có dịch khác, Trung Quốc là nước chịu thiệt hại lớn nhất vì đây là nước có dân số chăn nuôi gia cầm lớn nhất. Cho dù giá trị tạo ra chỉ chiếm khoảng 2 phần trăm GDP hàng năm song ngành chăn nuôi gia cầm lại đóng vai trò quan trọng với xã hội Trung Quốc bởi nó tạo ra 4 triệu việc làm (trong cả chăn nuôi và chế biến). Trong qua trình phát triển CNGC, Trung Quốc đã huy động các các khu đất cằn,._. khô hạn,... của các địa phương để xây dựng các trang trại CNGC gia cầm. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng là một quốc gia có tình trạng CNGC manh mún trong khu dân cư, do chính sách phát triển ồ ạt CNGC những năm trước đây. Chính phủ Trung Quốc xây dựng các chính sách nhằm hỗ trợ phát triển CNGC tách khỏi khu dân cư, xong do số hộ CNGC quá lớn nên trước mắt chưa thể giải quyết ngay tình trạng CNGC manh mún nói trên. 2.2.2 Với Việt Nam 2.2.2.2 Thực trạng và xu hướng phát triển chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam * Phương thức chăn nuôi Chăn nuôi gia cầm tự phát, phân tán, với qui mô nhỏ lẻ vẫn là chủ yếu, chăn nuôi tập trung qui mô lớn với trang thiết bị tự động, bán tự động còn rất thấp, mới chiếm 6-7% tổng đàn gia cầm. Trước năm 1974 chăn nuôi 100% là phân tán, nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp, từ năm 1974 đến nay đã quan tâm, đầu tư phát triển chăn nuôi gia cầm tập trung theo hướng tự động hoá, bán tự động hoá nhưng phát triển rất chậm. Hiện nay trên 80% hộ nông dân chăn nuôi gia cầm, chăn nuôi nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ cao (từ 75-78% tổng đàn gia cầm, nhiều tỉnh chiếm 94-95%), chăn nuôi tập trung theo phương thức tự động hoá chiếm tỷ lệ rất thấp, khoảng 2% tổng số đàn gia cầm, phương thức này mới được thực hiện ở một số cơ sở nuôi giữ đàn gia cầm giống gốc của Trung ương, đàn gà sinh sản của các công ty chăn nuôi lớn như CP group, Japfacomfeed, Cargill, Topmill và một vài công ty tư nhân. Chăn nuôi tập trung theo phương thức bán tự động (có những công đoạn thô sơ, có những công đoạn tự động hoá) chiếm trên 6%, chăn nuôi tập trung với trang thiết bị thô sơ chiếm khoảng 14-15%, còn lại là chăn nuôi nhỏ lẻ, thủ công chiếm khoảng 75-78% tổng đàn gia cầm [5]. * Tình hình sản xuất gia cầm giống Hiện nay cả nước có 12 cơ sở nuôi giữ gia cầm giống gốc trực thuộc Trung ương, 106 trại gia cầm giống thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, trước dịch cúm có 2.260 trang trại với qui mô bình quân 1000-1400 con/trại, một số tỉnh thành có cơ sở nuôi giữ và nhân giống, còn hầu hết các tỉnh chưa có cơ sở nuôi giữ và nhân giống gia cầm, lực lượng sản xuất giống chủ yếu là tư nhân. Giống gia cầm nội chất lượng rất cao là tài sản quý của quốc gia nhưng chưa được quan tâm đúng mức, mới nuôi giữ quĩ gen và nghiên cứu, chưa có cơ sở nuôi giữ, chọn lọc và nhân thuần để cung cấp cho sản xuất. Các giống gia cầm nhập nội rất nhiều: gà chuyên trứng, gà chuyên thịt và kiêm dụng gồm 40 dòng, giống. Nhưng mới nhập được ông bà và bố mẹ, chưa nhập được dòng giống thuần, vì vậy chưa lưu giữ được, hàng năm phải nhập, nên khả năng thích nghi thấp và giá thành cao, hiệu quả kinh tế vẫn chưa cao [5]. * Giết mổ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm gia cầm Trước khi xảy ra dịch cúm gia cầm (2003) hệ thống giết mổ và chế biến sản phẩm gia cầm hết sức lạc hậu và thô sơ, hầu hết gia cầm được giết mổ bằng thủ công, phân tán ở mọi nơi, mọi chốn: tại gia đình, tại chợ, trên vỉa hè, đường phố, chưa kiểm soát gia cầm trước và sau giết mổ, chưa khử trùng, tiêu độc nơi giết mổ nên chưa đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ năm 2005 đến nay một số tỉnh đã quan tâm đến việc phát triển hệ thống giết mổ gia cầm tập trung tự động và bán tự động, phần lớn vẫn giết mổ thủ công ở các chợ, có kiểm soát thú y. Song, do tập quán của người tiêu dùng vẫn ưa chuộng thịt gia cầm tươi sống, mặt khác thịt gia cầm giết mổ giá bán cao hơn thịt gia cầm giết mổ thô sơ (siêu thị bán tăng 50% so với giá nhập) lại không đảm bảo chất lượng nên người tiêu dùng không mặn mà với thịt gia cầm sau giết mổ. Vì vậy hệ thống giết mổ và chế biến gia cầm tập trung chưa phát triển, dẫn đến tình trạng giết mổ gia cầm tươi sống và bày bán khắp mọi nơi, không kiểm soát được, đây là mối lo ngại rất lớn đối với người tiêu dùng và nguy cơ bùng tái dịch cúm. Sản phẩm gia cầm sản xuất ra mới tiêu thụ nội địa, trước đây có xuất khẩu một số trứng vịt muối. Nhưng từ khi dịch cúm gia cầm xảy ra đến nay thị trường tiêu thụ sản phẩm gia cầm chỉ còn thị trường nội địa, có thời gian sản phẩm gia cầm hầu như không tiêu thụ được (từ tháng 12 năm 2003 đến tháng 3 năm 2004), cuối năm 2004 và đặc biệt cuối năm 2005 trong khi đó sản phẩm gia cầm ngoại nhập nội ngày một tăng nguyên nhân chính là do sản phẩm gia cầm sản xuất ra cao, chất lượng thấp, mặt khác chưa đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đây là mối lo ngại rất lớn đến thị trường gia cầm Việt Nam sau khi gia nhập WTO không những không xuất khẩu được mà còn bị mất thị trường trong nước, và tất nhiên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển gia cầm ở nước ta [5]. * Công tác phòng chống dịch bệnh gia cầm Do qui mô chăn nuôi nhỏ lẻ là chủ yếu và do nhận thức của người chăn nuôi bị hạn chế, nên việc áp dụng biện pháp kỹ thuật vào sản xuất chưa được coi trọng và chưa làm tốt công tác vệ sinh an toàn sinh học, chưa tiêm phòng vacxin triệt để, dịch bệnh nói chung xảy ra nhiều, nên tỷ lệ nuôi sống rất thấp, chi phí thuốc thú y cao, nhất là bệnh cúm gia cầm xảy ra và tái phát nhiều lần đã làm cho ngành chăn nuôi gia cầm thiệt hại nặng nề, nhiều người chăn nuôi bị phá sản, nhiều người lo sợ chưa dám tổ chức lại sản xuất. Có thể nói dịch cúm xảy ra đã làm cho ngành chăn nuôi gia cầm bị kiệt quệ và ảnh hưởng đến sức khoẻ của cộng đồng và làm ảnh hưởng đến nhiều ngành nghề khác, đây là một trở ngại và khó khăn lớn nhất đối với ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta [5]. 2.2.2.2 Chủ trương phát triển chăn nuôi gia cầm của Hà Nội Năm 2005, dưới sự chỉ đạo của Thành Uỷ, UBND Thành Phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thành Phố Hà Nội đã xây dung và triển khai đề án đưa chăn nuôi tách khỏi khu dân cư theo quy mô trang trại tại các huyện ngoại thành Hà Nội. Căn cứ vào nghiên cứu lý luận và thực tiễn chăn nuôi gia cầm tại các huyện ngoại thành, đề án đã đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư theo quy mô trang trại, cụ thể như sau: - Về quy mô chăn nuôi: Quy mô chăn nuôi gia cầm hợp lý để tách khỏi khu dân cư giai đoạn 2006 – 2010, đối với các hộ chăn nuôi gà ông bà bố mẹ có quy mô trên 500con/hộ; những hộ chăn nuôi gà thịt thương phẩm, gà đẻ trứng thương phẩm có quy mô chăn nuôi thường xuyên trên 1000con/hộ. - Quỹ đất cho chăn nuôi gia cầm quy mô trang trại: Đề án đề xuất diện tích tối thiểu của một trang trại chăn nuôi gia cầm là 1000 m2, được xây dựng tập trung tại một khu đất được quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng. Quỹ đất xây dựng khu tập trung chăn nuôi gia cầm được đề tài đề xuất là mỗi thôn hoặc mỗi xã có thể chọn 1 hoặc 2 vùng đất để xây dựng một khu chăn nuôi gia cầm tập trung với nhiều hộ tham gia. Phương án này được lựa chọn do có ưu điểm là tiết kiệm được diện tích đất và trong cùng một thời điểm giải quyết được nhiều trang trại tách khỏi khu dân cư. - Khoảng cách các trang trại chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư: Qua nghiên cứu về các chỉ số vi sinh vật, chỉ số về các khí độc trong không khí, đề án đề xuất khoảng cách tối thiểu của các trang trại chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư là 300m trở lên. - Về nguồn vốn