Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Con người là một thực thể tự nhiên và xã hội hoàn thiện và phức tạp nhất. Trong khi tìm đường lên các vì sao, loài người đồng thời quay trở lại tìm hiểu chính mình. Và công việc này cũng không kém phần khó khăn so với các nghiên cứu khoa học về vũ trụ, kỹ thuật và tự nhiên. Tiến bộ khoa học gần đây nhất - việc giải mã và công bố bản đồ gen đã mở ra cánh cửa cho việc đem lại những hiểu biết mới về con người, đặc biệt là đóng góp cho việc chữa trị những căn bện
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1935 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu về nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nan y. Tuy nhiên, với tư cách vừa là nhà nghiên cứu vừa là đối tượng nghiên cứu, con người đôi khi không thể tìm ra câu trả lời cho những câu đố về bản thân mình.
Hiện tượng đồng tính luyến ái cũng là một trong những vấn đề mà loài người hiện nay còn đang trên đường tìm hiểu về bản chất cũng như nguyên nhân và giải pháp cho nó. Xét về mặt y học, các nhà khoa học cho rằng đây có thể được coi là như một loại bệnh tâm thần. Họ xếp đồng tính luyến ái vào nhóm bệnh về lệch lạc đối tượng. Nhưng nguyên nhân dẫn đến nó không đơn thuần chỉ nằm ở khía cạnh bệnh lý mà còn ở cả khía cạnh tâm lý. Có thể đó là do cách giáo dục của gia đình không phù hợp dẫn đến sự phát triển lệch lạc từ khi còn nhỏ hoặc bị người đồng giới lợi dụng. Và theo quan điểm của nhiều người, đồng tính luyến ái là một hiện tượng lệch chuẩn. Đây là một lối sống không có lợi cho xã hội cả về mặt đạo đức cũng như phát triển. Bởi những gia đình của người đồng tính luyến ái (nếu có) sẽ không thể thực hiện được một chức năng quan trọng - duy trì nòi giống để đảm bảo sự phát triển của xã hội.
Trong những năm gần đây trên thế giới và ở Việt Nam, hiện tượng đồng tính luyến ái phát triển mạnh mẽ. Đây đó đã xuất hiện những phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi quyền được kết hôn cho những người đồng tính luyến ái. Còn ở Việt Nam, từ sau thời điểm mở cửa giao lưu kinh tế, những luồng văn hoá tư tưởng nước ngoài đã xâm nhập và gây ra những ảnh hưởng không phải lúc nào cũng tốt cho lối sống và quan niệm của người dân.
Tầng lớp chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nó chính là thanh niên. Đây là thế hệ sinh ra sau chiến tranh, lớn lên trong nền kinh tế thị trường nên quan niệm và lối sống có phần nào khác với thế hệ cha ông. Thêm nữa, tuổi trẻ thường chưa đủ năng lực nhận thức, đánh giá nên dễ bị hấp dẫn bởi những điều mới lạ chưa rõ tích cực hay tiêu cực.
Hiện tượng đồng tính luyến ái ở Việt Nam được quan niệm như một lối sống, một ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường khác với những giá trị truyền thống, nền tảng văn hoá của dân tộc. Trong thời gian gần đây, đã có rất nhiều bài báo viết về hiện tượng đồng tính luyến ái, chỉ ra những trường hợp coi đồng tính luyến ái như một cái mode để đua theo, hoặc do đối tượng bị cuốn hút bởi những miếng mồi vật chất của kẻ xấu. Đồng thời đồng tính luyến ái còn phát triển trở thành một tệ nạn xã hội - đặc biệt là đồng tính luyến ái nam. Chính vì thế dư luận xã hội thường không đồng tình và coi đây không chỉ là một loại bệnh lý thông thường mà còn phát triển thành một lối sống lệch lạc, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Thêm nữa, người đồng tính luyến ái còn là nhóm nguy cơ cao về bệnh HIV do họ thường xuyên thay đổi bạn tình, ảnh hưởng tới sức khoẻ của cả cộng đồng.
Nhóm sinh viên là nhóm xã hội có trình độ tri thức cao, đồng thời đây cũng là lớp người kế cận của đất nước. Do vậy đòi hỏi họ phải luôn có những hiểu biết và cách nhìn đúng đắn với các hiện tượng xã hội xảy ra xung quanh mình. Thêm nữa họ cũng là một bộ phận của thanh niên, những người rất dễ bị ảnh hưởng, bị cuốn theo những điều mới lạ. Hiện tượng đồng tính luyến ái có thể xảy ra ở bất kỳ giới nào, nghề nghiệp nào. Vì thế sinh viên cần có những hiểu biết nhất định về nó để ngăn chặn cũng như tránh khỏi sự lôi kéo của những đối tượng xấu. Xuất phát từ nhận định như vậy, tôi đã chọn đề tài "Một vài nét nghiên cứu về nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái" nhằm tìm hiểu phần nào hiểu biết cũng như thái độ của họ về hiện tượng này.
Trong phạm vi luận văn, tôi không có điều kiện nghiên cứu toàn bộ sinh viên trên địa bàn Hà Nội mà chỉ tập trung khảo sát nhóm sinh viên của hai trường đại học Khoa học xã hội - nhân văn và đại học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Xã hội học là bộ môn khoa học luôn đi sát với những biến đổi của thực tiễn. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào mới nảy sinh đều cần đến sự đánh giá tìm hiểu của xã hội học để từ đó đưa ra những hiểu biết cũng như xu hướng giải quyết. Đồng tính luyến ái là một hiện tượng không nằm ngoài quy luật đó.
Vốn là một hiện tượng tưởng chừng như cá biệt nảy sinh từ lối sống hay quan hệ của con người nhưng đồng tính luyến ái nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của xã hội bởi những ảnh hưởng của nó đối với nền tảng đạo đức, lối sống cũng như sự phát triển của cả cộng đồng. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này rất phức tạp. Có trường hợp là bẩm sinh như một loại bệnh lý nhưng nhiều khi đó là xuất phát từ ảnh hưởng của môi trường sống hoặc do lối sống, nhận thức của cá nhân. Trong khi các nhà khoa học còn đang tranh cãi về nguyên nhân của hiện tượng này thì nó đã kịp gây ra những ảnh hưởng tới đời sống của toàn xã hội. Nhóm đồng tính luyến ái được coi là nhóm nguy cơ cao về lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên thế giới. Thêm nữa, lối sống bất bình thường của người đồng tính luyến ái tạo nên những tác động tới nền văn hoá, đạo đức và luật pháp của mỗi quốc gia.
ở nước ta, tuy rằng đồng tính luyến ái vẫn chỉ tồn tại ở cá biệt một số nhóm đối tượng nhưng trong thời gian gần đây, nó có xu hướng phát triển mạnh hơn. Nhiều người, đặc biệt là tầng lớp thanh niên coi đây như một thứ mode, một cách ăn chơi sành điệu. Thêm nữa, tệ nạn mại dâm nam đã từng không ít lần gây đau đầu cho các nhà quản lý. ở Hà Nội, trong thời gian vừa qua không ít lần báo chí đã phải đề cập đến những tụ điểm tụ tập của giới đồng tính ngay tại những nơi vui chơi giải trí công cộng. Không chỉ là một hiện tượng lạ, một loại bệnh lý, đồng tính luyến ái ở Việt Nam được coi như sự đi xuống về đạo đức, trái với những giá trị văn hoá nước nhà. Việc giải quyết nó là một việc rất khó khăn bởi những người đồng tính luyến ái vẫn được coi như những thành viên trong xã hội, sự phát triển của họ gắn liền với sự phát triển của xã hội. Do vậy việc trước tiên của quá trình giải quyết hiện tượng này là tìm hiểu sự nhận thức và hiểu biết cũng như thái độ của người dân. ở đây, đề tài nghiên cứu tập trung vào nhóm sinh viên. Bởi đây là nhóm tiêu biểu cho thanh niên, đối tượng dễ bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng xã hội mới lạ trong đó có đồng tính luyến ái. Sinh viên là những người làm chủ đất nước tương lai nên càng cần có sự hiểu biết để giải quyết, phòng ngừa và ngăn chặn hiện tượng này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Tìm hiểu nhận thức của nhóm sinh viên về bản chất cũng như những biểu hiện, nguyên nhân và đối tượng của hiện tượng đồng tính luyến ái. Từ đó làm rõ thái độ cũng như hành vi tương ứng của sinh viên.
3.2 Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thái độ và hành vi của sinh viên
3.3 Tìm hiểu mức độ phổ biến của hiện tượng này qua sự đánh giá cuả sinh viên.
4. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái
4.2 Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên trường đại học KHXH-NV và trường đại học Tự Nhiên thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội.
4.3 Phạm vi và địa bàn nghiên cứu:
- Địa bàn nghiên cứu
Trường ĐH KHXH- NV và trường ĐH Tự nhiên
- Phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trường ĐH khxh-nv và trường đại học Tự Nhiên về hiện tượng đồng tính luyến ái cũng như thái độ, hành vi tương ứng. Đánh giá sự ảnh hưởng của yếu tố giới, nơi cư trú hiện nay, thành phần gia đình và nơi sống trước khi vào đại học với các yếu tố trên. Đề tài chỉ tập trung vào sự hiểu biết và đánh giá của sinh viên về hiện tượng này và khía cạnh xã hội mà không đi sâu vào khía cạnh khoa học.
4.4 Mẫu nghiên cứu:
Mẫu nghiên cứu được lựa chọn gồm 200 sinh viên thuộc hai trường Khoa học xã hội- nhân văn và Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia. Cơ cấu mẫu như sau:
- 50% sinh viên nam và 50% sinh viên nữ.
- 50% sinh viên nông thôn và 50% sinh viên đô thị.
- Tỷ lệ sinh viên có nơi cư trú là ký túc xá, nhà trọ và gia đình tồn tại ngẫu nhiên.
- Tỷ lệ sinh viên thuộc loại hình gia đình công nhân viên chức, buôn bán, nghề nông và nhóm nghề khác tồn tại ngẫu nhiên.
Cơ cấu mẫu điều tra
Tiêu chí
Đặc điểm
Số lượng
%
Giới tính
Nam
100
50%
Nữ
100
50%
Nơi cư trú
Ký túc xá
54
27%
Gia đình
72
36%
Nhà trọ
74
37%
Nơi sống trước khi vào đại học
Đô thị
100
50%
Nông thôn
100
50%
Thành phần gia đình
Công nhân - viên chức
117
58.5%
Buôn bán
20
10%
Nghề nông
41
20.5%
Nghề khác
22
11%
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận:
Trong luận văn, người viết sử dụng hệ phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm xem xét vấn đề nghiên cứu dưới góc độ khoa học.
5.2 Phương pháp cụ thể:
5.2.1 Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi:
Chúng tôi đã phát 200 bảng hỏi chia đều cho hai nhóm sinh viên thuộc ĐH Khoa học xã hội - nhân văn và ĐH Tự nhiên. Bảng hỏi được xây dựng gồm 14 câu hỏi đóng và 1 câu hỏi mở nhằm tìm hiểu về :
- Đặc điểm cá nhân của sinh viên như giới tính, nơi cư trú hiện nay, nơi sống trước khi vào đại học và nghề nghiệp của bố mẹ.
- Nhận thức của họ về hiện tượng đồng tính luyến ái.
- Mức độ phổ biến về hiện tượng này qua sự đánh giá của sinh viên.
- Thái độ của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái và người đồng tính luyến ái.
5.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi nêu trên có thể đem lại những thông tin định lượng có tính khái quát. Để tìm hiểu thêm những thông tin định tính chi tiết và sâu sắc hơn, tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu 10 sinh viên của hai trường nhằm hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề và phát hiện những khía cạnh mới mẻ và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu.
5.2.3 Phương pháp phân tích tài liệu:
Luận văn có sử dụng một số tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm thu được những thông tin có tính khách quan và khoa học.
6. Giả thuyết nghiên cứu:
6.1 Đồng tính luyến ái là một hiện tượng rất phức tạp của xã hội hiện nay và đã được đa số sinh viên biết đến.
6.2 Sinh viên có những hiểu biết tương đối về nguyên nhân, bản chất, biểu hiện cũng như đối tượng của hiện tượng này. Từ nhận thức, họ có thái độ và quan điểm đánh giá tương ứng.
6.3 Nhận thức cũng như thái độ, hành vi của nhóm sinh viên đối với hiện tượng này chịu sự chi phối của yếu tố kinh tế-văn hoá- xã hội, giới, nơi cư trú hiện nay, thành phần gia đình, nơi sống trước khi vào đại học.
7. Khung lý thuyết:
Điều kiện kinh tế-văn hoá-xã hội
Đặc điểm cá nhân của sinh viên
Nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái:
- Nguyên nhân
- Biểu hiện
- Đối tượng
- Bản chất
Thái độ
Hành vi
Nội dung chính
Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Cơ sở lý luận
1. Tổng quan về hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giới và ở Việt Nam
và xu hướng giải quyết
Hiện tượng đồng tính luyến ái đã xuất hiện từ lâu trên thế giới cùng với sự phát triển của con người. Như ở ấn Độ, vào độ tuổi vị thành niên, những chàng trai phải trở thành một giới thứ ba tức là yêu và sống chung với một người cùng giới như một dạng hôn nhân thử nghiệm. Sau giai đoạn đó họ lại yêu và lấy một người phụ nữ như bình thường. Hoặc ở Châu Phi, có trường hợp một người nam hay một người nữ có thể yêu một người cùng giới với mình trong một thời gian. Điều này là do yếu tố văn hóa của bộ tộc chi phối. Tuy nhiên hiện tượng chỉ dừng lại ở mức tồn tại trong một thời điểm hay một nền văn hoá riêng biệt chứ không mang tính công khai hay chính thức. Đồng tính luyến ái dù ở bất kỳ châu lục nào hay nền văn hóa nào cũng đều bị coi là một hiện tượng bất bình thường.
ở châu Âu và Hoa Kỳ, những năm cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX là thời kỳ của những phong trào" giải phóng" của người đồng tính luyến ái, đấu tranh đòi quyền bình đẳng trong xã hội cũng như vượt qua những sự chỉ trích của cộng đồng. Đây cũng là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất của phong trào nữ quyền. Và dường như cũng đã có một sự thay đổi trong mức độ cởi mở khi bàn luận về đồng tính luyến ái cũng như sự đồng cảm đã tăng lên với những người thuộc giới thứ ba này. Tuy nhiên, liệu đồng tính luyến ái có thể đi vào cuộc sống như một hiện tượng bình thường được không và cộng đồng có chấp nhận sự bình đẳng của họ không khi gia đình vẫn thực sự là nền tảng của xã hội. Trên thực tế, người đồng tính luyến ái vấp phải rất nhiều khó khăn khi công khai giới tính của mình như bị khinh rẻ, bị đối xử bất bình đẳng và thậm chí bị đánh đập hay bị giết hại.
Phong trào đòi quyền bình đẳng của người đồng tính luyến ái
(Nguồn: Sociology of marriage and the family. Scott Coltrane/ Randall Collins)
Theo một số nghiên cứu thì người đồng tính luyến ái chiếm khoảng từ 1 đến 12 % dân số thế giới. ở Hoa Kỳ con số này là trên 1% dân số. ở Trung Quốc có khoảng từ 36 đến 48 triệu người đồng tính luyến ái. Còn ở Việt Nam chưa có con số thống kê chính xác nhưng theo các nhà khoa học thì tỷ lệ người đồng tính luyến ái chiếm khoảng 1 % dân số. Xét theo số lượng thì con số trên không lớn nhưng những vấn đề xung quanh nhóm đối tượng này đã làm đau đầu những nhà quản lý văn hóa và xã hội. Bởi đồng tính luyến ái không chỉ là một căn bệnh mà nhiều khi là một lối sống thiếu lành mạnh gây hại cho văn hoá và là một nguy cơ chủ yếu dẫn tới sự gia tăng của bệnh HIV/ AIDS. ở Việt Nam, tệ nạn mại dâm đồng giới và đặc biệt là mại dâm nam đã manh nha phát triển. Một số báo chí trong thời gian gần đây đã thường xuyên đề cập đến hiện tượng này như báo An ninh thế giới( số 281- ngày 30/5/2002) đưa tin về một địa điểm tụ tập của giới đồng tính ngay giữa thành phố Hồ Chí Minh - rạp chiếu phim Đồng Khởi- quận 1. Loại tệ nạn xã hội này không những gây hại cho sự phát triển lành mạnh về mặt thể chất của xã hội mà sự tồn tại của nó còn ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, lối sống của cộng đồng. Đặc biệt là một số sinh viên nam đã chấp nhận việc này để kiếm tiền như trên báo chí đã đăng tải. Chính vì vậy các quốc gia trên thế giới và cả Việt Nam đã và đang tìm hiểu và giải quyết vấn đề này. ở Hà Lan và một bang ở Hoa Kỳ đã có đạo luật cho phép người đồng tính luyến ái kết hôn. Hay Trung Quốc năm 1996 đã đồng ý với Tổ chức y tế thế giới không coi đây là một chứng bệnh, gạch tên nó trong danh sách các chứng rối loạn tâm thần.
Việt Nam cũng đã có một số biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này như kiên quyết xử lý tệ nạn mại dâm nam hay đưa lên phương tiện thông tin đại chúng coi đồng tính luyến ái như một lối sống lệch lạc. Nhìn chung dư luận xã hội đều không đồng tình và muốn ngăn chặn hiện tượng này. Tuy nhiên nếu đây là một lối sống lệch lạc, bệnh hoạn gây hại cho đạo đức cũng như sự phát triển của xã hội thì cách nhìn nhận và xử lý trên là hợp lý. Nhưng những trường hợp người đồng tính luyến ái là bẩm sinh và hoàn toàn muốn có một cuộc sống bình thường thì cũng đòi hỏi một sự cảm thông và giúp đỡ chân thành của cộng đồng.
2. Hệ khái niệm công cụ
2.1 Khái niệm sinh viên:
Sinh viên theo từ gốc"student" trong tiếng Latinh là những người làm việc, học tập, tìm hiểu và khai thác tri thức.
Theo nghĩa thông thường, sinh viên là người học tập ở bậc trung cấp, cao đẳng và đại học.
2.2 Khái niệm giới tính:
Là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng sinh học của nam và nữ. Những đặc trưng sinh học dường như là bất biến và đó là cơ sở cho những chuẩn mực về vai trò giới sau này. Sự chuyển đổi giới tính có thể do sinh học, văn hoá, kinh tế..
* Các đặc điểm của giới tính
- Là đặc trưng sinh học quy định hoàn toàn bởi gien qua cơ chế di truyền.
- Bẩm sinh.
- Đồng nhất vì đây là sản phẩm của sự tiến hoá sinh học nên không phụ thuộc vào không gian và thời gian.
2.3 Khái niệm giới:
Giới là khái niệm dùng để chỉ những mối quan hệ xã hội của nam và nữ. Khái niệm giới liên quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông đợi được tạo nên với hai giới tính. Giới là một sản phẩm của xã hội và liên quan đến quá trình xã hội hoá.
* Các đặc điểm của giới:
- Một phần vẫn bị quy định bởi yếu tố sinh học của giới tính.
- Không mang tính di truyền, bẩm sinh mà được hình thành qua quá trình học tập, xã hội hoá cá nhân.
- Đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức do sự đa dạng của xã hội, nền văn hoá.
- Có thể biến đổi.
2.4 Khái niệm bản sắc giới
Bản sắc giới liên quan tới sự nhận thức của cá nhân về nam giới hay nữ giới. Nói cách khác, bản sắc giới là sự cảm nhận của cá nhân về giới của mình trong nền văn hoá. Bản sắc giới thường phù hợp với giới tính của cá nhân nhưng không phải trường hợp nào bản sắc giới cũng đồng nhất với giới tính của cá nhân đó.
2.5 Khái niệm vai trò giới
- Vai trò xã hội là những mong đợi của xã hội đối với một cá nhân nào đó phù hợp với địa vị của anh ta. Quyền lợi và nghĩa vụ là hai thành tố quan trọng nhất của vai trò xã hội.
- Vai trò giới: là những mong đợi của xã hội với một chàng trai hay một cô gái về những mô hình, hành vi ứng xử phù hợp với phụ nữ hay nam giới.
Những vai trò của giới bao gồm:
- Vai trò sản xuất: là những hoạt động do đàn ông hay phụ nữ thực hiện( theo quan niệm truyền thống chủ yếu là nam giới) nhằm tạo ra của cải vật chất xã hội, hàng hoá dịch vụ để sử dụng trao đổi.
- Vai trò tái sản xuất: là những hoạt động cần thiết đảm bảo tái sản xuất ra con người - lực lượng sản xuất. Những vai trò tái sản xuất bao gômg: sinh con, nuôi con, chăm sóc các thành viên trong gia đình đặc biệt là người già và trẻ em. Theo quan niệm truyền thống, vai trò này chủ yếu do phụ nữ đảm nhận.
- Vai trò cộng đồng: là hoạt động diễn ra ở cộng đồng như làng xã, thôn bản nhằm duy trì ổn định quan hệ xã hội trong cộng đồng đó. Theo quan niệm truyền thống, vai trò này phụ nữ ít tham gia.
2.6 Khái niệm đồng tính luyến ái
* Phân biệt một số thuật ngữ
- Heterosexual - Dị tính ái( gốc từ Hy Lạp - heteros): dùng để chỉ những người có quan hệ tình dục với người khác giới.
- Bisexual - dùng để chỉ những người có quan hệ tình dục với cả hai giới
( gốc từ bi - hai).
- Transgenderist- dùng để chỉ những người có hành vi khác với giới của mình. Như nam giới nhưng lại có cách phục trang, ứng xử, phong cách như nữ giới và ngược lại.
- Transsexual - xuyên giới tính: dùng để chỉ những người sống hoàn toàn khác với giới "trời cho" của mình.
- Lưỡng giới - dùng để chỉ những người bẩm sinh có cả hai cơ quan sinh dục nam và nữ và mang trong mình những yếu tố gen, hoócmôn của cả hai giới. Đến một thời điểm nào đó do sự phát triển của cơ thể và đôi khi là do sức ép từ môi trường bên ngoài (gia đình, xã hội) bắt buộc họ phải có sự lựa chọn một giới tính và giới.
Từ điển Bách Khoa Việt Nam tập 1 đã đưa ra định nghĩa về đồng tính luyến ái như sau:" Là quan hệ luyến ái, tình dục giữa những người cùng giới tính, đều có bộ phận sinh dục phát triển bình thường. Trên thực tế thường gặp đồng tính luyến ái giữa nam với nam, ít gặp ở nữ hơn. Đồng tính luyến ái tồn tại từ lâu ở các nước phương Tây, có nơi chấp nhận như hợp pháp. Gần đây, được dư luận xã hội chú ý vì là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây lan tràn AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)".
Homosexual (gốc từ Hy Lạp homos - cùng) là thuật ngữ dùng để chỉ những người đồng tính luyến ái - những người chỉ quan hệ tình dục với những người cùng giới với mình. Hiện tượng đồng tính luyến ái hay còn gọi là tình dục đồng giới là sự hấp dẫn tình cảm và tình dục giữa những người cùng giới - nam với nam, nữ với nữ.
Những người đồng tính luyến ái nam trong tiếng Anh được gọi là gay. Còn những người đồng tính luyến ái nữ là lesbian.
* Khía cạnh bệnh lý, sinh học:
Về khía cạnh bệnh lý, có rất nhiều giả thuyết đưa ra nhưng những nhà khoa học dường như đều nhất trí rằng đồng tính luyến ái là bẩm sinh chứ không phải mắc phải. Người đồng tính luyến ái chẳng có gì khác so với người bình thường ngoại trừ những lệch lạc về định hướng tình dục.
Các nhà bệnh lý học tâm thần xếp người đồng tính luyến ái vào nhóm lệch lạc đối tượng trong các bệnh lệch lạc tình dục. Họ được coi là "thiểu số tình dục".
Là một loại bệnh tâm thần, đồng tính luyến ái cần hội tụ 3 điều kiện:
- Có tính chất cưỡng chế, dù có ý thức hay không, họ cũng không thể cưỡng lại được.
- Chủ yếu ở nam giới(nhưng hiện nay cũng đã có xuất hiện nhiều ở giới nữ).
- Xuất hiện sau tuổi trưởng thành.
* Khía cạnh tâm lý:
Ngoại trừ nhóm người đồng tính luyến ái do yếu tố bẩm sinh thì một số lượng không nhỏ trong nhóm đối tượng này có biểu hiện đồng tính luyến ái do những nguyên nhân về tâm lý.
- Thứ nhất, đó là do cách giáo dục của gia đình không phù hợp, lệch lạc. Một gia đình quá hà khắc và gia trưởng hay cách sống không lành mạnh có thể dẫn đến những tổn thương về tâm lý trong đứa trẻ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành nhân cách và giới của đứa trẻ khi trưởng thành. Và đặc biệt là nội dung, cách thức giáo dục giới tính trong gia đình còn chưa được quan tâm đến một cách đúng đắn.
- Thứ hai, đó là sự lạm dụng tình dục với trẻ em, đặc biệt là của người cùng giới với chúng. Điều này tạo nên một trạng thái ám ảnh suốt thời thơ ấu. Và khi trưởng thành, nó có thể trở thành một nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đồng tính luyến ái.
* Khía cạnh cá nhân và xã hội:
Theo các nhà nghiên cứu hầu hết các hiện tượng đồng tính luyến ái mà người ta ngộ nhận thường do yếu tố môi trường, bản thân chứ ít khi là do bẩm sinh.
- Thứ nhất : do sự tò mò của bản thân. Hiện tượng này phổ biến ở lứa tuổi thanh niên, khi hiểu biết còn chưa đầy đủ nhưng lại dễ bị cuốn hút bởi những điều mới lạ.
- Thứ hai: do sự lôi kéo hoặc đua đòi. Dư luận xã hội về vấn đề này càng được mở rộng càng làm nảy sinh một số lượng người đồng tính luyến ái "dởm", a dua theo bạn bè. Họ coi đây là một thứ "mode" chứ không phải do bản chất. Và cũng không ít những trường hợp những người bình thường tự biến mình thành người đồng tính luyến ái vì lợi ích kinh tế hay những lợi ích khác.
- Thứ ba: do ảnh hưởng của luồng văn hoá nước ngoài. Nước ta từ khi mở cửa, giao lưu kinh tế đồng thời cũng bắt buộc phải " giao lưu" với những luồng văn hóa nước ngoài mà không ít trong số đó kém lành mạnh, đi ngược lại với những quan niệm, thuần phong mỹ tục vốn có. Sự ảnh hưởng của văn hoá có thể nhìn nhận rõ ràng qua cách sống, cách tiêu dùng văn hoá của người dân đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Văn hóa nước ngoài với cái nhìn khá "thoáng" về các vấn đề giới tính hay tình dục dễ dàng ảnh hưởng đến nhóm đối tượng còn chưa có nhiều hiểu biết và năng lực đánh giá này.
* Khía cạnh xã hội học:
Với cách tiếp cận xã hội học thì đồng tính luyến ái có thể được coi là một hiện tượng lệch chuẩn. Bởi lối sống của người đồng tính luyến ái đi ngược lại với những quan niệm đạo đức xã hội cũng như luật pháp của một số nước, nghĩa là trái với những chuẩn mực tồn tại trong xã hội. Durkhiem trong cuốn "Các quy tắc của phương pháp nghiên cứu xã hội học" đã đưa ra quan điểm: sai lệch là tiền đề của biến đổi xã hội. Hiện tượng đồng tính luyến ái đã tạo ra những thay đổi trong quan niệm của một số nước như chấp nhận họ như những người bình thường, một giới tính thứ ba. Hà Lan và một bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã cho phép người đồng tính luyến ái được kết hôn, nghĩa là đã có sự chấp nhận của luật pháp.