giúp hộ chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư được đề tài đề cập gồm các nguồn: vốn ngân sách; vốn vay ưu đãi; vốn vay của người thân, bạn bè... ;vốn của chủ hộ chăn nuôi. - Đề án cũng đã nghiên cứu các giải pháp về sử lý môi trường trong khu chăn nuôi, trong các trang trại, các giải pháp về kỹ thuật chăn nuôi gia cầm và xây dựng chuồng trại chăn nuôi nhằm giúp các chủ trang trại chăn nuôi đạt hiệu quả cao và xử lý tốt môi trường chăn nuôi. 3. ĐẶC ĐIỂM HUYỆN ĐÔNG ANH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Đặc điểm huyện Đông Anh 3.1.1. Điều kiện tự nhiên 3.1.1.1. Vị trí địa lý Đông Anh là huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, cách thủ đô Hà Nội 20km về phía Bắc, có tổng diện tích tự nhiên 18.230,32 ha, có hệ thống giao thông thuận lợi, là cầu nối giữa cảng hàng không quốc tế Nội Bài và thành phố Hà Nội. Có hệ thống Sông Hồng và Sông Đuống chạy dọc theo hướng tây nam của huyện, ranh giới của huyện bao gồm: Phía Bắc giáp với huyện Sóc Sơn. Phía Nam giáp Hà Tây Phía Tây Nam giáp với Sông Hồng, Sông Đuống và nội thành Hà Nội Phía Đông Nam giáp với huyện Gia Lâm. Phía Đông giáp với Bắc Ninh. Các tuyến đường bộ: Đường cao tố Bắc Thăng Long Nội Bài, đường Quốc lộ số 3, đường 23b, các tuyếng đường sắt Hà Nội - Đông Anh - Lào Cai. Hà Nội - Đông Anh - Thái Nguyên chạy qua địa phận huyện, do đó Đông Anh có nhiều điều kiện để phát triển về mọi mặt và giao lưu kinh tế với các vùng khác. 3.1.1.2. Khí hậu, thuỷ văn Đông Anh nằm ở khu vực sông Hồng, nên mang các đặc điểm thời tiết khí hậu vùng châu thổ sông Hồng. Một năm chia thành hai mùa rõ rệt: mùa nóng ẩm kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 với đặc điểm nóng lắm, mưa nhiều và độ ẩm cao. Mùa khô hanh kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau có đặc điểm hanh khô và rét. Giữa hai mùa nóng ẩm và khô hanh có các thời gian chuyển tiếp hình thành nền khí hậu bốn mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông. Với đặc điểm khí hậu này rất thuận tiện cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, phong phú về chủng loại sản phẩm. ở đông anh có thể sản xuất các loại sản phẩm có nguồn gốc nhiệt đới, cận nhiệt đới, á nhiệt và cả một phần sản phẩm ôn đới. + Nhiệt độ trung bình năm là 230C. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối đo được là 380C (thường đo được vào tháng 7), nhiệt độ tối thấp là 50C (thường vào tháng giêng). + Lượng mưa hàng năm khoảng 2200 - 2500 mm nhưng phân bố không đều thường tập trung chủ yếu vào mùa nóng ẩm (tháng 2 và tháng 7). Do vậy mùa mưa thường xảy ra úng lụt ở những vùng đất trũng, không tiêu nước kịp. + Độ ẩm tương đối trung bình là 84%, cao nhất thường vào tháng 3 (88% - 90%), thấp nhất thường vào tháng 11 (79%). + Lượng bức xạ nhiệt trung bình là 122,8Kcal/cm2. + Tích ôn lên tới 82700C/năm trong đó vụ xuân là: 34900C và vụ mùa là: 47800C. Với tổng diện tích ôn như vậy, kết hợp với các điều kiện sản xuất khác, Đông Anh có thể thâm canh từ 3- 4 vụ/ năm. Nguồn nước: trên địa bàn huyện có 4 con sông chảy qua đó là: sông hồng, sông Đuống, sông Cà Lồ, sông Ngũ Huyện Khê, do đó nhìn chung nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của huyện tương đối tốt và thuận lợi. Tuy nhiên hệ thống tiêu ở đây nhìn chung chưa đảm bảo tiêu nước chủ động trong sản xuất nông nghiệp của huyện. Gặp những trận mưa lớn nước không tiêu kịp thường gây ra úng lụt, làm giảm năng suất cây trồng, gây thiệt hại cho mùa màng nhất là đối với vùng miền đông. 3.1.1.3. Đặc điểm địa hình Là một huyện đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng, có hướng thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Các xã phía Tây Bắc của huyện như: Bắc Hồng, Nguyên Khê, Kim Chung, Kim Nỗ, Vân Nội, Tiên Dương có địa hình tương đối cao, phần lớn là diện tích đất vàn cao. Chính vị vậy ở đây phù hợp với rất nhiều loại cây trồng khác nhau như: lúa, ngô, khoai, rau các loại… Các xã thuộc phía đông nam của huyện như: Vân Hà, Liên Hà, Dục Tú, Cổ Loa, Mai Lâm thì lại có địa hình tương đối thấp, thường hay bị úng lụt vào mùa mưa. Đất của vùng này chỉ thích hợp với một loại cây chính là cây lúa nước. Do có hệ thống sông Hồng, sông Đuống, sông Cà Lồ chảy qua nên huyện có một vùng đất ven sông rộng lớn. Đất vùng này chủ yếu là đất phù sa, rất thích hợp với việc phát triển lúa, hoa màu, đậu các loại cũng như các cây công nghiệp ngắn ngày ở sứ nhiệt đới. + Phân vùng kinh tế: dựa trên các đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của từng tiểu vùng, huyện Đông Anh được chia thành 4 tiểu vùng: Vùng I: Các xã ven sông Hồng, sông Đuống (gồm 8 xã): Mai Lâm, Đông Hội, Sơn Canh, Tàm Xá, Vĩnh Ngọc, Hải Bối, Võng La, Đại Mạch. Đây là vùng có diện tích đất phù sa rộng lớn, do đó vùng này phát triển mạnh các cây công nghiệp ngắn ngày. Đây đồng thời cũng là vùng phát triển mạnh về chăn nuôi: lợn nạc, bò sữa, bò thịt, dâu tằm, chim cút,… chính vì vậy thu nhập của nhân dân vùng này khá cao. Vùng II: Vùng các xã miền đông (gồm 5 xã miền đông): Dục Tú, Liên Hà, Vân Hà, Thuỵ Lâm, Việt Hùng. Đây là vùng có địa hình tương đối trũng, dó đó có rất ít cây trồng phù hợp với đặc điểm địa hình của vùng. Cây trồng, vật nuôi chủ yếu là lúa nước và lợn thịt, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ cũng kém phát triển hơn so với các vùng khác do vậy kinh tế vùng này kém phát triển hơn các vùng khác. Vùng III: Gồm thị trấn Đông Anh và 5 xã: Uy Nỗ, Cổ Loa, Xuân Nộn, Kim Chung. Đây là vùng phát triển chủ yếu về dịch vụ vì ở đây có nhiều danh lam thắng cảnh, có nhiều xưởng sản xuất chế biến cũng như gia công hàng xuất khẩu. Hơn nữa ở đây còn là trung tâm trao đổi, giao lưu các loại hàng hoá của huyện. Vùng IV: Gồm 5 xã Tiên Dương, Vân Nội, Nam Hồng, Bắc Hồng và Nguyên Khê. Đây là vùng chuyên sản xuất rau và rau an toàn vì ở vùng này có lợi thế là đất cao và màu mỡ nên việc phát triển rau ở đây tương đối thuận lợi. Đây là vùng phát triển mạnh nghề trồng rau, hiện tại đã hình thành các vũng sản xuất rau an toàn tương đối lớn cung cấp cho thị trường nội thành. 3.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội 3.1.2.1 Tình hình phân bổ và sử dụng đất Đất đai là điều kiện quan trọng nó tham gia vào mọi hoạt động của con người. Do đó việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này đòi hỏi phải hợp lý và hiệu quả. Mỗi một địa phương có những điều kiện thuận lợi khác nhau về địa hình, địa chất và phương hướng phát triển kinh tế xã hội. Là một huyện ngoại thành Hà Nội, thuộc đồng bằng châu thổ Sông Hồng, Đông Anh cũng có những định hướng phát triển và lợi so sánh riêng. Số liệu về tình hình biến động đất đai của Đông Anh trong những năm qua được thể hiện qua bảng 3.1. Với tổng diện tích đất tự nhiên là 18230,32 ha, trong những năm qua diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm đi để phục vụ cho các khu công nghiệp và khu đô thị. Đất nông nghiệp năm 2005 chiếm 96,81% tổng diện tích của huyện, tương ứng với 9513,3ha giảm xuống còn 94,15% năm 2007. Trong đó giảm mạnh là đất tròng cây hàng năm, còn diện tích trong cây lâu năm và đất nuôi trồng thủy sản có xu hướng tăng, do những năm gần đây huyện có chủ trương phát triển kinh tế trang trại, nhiều trang trại kinh doanh tổng hợp phát triển và cho hiệu quả kinh tế cao. Qua 3 năm diện tích đất nông nghiệp bình quân hộ thuần nông giảm nhanh, từ 0,21ha/hộ năm 2005 xuống còn 0,17ha/hộ năm 2007. Một mặt do số hộ của huyện tăng, mặt khác nhiều vùng quy hoạch phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, dẫn đến nông dân bị mất đất sản xuất nông nghiệp. Là một huyện ngoài thành nên tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa ngày một nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế chung của huyện, nhưng cũng tạo ra những khó khăn không nhỏ cho những nông hộ bị mất đất. Trong quá trình nghiên cứu các giải pháp đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư tại huyện Đông Anh cần tính toán kỹ cả về trước mắt cũng như lâu dài diện tích và vị trí nguồn đất chuyên dùng cho phát triển chăn nuôi gia cầm, tránh hiện tượng chồng chéo, trùng lặp. Bảng 3.1: Đất đai và tình hình sử dụng đất đai của huyện Đông Anh giai đoạn 2005 - 2007 CHỉ TIÊU 2005 2006 2007 So sánh(%) SL (ha) CC (%) SL (ha) CC (%) SL (ha) CC (%) 06\05 07\06 BQ Tổng diện tích đất tự nhiên 18.230,32 100,0 1.8230,32 100,0 18.230,32 100,0 I. Đất nông lâm và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 9.826,5 53,90 9.611,64 52,72 9.441,54 51,79 97,81 98,23 98,02 1. Đất sản xuất nông nghiệp 9.513,3 96,81 9.061,92 94,28 8.888,94 94,15 95,26 98,09 96,67 1.1. Đất trồng cây hàng năm 9448 99,31 8.874,05 97,93 8.618,04 96,95 93,93 97,12 95,52 1.2.