2.7 Khái niệm lệch chuẩn:
* Chuẩn mực là tổng số những mong đợi, những yêu cầu, những quy tắc của xã hội được ghi nhận bằng lời, bằng ký hiệu hay bằng các biểu trưng cho hướng cơ bản đối với các hành vi của thành viên trong xã hội. Những mong đợi, những yêu cầu, những quy tắc xã hội đó xác định rõ cho mọi người những việc nào nên làm và cần phải xử sự như thế nào cho đúng trong các tình huống xã hội khác nhau. Chuẩn mực thực hiện chức năng liên kết điều chỉnh, duy trì quá trình hoạt động của xã hội như là hệ thống của các mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cá nhân. Phạm vi của chuẩn mực là rất rộng.
Trong cuốn" Những quy tắc của phương pháp xã hội học",E .Durkhiem đưa ra quy tắc đòi hỏi nhà nghiên cứu xã hội học phải phân biệt được cái chuẩn mực, cái "bình thường" với các dị biệt, cái " không bình thường" vì mục tiêu sâu xa của khoa học xã hội học là tạo dựng và chỉ ra được những gì là mẫu mực, tốt lành cho cuộc sống của con người. Theo Durkhiem thì những cái bình thường, cái chuẩn mực là cái thường gặp, cái chung, cái trung bình, cái điển hình của xã hội. Những gì lệch chuẩn là dị biệt, không bình thường. Với cách nhìn như vậy đồng tính luyến ái chính là một hiện tượng lệch chuẩn bởi nó chỉ là một hiện tượng của một nhóm nhỏ trong xã hội, một lối sống khác thường.
3. Các hướng tiếp cận lý thuyết
3.1 Lý thuyết xã hội hoá vai trò giới
R. Stark đưa ra luận điểm " Xã hội hoá là quá trình cá nhân học đóng vai trò xã hội của mình". Do vậy xã hội hoá vai trò giới có thể hiểu là quá trình nam và nữ học hỏi cách đóng vai trò xã hội phù hợp với giới của mình: phụ nữ hay nam giới. Theo lý thuyết xã hội hoá vai trò giới, vai giới, tương quan giới là kết quả của quá trình xã hội hoá cá nhân. Các cấu trúc hành vi, tình cảm và thái độ đặc thù cho mỗi giới đã có sẵn trong xã hội trước khi đứa trẻ chào đời. Và từ khi lọt lòng cho đến lúc mất đi con người không ngừng tiếp thu và làm theo các cấu trúc giới đang tồn tại một cách khách quan tuỳ theo giới tính của mình. Các giai đoạn của quá trình xã hội hoá vai trò giới cũng giống quá trình xã hội hóa cá nhân: gia đình, nhà trường, trưởng thành. Những người theo lý thuyết nhấn mạnh đến giai đoạn gia đình vì bản sắc giới tính định hình từ giai đoạn này. Sức ép giáo dục rất mạnh đối với đứa trẻ trong việc nhận diện giới tính như lựa chọn đồ chơi, quần áo, cử chỉ hành vi phù hợp với một bé trai hay bé gái. Đây cũng là giai đoạn xã hội hoá cá nhân cơ bản theo quan điểm của T. Parson và Andrieva.
3.2. Lý thuyết tương tác biểu trưng của H.Mead và Blumer
Đây là một lý thuyết rất quan trọng trong hệ lý thuyết về tương tác xã hội. Theo hai tác giả này thì hành vi của con người là những phản ứng đáp lại hành vi của người khác. Thực chất con người tồn tại trong một thế giới mà đối tượng và ý nghĩa của nó chỉ xuất hiện trong tương tác giữa các cá nhân. Cá nhân tạo ra các nhóm xã hội nhờ vào sự liên kết giữa họ về các biểu trưng. Và sở dĩ con người giao tiếp được với nhau trong một tương tác xã hội nào đó là vì họ có cùng chung một hệ thống biểu trưng nào đó. Biểu trưng có thể tồn tại ở dạng ngôn ngữ viết, nói hoặc cả những ngôn ngữ không thành lời.
Khi một cá nhân đưa ra một thao tác, họ đã có sự cân nhắc về ý nghĩa của thao tác, được gắn vào mục tiêu dưới dạng hình tượng trong ý thức của chủ thể. Nếu trong tương tác, ý nghĩa của thao tác không được đối tác chấp nhận hoặc đánh giá không tương ứng về ý nghĩa mà chủ thể đã đặt ra thì lập tức nó sẽ được điều chỉnh phù hợp từ bên trong. Và quá trình đó sẽ lặp đi lặp lại cho đến khi chủ thể nhận thức cho rằng đã phù hợp với biểu trưng của một chủ thể hành động khác thì nó mới được lặp lại. Khi được lặp lại, nó được nâng cao lên một bước về ý thức và được đối tức tiếp nhận theo một cách nào đó. Và kết quả là chủ thể lại điều chỉnh nó lần thứ hai. Cứ như vậy, giữa các chủ thể sẽ hình thành nên một biểu trưng chung, có ý nghĩa chung tương đối bền vững. Rõ ràng tồn tại một sự chi phối giữa những biểu trưng chung của nhóm với các biểu trưng cá nhân. Cá nhân có thể có những cách đánh giá, cách ứng xử riêng nhưng dường như vẫn phải có sự đồng điệu giữa chúng với biểu trưng của nhóm. Bởi đó chính là cơ sở cho sự hoà nhập của cá nhân với nhóm, nhờ đó cá nhân được chấp nhận như một thành viên và nhóm mới phát triển.
Chương 2: Kết quả nghiên cứu, những giải pháp và kiến nghị
Kết quả nghiên cứu:
1.Tổng quan tình hình nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
Sự phát triển hay nói chính xác hơn là ngày càng có nhiều người đồng tính luyến ái công khai lối sống khác thường của mình đã thu hút sự chú ý của dư luận xã hội cũng như của các nhà nghiên cứu. Bởi việc tìm hiểu bản chất cũng như nguyên nhân của hiện tượng này giúp ích rất nhiều cho việc đưa ra những giải pháp hạn chế những ảnh hưởng của nó đồng thời giúp cộng đồng có được một cách nhìn cảm thông và chia sẻ hơn với nhóm xã hội bất thường này.
Trên thế giới, những nghiên cứu chính thức và tập trung về giới đồng tính luyến ái được tiến hành rộng rãi nhằm cung cấp những hiểu biết về mọi mặt cuộc sống của họ.
- Violence against lesbians and gaymen - David Comstock .
Đây là một nghiên cứu tập trung về những vấn đề mà người đồng tính luyến ái gặp phải trong cuộc sống. Tác giả đưa ra những số liệu về tệ nạn sử dụng bạo lực cũng như sự phân biệt đối xử đối với người đồng tính luyến ái tại Hợp chủng quốc Hoa kỳ qua nghiên cứu năm 1992.
- Sociology of marriage and the family (gender, love and property) - Scott Coltrane and Randall Collins - NXB Wadsworth/ Thomson Learning 2001.
Cuốn sách xã hội học về hôn nhân và gia đình này đã đề cập đến rất nhiều vấn đề về mọi mặt của đời sống hôn nhân cũng như các vấn đề về giới tính. Trong đó đồng tính luyến ái cũng được đề cập. Chủ yếu nghiên cứu làm sáng tỏ sự xuất hiện và phát triển của hiện tượng này trong đời sống cá nhân, cách nhìn nhận của cộng đồng về nó.
Dù sao với một cái nhìn thoáng hơn, mạnh dạn do đặc thù lối sống và quan niệm nên những nghiên cứu về đồng tính luyến ái ở phương Tây xuất hiện đa dạng và sâu sắc.
Còn ở Việt Nam , cho dù đồng tính luyến ái không còn xa lạ với xã hội nhưng việc nghiên cứu nó chính thức và sâu rộng còn rất ít. Đa số báo chí đề cập đến đồng tính luyến ái như một hiện tượng mới nổi lên, khác thường với quan niệm xã hội hay chỉ tập trung vào một số nhóm xã hội cụ thể mà chưa đi sâu cung cấp những kiến thức cơ bản về hiện tượng này. Điều này gây nhiều khó khăn cho việc nhận thức về bản chất cũng như nguyên nhân của hiện tượng.
- Giới tính học trong bối cảnh Việt Nam - BS. Trần Bồng Sơn - NXB Trẻ 2002
Đây là một cuốn sách đi sâu vào những kiến thức khoa học về giới tính. Vấn đề đồng tính luyến ái cũng là một trong những nội dung nghiên cứu của nó. Qua đó người đọc có thể thu được những hiểu biết về nguyên nhân, bản chất của đồng tính luyến ái cũng như cách giải quyết đối với hiện tượng này.
- Tạp chí AIDS và cộng đồng - Uỷ ban thường trực phòng chống AIDS quốc gia
( số 1-12-2000).
Trong tạp chí này, đồng tính luyến ái được nhắc đến như một nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng căn bệnh HIV/AIDS, đặc biệt là với nh._.óm đồng tính luyến ái nam.
Việc nghiên cứu hiện tượng đồng tính luyến ái dưới góc độ khoa học cũng như xã hội là rất cần thiết. Bởi nhờ đó, cộng đồng sẽ có những hiểu biết để tìm cách giải quyết cũng như xác định một thái độ thích hợp với những người thuộc nhóm xã hội này.
1.2 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn và Đại học Tự nhiên đều là thành viên thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội. Cả hai trường cùng nằm trên địa bàn phường Thượng Đình - Quận Thanh Xuân. Đây là hai trường thuộc trường Đại học Tổng hợp Hà Nội cũ nên vẫn được coi như những cơ sở đào tạo công lập có uy tín trong hệ thống đào tạo đại học của nước ta.
Nhóm ngành mà trường Đại học KHXHNV tập trung đào tạo là khoa học xã hội. Do vậy tỷ lệ sinh viên nữ trong trường cao hơn so với sinh viên nam. Có 10 khoa và một bộ môn với hàng nghìn sinh viên theo học mỗi năm.
Trường Đại học Tự Nhiên gồm 13 khoa với nhiều ngành học khác nhau. Cũng do đặc thù đào tạo là khoa học tự nhiên nên số sinh viên nam trong trường chiếm tỷ lệ cao hơn sinh viên nữ.
Sinh viên của hai trường có xuất thân từ nhiều địa phương trong nước nên nơi cư trú của họ chủ yếu là ký túc xá và nhà trọ tại những khu vực xung quanh trường như Thanh Xuân, Kim Giang, Nhân Chính, Phùng Khoang. Số sinh viên của cả hai trường cư trú tại ký túc xá Mễ Trì là khoảng 2100 người.
Hai trường đều có tổ chức Đoàn và Hội sinh viên phát triển do vậy sinh viên đều được cung cấp khá đầy đủ thông tin về những hiện tượng xã hội mới.
2. Mức độ biết đến của nhóm sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái và mức độ phổ biến qua điều tra tần suất gặp :
* Điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam và những ảnh hưởng tới cuộc sống cũng như nhận thức của sinh viên:
Nền kinh tế thị trường đã đem lại những biến đổi cho đời sống người dân nước ta về mọi mặt. Không những được đảm bảo về mặt vật chất, các thành viên xã hội còn có cơ hội phát triển về tri thức cũng như hưởng thụ những giá trị tinh thần. Tuy nhiên sự phát triển nào cũng mang trong mình yếu tố tích cực và tiêu cực. Đời sống sung túc hơn nhưng dường như những nền tảng đạo đức, văn hoá xã hội lại dần mai một. Tệ nạn xã hội ngày càng có xu hướng tăng về số lượng cũng như độ tinh vi. Ma tuý, mại dâm..đang làm đau đầu những nhà quản lý, lập pháp và hành pháp.
Sự phức tạp của thực tế khiến cho những thành viên của xã hội Việt Nam hiện đại đặc biệt là giới thanh niên - sinh viên có lối sống cũng như cách nhìn nhận, đánh giá khác với thế hệ cha anh. Sinh viên Việt Nam ngày càng năng động hơn. Không chỉ học trên giảng đường, họ dấn mình vào cuộc sống để thu thập tri thức thực tế. Những quan niệm cũng như nhận thức của sinh viên với các hiện tượng xã hội bị chi phối bởi cách nhìn hiện đại, bởi văn hoá nước ngoài. Sự phát triển của hiện tượng đồng tính luyến ái cũng là một hệ quả của biến đổi kinh tế - văn hoá - xã hội. Là nhóm xã hội có trình độ tri thức cao đồng thời trưởng thành trong điều kiện phát triển về kinh tế cũng như phong phú về văn hoá, sinh viên chắc chắn sẽ có hiểu biết cũng như nhìn nhận và đánh giá về đồng tính luyến ái theo cách riêng của mình.
2.1 Mức độ biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên
Đồng tính luyến ái đã xuất hiện từ rất lâu ở Việt Nam nhưng trước đây do điều kiện đất nước trong chiến tranh và dư luận xã hội vẫn rất khe khắt với những hiện tượng bất bình thường nên nó không có cơ hội phát triển. Từ sau khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì hiện tượng này mới phát triển và được biết đến một cách rộng rãi. Bởi tuy đây chỉ là biểu hiện của một nhóm đối tượng nhỏ nhưng ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hoá xã hội rất rõ ràng. Xét dưới góc độ đạo đức, đồng tính luyến ái bị coi như một lối sống lệch lạc, trái với các quan niệm truyền thống. Đồng tính luyến ái có lúc trở thành một dạng tệ nạn xã hội mới đặc biệt là mại dâm nam. Nhóm đối tượng này có nguy cơ lây truyền HIV/ AIDS rất cao. Do vậy, dù chỉ là hiện tượng xuất hiện trong một nhóm dân số nhỏ nhưng đồng tính luyến ái lại tác động tới cuộc sống của cả cộng đồng. Chính vì lý do đó đòi hỏi mọi người có một sự quan tâm tới nó để hiểu rõ bản chất từ đó tìm cách ngăn chặn những tác động tiêu cực và hạn chế sự phát triển.
Sinh viên là nhóm có trình độ tri thức và năng lực được đánh giá là cao trong xã hội. Họ là một bộ phận tiên tiến của tầng lớp thanh niên, luôn nhạy bén với các hiện tượng mới nảy sinh cả những hiện tượng tích cực cũng như tiêu cực như đồng tính luyến ái. Thêm nữa, do đặc thù về nơi cư trú, thường là ký túc xá và nhà trọ - nơi tốt xấu cùng tồn tại nên sinh viên cũng có sự hiểu biết tương đối về hiện tượng này.
Khi được hỏi "Bạn đã bao giờ nghe nói về hiện tượng đồng tính luyến ái chưa?", có tới 77.5% sinh viên trả lời đã nghe nhiều lần, 21.5% chỉ nghe một vài lần và 1% chưa bao giờ nghe nói đến. Có thể thấy sự quan tâm của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái tồn tại ở mức cao. Điều này cũng chứng tỏ rằng, đồng tính luyến ái không còn là một hiện tượng cá biệt mà đã được tồn tại rộng rãi thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội và nhóm sinh viên. Người sinh viên hiện đại không còn chỉ học và nghiên cứu những vấn đề lý thuyết mà họ luôn năng động, đi sát thực tế, nắm bắt kịp thời mọi sự thay đổi của xã hội.
Bảng 1: Tương quan giới và nơi sống trước khi vào đại học của sinh viên với sự quan tâm của họ tới hiện tượng đồng tính luyến ái (Đơn vị %)
STT
Mức độ quan tâm
Nam giới
Nữ giới
Đô thị
Nông thôn
Tổng
1
Nghe nhiều lần
40%
37.5%
40%
37.5%
77.5%
2
Nghe một vài lần
10%
11.5%
9.5%
12%
21.5%
3
Chưa bao giờ
0%
1%
0.5%
0.5%
1%
Qua bảng 1 ta thấy số sinh viên nam và số sinh viên đô thị biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái cao hơn nhóm sinh viên nữ và sinh viên nông thôn. Điều này xuất phát từ những nguyên nhân khách quan. Trước hết, nam giới luôn nhạy bén hơn, năng động hơn và thích tìm hiểu những hiện tượng mới lạ đặc biệt là liên quan đến vấn đề giới tính. Còn nữ giới luôn được quan niệm rằng phải dịu dàng, kín đáo, không nên tự tìm hiểu về vấn đề giới tính. Thêm nữa, nữ giới rất e dè với những hiện tượng bất bình thường như hiện tượng đồng tính luyến ái. Do vậy tỷ lệ nữ sinh viên chỉ nghe đến hiện tượng này một vài lần cao hơn so với sinh viên nam trong khi nam sinh viên lại biết đến hiện tượng này nhiều hơn. Số sinh viên chưa bao giờ nghe nói về hiện tượng này chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp và cũng rơi vào nữ giới.
Mỗi sinh viên trước khi tham gia học đại học tại Hà Nội đều mang trong mình những đặc điểm riêng về nơi sống. Môi trường sống của một cá nhân chi phối rất nhiều đến nhân cách cũng như sự hiểu biết và quan niệm của anh ta về thế giới xung quanh. Nếu nơi sống của một sinh viên là đô thị - khu vực có sự phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội, cá nhân đó sẽ có hiểu biết phong phú và sâu sắc hơn. Ngược lại, những sinh viên xuất phát từ nông thôn thường chịu thiệt thòi bởi ít được cập nhật những luồng thông tin mới. Thêm nữa, quan niệm của người dân nông thôn và đô thị cũng có điểm khác biệt do nền văn hoá và lối sống.
Do vậy, số sinh viên nông thôn đã có sự hiểu biết tương đối nhiều về hiện tượng đồng tính luyến ái thấp hơn sinh viên đô thị và tỷ lệ sinh viên đô thị chỉ mới biết đến hiện tượng này một vài lần thấp hơn nhóm sinh viên nông thôn. Nhưng tỷ lệ chênh lệch giữa họ không cao. Bởi tuy xuất phát từ nơi sống khác nhau nhưng môi trường học tập và cư trú của họ hiện nay đều là đô thị, nơi mà các phương tiện truyền thông đại chúng rất phát triển. Thêm nữa, môi trường cung cấp tri thức cho họ là trường đại học - đảm bảo nguồn tri thức về mọi mặt của đời sống. Trong số 2 sinh viên nữ chưa nghe đến hiện tượng đồng tính luyến ái có một người ở nông thôn và một ở đô thị. Tuy nhiên đây chỉ là trường hợp cá biệt bởi với sự tuyên truyền rộng rãi của phương tiện truyền thông đại chúng cũng như sự biết đến của nhóm bạn xung quanh thì chắc chắn có rất ít sinh viên chưa từng nghe qua hiện tượng này.
Loại hình gia đình và nơi cư trú hiện nay của sinh viên cũng có những ảnh hưởng nhất định tới mức độ hiểu biết của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái. Mỗi nghề nghiệp thường tương ứng với một môi trường làm việc cũng như trình độ học vấn của cá nhân làm công việc đó. Do vậy hình thành nên những quan niệm và cách đánh giá khác nhau đồng thời là những môi trường xã hội hoá các thành viên khác nhau. Khi lớn lên, mỗi sinh viên sẽ mang theo trong mình những ảnh hưởng của gia đình và nghề nghiệp của bố mẹ tham gia vào xã hội. Các sinh viên theo học đại học có những nơi cư trú khác nhau nhưng chủ yếu là ký túc xá, nhà trọ và ở cùng gia đình. Những địa điểm cư trú này sẽ tác động đến nhận thức cũng như mức độ quan tâm tới các hiện tượng xã hội bởi đặc thù về các mối quan hệ cũng như các nguồn cung cấp thông tin.
Bảng 2: Tương quan nơi cư trú hiện nay và loại hình gia đình với sự quan tâm tới hiện tượng đồng tính luyến ái( Đơn vị %)
Đặc điểm nơi cư trú và loại gia đình
Nghe nhiều lần
Nghe một vài lần
Chưa nghe bao giờ
Nơi cư trú hiện nay
Ký túc xá
79.6%
18.5%
1.9%
Gia đình
87.5%
12.5%
0%
Nhà trọ
66.2%
32.4%
1.4%
Loại hình gia đình
Công nhân viên chức
77.8%
21.3%
0.9%
Buôn bán
80%
20%
0%
Nông nghiệp
75.6%
22%
2.4%
Nghề khác
77.3%
22.7%
0%
Khác với sự cân bằng về giới và nơi sống trước khi vào đại học, sinh viên có nơi cư trú và loại hình gia đình khác nhau tồn tại một cách ngẫu nhiên. Do vậy, ở đây khi so sánh phải dùng tỷ lệ lựa chọn trên tổng số sinh viên theo từng nơi cư trú và loại hình gia đình. Qua khảo sát, có thể thấy nhóm sinh viên ở cùng gia đình có sự quan tâm đến hiện tượng đồng tính luyến ái ở mức cao nhất. Những sinh viên hiện ở cùng gia đình thường ở đô thị nên họ có điều kiện để biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái. Thêm nữa, các gia đình đô thị do ảnh hưởng của nếp sống ít khép kín hơn nông thôn nên sự trao đổi giữa cha mẹ với con cái về các sự kiện tồn tại trong đời sống xã hội có phần thoải mái . Các sinh viên ở ký túc xá và nhà trọ ít có điều kiện tiếp cận thường xuyên với các thông tin mới nên biết đến đồng tính luyến ái ở mức trung bình. Đặc biệt là nhóm sinh viên ở nhà trọ, chỉ sống thành một cụm hoặc riêng lẻ không tập trung, ít có sự trao đổi thông tin như các bạn trong ký túc xá nên có tỷ lệ lựa chọn mức độ chỉ mới nghe qua là cao nhất. Số sinh viên chưa biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái đều thuộc nhóm sinh viên ở nhà trọ và ký túc xá.
Sinh viên trong mẫu nghiên cứu tập trung ở bốn loại gia đình: công nhân viên chức, buôn bán, nông nghiệp và nghề khác. Tiêu chí phân loại phụ thuộc vào những nhóm nghề nghiệp phổ biến trong xã hội. Mỗi loại gia đình này sẽ tương ứng một tiểu văn hoá riêng do trình độ học vấn và môi trường làm việc của cha mẹ chi phối.
Qua nghiên cứu cho thấy nhóm sinh viên thuộc gia đình làm nghề buôn bán có mức độ biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái mức cao nhất. Đây là một điều bất ngờ bởi trong quan niệm, nhóm nghề nghiệp công nhân viên chức thường có trình độ học vấn cao hơn do vậy con cái trong các gia đình này chắc chắc phải có sự hiểu biết sâu sắc hơn. Tuy nghề nghiệp của các gia đình buôn bán không thuộc các lĩnh vực chính thức của Nhà nước nhưng đặc thù công việc đòi hỏi họ phải có sự cọ xát, tiếp xúc thường xuyên với thực tế xã hội. Do vậy, các thành viên trong gia đình sẽ hiểu biết nhiều và sâu hơn về các sự kiện xã hội.
Ngược lại, trong các gia đình công nhân viên chức có lẽ vẫn tồn tại sự lo lắng về ảnh hưởng của xã hội tới con cái mình nên có thể chọn cách tránh né không đề cập đến những hiện tượng xã hội đang tồn tại. Nên có trường hợp sinh viên thuộc loại gia đình này chưa bao giờ nghe nói về đồng tính luyến ái.
Gia đình làm nghề nông thường có nơi sống là nông thôn. Đó không chỉ là một không gian địa lý mà còn là một không gian văn hoá với những giá trị và quan niệm truyền thống còn ảnh hưởng mạnh mẽ. Dù rằng kinh tế thị trường đã tạo ra những biến đổi nhất định nhưng những quan niệm đã tồn tại vững chắc thì rất khó thay đổi. Đồng thời đây là nhóm nghề nghiệp có mặt bằng tri thức thấp hơn so với các nhóm khác với đặc thù công việc bận rộn, vất vả, ít có điều kiện tiếp xúc, cập nhật thông tin. Nếu đồng tính luyến ái với một số người dân đô thị vẫn rất mới mẻ và quan điểm về nó còn nhiều xung đột thì ở nông thôn, việc chấp nhận bàn luận và giáo dục con cái về hiện tượng này một cách công khai chắc chắn rất khó khăn. Do vậy, sự tồn tại của số sinh viên chưa nghe về hiện tượng đồng tính luyến ái thuộc loại gia đình làm nghề nông là điều dễ giải thích.
Như vậy, qua nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên đều đã biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái. Sự hiểu biết về hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên chịu sự chi phối của các yếu tố như nơi sống trước đại học, thành phần gia đình và nơi cư trú hiện nay.
2.2 Mức độ phổ biến của hiện tượng đồng tính luyến ái qua điều tra tần suất gặp của nhóm sinh viên:
Qua điều tra, có thể thấy đa số sinh viên đã biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái. Điều này chứng tỏ rằng đồng tính luyến ái không còn tồn tại như một số trường hợp cá biệt mà đã phát triển khá rộng rãi. Qua các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo gia đình và bè bạn, sinh viên thu thập được những hiểu biết về hiện tượng này. Vấn đề đặt ra là trong thực tế, đồng tính luyến ái có tồn tại phổ biến như vậy hay không? Có thể giải quyết câu hỏi này bằng cách tìm hiểu mức độ đã gặp hiện tượng này của nhóm sinh viên. Cần lưu ý thêm rằng gặp ở đây là bao gồm trường hợp gặp gỡ tình cờ và biết những người đồng tính luyến ái cụ thể.
Bảng 3: Mức độ gặp hiện tượng đồng tính luyến ái của nhóm sinh viên
(Đơn vị %)
STT
Tần suất gặp hiện tượng đồng tính luyến ái
Tỷ lệ %
1
Thường xuyên
7.5%
2
Thỉnh thoảng
22.5%
3
Hiếm khi
25.5%
4
Chưa bao giờ
44.5%
Nhìn qua bảng số liệu, ta có thể nhận thấy tỷ lệ sinh viên đã gặp, đã biết trường hợp người đồng tính luyến ái ít nhất một lần trở lên là 55.5%, trong khi đó chỉ có 44.5% sinh viên chưa gặp hiện tượng này bao giờ. Điều này khẳng định rằng đồng tính luyến ái không phải là một hiện tượng cá biệt, ít người biết đến mà sự tồn tại của nó đã ở mức khá phổ biến. Trong số 55.5% sinh viên trả lời đã từng gặp hiện tượng này, có 7.5% sinh viên gặp thường xuyên, 22.5% thỉnh thoảng mới gặp, 25.5% trả lời là rất hiếm khi. Bởi đồng tính luyến ái ở Việt Nam vẫn được coi như một hiện tượng lệch chuẩn, một lối sống thiếu lành mạnh, ít nhận được sự đồng tình của dư luận. Do vậy, những người thuộc nhóm này ít khi dám công khai quan hệ cũng như những mong muốn của mình dù với những người thân. Có rất nhiều trường hợp người đồng tính luyến ái vẫn phải lập gia đình với người khác giới, sinh con như bình thường và tìm cách giấu đi con người thực của mình. Cho nên, mức độ gặp của giới sinh viên với những người đồng tính luyến ái tồn tại như trên là hợp lý.
Bảng 4: Tương quan giới với tần suất đã gặp hiện tượng đồng tính luyến ái
( Đơn vị %)
Nam sinh viên
Nữ sinh viên
Tổng
Thường xuyên
5.5%
2%
7.5%
Thỉnh thoảng
12%
10.5%
22.5%
Hiếm khi
14.5%
11%
25.5%
Chưa bao giờ
18%
26.5%
44.5%
Có thể nhận thấy rằng số sinh viên nam đã gặp, đã biết những trường hợp người đồng tính luyến ái cao hơn so với nữ sinh viên. Và tỷ lệ sinh viên nữ chưa bao giờ gặp hiện tượng này lại cao hơn nam sinh viên. Tương tự như đánh giá về mức độ quan tâm tới hiện tượng đồng tính luyến ái, nguyên nhân của sự khác biệt này là do bị chi phối bởi đặc trưng giới tính là mạnh bạo, ham tìm hiểu nên nam giới luôn có xu hướng thích tìm hiểu các hiện tượng xã hội mới nảy sinh. Thêm nữa, theo quan điểm khoa học và trong thực tế, hiện tượng đồng tính luyến ái cũng xuất hiện nhiều ở nam giới hơn dẫn đến mức độ gặp nhiều hơn của nhóm sinh viên nam.