Đất trồng cây lâu năm 65,3 0,69 187,87 2,07 270,90 3,05 287,70 144,20 215,95 2.Đất lâm nghiệp 5,3 0,05 5,30 0,06 5,30 0,06 100,00 100,00 100,00 3. Đất mặt nước NTTS 307,9 3,13 544,42 5,66 547,30 5,80 176,82 100,53 138,67 II. Đất chuyên dùng 3.640,1 19,97 3.867,34 21,21 3.960,88 21,73 106,24 102,42 104,33 1. Đất xây dựng 916,8 25,19 927,80 23,99 935,70 23,62 101,20 100,85 101,03 2. Đất giao thông 1.036,2 28,47 1.275,60 32,98 1.357,60 34,28 123,10 106,43 114,77 3. Đất mặt nước 1.146,1 31,49 1.148,20 29,69 1.151,00 29,06 100,18 100,24 100,21 4. Đất chuyên dùng khác 541,1 14,86 515,74 13,34 516,58 13,04 95,31 100,16 97,74 III. Đất khu dân cư 2.095,7 11,50 2.111,67 11,58 2.206,86 12,11 100,76 104,51 102,63 1. Đất đô thị 119,7 5,71 507,33 4,03 702,52 31,83 423,83 138,47 281,15 2.Đất nông thôn 1976 94,29 1.604,34 5,97 1.504,34 68,17 81,19 93,77 87,48 V. Đất chưa sử dụng 2.668,02 14,64 2.639,67 14,48 2.621,04 14,38 98,94 99,29 99,12 Một số chỉ tiêu 1. Đất TN/Khẩu 0,075 -  0,061 -  0,053 - - - -  2. Đất NN/LĐ NN 0,08 -  0,075 -  0,07  - -  -  -  3. Đất NN/Hộ NN 0,21 -  0,19 -  0,17  - -  -  -  Nguồn: Phòng tài nguyên môi trường huyện Đông Anh 3.1.2.2 Đặc điểm dân số và lao động Huyện Đông Anh có 24 đơn vị hành chính cơ sở, bao gồm 23 xã và 1 thị trấn, Đông Anh là huyện đất chật người đông, theo số liệu thống kê năm 2007, dân số của huyện là 346582 người, mật độ dân số là 1901 người/km2. Qua bảng 3.2 chúng ta thấy, từ năm 2005 đến năm 2007, trong cơ cấu nhóm hộ (hộ thuần nông, hộ phi nông nghiệp và hộ kiêm) thỡ hộ thuần nụng cú xu hướng giảm nhanh (năm 2005 chiếm 80,37% giảm xuống cũn 78,06% năm 2007), cũn hộ phi nụng nghiệp và hộ kiờm lại cú xu hướng tăng. Do đó dẫn đến cơ cấu của nhân khẩu nông nghiệp và lao động nông nghiệp cũng giảm mạnh; khẩu phi nông nghiệp, khẩu kiêm và lao động phi nông nghiệp, lao động kiêm có sự tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, số hộ thuần nông của huyện vẫn chiếm tỷ lệ cao, 78.06% năm 2007. Lao động nông nghiệp năm 2007 chiếm 64,96%. Có sự thay đổi như vậy là do: Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH-HĐH của Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, những năm gần đây Nhà nước có chủ trương thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ cho quá trỡnh đô thị hoá nên làm cho những hộ thuần nông giảm xuống. Nhiều hộ nông dân do đất sản xuất nông nghiệp ít đi nên họ chuyển sang làm thêm một số nghề khác để tăng thu nhập vỡ thế hộ kiờm cú xu hướng tăng nhanh. Mặt khác nhiều hộ nông dân thấy sản xuất nông nghiệp không hiệu quả bằng tham gia các nghề khác nên họ cho người khác mượn đất ruộng cũn họ chuyển hẳn sang làm nghề khỏc như: kinh doanh buôn bán, đi làm công nhân, làm thuê, sản xuất tiểu thủ công nghiệp v.v... do vậy cũng làm tăng các hộ phi nông nghiệp. Từ đó các lao động phi nông nghiệp và lao động kiêm cũng tăng lên. Bảng 3.2: Dân số và lao động của huyện Đông Anh giai đoạn 2005 - 2007 Chỉ tiêu ĐVT 2005 2006 2007 So sánh SL CC(%) SL CC(%) SL CC(%) 06\05 07\06 BQ I. Tổng dân số Người 242.561 100,00 297.017 100,00 346.582 100,00 122,45 116,69 119,57 1. Nông nghiệp Người 223.001 91,94 243.908 82,12 256.105 73,89 109,38 105,00 107,19 2. Phi NN Người 19.560 8,77 53.109 21,77 90.477 35,33 271,52 170,36 220,94 II. Tổng số hộ Hộ 59.556 100,00 64.524 100,00 71.562 100,00 108,34 110,91 109,62 1.Thuần nông Hộ 47.865 80,37 51.236 79,41 55.863 78,06 107,04 109,03 108,04 2. Hộ kiêm Hộ 5.456 9,16 6.362 9,86 8.541 11,94 116,61 134,25 125,43 3. Phi nông nghiệp Hộ 6.235 10,47 6.926 10,73 7.158 10,00 111,08 103,35 107,22 III. Tổng số LĐ LĐ 172108 100,00 177.938 100,00 194.877 100,00 103,39 109,52 106,45 1. Lao động NN LĐ 122.024 70,90 120.632 67,79 126.598 64,96 98,859 104,95 101,9 2. Lao động kiêm LĐ 40.623 23,60 46.287 26,01 54.023 27,72 113,94 116,71 115,33 3. Lao động phi NN LĐ 9.461 5,50 11.019 6,19 14.256 7,32 116,47 129,38 122,92 IV. Một số chỉ tiêu BQ 1. BQ khẩu / hộ 4,07 -  4,60 -  4,84 -  113,02 105,21 109,12 2. BQ LĐ/ hộ 2,89 -  2,76 -  2,72 -  95,427 98,749 97,088 3. BQ LĐ NN/ hộ NN 2,55 -  2,35 -  2,27 -  92,355 96,253 94,304 Nguồn: Phòng thống kê huyện Đông Anh Xu hướng biến động lao động như vậy là phù hợp với quá trỡnh cụng nghiệp hóa và đô thị hoá. Hiện nay tỷ lệ bỡnh quõn lao động nông nghiệp/1 hộ nông nghiệp khá thấp và có xu hướng giảm. 3.1.2.3 Hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện Cơ sở vật chất kỹ thuật thể hiện trình độ, năng lực sản xuất cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Cơ sở vật chất là điều kiện không thể thiếu được trong mọi hoạt động của đời sống kinh tế xã hội. Mức trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng cao thì sản xuất càng phát triển, năng lực phát triển kinh tế xã hội càng nhiều. Tuy nhiên, việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật phải đảm bảo tính hợp lý và đồng bộ, phù hợp với trình độ quản lý và điều kiện sản xuất cụ thể của từng vùng, từng địa phương thì mới đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay một vùng, một địa phương thì hệ thống cơ sở hạ tầng cần thiết và trực tiếp phục vụ cho sản xuất kinh doanh đó là hệ thông cơ sở hạ tầng phục vụ giao thông vận tải, hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng phục vụ giao lưu buôn bán, cơ sở hạ tầng phục vụ giáo dục, cơ sở hạ tầng phục vụ y tế, cơ sở hạ tầng sinh hoạt vui chơi giải trí và hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Những năm qua, được sự hỗ trợ của thành phố và sự nỗ lực của toàn dân cùng các ban ngành đoàn thể trong huyện, cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng của huyện ngày càng được nâng cấp và hoàn thiện. Qua bảng 3.3 ta thấy, toàn huyện có 111 trạm bơm tưới tiêu và hơn 96km kênh mương được kiên cố hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của huyện. Huyện có hệ thống đường giao thông thuận lợi, là cầu nối giữa cảng hàng không quốc tế Nội Bài với trung tâm thành phố Hà Nội, các tuyến đường quốc lộ như quốc lộ 2, đường 23b, tuyến đường sát Hà Nội - Đông Anh - Lào Cai,… đây cũng là điều kiện thuận lợi để phát triển và giao lưu kinh tế với các vùng khác. Bảng 3.3: Cơ sở hạ tầng trang thiết bị cho huyện Đông Anh trong giai đoạn 2005 - 2007 Chỉ tiêu ĐVT 2005 2006 2007 I. Thuỷ lợi 1. Tổng số trạm bơm Trạm 111 111 111 Trạm tới Trạm 100 100 100 Trạm tiêu Trạm 10 10 10 Trạm tới tiêu kết hợp Trạm 1 1 1 2. Kênh mơng đã kiên cố hoá m 85185 85585 96077 II. CSHT phục vụ GTVT Đường quốc lộ Tuyến 3 3 3 Đường tỉnh lộ và nội thị Bến 1 1 1 Bến xe Tuyến 1 1 1 Đường sắt Ga 1 1 1 Ga tàu Tuyến 3 3 3 Đường sông Bến 3 3 3 Đường quốc lộ Tuyến 3 3 3 Đường tỉnh lộ và nội