Biểu 1: Tương quan nơi cư trú/ mức độ gặp hiện tượng đồng tính luyến ái.
Bởi trong mẫu nghiên cứu, sinh viên cư trú tại ký túc xá, nhà trọ và gia đình với tỷ lệ không đều nên trong tương quan phải sử dụng phần trăm trong cùng nhóm cư trú. Quan sát biểu đồ ta thấy, số sinh viên chưa từng gặp hiện tượng đồng tính luyến ái cao nhất tập trung ở nhóm sinh viên sống trong ký túc xá và thấp nhất ở nhóm sinh viên thuê nhà trọ. Bởi do đặc thù về nơi cư trú, nam ở cùng nam, nữ ở cùng nữ, nên những người cùng giới sống với nhau trong một thời gian khá dài, đã quen sinh hoạt cùng nhau nên có thể tồn tại trường hợp đồng tính luyến ái mà họ không nhận ra. Thêm nữa, người đồng tính luyến ái thường không dám công khai cách sống của mình. Tuy nhiên cũng chính nhóm sinh viên ở ký túc xá lại có tần suất gặp hiện tượng này thường xuyên là cao nhất. Bởi thời gian sinh viên ở ký túc xá khá dài đủ học để có được những nhận biết về môi trường xung quanh mình.
Nhóm sinh viên ở nhà trọ tuy rằng ít gặp hiện tượng này thường xuyên do họ thường không cư trú ở một nơi đó lâu dài mà rất hay di chuyển chỗ ở. Do vậy, họ chưa kịp có những mối quan hệ gắn bó với những người xung quanh cũng như thu được những thông tin về nơi sống. Tuy nhiên đây lại là nhóm gặp hiện tượng này nhiều nhất cũng do tính di động về nơi ở của họ. Thêm nữa, sinh viên thuê nhà ở trọ không chịu sự ràng buộc, kiểm soát trực tiếp của gia đình cũng như trường học, môi trường họ ở cũng ít nhiều phức tạp trong các thành phần cư trú.
Đa phần sinh viên của hai trường Đại học trong mẫu nghiên cứu thường thuê nhà trong các khu vực xung quanh trường để tiện việc học hành như Kim Giang, Nhân Chính, Phùng Khoang, Thanh Xuân..Đây là những địa bàn dân cư phức tạp, có nhiều thành phần cùng sinh sống như người lao động các tỉnh, sinh viên..Chính đặc thù về nơi ở này đã dẫn đến khả năng gặp hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên ở những khu vực mình đang trọ cao nhất.
Bảng 5: Tương quan giới và nơi cư trú/ các địa điểm đã gặp hiện tượng đồng tính luyến ái. (Đơn vị %)
Cùng nơi cư trú
Tụ điểm giải trí, nơi công cộng
Bạn bè
Người thân
Nam
6.1%
46%
8.8%
0.9%
Nữ
8.8%
33.6%
1.8%
0.9%
Ký túc xá
5.3%
15.9%
1.8%
0.9%
Gia đình
2.6%
31.9%
4.4%
0%
Nhà trọ
7%
31.9%
4.4%
0.9%
Tổng
14.9%
79.6%
10.6%
1.8%
Nhìn vào bảng tương quan giới và nơi cư trú với các địa điểm mà sinh viên đã gặp người đồng tính luyến ái, ta thấy tồn tại xu hướng như sau: số sinh viên nam gặp hiện tượng này ở những người cùng nơi cư trú thấp hơn so với sinh viên nữ, còn số sinh viên ở ký túc xá và nhà trọ có tỷ lệ gặp hiện tượng này ở nơi sống của mình cao hơn nhóm sinh viên ở cùng gia đình. Đây là một điều cần lưu ý, bởi như vậy là có tồn tại hiện tượng đồng tính luyến ái trong giới sinh viên, đặc biệt là trong ký túc xá. Môi trường của sinh viên ký túc xá có sự đồng nhất về giới tính trong một thời gian tương đối dài. " Môi trường cũng là một yếu tố dễ dẫn đến hiện tượng này nhất là trong các môi trường có sự thuần nhất giới tính trong thời gian dài." (T.,nam, K43 ĐHKHXHNV, nhà trọ-Thanh Xuân).
Sinh viên cũng là những người thuộc tầng lớp thanh niên, đang ở độ tuổi trưởng thành về tâm sinh lý. Do vậy, có thể xuất hiện xu hướng sống lệch lạc nếu trong môi trường có những người đồng tính luyến ái hoặc do chính sự tò mò của bản thân. Một trường hợp sinh viên nam học tại trường đại học của Hải Phòng đã tự kể về nguyên nhân mình đã trở thành người đồng tính luyến ái trong một phóng sự của báo Hoa Học Trò("Tôi tự đánh mất giới tính của mình thế nào" số 420 - 421, ra ngày 27- 12- 2001 và 1-1-2002) " Tôi thức giấc vì nghe tiếng cười..tôi không còn tin ở mắt mình nữa khi thấy Kvà V, hai anh sinh viên năm 4 phòng tôi đang làm một cái trò kỳ quái vô cùng ngay trên chiếc giường dưới tôi. Cả hai anh ấy đều hành động như vợ chồng..". Bạn trai này đã phải trải qua những giờ phút kinh hoàng với sự ám ảnh. Bạn đã định tâm sự với những người còn lại trong phòng nhưng không ngờ những người bạn ấy cũng xử sự như những người đồng tính luyến ái. Vì gia đình quá nghèo, bạn không thể xin chuyển ra ngoài ở trọ và cuối cùng đã đánh mất giới tính của chính mình. Sự dụ dỗ, lôi kéo của những người xung quanh cùng với sự tồn tại công khai quan hệ tình dục đồng giới đã khiến một bạn sinh viên trở thành người đồng tính luyến ái.
Sinh viên thuê nhà trọ ở ngoài có tỷ lệ gặp hiện tượng ở nơi sống của mình cao nhất. Bởi nếu những người trong ký túc xá đều là sinh viên thì những người ở nhà trọ có nghề nghiệp và lối sống rất khác nhau. Đây là môi trường thuận lợi nảy sinh các tệ nạn xã hội trong đó có đồng tính luyến ái. Khi được hỏi đã bao giờ gặp hiện tượng này ở nhà trọ mình ở chưa, một bạn nữ cho biết:" Mình đã gặp hiện tượng đồng tính luyến ái ở khu mình ở, đó là hai người nữ. Họ thường xuyên đi chơi với nhau, người nữ đóng vai bạn trai ăn mặc rất giống con trai. Đi đâu họ cũng đèo nhau và có cử chỉ thân mật như những người khác giới khi yêu nhau. Họ công khai luôn mối quan hệ của mình.(H. nữ, K46 ĐHTN, nhà trọ - Kim Giang). Có thể thấy hiện tượng đồng tính luyến ái với các bạn sinh viên không còn lạ lẫm nữa bởi những ví dụ của thực tế tồn tại cùng với các bạn.
Còn với nhóm sinh viên ở cùng gia đình thì trường hợp gặp thường xuyên là rất ít tuy nhiên vẫn có. Tuy nhiên, các bạn sinh viên thuộc nhóm này thường gặp hiện tượng đồng tính luyến ái ở nơi công cộng và các tụ điểm giải trí cao bằng nhóm sinh viên thuê nhà. Đây là hai nhóm có tính di động xã hội cao hơn nhóm sinh viên trong ký túc xá. Bởi hầu hết các bạn sinh viên hiện ở cùng gia đình đều sống tại Hà Nội. Họ có thời gian và điều kiện kinh tế để tới những nơi vui chơi giải trí và các sinh viên ở nhà trọ cũng vậy. Cho nên họ có thể gặp hiện tượng đồng tính luyến ái tại những nơi đó. Tỷ lệ sinh viên nói chung lựa chọn địa điểm này cao áp đảo so với các địa điểm khác. Bởi người đồng tính luyến ái thường không dám công khai mối quan hệ cũng như lối sống của mình. Do vậy, chỉ khi tới những địa điểm công cộng, giữa những người xa lạ, họ mới dám sống theo cách của mình, ít dấu giếm hơn, đặc biệt là những nơi tập trung những đối tượng như mình. Điều này cũng chứng tỏ rằng, càng ngày người đồng tính luyến ái càng có can đảm sống theo cách của mình mà không e ngại dư luận xã hội.
Tỷ lệ sinh viên cho biết có người đồng tính luyến ái là bạn bè của mình khá thấp, 10.6%. Trong đó, tỷ lệ sinh viên nam có bạn bè là người đồng tính cao hơn hẳn sinh viên nữ. Như vậy là giới nam tồn tại hiện tượng đồng tính luyến ái cao hơn giới nữ. Điều này cũng phù hợp với khảo sát về giới của người đồng tính luyến ái mà sinh viên thường gặp: nam giới- 34%, nữ giới-11.5%.
Trường hợp người đồng tính luyến ái là người thân của sinh viên có tỷ lệ rất thấp, 1.8% và đều ở sinh viên ở ký túc xá và nhà trọ.
Có thể thấy qua sự đánh giá của sinh viên thì đa số họ đã gặp hiện tượng đồng tính luyến ái ít nhất là một lần. Số sinh viên nam đã gặp người đồng tính luyến ái nhiều hơn sinh viên nữ. Còn nhóm sinh viên thuê nhà lại có tỷ lệ gặp hiện tượng này nhiều hơn rất nhiều so với sinh viên ở ký túc xá và ở cùng gia đình.
Người đồng tính luyến ái mà sinh viên đã gặp thường tập trung ở các nơi vui chơi giải trí, nơi công cộng. Tuy nhiên cũng tồn tại một số lượng không nhỏ sinh viên thấy hoặc biết người có quan hệ tình dục đồng giới tại nơi mình cư trú đặc biệt là ở ký túc xá và nhà trọ của họ. Đây là một hiện tượng không còn cá biệt, chiếm một tỷ lệ nhỏ mà đã chiếm một con số đáng kể. Do vậy, vấn đề quản lý đời sống cho các sinh viên sống xa gia đình khi lên học đại học nhằm ngăn ngừa những tệ nạn xã hội có thể xảy ra rất quan trọng.
3. Nhận thức của sinh viên về bản chất của hiện tượng đồng tính luyến ái
3.1 Nhận thức của sinh viên về nhóm tuổi và nhóm đối tượng
Cũng như những hiện tượng xã hội khác, đồng tính luyến ái hay tình dục đồng giới cũng có những đặc trưng riêng về đối tượng, lứa tuổi..Theo các nhà khoa học thì đồng tính luyến ái xuất hiện chủ yếu ở nam giới và thường phát triển khi con người bước vào độ tuổi trưởng thành. Đối với những người bị bệnh lý bẩm sinh thì đây là giai đoạn họ phát triển cả về thể chất và tinh thần. Do vậy những biểu hiện tưởng chừng chỉ có ở thời thơ ấu bây giờ trở nên vững chắc hơn, thôi thúc họ sống theo cách của mình. Với sự hoàn thiện về thể chất cũng như trình độ nhận thức, hiểu biết họ lại càng khó vượt qua phần lệch lạc của mình.
Bảng 6: Hiểu biết của sinh viên về đối tượng và nhóm tuổi của người đồng tính luyến ái( Đơn vị %)
Nam giới
Nữ giới
Cả hai giới
Thanh thiếu niên
Trưởng thành
Cao tuổi
5.5%
2%
92.5%
52%
73%
14.5%
Khi được hỏi về giới tính sinh học của người đồng tính luyến ái, 92.5% sinh viên cho rằng hiện tượng đồng tính luyến ái có thể xảy ra ở cả hai giới, 5.5% lựa chọn phương án" chỉ xảy ra ở nam giới" và 2% sinh viên chọn phương án" chỉ xảy ra ở nữ giới". Qua thực tế cũng như qua những phương tiện truyền thông đại chúng, sinh viên đã có được những hiểu biết đúng đắn về nhóm đối tượng của đồng tính luyến ái. Cả hai giới đều có thể tồn tại hiện tượng này nhưng qua điều tra tình huống gặp người đồng tính luyến ái của sinh viên trong mẫu nghiên cứu cho thấy có nhiều người đồng tính luyến ái nam hơn nữ. Và thông tin phỏng vấn sâu cũng chỉ ra xu hướng như vậy" Theo ý kiến của mình thì hiện tượng đồng tính luyến ái xảy ra ở nam giới nhiều hơn. Qua sách báo, mình thấy người ta thường đề cập đến nam giới nhiều hơn. Và trong sinh hoạt, cuộc sống của người nam giới có nhiều cái thoải mái hơn nữ giới." (H. nữ, K46 ĐHTN, ký túc xá).
Đối với mỗi cá nhân trong xã hội, từ khi sinh ra đã luôn gắn với một bản sắc giới. Đó là sự nhận thức của cá nhân về giới của mình. Bản sắc giới thường phù hợp với giới tính nhưng cũng có trường hợp không phải như vậy. Đó chính là những trường hợp của người đồng tính luyến ái. Họ, về mặt sinh học là nam giới hoặc nữ giới nhưng trong nhận thức, họ mong muốn và cảm thấy mình thuộc về giới tính kia hoặc chỉ có thể có quan hệ tình cảm, quan hệ tình dục với người cùng giới. Tuy nhiên, đồng tính luyến ái xảy ra nhiều hơn ở nam giới hơn nữ giới. Đó là bởi một đặc trưng của giới tính sinh học mà người phụ nữ dù "đóng vai" nam giới vẫn không thể từ bỏ dễ dàng - chức năng sinh con. Người phụ nữ ngay từ khi còn là một bé gái đã được giáo dục về thiên chức làm vợ- làm mẹ của mình. "Con gái có nhiều chuẩn mực kiểm soát hơn. Đấy là cái thứ nhất. Cái thứ hai là do bản năng, thiên chức của người phụ nữ. Vì hai điều này nên làm cho con gái ít bị sa vào hiện tượng này hơn là con trai" (C. nữ, K43 ĐHKHXHNV, gia đình). Đó là một trong những bản sắc giới quan trọng nên được giáo dục, nhắc nhở thường xuyên khiến người phụ nữ không dễ dàng sống trái với giới tính của mình. Thêm nữa, họ vẫn là phái yếu, phải chịu đựng sự đánh giá, xem xét khắt khe hơn của các chuẩn mực xã hội nên khó sống theo cách của mình mong muốn.
Nam giới là đối tượng có khả năng làm lan truyền bệnh HIV/AIDS cao hơn nhiều so với nữ giới do đặc thù về lối sống. UNAIDS - tổ chức phòng chống căn bệnh thế kỷ đã đưa ra năm lý do giải thích tại sao chiến dịch phòng chống AIDS toàn cầu năm 2000 lại tập trung vào nam giới. Trong đó có một nguyên nhân đáng chú ý là quan hệ tình dục đồng giới không an toàn giữa nam với nam gây nguy cơ cho cả nam và nữ. Phần lớn quan hệ tình dục giữa nam với nam là dấu giếm. Và theo nhiều nghiên cứu tiến hành trên thế giới, có đến hơn 1/6 nam giới nói rằng họ có quan hệ tình dục đồng giới. Rất nhiều trong số họ đồng thời cũng có quan hệ với cả phụ nữ. Do vậy nguy cơ lây truyền bệnh HIV/ AIDS tăng lên rất nhiều.
Đồng tính luyến ái về bản chất không chỉ đơn thuần là một loại bệnh lý mà còn là biểu hiện về nhận thức, cách sống quan niệm nên các đối tượng của nó có những đặc trưng nhất định về độ tuổi. 52% sinh viên được hỏi cho rằng đồng tính luyến ái xảy ra ở độ tuổi thanh thiếu niên. 73% họ lại cho rằng hiện tượng này dễ xuất hiện ở người trưởng thành và chỉ có 14.5% chọn phương án " xảy ra ở nhóm người cao tuổi". Bởi cho dù là một loại bệnh lý hay sự lệch lạc về quan niệm, lối sống thì đồng tính luyến ái cũng phải cần có một khoảng thời gian tương đối để hình thành. Có 3 giai đoạn của quá trình xã hội hoá cá nhân và xã hội hoá vai trò giới.
Giai đoạn thơ ấu và nhi đồng, một cá nhân đã có thể có những biểu hiện khác biệt với giới tính của mình do nguyên nhân bệnh lý hay do sự giáo dục lệch lạc của gia đình. Các nhà nghiên cứu xã hội học giới cho rằng đây là giai đoạn quan trọng đối với việc định hình bản sắc giới của trẻ( đặc biệt là 2 tuổi). Vai trò của cha mẹ rất quan trọng trong việc chọn quần áo, đồ chơi phù hợp với giới tính. Nếu cha mẹ không giúp trẻ hiểu về giới tính của mình cũng như cách ứng xử phù hợp thì có thể dẫn đến sự lệch lạc sau này. Tuy nhiên, với sự chưa hoàn thiện về thể chất và nhận thức, đối tượng chưa thể tự khẳng định mình là người đồng tính luyến ái. Phải chờ cho đến khi đối tượng bước vào thời kỳ phát triển( tuổi dậy thì), những biểu hiện ban đầu mới được củng cố, mạnh mẽ dần lên và đối tượng dần thay đổi theo sự cảm nhận về giới tính của mình. Tuổi thanh thiếu niên có nhiều biến đổi về tâm sinh lý, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài. Chính vì vậy đây cũng là thời điểm dễ xuất hiện xu hướng đồng tính luyến ái nếu thanh thiếu niên bị lôi kéo, bị dụ dỗ hay những biểu hiện ban đầu về bệnh lý ở thời thơ ấu rõ rệt hơn.
"Theo mình, đa phần người đồng tính luyến ái là thanh niên. ở tuổi nhỏ thì ít khi có suy nghĩ như thế. Còn những người lớn tuổi dù bị bệnh thật sự, họ vẫn kiềm chế để không ai biết hoặc không ảnh hưởng đến người khác. Họ có suy nghĩ chín chắn hơn. Còn tuổi thanh niên có rất nhiều tính tò mò, chưa có suy nghĩ chín chắn, dễ bị ảnh hưởng."( H. nữ, K46 ĐHKHTN, ký túc xá).
Nam giới và nữ giới ở nhóm tuổi này nếu bị đồng tính luyến ái có những suy nghĩ, mong muốn được gắn bó với người cùng giới. Họ vẫn quan hệ với mọi người nhưng người cùng giới là đối tượng họ gửi gắm tình cảm. Như vậy, hiện tượng đồng tính luyến ái phát triển mạnh mẽ và rõ nét khi đối tượng bước vào tuổi dậy thì.
Tuy nhiên theo quan điểm khoa học cũng như ý kiến của các bạn sinh viên thì hiện tượng đồng tính luyến ái xuất phát ở độ tuổi thanh thiếu niên nhưng xảy ra nhiều nhất ở những người trưởng thành. Đây là giai đoạn quá trình xã hội hoá cá nhân đã hoàn thiện và bản sắc giới cũng đã định hình rõ nét, khó thay đổi. Thể chất cũng như trình độ nhận thức của người trưởng thành đã phát triển đầy đủ. Nên hiện tượng đồng tính ._.ược đưa ra. Một phương án phụ thuộc vào chủ quan của đối tượng - đó là tình cảm của họ đủ bền vững để vượt qua khó khăn. Và một phương án thuộc về khách quan- xã hội liệu có dành cho họ sự cảm thông và giúp đỡ. Trong số 52.8% sinh viên đồng ý, với phương án đầu tiên có 49.1% họ lựa chọn và phương án thứ hai được 60.7% sinh viên đồng tình. Như vậy, có thể thấy sinh viên vẫn nhận thấy rằng mối quan hệ, cách sống của người đồng tính luyến ái là bất thường. Tình cảm của họ cho dù có thể gọi là tình yêu nhưng đáng tiếc nó lại thường xuất phát từ nhu cầu sinh lý. Sự gắn bó của họ không lâu dài và thường thay đổi và nó không có sức mạnh chống đỡ lại định kiến xã hội như một tình yêu khác giới. Quan niệm, cách nhìn nhận của xã hội lại đóng vai trò quan trọng hơn trong việc quyết định cuộc sống của người đồng tính luyến ái. Bởi cho dù họ là một nhóm nhỏ khác thường hoặc có tình cảm với nhau nhưng họ vẫn thuộc về xã hội, không thể tách rời khỏi cộng đồng và những mối quan hệ khác. Chính vì sự gắn kết ấy nên người đồng tính luyến ái không thể tự mình xây dựng một cuộc sống và sự nghiệp nếu khônhg có sự ủng hộ của xã hội. Đa số sinh viên tin tưởng rằng xã hội sẽ có sự cảm thông và giúp đỡ người đồng tính luyến ái.
"Họ hoàn toàn có thể có một cuộc sống bình thường, nếu như xã hội không có thành kiến với họ. Ngoài hiện tượng này họ có một cuộc sống như bao người khác. Xã hội càng phát triển càng xuất hiện nhiều vấn đề, hiện tượng mới. Do vậy chúng ta phải biết chấp nhận nó, có sự biến đổi trong nhận thức để phù hợp với sự phát triển xã hội. Quan niệm xã hội phải biến đổi theo sự biến đổi của xã hội nếu không sẽ có nhiều vấn đề mà dựa vào quan niệm thì không thể giải quyết."( T. nam, K43 ĐHXHNV, nhà trọ - Thanh Xuân).
Nhưng điều này có lẽ vẫn chỉ có ở một xã hội tương lai bởi ngay cả ở những nước tương đối " thoáng" như Châu Âu, người đồng tính luyến ái vẫn chưa được coi như những thành viên bình thường trước luật pháp và đạo đức xã hội.
Có rất ít sinh viên cho rằng người đồng tính luyến ái không thể có được một cuộc sống bình thường. ở đây, lý do của sự khẳng định này cũng bao gồm cả hai khía cạnh chủ quan và khách quan. Đó là chủ quan - quan hệ của người đồng tính luyến ái là trái tự nhiên nên không thể tồn tại lâu dài và bền vững và khách quan - xã hội rất khó có sự thông cảm và ủng hộ họ.
Bảng 16 : Lý do cho rằng người đồng tính luyến ái không thể có một cuộc sống và sự nghiệp bình thường ( Đơn vị %)
Lý do
Tỷ lệ lựa chọn
Quan hệ đồng tính luyến ái trái với tự nhiên nên tình cảm không kéo dài
53.8%
Xã hội và cộng đồng không cảm thông và ủng hộ họ
61.5%
Trong số 15% sinh viên không cho rằng người đồng tính luyến ái có thể có một cuộc sống và sự nghiệp như những người khác thì 53.8% họ chọn lý do cho rằng tình cảm người đồng tính luyến ái không bền vững vì trái tự nhiên. Điều này là hoàn toàn đúng bởi do đặc thù mối quan hệ đồng giới dường như chỉ thoả mãn nhu cầu sinh lý nên người đồng tính luyến ái rất hay thay đổi bạn tình và rất ghen tuông. Sự trái tự nhiên, bất bình thường đó không cho phép người đồng tính luyến ái có một tình cảm bền vững, có khả năng gắn kết hai người và vượt qua những khó khăn như tình yêu giữa hai người khác giới. Ngay chính bản thân họ cũng nhận thấy sự bất bình thường của mình, điều này khiến họ không đủ tự tin để tìm cách chứng tỏ mình và cố gắng đạt được những mục tiêu của cuộc sống như những người bình thường khác. Họ phải chịu đựng một cuộc sống không thanh thản.
"Con người thì ai cũng có tình cảm, đó là quyền tự do cá nhân. Những với người đồng tính luyến ái thì khác, tình cảm của họ không lâu dài, họ rất thích thay đổi những người bạn khác giới của mình. Và nhiều khi nó chỉ là sự thoả mãn dục vọng nhất thời chứ không phải tình cảm yêu thương thật sự"( T. nữ, K46 ĐHTN, nhà trọ - Thanh Xuân).
Nếu là người đồng tính luyến ái bẩm sinh thì những nỗ lực trở thành người tình dục khác giới còn làm gia tăng nỗi đau khổ của họ. Những nhà tâm lý cũng cố gắng chuyển khuynh hướng tình dục của họ nhưng dường như là không thành công. Một điều tra cho biết, những cuộc trị liệu chỉ đạt thành công trong 2.6% trường hợp, hoàn toàn vô hiệu trong 17.9% trường hợp.(Báo Sinh viên Việt Nam - số 15 - thứ ba 10/4/2001). Còn đối với những người đồng tính luyến ái do những nguyên nhân khác như bị lôi kéo, bị lạm dụng..thì có khả năng thoát ra khỏi tình trạng, lấy lại sự cân bằng trong tâm lý nhưng cũng phải cố gắng rất nhiều bởi hầu như họ chỉ có một mình và thực sự được an ủi giữa những người như họ.
"Tôi thấy mình ngày càng thiếu tự tin trước đám đông. Tôi sống chui lủi trong lo sợ và những mặc cảm tội lỗi...Suốt những năm 19-20-21 tuổi, tôi khủng hoảng nặng nề. Tôi muốn tự tử...Tôi có bạn gái. Nhưng tôi không mảy may cảm xúc. Tôi thay bạn gái luôn xoành xoạch vì mong một ai đó sẽ đủ tình yêu để kéo tôi ra khỏi hiện trạng này. Nhưng không sao tìm được hay đã tìm được nhưng ám ảnh thèm quan hệ đồng giới trong tôi quá cao? Tôi không biết"
("Tôi đã đánh mất giới tính như thế" - báo Hoa Học Trò - số 420/421/ 1-1-2002).
Những tâm sự trên của người sinh viên bị lệch lạc giới tính chính là tâm trạng chung của những người đồng tính luyến ái. Do vậy, để họ có thể tìm thấy phần nào sự an ủi và giúp đỡ phụ thuộc nhiều vào thái độ của xã hội. Nhưng văn hóa, cách quan niệm và luật pháp nước ta chưa thể công nhận người đồng tính luyến ái như những người bình thường hay cho họ xây dựng cuộc sống gia đình để giảm bớt sự dằn vặt của họ. Bởi đôi khi sự ngăn cấm trên văn bản không mạnh mẽ bằng những đạo luật bất thành văn.
Từ một cách nhìn cảm thông và chia sẻ, đa số sinh viên đều khẳng định rằng người đồng tính luyến ái có thể có cuộc sống và sự nghiệp bình thường như những thành viên khác trong xã hội. Tuy nhiên, để đạt được điều này, họ cần có rất nhiều sự hỗ trợ từ phía xã hội bằng sự cảm thông và ủng hộ.
Hiện nay trên thế giới, có rất nhiều quốc gia mà quan niệm xã hội đã chấp nhận có hơn hai giới tính trong xã hội và thậm chí Hà Lan và một bang của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã cho phép người đồng tính luyến ái. Tuy nhiên đó chỉ là những trường hợp hãn hữu. Liệu rằng đến một thời điểm nào đó các nước trên thế giới và nước ta có đồng ý cho người đồng tính luyến ái kết hôn? Sinh viên cũng đưa ra rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Bảng 17: ý kiến của sinh viên về việc một số nước cho phép người đồng tính luyến ái kết hôn( Đơn vị % )
ý kiến của sinh viên
Tỷ lệ
Tán thành
20.0%
Phản đối
34.5%
Không ý kiến
45.5%
Trên đây là những luồng ý kiến của sinh viên về việc cho phép người đồng tính luyến ái kết hôn. Số sinh viên tán thành phương án này chiếm tỷ lệ thấp 20%, số sinh viên phản đối cũng không chiếm đa số 34.5%. Số sinh viên không có ý kiến gì về vấn đề này chiếm tỷ lệ cao hơn 45.5%. Như vậy là cho dù sinh viên cho rằng người đồng tính luyến ái hoàn toàn có thể có một cuộc sống bình thường nhưng họ lại không đồng ý với một khía cạnh bình thường của con người nếu có ở người đồng tính luyến ái - kết hôn. Cho dù sinh viên là lớp người có quan điểm nhìn nhận các vấn đề thoáng và cởi mở hơn những người khác trong xã hội nhưng với một hiện tượng bất bình thường như đồng tính luyến ái họ vẫn không thể không chịu ảnh hưởng của chuẩn mực xã hội. Thêm nữa, nếu người đồng tính luyến ái kết hôn thì một loại hình gia đình mới của xã hội sẽ ra đời. Và gia đình này sẽ không thể thực hiện được một chức năng quan trọng nhất - tái sản xuất thành viên cho xã hội cả về mặt sinh học cũng như mặt xã hội. Sự phát triển của một quốc gia vì thế sẽ bị ngăn trở. Luật Hôn nhân và gia đình - điều 10 của nước ta đã quy định rằng chỉ những người khác giới tính mới được kết hôn.