thị Bến 1 1 1 Bến xe Tuyến 1 1 1 Đường sắt Ga 1 1 1 Ga tàu Tuyến 3 3 3 Đường sông Bến 3 3 3 III. CSHT phục vụ TTLL Bưu điện Bưu điện tỉnh Bưu điện Bưu điện thị Trạm 1 1 1 Bưu điện xã ( Phường) Bưu điện 23 23 23 IV.CSHT phục vụ cho GD Trường Số trường ĐH, CĐ, THCN Trường 2 2 2 Số trường cấp III Trường 7 7 7 Số trường cấp II Trường 25 25 25 Số trường cấp I Trường 26 27 27 Số trường mẫu giáo Trường 24 24 24 V. CSHT phục vụ cho Y tế Số bệnh viện BV 2 2 2 Số trạm y tế Trạm 24 24 24 Tổng số giường bệnh Giường VI. Công trình phúc lợi Cái Công viên, vườn hoa Sân 1 1 1 Sân chơi thể dục thể thao Cái 72 72 72 Nhà văn hoá thiếu nhi Cái 1 1 1 Chợ Cỏi 22 24 24 (Nguồn: Phòng kinh tế huyện Đông Anh) Ngoài ra, qua bảng ta cũng thấy huyện có hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ thông tin liên lạc, phục vụ kinh doanh buôn bán, phục vụ giáo dục, y tế, sinh hoạt văn hóa cũng không ngừng được nâng cấp và mở rộng, cơ bản đã ổn định đáp ứng nhu cầu phát triển, đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện và góp phần thực hiện CNH-HĐH đất nước. 3.1.2.3 Kết quả sản xuất kinh doanh của huyện qua các năm Những năm gần đây huyện có sự chuyển mình rõ rệt, tổng giá trị sản xuất tăng nhanh qua các năm, từ 6132,26 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 7770,48 tỷ đồng năm 2007, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 12,57% năm. Qua bảng 3.4 ta thấy, ngành CN-TTCN&XD và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh, qua 3 năm 2005 - 2007 ngành CN-TTCN&XD tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 17,6% năm, ngành dịch vụ đạt 15% năm. Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp có xu hướng giảm (bình quân 3 năm giảm 10,91%) do đại dịch H5N1 ở gia cầm và dịch Tai Xanh (bệnh rối loạn hô hấp và sinh sản) ở lợn ảnh hưởng nghiên trọng tới kết quá sản xuất kinh doanh của ngành chăn nuôi, mặt khác do quỹ đất nông nghiệp giảm cũng làm ảnh hưởng tới giá trị sản xuất ngành trồng trọt của huyện [10]. Điều đáng chú ý là cơ cấu ngành CN-TTCN&XD chiếm tỷ trọng cao và tăng nhanh trong cơ cấu giá trị sản xuất của huyện, năm 2005 ngành CN-TTCN&XD chiếm 73,8% giá trị sản xuất toàn huyện, đến năm 2007 đã chiếm tới 80,48%. Cùng với nó là xu hướng giảm trong cơ cấu giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp, hiện tại chỉ chiếm 10,7% giá trị sản xuất toàn huyện. Đây là xu thế thể hiện sự thành công của huyện trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn nói riêng và toàn huyện nói chung [10]. Bảng 3.4: Kết quả sản xuất kinh doanh của huyện Đông Anh qua các năm (2005-2007) Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh (%) SL CC(%) SL CC(%) SL CC(%) 06/'05 07/'06 BQ 1. Tổng GTSX tr.đ 6.132.267 100 6.862.696 100 7.770.481 100 111,91 113,23 112,57 1.1. Ngành nông, lâm, thủy sản tr.đ 1.087.884 17,74 782.036 11,40 831.186 10,70 71,89 106,28 89,09 - Nông nghiệp tr.đ 716.915 65,90 761.167 97,33 810.056 97,46 106,17 106,42 106,30 - Lâm nghiệp tr.đ 369.330 33,95 6.683 0,85 2.561 0,32 1,81 38,32 20,07 - Thủy sản tr.đ 1.639 0,15 14.186 1,81 18.569 2,23 865,53 130,90 498,21 1.2. Ngành CN-TTCN&XD tr.đ 4.525.757 73,80 5.474.323 79,77 6.253.600 80,48 120,96 114,24 117,60 1.3. Dịch vụ tr.đ 518.626 8,46 606.337 8,84 685.695 8,82 116,91 113,09 115,00 2. Chỉ tiêu BQ 2.1. Tổng GTSX/hộ tr.đ/hộ 106,6 115,5 118,6 108,35 102,68 105,52 2.2. Tổng GTSX/khẩu tr.đ/khẩu 15,23 20,35 22,45 133,62 110,32 121,97 2.3. Tổng GTSX/lđ tr.đ/lđ 34,46 36,25 41,35 105,19 114,07 109,63 Nguồn: Phòng kinh tế huyện Đông Anh 3.2. Phương pháp nghiên cứu 3.2.1. Phương pháp chọn hộ nghiên cứu Chọn 120 hộ chăn nuôi gia cầm có quy mô vừa và lớn kiểu trang trại, dựa trên phương pháp phân tổ thống kê lấy tiêu chí phân tổ là khoảng cách của trang trại chăn nuôi gia cầm so với khu dân cư, trong đó: Trang trại chăn nuôi gia cầm trong khu dân cư: là những trang trại chăn nuôi gia cầm trong khu vực dân cư sinh sống tập trung như: trong xóm, thôn,... Trang trại chăn nuôi gia cầm ngoài khu dân cư: là trang trại chăn nuôi gia cầm tách biệt khỏi khu dân cư sinh sống tập trung, dưới hình thức trang trại theo các quy mô và hình thức khác nhau. Mục đích của việc phân tổ như trên nhằm làm rõ ảnh hưởng của hướng sản xuất kinh doanh của trang trại tới hiệu quả chăn nuôi gia cầm của trang trại, những thuận lợi và khó khăn trong chăn nuôi gia cầm khi chăn nuôi theo các hình thức sản xuất kinh doanh trên. Mặt khác, so sánh giữa các hướng sản xuất của của trang trại từ đó có thể đưa ra được mô hình chăn nuôi gia cầm hiệu quả. Số mẫu cụ thể được phân cho mỗi nhóm như sau: Loại hộ Quy định Số hộ Cơ cấu(%) Tổng số hộ - 120 100 1. Hộ chăn nuôi trong khu dân cư Nhóm 1 60 50 2. Hộ chăn nuôi ngoài khu dân cư Nhóm 2 60 50 Những hộ điều tra đều là những hộ chăn nuôi và trang trại được chọn tiêu biểu để đảm bảo tính đại diện cho từng nhóm hộ và đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu [8]. 3.2.2. Phương pháp thu thập tài liệu 3.2.2.1. Tài liệu thứ cấp - Trong phần I và phần II, chúng tôi thu thập những số liệu phản ánh tình hình: phát triển của chăn nuôi gia cầm trên thế giới, những số liệu khái quát tình hình phát triển chăn nuôi gia cầm của Việt Nam,... Thông tin có qua sách báo tham khảo của các tác giả trong và ngoài nước và các công trình nghiên cứu về lĩnh vực chăn nuôi gia cầm... Đây là những số liệu có tính chất khái quát, nhưng góp phần giúp người nghiên cứu bước đầu hình dung được tình hình giải quyết những vấn đề mà đề tài nghiên cứu đang diễn ra như thế nào ở địa phương ? - Phần III, chúng tôi thu thập số liệu phác hoạ điều kiện tự nhiên (Vị trí địa lýý, địa hình, khí hậu,...), điều kiện kinh tế xã hội (diện tích đất đai, số lượng lao động,...). Những số liệu này được lấy từ báo cáo tổng kết hàng năm của UBND, HĐND Huyện, báo cáo tình hình việc làm, các nghành nghề đang có xu hướng phát triển, đóng góp vào thu nhập của nông hộ cũng như vào sự phát triển của địa phương trong giai đoạn 2000- 2010, mà các phòng ban liên quan trực thuộc UBND huyện cung cấp. Đây là những số liệu phản ánh một cách rõ nét tình hình kinh tế xã hội, xu hướng phát triển và các thuận lợi khó khăn trong quá trình đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của địa phương. - Phần IV là phần quan trọng nhất, nó là kết quả nghiên cứu và thảo luận mà nội dung và mục tiêu của đề tài đề cập đến. Do đó, những số liệu đã công bố ở phần này không nhiều, nguồn cung cấp số liệu chủ yếu do điều tra và phỏng vấn. 3.2.2.2. Thu thập số liệu sơ cấp a. Ở cấp hộ gia đình - trang trại Nguồn số liệu chính của phần IV chủ yếu được thu thập ở hộ gia đình. Qua khảo sát thực địa và tìm hiểu từ chính quyền địa phương, chúng tôi được biết đa phần các hộ nông dân sau chuyển sang chăn nuôi gia cầm quy mô rang trại tách khỏi khu dân cư đều có biến động ít nhiều đến việc làm và thu nhập của gia đình, ảnh hưởng qua trình phát triển kinh tế của địa phương. Vì thế, chúng tôi tiến hành thu thập số liệu ở cấp hộ - trang trại chăn nuôi gia cầm chủ yếu bằng hai phương pháp: - Thảo luận nhóm (PRA- phương pháp đánh giá nhanh nông thôn qua sự tham gia của người dân): chúng tôi tiến hành thảo luận nhóm theo các chủ đề về thuận lợi, khó khăn chung của các hộ nông dân trong qua trình đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư, những thay đổi về kinh tế xã hội, các vấn đề có tính thời sự hiện nay, những vấn đề được nhiều người quan tâm là gì?, mong muốn và đề xuất từ phía người dân...Đây là những thông tin rất quan trọng góp phần làm nổi bật nội dung cần nghiên cứu, và được chúng tôi chú trọng vì có những thông tin không thể điều tra bằng mẫu câu hỏi được. Ở phương diện cá nhân họ không thể nhớ hết được, cho nên tiến hành ._.