"Thực ra theo mình không nên cho người ta kết hôn. Bởi như vậy người ta chỉ có thể thoả mãn một cách công khai nhu cầu bản năng của họ. Còn xã hội muốn phát triển được phải dựa vào nền tảng gia đình, mà người đồng tính luyến ái không thể thực hiện được chức năng cơ bản nhất là sinh con, duy trì nòi giống" (C. nữ, K43 ĐHXHNV, gia đình).
"Theo mình không nên có luật kết hôn cho người đồng tính luyến ái. Vì đây là một hiện tượng lệch lạc, không đúng với lối sống bình thường. Cho dù họ có khả năng bị bệnh thật hoặc có những người chỉ tạm thời thì cho phép họ kết hôn cũng rất nguy hiểm. Bởi họ không kiềm chế, không cố gắng vượt qua cho nên nó sẽ dẫn đến sự phát triển có hại cho toàn xã hội."( H. nữ, K46 ĐHTN, ký túc xá).
Biểu 8: Tương quan giới và nơi sống trước khi vào đại học của sinh viên/ phản đối việc cho phép người ĐTLA lập gia đình
Qua biểu đồ 8 về tương quan giới và nơi sống trước khi vào đại học của sinh viên, ta thấy có một xu hướng là nữ sinh viên phản đối việc lập gia đình của người đồng tính luyến ái nhiều hơn là nam sinh viên. Giống như khi phân tích về sự tán thành của nam sinh viên với khả năng có một cuộc sống và sự nghiệp bình thường của người đồng tính, nam giới nói chung có cách nhìn nhận và lối sống thoải mái hơn giới nữ. Họ chấp nhận những hiện tượng mới lạ trong xã hội nhanh hơn và mạnh dạn đề ra những giải pháp cho chúng. Thêm nữa, hiện tượng đồng tính luyến ái xảy ra nhiều hơn ở giới nam. Do vậy dường như có tồn tại một sự "bảo vệ" cho giới của mình trong sinh viên nam. Số sinh viên đô thị và nông thôn có sự lựa chọn phương án này chỉ chênh lệch rất nhỏ. Tuy nhiên một điều hơi bất ngờ là sinh viên đô thị lại có sự phản đối nhiều hơn.
20% sinh viên tán thành việc cho phép người đồng tính luyến ái kết hôn. Có thể nói đây là những sinh viên rất hiện đại và có cách nhìn khá bao dung với người đồng tính luyến ái. Họ có sự hiểu biết về hiện tượng này và mong muốn một cách giải quyết có lợi cho cả xã hội và người đồng tính luyến ái.
"Mình cho rằng nếu có hiện tượng này xảy ra thì nên cho họ kết hôn bởi vì họ cũng là những con ngươì bình thường, có những tình cảm riêng tư. Có thể thay đổi giới tính được thì cũng có thể cho họ sống với nhau. Đừng nên phân biệt họ với người khác thì họ sẽ phát huy được năng lực của mình."( H. nữ, K46 ĐHTN, nhà trọ- Kim Giang).
"Nên cho phép người đồng tính luyến ái kết hôn. Bởi đây là vấn đề mang tính nhân văn, không thể dựa vào hiện tượng khác thường của con người mà ngăn cản hạnh phúc của họ. Đa số trong số họ đều bị bệnh này ngoài ý muốn nên thật không công bằng nếu xã hội từ chối họ."( T. nam, K43 ĐHXHNV, nhà trọ - Thanh Xuân).
Tuy nhiên sự tán thành của sinh viên chỉ là thiểu số, bởi như đã phân tích, sinh viên là một bộ phận thuộc xã hội. Những quan niệm cũng như chuẩn mực nhóm của họ sẽ chịu sự chi phối của chuẩn mực xã hội. Xã hội đã" dán nhãn" cho người đồng tính luyến ái là những người bất bình thường có lối sống lệch lạc thì cho dù có sự thông cảm với họ, sinh viên cũng phải chịu sức ép của chuẩn mực văn hoá cũng như luật pháp xã hội.
Biểu 9: Tương quan giới và nơi sống trước đại học của sinh viên/ tán thành việc cho phép người ĐTLA kết hôn
Xét tương quan giới và nơi sống trước khi vào đại học của sinh viên, có thể thấy rằng nam sinh viên có sự tán thành nhiều hơn nữ sinh viên. Như đã phân tích, nữ giới nói chung và nữ sinh viên nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào thiên chức làm vợ, làm mẹ của mình. Thêm nữa, đặc điểm giới tính kín đáo và ít thích sự thay đổi đã chi phối đến quan điểm của nữ sinh viên. Cho dù họ có cùng môi trường học tập và sinh hoạt như nam giới nhưng những chuẩn mực chi phối họ thì khác nam giới rất nhiều.
Sinh viên đô thị đồng tình với khả năng cho người đồng tính luyến ái kết hôn cao hơn sinh viên nông thôn. Đa số sinh viên đô thị đều có môi trường thông tin cũng như văn hoá phong phú hơn sinh viên nông thôn. Do vậy, cách nhìn của họ với hiện tượng đồng tính luyến ái cũng khác so với nhóm sinh viên nông thôn.
Số sinh viên không có ý kiến về việc có nên cho người đồng tính luyến ái lập gia đình với nhau cao hơn hẳn hai phương án trên. Đây là những người đang rất băn khoăn về ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của lối sống người đồng tính luyến ái với xã hội. Luật kết hôn giữa người đồng tính có thể giúp đỡ cho họ rất nhiều và gần như là một sự giải phóng họ khỏi những định kiến xã hội. Nhưng cũng chính nó sẽ tạo nên một làn sóng " đồng tính ảo" trong xã hội, kích thích những người không rõ ràng trong mục đích sống, ham vui và thích làm nổi mình. Thêm nữa, thay đổi một điều luật sẽ dễ dàng hơn nhiều việc thay đổi một hệ quan niệm bất thành văn trong xã hội. Tuy nhiên cũng có thể thấy sự băn khoăn trong suy nghĩ của sinh viên là dấu hiệu của sự thay đổi trong cách đánh giá của xã hội về đồng tính luyến ái. Liệu rằng trong tương lai có một giải pháp nào đó cho hiện tượng tình dục đồng giới ở nước ta không?
Biểu 10: Tương quan giới và nơi sống trước đại học của sinh viên/ không có ý kiến
Sinh viên nam và nhóm sinh viên nông thôn không có ý kiến gì về hiện tượng đồng tính luyến ái nhiều hơn nhóm nữ sinh viên và sinh viên đô thị. Bởi đây là hai nhóm có sự tiếp cận thông tin cũng như quan niệm và cách nhìn nhận chưa rõ ràng. Nam giới, tuy rằng thoáng hơn nữ giới trong quan niệm nhưng họ lại ít có sự nhạy bén trong đánh giá vấn đề.
Như vậy có thể thấy rất ít sinh viên tán thành ý kiến cho rằng nên cho phép người đồng tính luyến ái lập gia đình vơí nhau. Bởi sự khác thường trong lối sống và mối quan hệ khiến người đồng tính luyến ái khó duy trì một mối quan hệ trong một thời gian dài. Hơn nữa, điều này có thể khuyến khích sự phát triển của một loại hình gia đình tạm bợ và làm gia tăng thêm những người đồng tính luyến ái"giả". Do vậy, sinh viên thường phản đối khả năng cho người đồng tính luyến ái kết hôn. Tuy nhiên sự băn khoăn, không rõ ràng trong ý kiến của một bộ phận không nhỏ sinh viên là điều cần lưu ý. Bởi như vậy có nghĩa là trong suy nghĩ của sinh viên về giải pháp này đã xuất hiện nhiều sự băn khoăn, chưa quyết định được theo hướng nào.
6. Một vài ý kiến của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái:
Cho dù không còn là một hiện tượng quá mới mẻ của đời sống con người nhưng sự xuất hiện của đồng tính luyến ái đã gây ra không ít những thắc mắc và những ý kiến đánh giá khác nhau. Đó là bởi nguồn gốc nảy sinh cũng như ảnh hưởng của nó tới sự phát triển xã hội. Là nhóm xã hội có trình độ tri thức năng lực đánh giá khá cao, sinh viên cũng có những cách nhìn riêng của mình về hiện tượng - lối sống bất bình thường này.
Sinh viên đa số đều cho rằng đây là một loại bệnh lý bẩm sinh nên đối với những người chẳng may gặp phải, chúng ta cần có sự cảm thông và giúp đỡ như lập ra những trung tâm chữa trị bằng tâm lý. Đồng thời cần có sự tuyên truyền qua các tổ chức như Đoàn Thanh niên, hội sinh viên để nâng cao hiểu biết và phòng tránh.
" Đồng tính luyến ái là một vấn đề khó nói, thường người ta tránh không đề cập đến. Do đó nó càng có điều kiện để phát triển. Nếu chúng ta tích cực trong tuyên truyền vận động thì mọi người sẽ hiểu rõ được tác hại của nó và " phòng tránh"
(Đ. nam, K46 ĐHTN, gia đình).
Đối với hiện tượng" đồng tính luyến ái giả" đang phát triển trong xã hội như một lối sống lệch lạc, đua đòi theo những giá trị văn hoá phương tây, sinh viên cho rằng phải có sự điều chỉnh từ phía xã hội bằng cách kiên quyết dẹp bỏ những địa điểm người đồng tính có thể tụ tập, ngăn chặn nó như một hiện tượng phản văn hoá." Đối với những kẻ do đua đòi và không giữ được lý trí để bị lôi kéo thì cần nghiêm khắc trừng trị, quản giáo, đưa họ về nếp sống bình thường"(T. nam, K44 ĐHXHNV, gia đình).
Tuy nhiên đây là một khía cạnh thuộc về lối sống cá nhân nên sự điều chỉnh bằng luật pháp chỉ có hiệu lực khi nó phát triển thành tệ nạn xã hội như mại dâm nam, hoặc tụ tập gây ra những hoạt động phản văn hoá, không lành mạnh.
Việc tìm hiểu rõ nguyên nhân của hiện tượng này để cung cấp cho mọi thành viên trong xã hội cũng được các bạn sinh viên đưa ra. Bởi có không ít các bạn sinh viên còn chưa hiểu bản chất của hiện tượng này, điều đó có thể tạo ra những nhận định sai lầm về hiện tượng đồng tính luyến ái đồng thời tạo ta nguy cơ bị lôi kéo vào hiện tượng này
Giáo dục giới tính trong nhà trường và gia đình được các bạn sinh viên nhắc đến nhiều trong phần giải pháp cho hiện tượng này. Bởi giáo dục giới tính ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn bởi nền văn hoá cũng như thói quen của người dân cho rằng đó là những điều không nên nhắc đến công khai. Chính thái độ không rõ ràng, "úp mở" như vậy đã dẫn đến sự gia tăng của quan hệ tình dục trước hôn nhân hay sự phát triển của tình dục đồng giới. Giáo dục giới tính trong gia đình ngay từ khi cá nhân còn trong tuổi ấu thơ được sinh viên đánh giá cao.
Thái độ lên án gay gắt, coi đồng tính luyến ái như một hiện tượng xấu tồn tại rất ít trong sinh viên. Bởi các bạn đều phần nào hiểu rõ nguyên nhân cũng như bản chất của đồng tính luyến ái. Sự cảm thông và chia sẻ với những người bị bệnh bẩm sinh cũng như những người chẳng may sai lầm hoặc do hoàn cảnh khách quan được nhắc đến nhiều như một giải pháp hữu hiệu cho hiện tượng này. "Đồng tính luyến ái là một hiện tượng không tốt ảnh hưởng đến đạo đức lối sống của xã hội. Nhưng không phải người nào mắc bệnh này cũng xấu cả. Chúng ta không nên nhìn họ bằng con mắt xa lánh, sợ hãi. Nhất là đối với những người do hồi nhỏ bị người cùng giới lạm dụng mà mắc bệnh này. Họ thật đáng thương và cần được quan tâm, chữa trị về mặt tâm lý."(H. nam, K44 ĐHXHNV, ký túc xá).
Trên đây là những ý kiến của sinh viên khi đánh giá về hiện tượng đồng tính luyến ái. Qua những nhận xét trên có thể thấy rằng, sinh viên đã khẳng định được mình là nhóm có trình độ tri thức cao đồng thời rất nhạy bén với các hiện tượng mới nảy sinh. Cách nhìn nhận vấn đề đúng đắn và sâu sắc sẽ giúp các bạn sinh viên tự tránh khỏi những ảnh hưởng không tốt từ những hiện tượng xã hội đồng thời là sự giúp đỡ đầu tiên và hiệu quả cho những người đồng tính luyến ái trong xã hội.
Kết luận và khuyến nghị
1. Kết luận
Đồng tính luyến ái không còn là một hiện tượng quá mới mẻ trong đời sống xã hội cũng như trong giới sinh viên. Tuy nhiên sự tìm hiểu về hiểu biết cũng như nhận thức và thái độ của sinh viên về hiện tượng này là rất cần thiết. Bởi sinh viên là lớp trí thức trẻ sẽ gánh vác những nhiệm vụ quản lý và xây dựng đất nước. Hiểu được bản chất của đồng tính luyến ái đồng nghĩa với việc họ đã tự xây dựng cho mình một bức tường bảo vệ khỏi nó, đồng thời giúp đỡ những người xung quanh. Điều này là rất cần thiết bởi quan hệ đồng tính luyến ái là con đường lây truyền bệnh HIV / AIDS nhanh nhất và rộng rãi. Đồng thời sự phát triển của nó có thể làm suy giảm những giá trị văn hoá và đạo đức của xã hội.
Qua nghiên cứu, có thể thấy sinh viên đã có được sự nhận thức và đúng đắn về nguyên nhân, nhóm đối tượng và biểu hiện của hiện tượng đồng tính luyến ái. Cho dù những nguồn cung cấp thông tin chính như gia đình, các tổ chức không đề cập nhiều đến hiện tượng này vì sự e ngại. Nhưng sinh viên lại thu được những hiểu biết qua sự trao đổi với nhóm bạn bè, qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Điều này chứng tỏ sự quan tâm của sinh viên tới các sự kiện xã hội mới nảy sinh.
Xuất pháp từ những hiểu biết về nguyên nhân và bản chất của đồng tính luyến ái, sinh viên đã xác định cho mình một thái độ tích cực, sẵn sàng chia sẻ và giúp đỡ những người thuộc nhóm đối tượng này. Đồng thời họ cũng nhận thấy những ảnh hưởng không tốt của lối sống và quan hệ này tới sự phát triển cả về vật chất và tinh thần của cộng đồng.
Một điều cần lưu ý là hiện tượng đồng tính luyến ái qua sự đánh giá của sinh viên tồn tại khá phổ biến. Đặc biệt là ở nhóm sinh viên ký túc xá và thuê nhà trọ bên ngoài. Sinh viên thuộc hai nhóm này có đặc thù về nơi ở là tập trung với nhau trong một thời gian dài. Chính vì vậy, cái tốt cái xấu có điều kiện cùng phát triển, lôi kéo sinh viên vào những tệ nạn như ma tuý hay tệ tình dục đồng giới. Đã đến lúc phải có sự quan tâm hơn nữa của nhà trường và xã hội tới điều kiện ăn ở của sinh viên để tạo điều kiện học tập cũng như phát triển cho họ.
Nhận thức cũng như thái độ, hành vi của sinh viên phần nào chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố giới tính, nơi cư trú, nơi sống trước đại học và loại hình gia đình. Tuy nhiên, tựu trung lại thì môi trường sống và học tập của sinh viên khá đồng nhất. Do vậy trình độ tri thức cũng như đánh giá của sinh viên có nhiều điểm tương đồng qua quá trình tương tác với nhau. Nên đa số sinh viên đều có sự nhận thức đầy đủ và đúng đắn về đồng tính luyến ái và ảnh hưởng cuả nó. Điều này vô cùng cần thiết cho sinh viên trong việc nhận biết hiện tượng cũng như phòng ngừa nó.
2. Khuyến nghị
Đồng tính luyến ái không còn là một vấn đề thuộc tự do cá nhân mà đã trở thành một lối sống xã hội bất bình thường, khác với những quan niệm đạo đức tồn tại trong nền văn hoá Việt Nam. ảnh hưởng của nó tới mọi mặt của đời sống như sức khoẻ, đạo đức, văn hoá và luật pháp là không thể phủ nhận.
- Thứ nhất, đồng tính luyến ái là nhóm xã hội có khả năng lây truyền bệnh HIV nhanh nhất bên cạnh các nhóm đối tượng khác như nghiện hút.. do đặc thù mối quan hệ của họ.
- Thứ hai, đồng tính luyến ái thường do sự thiếu bản lĩnh của cá nhân trước những lôi kéo vật chất. Do vậy, nó trở thành một lối sống lệch lạc, không phù hợp với đạo đức xã hội.
- Thứ ba, tình dục đồng giới đã có khi phát triển trở thành một loại tệ nạn xã hội - mại dâm nam ảnh hưởng đến trật tự ,thuần phong mỹ tục của xã hội. Thêm nữa, một số tụ điểm văn hoá như vũ trường, quán bar đã trở thành nơi tụ tập của giới đồng tính ngay giữa Thủ đô Hà Nội.
Xuất phát từ những nhận xét như trên, chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra một số khuyến nghị cho hiện tượng này đặc biệt tập trung vào nhóm sinh viên như sau:
- Cho dù qua nghiên cứu đã có thể kết luận rằng sinh viên đa số đã có những hiểu biết về hiện tượng này nhưng sự tuyên truyền, giáo dục của trường đại học, Hội sinh viên, Đoàn thanh niên rất cần thiết. Đa số các bạn sinh viên đều có những hiểu biết về hiện tượng đồng tính luyến ái qua bạn bè hoặc qua sách báo. Những con đường truyền thông này cũng có hiệu quả nhất định. Tuy nhiên vẫn rất cần sự tuyên truyền chính thức và chính xác để sinh viên tiếp xúc nhận thức đọc tầm quan trọng của việc hiểu rõ bản chất hiện tượng. Không nên để xảy ra trường hợp như bạn sinh viên đã trở thành nạn nhân của tệ tình dục đồng giới vì thiếu hiểu biết. "Tôi chỉ là một nạn nhân vì sự dốt nát và thiếu cảnh giác."
(" Tôi đã đánh mất giới tính của mình như thế" - báo Hoa Học Trò -
số 420/421 - ra ngày 1-1-2002).
- Nhà trường và các tổ chức của sinh viên cần có sự kiểm tra và quan tâm thường xuyên đến các bạn sinh viên ở ký túc xá và đặc biệt là nhà trọ để tránh những tệ nạn xã hội như ma tuý hay tệ tình dục đồng giới ảnh hưởng đến họ. Đây là hai nhóm sinh viên có đặc thù về nơi ở đồng nhất về giới trong một thời gian dài. Thêm nữa, khu vực nhà trọ của sinh viên thường có dân cư phức tạp, lẫn lộn giữa tốt và xấu nên càng phải được thường xuyên kiểm tra.
- Ngày càng có nhiều những bài báo viết về hiện tượng đồng tính luyến ái ở nước ta. Điều này chứng tỏ đây không còn là một hiện tượng đơn lẻ mà đã có lúc phát triển thành một lối sống. Xã hội cần có sự tuyên truyền rộng rãi về hiện tượng này tới mọi thành viên để hạn chế phần nào sự phát triển của nó.
- Giáo dục giới tính trong gia đình và nhà trường ngay từ khi cá nhân còn trong tuổi nhỏ là vô cùng cần thiết cho sự phát triển bình thường về thể chất cũng như vai trò giới của cá nhân.
- Về phía sinh viên, là một nhóm xã hội có trình độ hiểu biết và năng lực đánh giá cao. Các bạn cần có sự cảnh giác và tạo cho mình một bản lĩnh để đối phó với những cám dỗ của cuộc sống có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào và với bất cứ ai. Đừng để có thêm những nạn nhân của tệ nạn xã hội vì sự thiếu cảnh giác và kém bản lĩnh của mình. Đặc biệt là những bạn sinh viên nam, nhóm được coi là dễ bị lôi kéo vào những hiện tượng tiêu cực của xã hội. Các bạn cần tạo cho mình một lối sống lành mạnh, điều này không những tốt cho các bạn mà cho cả những người thân đang sống quanh mình.
Tài Liệu tham khảo
[1]. Scott Coltrane/ Randall Collins
Sociology of marriage and the family(Gender, love and property)
NXB: Wadsworth/Thomson Learning 2001.
[2]. David Comstock
Violence against lesbians and gaymen
[3]. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng( đồng chủ biên)
Xã hội học - NXB ĐHQG 1997
[4]. Lê Ngọc Hùng - Nguyễn Thị Mỹ Lộc(đồng chủ biên)
Xã hội học về giới và phát triển - NXB ĐHQG Hà Nội 2000
[5]. Emile Durkhiem (Người dịch - Nguyễn Gia Lộc)
Các quy tắc của phương pháp nghiên cứu xã hội học
NXB Khoa Học Xã Hội Hà Nội 1993
[6]. Ron O'grady
Lạm dụng tình dục trẻ em - NXB Phụ Nữ 1995
[7]. Trần Bồng Sơn
Giới tính học trong bối cảnh Việt Nam - NXB Trẻ 2001
[8]. Báo Hoa Học Trò
Số 420-421 ra ngày 27- 12 - 2001 và 1-1-2002
[9]. Báo Sinh Viên Việt Nam
Số 15 ra ngày 10- 4- 2001
[10]. Báo An ninh thế giới
Số 291 ra ngày 30 - 5 -2002
[11]. Tạp chí AIDS và cộng đồng
Số ra ngày 1- 12 -2000
Lời cảm ơn
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo,
TS. Lê Thị Quý, người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo và bạn bè trong khoa
Xã Hội Học đã đóng góp những ý kiến quý báu và nhiệt tình
giúp đỡ tôi thực hiện đề tài của mình.
Hà Nội tháng 6 năm 2002
Sinh viên
Bùi Bích Hà
Mục lục
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài 1
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3
3. Mục tiêu nghiên cứu
4. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu,
mẫu nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
4.2 Khách thể nghiên cứu
4.3 Phạm vi và địa bàn nghiên cứu
4.4 Mẫu nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
5.2 Phương pháp cụ thể
6. Giả thuyết nghiên cứu
7. Khung lý thuyết
Phần nội dung chính
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1. Tổng quan về hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giới và
ở Việt Nam
2. Hệ khái niệm công cụ
2.1 Khái niệm sinh viên
2.2 Khái niệm giới tính
2.3 Khái niệm giới
2.4 Khái niệm bản sắc giới
2.5 Khái niệm vai trò giới
2.6 Khái niệm đồng tính luyến ái
2.7 Khái niệm lệch chuẩn
3. Các hướng tiếp cận lý thuyết
3.1 Lý thuyết xã hội hoá vai trò giới
3.2 Lý thuyết tương tác biểu trưng
Chương 2: Kết quả nghiên cứu, những giải pháp và khuyến nghị
Kết quả nghiên cứu
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2 Tổng quan địa bàn nghiên cứu
2. Mức độ biết đến của nhóm sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái và mức độ phổ biến qua điều tra tần suất gặp
2.1 Mức độ biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên
2.2 Mức độ phổ biến của hiện tượng đồng tính luyến ái qua điều tra
tần suất gặp của nhóm sinh viên
3. Nhận thức của nhóm sinh viên về bản chất của hiện tượng đồng tính luyến ái
3.1 Nhận thức của sinh viên về nhóm tuổi và nhóm đối tượng
3.2 Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng
đồng tính luyến ái
3.3 Nhận thức của sinh viên về biểu hiện của người đồng tính luyến ái
4. Quan điểm đánh giá của sinh viên về đồng tính luyến ái và
những ảnh hưởng của nó
5. Thái độ và quan điểm của sinh viên đối với người đồng tính luyến ái
5.1 Thái độ của sinh viên đối với người đồng tính luyến ái
5.2 Quan điểm của sinh viên về sự nghiệp và cuộc sống của người
đồng tính luyến ái
6. Một vài ý kiến của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái
Kết luận và khuyến nghị
1. Kết luận
2. Khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
5.2 Quan điểm của sinh viên về sự nghiệp và cuộc sống của người đồng tính luyến ái:
Cho dù nhận được sự cảm thông và chia sẻ của người thân và bạn bè nhưng để có được một sự nghiệp và cuộc sống riêng tư như những người bình thường khác, người đồng tính luyến ái sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho dù đây là hai mặt cần thiết cho một con người cũng như là cái đích để họ vươn tới. Bởi quan niệm xã hội là một bức tường vững chãi mà vượt qua nó là cả một quãng đường gian lao. Nhất là khi người đồng tính luyến ái ở nước ta chưa được chấp nhận cả về mặt xã hội cũng như cuộc sống của họ chưa được đảm bảo về luật pháp. Họ sẽ vẫn phải sống che dấu đi con người thật của mình nếu như muốn được nhìn nhận như những thành viên xã hội khác.
Bảng 14: Quan điểm của sinh viên về cuộc sống và sự nghiệp của người đồng tính luyến ái (Đơn vị %)
Người đồng tính luyến ái có thể có cuộc sống và sự nghiệp bình thường ?
Tỷ lệ lựa chọn
Có thể
52.8%
Không thể
15.0%
Băn khoăn
32.2%
Tuy vậy, đa số sinh viên cho rằng người đồng tính luyến ái có thể có một cuộc sống cũng như một sự nghiệp bình thường như bao người khác. 15% số sinh viên được hỏi cho rằng điều này là rất khó xảy ra và 32.2% sinh viên băn khoăn về khả năng này. Được sinh ra và lớn lên trong điều kiện phát triển về kinh tế cũng như sự tiếp nhận các giá trị văn hoá mới nên sinh viên mạnh dạn và thoáng hơn trong cách tiếp cận vấn đề. Do vậy, đối với người đồng tính luyến ái, sinh viên cho rằng họ hoàn toàn có thể sống như những người bình thường khác bởi họ sẵn sàng chia sẻ và giúp đỡ họ. Bởi họ cũng có những năng lực và trình độ tri thức như những người khác và họ cũng rất mong muốn được đóng góp cho xã hội.
"Sự ủng hộ và giúp đỡ người đồng tính luyến ái như thế nào là tuỳ từng nơi, từng người. Nhưng nếu họ có thể đối xử tốt với những người mắc HIV, tạo điều kiện cho họ sống hoà đồng thì với người đồng tính luyến ái, tại sao lại không được. Bởi nó không lây lan như bệnh HIV mà chỉ là một hiện tượng xã hội. Do vậy có thể khắc phục nó. Vì thế họ có thể có cuộc sống bình thường nếu được sự thông cảm của mọi người nhưng ngược lại cũng có thể dẫn tới một kết cục bi thảm nếu có sự phân biệt đối xử" (T. nữ, K46 ĐHTN, nhà trọ - Thanh Xuân).
Nhưng thực tế là cho dù có sự giúp đỡ của những người khác nhưng sự bất bình thường trong quan hệ khiến người đồng tính luyến ái luôn cảm thấy tự ti và nghi ngờ ngay cả khả năng mình có một cuộc sống bình thường."Tôi đã cố gắng giúp đỡ bạn tôi rất nhiều bằng cách nói chuyện, hoặc nói rằng tình trạng này của nó sẽ kết thúc nếu nó cố thoát ra khỏi những ám ảnh về tình dục. Nhưng nó không tin và luôn cho rằng nó sẽ chẳng bao giờ có được một cuộc sống bình thường."(H. nữ , K43 ĐHXHNV, gia đình).
Biểu 7: Tương quan giới /khả năng người đồng tính luyến ái có cuộc sống bình thường
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0131.doc