ích có thể chuyển đổi sang chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của hộ. Từ đó đề tài đề xuất quy mô về các mặt: Quy mô về số lượng: - Các hộ chăn nuôi gà bố mẹ và gà đẻ trứng thương phẩm: có quy mô chăn nuôi thường xuyên từ 1000-3000con/hộ và trên 3000con/hộ. - Các hộ nuôi gà thịt thương phẩm có quy mô chăn nuôi thường xuyên từ 1000-3000con/lứa/hộ và 3000con/lứa trở lên. Thời gian để tính quy mô chăn nuôi theo lứa là chu kỳ sinh học của giống gà nuôi thịt, trung bình 4-5 lứa/năm (khoảng 73 – 90 ngày một lứa kể cả thời gian vệ sinh, cách ly chuồng trại). - Đối với chăn nuôi thủy cầm (vịt, ngan, ngỗng) thông thường chuồng trại gắn với ao hồ. Quy mô chăn nuôi gia cầm để tách khỏi khu dân cư áp dụng như đối với chăn nuôi gà thịt. Quy mô về diện tích: Theo kỹ thuật, với quy mô chăn nuôi gia cầm bố mẹ, gia cầm chuyện trứng với số lượng tối thiểu 1000con/hộ cần diện tích nền chuồng tối thiểu là 300m2. Với CNGC chuyên thịt, với số lượng tối thiểu 1000con/lứa/hộ cần diện tích tối thiểu 111m2, nếu hộ chăn nuôi ngan vịt cần thêm diện tích ao hồ. Ngoài diện tích chuồng nuôi, khi đầu tư xây dựng trang trai CNGC ngoài khu dân cư cần diện tích xây dựng các công trình phụ trợ như phòng ở cho người chăm sóc, kho chứa thức ăn, kho chứa sản phẩm, bể xử lý chất thải,… Căn cứ vào diện tích hiện có của các nông hộ, cơ sở thực tiễn về quy mô chăn nuôi, đề xuất quy mô chăn nuôi. Đề tài đề xuất quy mô về diện tích CNGC ngoài khu dân cư như sau: Với phương án 1: Xây dựng các trang trại CNGC phân tán ngoài khu dân cư có diện tích tối thiểu 600m2/hộ chăn nuôi. Như vậy, bình quân nông hộ chỉ cần chuyển đổi hai thửa đất nông nghiệp có thể xây dựng được trang trại ngoài khu dân cư, hộ vẫn còn bình quân 6 thửa để phát triển trồng trọt, bảo đảm lương thực, thực phẩm cho gia đình và cung cấp cho thị trường. Ngoài ra, với diện tích này sau khi trừ đi tối đa diện tích các công trình phụ trợ, hộ có thể chăn nuôi tới trên 1500 con gia cầm đẻ trứng, khoảng trên 4500con/lứa gia cầm lấy thịt. Hộ nên lựa chọn những địa điểm thuận lợi về giao thông, vùng đất có năng xuất thấp để tiến hành lập dự án xin phê duyệt. Mặt khác với quy mô này hộ chỉ cần đổi 1-2 thửa cho nhau đã đảm bảo được nhu cầu diện tích cho chăn nuôi gia cầm, như vậy sẽ dễ làm, giảm kinh phí cho đầu tư cho hộ, thúc đẩy qua trình đưa CNGC tách khỏi khu dân cư của huyện. Với phương án 2: Xây dựng khu CNGC tập trung ngoài khu dân cư, diện tích tối thiểu cho một khu chăn nuôi của hộ là 400m2, chưa bao gồm các công trình phụ trợ. Do khu CNGC tập trung đã xây dựng đầy đủ công trình phụ trợ nên hộ không phải dành diện tích để xây dựng các công trình này. Tuy theo quy mô của khu chăn nuôi tập trung và nhu cầu CNGC của từng địa phương để chia diện tích từng lô cho hợp lý, trên quan điểm diện tích CNGC của hộ càng rộng càng tốt, giúp cho hộ có khả năng mở rộng quy mô CNGC. 4.5.2.2 Giải pháp về quy hoạch đất đai (1) Xác định rõ vị trí xây dựng trang trại CNGC tách khỏi khu vực dân cư * Nguyên tắc chọn vị trí xây dựng trang trại - Không vi phạm quy hoạch sử dụng đất đã được Nhà Nước phê duyệt. - Cách xa khu dân cư, đường quốc lộ, khu vực giết mổ và chợ buôn bán gia cầm, các khu công cộng từ 300m trở lên. - Không xây dựng ở trước các hướng gió chính với các khu dân cư, các chợ và các công trình công cộng. * Các loại đất có thể xây dựng trang trại - Đất khó giao theo Nghị định 64/NĐ-CP của Chính phủ. - Đất giao lâu dài cho các hộ gia đình sử dụng theo Nghị định 64/NĐ-CP của Chính Phủ. * Lý do phải thực hiện các nguyên tắc trên - Xây dựng trang trại và tất cả các công trình khác phải tuân thủ theo quy hoạch sử dụng đất đã được Nhà nước phê duyệt và tuân thủ các nguyên tắc xây dựng cơ bản. Có như vậy mới thực hiện được quy hoạch, kế hoạch dài hạn, ngắn hặn của Nhà Nước và khi đó có các dự án của Nhà nước mới dễ thực hiện. - Cách xa khu dân cư, đường quốc lộ, khu vực giết mổ gia cầm và chợ buôn bán gia cầm 300m trở lên để tránh sự lây lan dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm, không gây ô nhiễm môi trường cho các khu vực trên. Theo khảo sát của viện y học lao động và vệ sinh môi trường thì tại các cự ly cách xa chuồng trại 300m các loại vi khuẩn hiếu khí, khí độc H2S vượt mức cho phép không đáng kể. Vi khuẩn E.Coli và khí NH3 chỉ còn ở dưới ngưỡng cho phép, cự ly dưới 300m thì các loại vi khuẩn và các khí độc hại vẫn còn nhiều. (2) Quy hoạch cho khu CNGC tập trung tách khỏi khu dân cư Trên cơ sở nghiên cứu quy hoạch phát triển của thành phố Hà Nội, quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị, đường giao thông, các công trình phúc lợi,… trên địa bàn huyện. Nghiên cứu cụ thể tình hình đất đai và sử dụng đất đai của từng địa phương, thực tế phát triển CNGC của các địa phương. Đề tài đề xuất phương án quy hoạch đưa CNGC tách khỏi khu dân cư cho từng xã, thôn. Cụ thể được thể hiện qua bảng 4.19: Bảng 4.19: Quy hoạch xây dựng khu CNGC tập trung tách khỏi khu dân cư tại các xã thuộc huyện Đông Anh đến 2020 STT Tên xã Số khu CNGC tập trung Tổng diện tích (Ha) Số hộ CNGC (dự kiến) Ghi chú(cụ thể từng thôn) 1 Xuân Nộn 1 7.5 22  Đường Nhạn 2 Vân Nội 3 29.8 86  Thố Bảo, Vân Trì 3 Tiên Dương 2 16.3 47  Lương Nỗ, Tiên Kha 4 Nguyên Khê 2 16.3 38  Khê Nữ 5 Bắc Hồng 1 7.5 22  Quan Âm 6 Liên Hà 3 28.3 82  Châu Phong 7 Thụy Lâm 2 16.5 48  Hà Lâm 8 Dục Tú 2 18.6 47  Nghĩa Vũ 9 Vân Hà 3 27 82  Vân Điềm 10 Hải Bối 3 30.5 85  Hải Bối, Yên Hà 11 Kim Chung 2 13.6 38  Hậu Dưỡng 12 Xuân Canh 1 2.4 18  Xuân Trạch 13 Vĩnh Ngọc 2 16 39  Phương Trạch 14 Đại Mạch 3 26.5 74  Đại Đồng, Mai Châu 15 Việt Hùng 3 31.8 83  Đoài 16 Tàm Xá 1 10 15  Đông 17 Mai Lâm 2 14 42  Lộc Hà, Lê Xá 18 Uy Nỗ 3 28.3 85  ấp Tó, Đản Mỗ 19 Cổ Loa 2 18.6 41  Nhồi trên 20 Đông Hội 3 32.6 78  Đông Ngàn, Đông Trù 21 Võng La 1 7.9 25  Sáp Mai 22 Nam Hồng 2 18 56  Đìa, Vệ 23 Kim Nỗ 2 15.8 47  Bắc Tổng số 49 349.65 1200 Phấn đấu đến năm 2020 toàn huyện có 49 khu CNGC tập trung, giải quyết cho khoảng 1200 hộ có nhu cầu CNGC tách khỏi khu dân cư. (3) Giải pháp quy hoạch cho các trang trại CNGC tách khỏi khu dân cư riêng lẻ Các thôn, xã cùng huyện xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng thôn, từng vùng đất của thôn. Những khu đất đáp ứng được yêu cầu đặt ra nhưng có diện tích nhỏ, không đủ xây dựng khu CNGC tập trung có thể chuyển đổi sang CNGC thì có giải pháp cho các hộ trong khu đất đó dồn điền đổi thửa nhau, hoặc đổi cho hộ có nhu cầu CNGC ngoài khu dân cư để xây dựng trang trại CNGC. Thành lập các tổ dồn điền đổi thửa tại các thôn, xúc tiến nhanh qua trình tích tụ ruộng đất, tổ chức này có nhiệm vụ xem xét phê duyệt diện tích và vị trí xây dựng trang trại của các hộ phù hợp với các tiêu trí đặt ra và phù hợp vời điều kiện của từng thôn 4.5.2.3 Giải pháp nguồn nhân lực Qua phân tích nguồn nhân lực của các hộ CNGC, thấy rõ những thuận lợi , khó khăn về nguồn nhân lực phục vụ CNGC của hộ, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực của hộ như sau: - Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật nhằm nâng cao kỹ thuật CNGC cho người chăn nuôi, tổ chức theo định kỳ tháng, quý hoặc năm. - Thành lập Hội CNGC tại các xã, thôn,… thường xuyên sinh hoạt trao đổi kinh nghiệm, tiến bộ kỹ thuật trong CNGC cho nhau, giúp đỡ nhau. Kinh phí hoạt động do hộ tự đóng góp là chính, do ban khuyến nông quản lý, hỗ trợ và định hướng hoạt động. - Hướng dẫn cách tổ chức và quản lý trang trại, cùng hộ xây dựng định hướng phát triển CNGC của gia đình phù hợp với tiềm năng của từng hộ. Người thực hiện là các cán bộ khuyến nông, Hội CNGC, nông dân chủ chốt,… - Mở các lớp đào tạo theo trình độ sơ cấp, trung cấp về chăn nuôi, thú y và áp dụng tiến bộ mới, khuyến khích lao động của các hộ tham gia và cấp bằng, chứng chỉ khi kết thúc khóa học. Những người tham gia các lớp này sẽ được yêu tiên về chính sách hỗ trợ cho CNGC của hộ, có như vậy mới thu hút được nhiều hộ tham gia, từ đó nâng cao được kỹ thuật CNGC cho đa số người chăn nuôi. - Xây dựng một số mô hình CNGC điểm để các hộ CNGC đến thăm quan, học hỏi. 4.5.2.4 Giải pháp về vốn Qua phân tích tình hình thực tế về nhu cầu vốn vay của các hộ CNGC, các chủ trang trại thể hiện tại bảng 4.15, và nghiên cứu các nguồn vốn, cơ chế chính sách hỗ trợ CNGC, đề tài đề xuất một số giải pháp sau đây: - Tập trung quy hoạch chăn nuôi thành khu tập trung để tiện cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng, đối với các trang trại chăn nuôi tập trung cùng một khu vực, nhà nước nên đầu tư hệ thống đường, điện, hệ thống nước cho các trang trại với tỷ lệ đầu tư là 50% tổng chi phí. - Đầu tư thêm lượng vốn cho quỹ khuyến nông, cho vay vốn với lãi suất thấp để các nông hộ đầu tư vào hệ thống chuồng trại và phát triển quy mô chăn nuôi. - Với các trang trại đã hình thành và hoạt động, Nhà nước ưu tiên cho vay với lãi suất thấp để các trang trại này có nguồn vốn mở rộng và phát triển chăn nuôi của gia đình. - Ưu tiên cho vay với lãi suất thấp 0,3%/tháng đối với nông hộ chăn nuôi gia cầm quy mô từ 1000con/lứa trở lên trong thời hạn 5 năm. - Kiểm tra, giám sát hoạt động và việc sử dụng nguồn vốn của trang trại, kiểm tra về lỗ, lãi, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. - UBND huyện thành lập tổ kiểm tra về tình hình hoạt động của các trang trại trên địa bàn, các thành viên là chủ tịch UBND xã, từ đó kiểm tra giám sát từ việc xây dựng chuồng trại đến các hoạt động của trại. Đối với các trang trại sản xuất kinh doanh không đúng mục tiêu thì phải đình chỉ, những trang trại làm ăn thua lỗ liên tục cũng phải xem xét đình chỉ không cho tiếp tục. - Để có thể huy động được nhiều vốn, huyện cần cấp quyền sử dụng đất lâu dài trên diện tích trang trại tách khỏi khu dân cư của hộ, hộ có thể thế chấp bằng chính đất đai và tài sản của trang trại CNGC của mình. - Huyện tạo điều kiện giúp đỡ về mặt thủ tục vay vốn, giải ngân nhanh chóng để đảm bảo nhu cầu vốn cho phát triển CNGC của hộ. 4.5.2.5 Giải pháp về thị trường Thị trường tiêu thụ là vấn đề sống còn của các hộ chăn nuôi, hiện nay các hộ CNGC chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, lâu dài. Vì vậy, bên cạnh việc hộ phải năng động tìm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của mình thì huyện và thành phố cần có một số giải pháp để tạo thi trường tiêu thụ cho các hộ chăn nuôi, vì lượng sản phẩm gia cầm tạo ra ngày càng lớn cần thị trường tiêu thụ lớn hơn. Hiện nay, sản phẩm gia cầm của các hộ chủ yếu được tiêu thụ trực tiếp cho người thu gom lưu động, số lượng tiêu thụ ít, giá cả không ổn định và không có hợp đồng. Để khắc phục được tình trạng này, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: - Thành lập Hội chăn nuôi gia cầm Đông Anh, hội có nhiệm vụ đứng ra bảo lãnh tư cách pháp nhân cho hộ ký kết hợp đồng tiêu thụ với các nhà máy chế biến, các nhà hàng khách sạn. Hộ chăn nuôi phải cam kết cung cấp đúng yêu cầu về số lượng và chất lượng sản phẩm gia cầm như đã ký kết. Hội chăn nuôi kiểm tra giám sát chặt chẽ quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của hộ, chánh tình trạnh phá hợp đồng. Người chăn nuôi phải chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ phù hợp với sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, Hội chăn nuôi Đông Anh hỗ trợ về đàm phá giá cả, ký kết hợp đồng. Giá áp dụng tại các hợp đồng sẽ biến động theo giá thị trường để đảm bảo lợi ích của cả người chăn nuôi và phía doanh nghiệp, chánh tính trạng phá giá hợp đồng. - Huyện cần xây dựng trung tâm giết mổ quy mô lớn, thu gom số lượng lớn gia cầm của huyện, từ đó xây dựng một thương hiệu cho gia cầm Đông Anh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để đưa vào các siêu thị, trung tâm thương mại, các chợ bán buôn bán lẻ trên toàn quốc. - Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng các nhà máy chế biến các loại sản phẩm từ gia cầm trên địa bàn huyện, thực hiện liên kết chặt chẽ giữa nhà nông – nhà nước – doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tạo ra được những sản phẩm uy tín trên thi trường trong nước và hướng ra xuất khẩu. - Đưa những giống gia cầm có năng xuất, chất lượng cao vào chăn nuôi. Tao ra những sản phẩm gia cầm có tiếng vang trên thị trường. 4.5.2.6 Đề xuất giải pháp quản lý sản xuất CNGC tách khỏi khu dân cư a. Lập dự án xây dựng trang trại trình UBND xã hoặc huyện phê duyệt Các hộ CNGC phải lập dự án nhằm mục đích: giúp hộ xây dựng được định hướng đầu tư, sản xuất phù hợp với khả năng của chủ trang trại và đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Tạo hành lang pháp lý để chủ trang trại yên tâm đầu tư; trong sản xuất được pháp luật bảo hộ. Nội dung chính trong dự án: - Vị trí, địa điểm và nguồn vốn xây dựng trang trại - Họ và tên chủ trang trại. - Bố trí sản xuất, quy mô dự án, hình thức đầu tư: + Bố trí sản xuất: Thể hiện trên bản đồ 1/1000 các khu vực sản xuất. + Quy mô sản xuất: đầu con, vốn đầu tư, lao động,... - Các hạng mục cần đầu tư xây dựng và giải pháp kỹ thuật - Hiệu quả sản xuất: + Tổng thu nhập bình quân 1 năm + Tổng chi phí sản xuất bình quân 1 năm + Lợi nhuận bình quân 1 năm + Thời gian hoàn vốn - Thời gian thực hiện dự án - Các giải pháp bảo vệ môi trường b. Xây dựng kế hoạch sản xuất Các căn cứ để xây dựng kế hoạch: - Căn cứ vào dự án đầu tư xây dựng trang trại đã được UBND huyện phê duyệt. - Căn cứ vào quỹ đất của trang trại: Diện tích đất, loại đất (đất khó giao, đất giao lâu dài, đất công ích,...), chất đất. - Nguồn nhân lực: Nhân lực của gia đình, nhân lực thuê mướn (thuê mướn dài hạn, thuê mướn theo thời vụ,...). - Khả năng về vốn đầu tư của chủ trang trại. - Thị trường: đây là vấn đề sống còn của một trang trại, nên phải được quan tâm và đánh giá đúng đắn. Kế hoạch sản xuất: - Kế hoạch chăn nuôi: + Kế hoạch về quy mô đầu con từng năm + Thức ăn, chuồng trại đáp ứng cho quy mô đầu tư + Lao động + Vốn đầu tư + Hiệu quả sản xuất - Kế hoạch chế biến: + Chế biến thức ăn + Chế biến sản phẩm chăn nuôi gia cầm: có thể ký hợp đồng với các cơ sở giết mổ được phép của thành phố. c. Quản lý chọn giống và quy trình chăn nuôi gia cầm - Chọn lọc giống gia cầm có chất lượng cao: Giống gia cầm phải được mua ở những cơ sở sản xuất giống có uy tín như: Trung tâm giống gia cầm Thụy Phương, Công ty CP. Phúc Thịnh, Công ty TNHH CP, JAPACOMFEED.. Phải là giống có nguông gốc rõ ràng, khỏe mạnh, sức sinh trưởng, phát triển và sinh sản mạnh. - Tổ chức chăn nuôi đúng quy trình: Trong điều kiện nhiệt đới nóng ẩm quanh năm, chỉ có một mùa đông không hoàn toàn khô và điều kiện chăn nuôi dịch tễ phức tạp của Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung, yêu cầu phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là quy trình vệ sinh thú y phòng bệnh. Định kỳ phun thuốc khử trùng, tiêu độc khu vực chăn nuôi, thiết lập vành đai an toàn dịch bệnh và thực hiện tốt công tác an toàn sinh học: Chống, tiêu diệt vật chủ trung gian gây bệnh, áp dụng triệt để quy trình vacxin phòng bệnh cho gia cầm. Đồng thời áp dụng quy trình sử dụng thuốc kháng sinh hợp lý và chỉ được dùng các loại thuốc kháng sinh không nằm trong danh mục cấm của Việt Nam để kiểm soát, ngăn chặn các bệnh chuyền nhiễm, đặc biệt là các bệnh do vi khuẩn gây ra. Có thời gian ngừng dùng thuốc kháng sinh trước khi giết mổ là 15-20 ngày (tùy từng loại hóa dược). d. Tổ chức quản lý nguồn thức ăn Thức ăn cho gia cầm phải rõ nguồn gốc sản xuất và phải được kiểm tra chất lượng của các cơ quan chuyên môn. Hiện nay, đối với chăn nuôi gà công nghiệp phải sử dụng hoàn toàn thức ăn hỗn hợp dạng viên và dạng mảnh để cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho gà. Nước uống cho gà công nghiệp phải đảm bảo đủ điều kiện vệ sinh cho phép. Hàng ngày phải lên rõ khẩu phần ăn cho từng lô gia cầm trong trại. Luôn kiểm tra tình hình ăn uống của gia cầm xem có ăn hết khẩu phần không, nếu không ăn hết phải điều chỉnh kịp thời và tìm nguyên nhân. e. Tổ chức quản lý lao động Những người tham gia lao động trong trang trại phải thực hiện chế độ làm khoán: khoán sản phẩm, khoán công việc, khoán chi phí,... chế độ khoán phải phù hợp với từng lao động, với từng công việc. Nếu người nào làm vượt khoán phải có chế độ thưởng và ngược lại người nào làm việc không hiệu quả, khong đạt mức khoán phải phạt. Thực hiện sự phân công, phân nhiệm rõ ràng cho từng người trong trang trại. f. Quản lý vốn Vốn đầu tư cho sản xuất phải luôn được duy trì và phát triển không để thất thoát vốn bằng cách quản lý thông qua hệ thống kế toán và tuân thủ pháp lệnh kế toán thống kê. Trong sản xuất phải hạch toán cho cả chu kỳ sản xuất, cho năm sản xuất và nếu có điều kiện thì hạch toán cho cả quý sản xuất. g. Quản lý khu trang trại tập CNGC tập trung - Mỗi khu CNGC tập trung xây dựng một khu riêng là chỗ nghỉ ngơi tập trung cho người lao động, nguồn thức ăn và con giống phải được sự thống nhất của đa số các hộ chăn nuôi trong khu. - Mỗi khu tập trung phải có 1-3 người (tuy theo quy mô của khu chăn nuôi) có chuyên môn về chăn nuôi gia cầm, nhằm phục vụ kiểm tra và quản lý vệ sinh, phòng dịch, kỹ thuật chăn nuôi,… của các hộ trong khu. Hình thức trả lương cho 1-3 người đó do các hộ đóng góp, hoặc giao khoán cho họ làm dịch vụ thú y, thức ăn, vận tải, bao tiêu và quản lý sản phẩm đầu ra và đầu vào cho khu chăn nuôi tâp trung,… - Phải thành lập được hợp tác xã CNGC tại khu vực quy hoạch đó và các thành viên là các chủ trang trại đó, mục đích để giải quyết và thống nhất các vấn đề sau: + Quản lý đất đai: các trang trại CNGC tách khỏi khu dân cư phải cam kết sử dụng đúng mục đích. + Thống nhất về kế hoạch sản xuất, thống nhất về nguồn thức ăn và con giống. + Tổ chức quản lý nguồn lao động, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng trại,… 4.5.2.7 Giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường Chăn nuôi gia cầm càng phát triển thì số lượng phân, nước thải, khí độc và các vi sinh vật có hại do các trang trại chăn nuôi gia cầm thải ra môi trường ngày càng nhiều, lượng phân và giác thải không phân hủy kịp đã gây ô nhiễm cho môi trường sống của con người và ô nhiễm cho cả môi trường sống của gia súc gia cầm. Chính vì vậy một số nước ở Châu Âu và Nhật Bản không chủ trương phát triển thêm chăn nuôi gia súc, gia cầm, chỉ duy chì số lượng nhất định và để bù vào nhu cầu tiêu dùng tăng, họ nhập thêm. Họ đã tính nếu để ô nhiễm thì kinh phí xử lý ô nhiễm còn gấp nhiều lần kinh phí dự phòng. Xin nêu một số thí dụ ở Nhật Bản. - Ở vùng Minamata (Nhật Bản) do không chi kinh phí phòng chống phòng chống ô nhiễm nước hằng năm 125 triệu yên. Sau hai năm phải chi 5 năm gồm các khoản: bồi thường sức khoẻ cho dân trong vùng 7.671 triệu yên. Chi bù thiệt hại hoa màu 690 triệu yên. Chi bù cải tạo lại đất 7.621 triệu yên. Cộng 12.632 triệu yên. Sau đó phải tiếp tục chi hằng năm 125 triệu yên phòng chống ô nhiễm môi trường. - Ở lưu vực sông Zinzu: do không đầu tư chống ô nhiễm nước và không khí do các trại chăn nuôi thải ra môi trường đã phải chi 743 triệu yên bồi thường sức khoẻ cho dân trong vùng. 1.657 triệu yên bồi thường thiệt hại hoa màu do mất mùa và 893 triệu yên cải tạo đất. Tổng phải chi 2.518 triệu yên. Sau đó hằng năm cho 603 triệu yên phòng chống ô nhiễm môi trường. Rút kinh nghiệm ở các nước, chúng ta cần phát triển chăn nuôi gia cầm một cách bền vững, giữ cho môi trường sống của người dân quanh vùng và đàn gia cầm được an toàn. Chăn nuôi gia cầm trang trại chủ yếu gây ra ô nhiễm nước, đất, không khí do chất độc và vi sinh vật gây hại thải ra ở môi trường và cùng xung quanh trại. Để phòng chống ô nhiễm môi trường phải lấy phương châm phòng là chính (đó là phương pháp rẻ và có hiệu quả nhất). - Để phòng chống ô nhiễm đất, và nước ngầm cần xây dựng nền chuồng, hệ thống cống rãnh, nền nhà chứa phân,... lát gạch hoặc láng bê tông. - Phải có hệ thống cống thu gom nước vào bể chứa để xử lý nước bằng phương pháp sinh học hoặc dùng nước vôi, chất diệt trùng,... để làm sạch nước trước khi thải ra môi trường. - Để phòng chống ô nhiễm không khí và vi sinh vật có hại ngay trong chuồng nuôi cần có hệ thống thông gió làm giảm lượng vi sinh vật có hại, khí độc như CO2,H2S, NH3,… và độ ẩm. Trồng cây xanh xung quanh trại và dùng thuốc khử mùi hôi thối như DEODORAGE, EM xịt vào thức ăn trong máng. Dùng BOKASHI rắc vào phân. Hãng OLMIX (Pháp) đã bán rộng rãi ở thị trường Việt Nam chế phẩm Mistral có nguồn gốc tự nhiên có khả năng loại trừ nguy cơ độ ẩm cao và CO2, NH3, thái quá trong chuồng trại gia cầm. - Xử lý phân: Nuôi gia cầm con và gia cầm thương phẩm lấy thịt; sau một lứa phải dọn phân rác sạch sẽ trong chuồng và tẩy uế chuồng trại. Nuôi gia cầm đẻ trứng cứ sau 2 tháng - 3 tháng phải dọn phân, rắc độn chuồng và tẩy uế thay rác độn chuồng mới. Phân ở nhà chứa chất cần được chuyển sớm đi chế biến làm phân bón ruộng, không để lâu sẽ ô nhiễm môi trường. - Xác gia cầm chết hoặc vỏ trứng ấp thải ra phải được đốt bằng lò đốt có hệ thống lọc khí độc. Dùng các chế phẩm để xử lý ô nhiễm môi trường trong chuông nuôi, như dùng chế phẩm DE.ODORAGE, BOKASHI rắc vào phân và rác độn chuồng. Tiến sĩ J.Foulkes nhận thấy khi sử lý chuồng bằng Mistaral ở Anh Quốc, lượng Amoniac đã giảm đi đáng kể trong bầu không khí trang trại: Giảm 92% trên nền và 82% trên trần. Tiến sĩ Phạm Công Thiếu và cộng sự (Viện Chăn nuôi) đã ding chế phẩm EM (Effective Microorganisms) cho 0,1% gốc vào nước uống và phun EM thứ cấp vào chất độn chuồng làm tăng tỷ lệ nuôi sống 10-12% và tăng 11,8% khối lượng thịt, thịt gà đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Nguyễn Thị Ngọc Liên bổ xung chế phẩm EM vào nước và phun vào rác độn chuồng nuôi vịt làm giảm tiêu tốn thức ăn trên 1kg tăng trọng và tăng tỷ lệ nuôi sống, giảm ô nhiễm môi trường. Hiện nay trên thị trường có nhiều chế phẩm khác nhau, mỗi chế phẩm đều giới thiệu kỹ cách sử dụng và công dụng. Tuy nhiên, khi sử dụng phải thử nghiệm và cân nhắc về giá cả, chi phí. Giữ trong sạch môi trường trong các trạng trại làm cho gia cầm phát triển tốt sẽ giảm được rất nhiều chi phí thuốc thú y, thuốc sát trùng và tránh được thiệt hại không mong muốn, giữ được chăn nuôi gia cầm phát triển bền vững. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận Qua nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu việc đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của huyện Đông Anh - Thành Phố Hà Nội”. Bằng việc áp dụng những phương pháp nghiên cứu đã lựa chọn, đề tài đã hệ thống hoá được những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về những vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của huyện Đông Anh, nghiên cứu thực tiễn CNGC tại các hộ chăn nuôi, và những yếu tố ảnh hưởng tới việc đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư, đề tài đã đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư trên địa bàn huyện Đông Anh. Cụ thể: 1. Về nguyên nhân phải đưa CNGC tách khỏi khu dân cư tại huyện Đông Anh - Do chăn nuôi gia cầm của huyện Đông Anh đa số trong khu dân cư, phát triển tự phát, quy mô nhỏ lẻ (số hộ chăn nuôi quy mô lớn chỉ chiếm 22,92% năm 2007), thiếu sự quy hoạch,... do đó tình hình ô nhiễm môi trường rất trầm trọng ảnh hưởng sức khỏe con người. Hàm lượng khí độc và các vi sinh vật có hại đều vượt quá mức cho phép (khí H2S cao gấp 279,6 lần tiêu chuẩn cho phép). - Cũng chính tình trạng phát triển chăn nuôi gia cầm bừa bãi, thiếu quy hoạch, thiếu đầu tư làm cho dịch bệnh rất dễ xẩy ra và khi xảy ra dịch bệnh thì rất khó có điều kiện cách ly để khống chế và dập tắt dịch bệnh. - Hiệu quả kinh tế của việc CNGC trong khu dân cư thấp hơn CNGC ngoài khu dân cư. Doanh thu trên một đồng chi phí của nhóm hộ chăn nuôi trong khu dân cư chỉ đạt 1,09 lần, trong khi đó tỷ lệ này của nhóm hộ chăn nuôi ngoài khu dân cư đạt 1,16 lần. 2. Về thực trạng đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của huyện Đông Anh Quá trình đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của huyện cũng đã đạt được những kết quả nhất định, số lượng các trang trại chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư tăng qua các năm, từ 48 trang trại năm 2005 lên 82 trang trại năm 2007. Tuy nhiên, kết quả này còn rất khiêm tốn, không đạt được kế hoạch đặt ra và chưa phát huy được tiềm năng của huyện. Huyện chưa quy hoạch và xây dựng được khu CNGC tập trung ngoài khu dân cư. 3. Về các yếu tố ảnh hưởng tới lựa chọn đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của huyện Đông Anh Bên cạnh ảnh hưởng của kỹ thuật chăn nuôi, cơ sở vật chất trang bị cho chăn nuôi tới quy mô chăn nuôi của hộ và mức vốn đầu tư của hộ khi chuyển chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư. Thì một số vấn đề nổi cộm khác ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư của Đông Anh, cụ thể: Thứ nhất: Về nguồn nhân lực của hộ - Nguồn lao động trong các hộ là tương đối dồi dào, bình quân 3,68 lao động/hộ CNGC trong khu dân cư và 4,83 lao động/hộ CNGC ngoài khu dân cư. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi trong khai thác và sử dụng nguồn nhân lực sẵn có trong phát triển chăn nuôi gia cầm của hộ. - Tuổi bình quân của chủ hộ CNGC trong khu dân cư khá cao, 46,65 tuổi, trong khi tuổi bình quân của chủ hộ CNGC ngoài khu dân cư là 38,53 tuổi. Đây là một khó khăn cho các hộ CNGC trong khu dân cư trong việc tiếp nhận khoa học kỹ thuật, trong quản lý và định hướng sản xuất kinh doanh của hộ khi đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư với quy mô lớn hơn. Do tư duy kinh tế yếu dần và mức độ năng động của hộ sẽ kém, tính bảo thủ cao. - Chủ hộ CNGC trong khu dân cư có trình độ thấp chiếm tỷ lệ cao, cũng là một cản trở trong quá trình phát triển chăn nuôi gia cầm của hộ. Thứ hai: Về nguồn lực đất đai của hộ Trong khi diện tích đất tối đa mà hộ có thể chuyển đổi sang chăn nuôi gia cầm bình quân là 2113,57m2/hộ, thì huyện quy định một hộ chăn nuôi ngoài khu dân cư phải có diện tích tối thiểu 3600 m2. Thứ ba: Về nguồn vốn của hộ Nhu cầu về vốn và vốn bình quân một hộ CNGC ngoài khu dân cư cao hơn nhiều hộ CNGC trong khu dân cư. Vốn hiện có bình quân một hộ của nhóm hộ CNGC trong khu dân cư là 251,18 triệu đồng, trong khi đó vốn hiện có bình quân một hộ CNGC ngoài khu dân cư là 713,67 triệu đồng. Vì vậy, để chuyển CNGC tách khỏi khu dân cư hộ cần lượng vốn gần gấp 3 vốn hiện có của hộ. Đây là cũng là một khó khăn lớn của hộ trong viêc đưa CNGC tách khỏi khu dân cư. Thứ tư: Về thị trường tiêu thụ Thị trường tiêu thụ các sản phẩm gia cầm của các hộ chăn nuôi không ổn định, chưa có một thị trường tiêu thụ lớn và 100% hộ chưa có hợp đồng tiêu thụ. Điều này gây tâm lý lo ngại, không mạnh dạn đầu tư để đưa CNGC tách khỏi khu dân cư. 4. Về các giải pháp đưa chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư huyện Đông Anh Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng tới việc đưa CNGC tách khỏi khu dân cư của huyện Đông Anh, đề tài xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề vướng mắc và thúc đẩy quá trình đưa CNGC tách khỏi khu dân cư của huyện Đông Anh, như: Giải pháp về quy hoạch; đề xuất quy mô chăn nuôi cho một trang trại CNGC tách khỏi khu dân cư tối thiểu là 1000con/lứa/hộ; đề xuất diện tích tối thiểu cho một trang trại CNGC trong khu tập trung là 400m2/hộ, các trại CNGC phân tán diện tích tối thiểu là 600m2/hộ; giải pháp về vốn, nguồn nhân lực; giải pháp tổ chức thực hiện, quản lý; giải pháp xử lý môi trường;… Chúng tôi tin rằng với việc thực hiện đồng bộ và triệt để các giải pháp trên sẽ nhanh chóng đưa CNGC của huyện tách khỏi khu dân cư, đến năm 2020 số gia cầm CNGC trong khu dân cư của huyện chỉ còn khoảng 11,45% tổng số gia cầm của huyện, có khoản 1200 hộ CNGC ngoài khu dân cư với số lượng gia cầm chiếm 88,55% tổng đàn. 5.2 Kiến nghị Đối với Nhà Nước và thành phố Hà Nội: Nhà nước và thành phố Hà Nội cần căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương để có những chính sách tăng cường nguồn vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tằng cho các khu CNGC tách khỏi khu dân cư. Có quy hoạch phát triển lâu dài để phát triển các khu CNGC tách khỏi khu dân cư ổn định. Tạo tâm lý yên tâm cho người chăn nuôi và định hướng tốt cho địa phương phát triển CNGC tách khỏi khu dân cư. Đối với huyện: Nghiên cứu và phê duyệt ngay các quy hoạch phát triển các vùng CNGC, lập kế hoạch chi tiết, giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện. Cùng các địa phương lên kế hoạch cụ thể cho từng thôn xã để đưa CNGC tách khỏi khu dân cư. Thành lập các hợp tác xã CNGC ở các địa phương, các tổ dồn điền đổi thửa và có biện pháp quản lý, hỗ trợ phù hợp. Hỗ trợ người chăn nuôi trong việc tìm và vay vốn phục vụ CNGC, hỗ trợ các giải pháp kỹ thuật, quản lý trang trại CNGC của hộ. Hỗ trợ người chăn nuôi trong tìm kiếm thị trường mới và ký kết hợp đồng với các nhà máy chế biến, các siêu thị,...trong và ngoài nước. Đối với hộ CNGC: Thực hiện nghiêm túc dự án đưa CNGC của hộ tách khỏi khu dân cư, tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp kỹ thuật trong CNGC và xử lý môi trường chăn nuôi. Kiểm tra và lựa chọn kỹ đầu vào như con giống, thức ăn, thuốc thú y,...Quản lý chặt chẽ và linh hoạt nguồn vốn được vay, được cấp, đầu vào và đầu ra nhăm đạt hiệu quả cao trong CNGC của hộ. Tự giác và giúp đỡ nhau dồn điền đổi thửa, xóa bỏ tư tưởng tiểu nông, manh mún, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm CNGC để cùng nhau phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Cục chăn nuôi (2005), Chăn nuôi gia cầm của một số nước trên thế giới, 2 Cục Chăn Nuôi (2007), Sự phát triển của ngành chăn nuôi gia cầm thế giới, 3 Chi cục Thú Y Hà Nội (2005), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm đưa chăn nuôi gia cầm ra khỏi khu dân cư theo hình thức kinh tế trang trại, Hà Nội. 4 Đỗ Thị Ngà Thanh, Ngô Thị Thuận (1997), Giáo trình thống kê nông nghiệp, NXB Nông Nghiệp. 5 Hiệp hội chăn nuôi gia cầm Việt Nam (2007), Sổ tay Chăn nuôi gia cầm bền vững, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 6 Hà Yên (2005), Thiệt hại do cúm gia cầm 2005: Giảm kỷ lục, 7 Nguyễn Hữu Trí (2003), Bài giảng hệ thống nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp Hà Nội. 8 Tô Dũng Tiến (2003), Bài giảng phương pháp nghiên cứu kinh tế, Đại học Nông nghiệp Hà Nội. 9 TS. Trần Xuân Công – Chủ tịch Hiệp hội CNGC Việt Nam (2007), Sản xuất và thị trường gia cầm ở Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO, Bào cáo tại hội nghị chăn nuôi gia cầm quốc tế tổ chức tại Viện Chăn nuôi 14/03/2007. 10 Phòng Kinh tế huyện Đông Anh (2007), Báo cáo tổng kết năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008, Đông Anh. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNGUYEN VAN CUONG (NOP).doc
Tài liệu liên quan