Nghiên cứu vấn đề di cư tự do trên địa bàn huyện Tuy Đức tỉnh Đăk Nông

1. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Tỉnh Đắk Nông là một tỉnh mới, thành lập ngày 01/01/2004 được chia và điều chỉnh địa giới hành chính của tỉnh Đắk Lắk theo Nghị quyết số 22/2003/QH.11, ngày 26/11/2003 của Quốc hội khoá XI trên cơ sở chia tách một số huyện phía Nam của tỉnh Đắk Lắk (cũ); Đăk Nông có tổng diện tích tự nhiên 651.402 ha, đất bazan màu mỡ thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Trên địa bàn toàn tỉnh có 20 xã và 28 thôn, bon thuộc khu vực đặc biệt khó khăn, thuộc di

doc125 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5033 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu vấn đề di cư tự do trên địa bàn huyện Tuy Đức tỉnh Đăk Nông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện được đầu tư Chương trình 135 (giai đoạn II). Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới còn 15,7%, trong đó hộ nghèo là dân tộc thiểu số chiếm 31% so với tổng số hộ nghèo toàn tỉnh. Mặc dù là một tỉnh có tiềm năng về đất đai, điều kiện khí hậu để phát triển sản xuất, nhất là sản xuất cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, nhưng vẫn chưa phát huy được tiềm năng sẵn có. Nguyên nhân là cơ sở hạ tầng còn quá yếu kém, dân cư thưa thớt và một bộ phận không nhỏ còn phân bố tự phát (phần lớn là dân di cư tự do), nên thời gian qua đã gây hạn chế rất lớn đối với công tác quản lý của các ngành chức năng, đồng thời ảnh hưởng đến việc triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đặc biệt tỉnh Đắk Nông có đặc điểm dân cư khá phức tạp, có nhiều thành phần dân tộc sinh sống (29 dân tộc), trong đó lượng dân di cư tự do từ các nơi trong cả nước kéo đến sinh sống chiếm tỷ lệ lớn, mỗi thành phần dân tộc có một đặc điểm cư trú và các phong tục, tập quán khác nhau, tạo nên một tổng thể cơ cấu dân cư có nhiều bất cập, điển hình là sự phân bố dân cư thiếu tập trung, có nhiều tôn giáo khác nhau sống trên cùng một địa bàn. Từ khi thành lập năm 2004 đến năm 2006, Đăk Nông đã tiếp nhận lao động và nhân khẩu từ các tỉnh đến xây dựng vùng kinh tế mới. Tuy nhiên, bên cạnh việc di dân theo kế hoạch thì tình trạng dân di cư tự do từ các tỉnh khác ồ ạt đến Đăk Nông và đời sống của đồng bào di cư tự do (DCTD) còn nhiều khó khăn. Tuy Đức là một trong những huyện nghèo của tỉnh, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí năm 2007 của toàn huyện chiếm trên 28%, kinh tế chậm phát triển, nguồn thu ngân sách còn quá thấp. Một trong những nguyên nhân chính làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của huyện Tuy Đức là tình trạng di cư tự do. Mặc dù, chính quyền các cấp đã có nhiều biện pháp để ổn định dân di cư tự do nhằm giúp đỡ đồng bào làm ăn sinh sống, hội nhập cộng đồng nhưng cho đến nay, tình trạng di cư tự do vẫn còn tiếp tục và gây ra nhiều diễn biến phức tạp ở nhiều xã trên địa bàn như tình trạng phát rừng, khai hoang lấy đất sản xuất vừa làm tổn hại đến môi trường, vừa gây khó khăn trong việc quy hoạch bố trí dân cư, quy hoạch sản xuất, quản lý dân cư, đảm bảo an ninh trật tự và phòng chống tệ nạn xã hội… Trong số đồng bào di cư tự do từ các tỉnh miền núi miền Bắc vào huyện Tuy Đức, chủ yếu là người đồng bào dân tộc thiểu số (ĐBDTTS). Vì vậy, số lượng di cư tự do của người đồng bào dân tộc thiểu số được xem như là đại diện cho dân di cư tự do vào huyện và việc ổn định đời sống cho người di cư tự do vào huyện Tuy Đức là hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn này, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu vấn đề di cư tự do trên địa bàn huyện Tuy Đức tỉnh Đăk Nông". 1.2. Mục tiêu của đề tài: 1.2.1. Mục tiêu chung: Thực trạng của vấn đề di cư tự do ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội đối với cộng đồng dân di cư nói riêng, của cộng đồng sinh sống trên địa bàn huyện Tuy Đức tỉnh Đăk Nông nói chung nhằm giải quyết vấn đề di cư tự do - đảm bảo phát triển kinh tế và an sinh xã hội. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể: - Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về di cư tự do và an sinh xã hội cho cộng đồng dân cư. - Đánh giá thực trạng di cư tự do trên địa bàn tỉnh Đăk Nông mà mục tiêu cụ thể là đồng bào di cư tự do vào huyện Tuy Đức. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự ổn định đời sống của đồng bào di cư vào địa bàn huyện Tuy Đức. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề kinh tế - xã hội của hộ di cư trong việc ổn định đời sống của đồng bào di cư tự do vào huyện Tuy Đức. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu: 1.3.2.1. Phạm vi về thời gian: Số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu, báo cáo từ năm 2008 trở về trước. Số liệu sơ cấp: Thu thập tình hình của các hộ dân di cư tự do đến năm 2008 và dự báo từ năm 2010 đến 2015. 1.3.2.2. Phạm vi về không gian: Địa bàn huyện Tuy Đức, trong đó trập trung nghiên cứu tình hình ổn định đời sống dân di cư tự do tại 03 xã trọng điểm của huyện Tuy Đức là Quảng Trực, Quảng Tân và Đăk Ngo. 1.3.2.3. Phạm vi về nội dung: Tập trung nghiên cứu về hộ dân di cư tự do người đồng bào dân tộc tại các điểm thuộc 3 xã Quảng Trực, Quảng Tân và Đăk Ngo; một số vấn đề kinh tế - xã hội liên quan đến việc ổn định đời sống của đồng bào di cư tự do vào huyện Tuy Đức. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN DI CƯ TỰ DO 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Các khái niệm cơ bản: 2.1.1.1. Di cư: Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu về di cư, song mỗi định nghĩa về di cư được xuất phát từ những khía cạnh khác nhau. Di cư có hai nghĩa; thứ nhất: di cư là hiện tượng di chuyển để mưu sinh của bầy đoàn khi chuyển mùa; thứ hai: di cư là hiện tượng người dân dịch chuyển từ nơi này đến nơi khác để sinh sống. Di cư theo nghĩa thứ hai được hiểu đồng nghĩa với di dân. Theo khái niệm của Liên hiệp quốc, di cư là sự di chuyển từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác, hoặc là sự di chuyển với khoảng cách tối thiểu quy định. Sự di chuyển này diễn ra trong khoảng thời gian di dân xác định và được đặc trưng bởi sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên. Nơi xuất cư hay gọi là nơi đưa dân đi (đầu đi): là địa phương có dân đưa đến các vùng thuộc các tỉnh khác, hoặc trong phạm vi của tỉnh. người dân đi từ địa phương này gọi là xuất cư. Nơi nhập cư hay gọi là nơi đón dân (đầu đến): là địa phương có dân đến định cư theo chương trình. Người dân định cư ở vùng mới gọi là dân nhập cư. 2.1.1.2. Di dân: Di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người với những thay đổi của tự nhiên, xã hội và sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội giữa các vùng các quốc gia trên thế giới. Quá trình di dân có những nét khác biệt giữa các nước và các vùng về hướng, quy mô cũng như hiệu quả kinh tế của nó. Vì vậy, cơ sở lý luận về di dân cũng cần được nghiên cứu kỹ, cần có những đánh gía cụ thể các cuộc di dân quốc tế cũng như trong từng nước, từng khu vực để phát huy hết những ảnh hưởng tích cực, khắc phục những mặt tiêu cực của quá trình này. * Theo nghĩa rộng: di dân được hiểu là sự chuyển động cơ học của dân cư. Như vậy, bất cứ sự chuyển động nào của con người trong không gian gắn với sự thay đổi theo vị trí địa lý lãnh thổ đều được coi là di dân. * Theo nghĩa hẹp: di dân được hiểu là sự chuyển dịch của dân cư theo lãnh thổ, sự phân bố lại dân cư. Tuy nhiên không phải bất kỳ sự dịch chuyển nào của dân cũng là di dân, mà di dân là sự di chuyển của dân cư ra khỏi biên giới đất nước hay ra khỏi lãnh thổ hành chính mà họ đang cư trú gắn với việc thay đổi chỗ ở của họ. Các nhà dân số học coi di dân là một trong ba bộ phận cấu thành của quá trình dân số và phân biệt với quá trình sinh, tử bởi những đặc điểm sau: - Di dân không phải quá trình sinh học nên không bị giới hạn độ tuổi hay giới tính mà chỉ giới hạn về mặt xã hội. - Di dân không có hạn định tối đa, sự di chuyển giữa các vùng, khu vực chỉ có ảnh hưởng về mặt xã hội hay sự phát triển từ trong khu vực. - Quá trình di dân không đồng nhất, có sự khác biệt giữa các loại và đặc điểm của các loại về mặt xã hội. Dưới góc độ quản lý, di dân là sự dịch chuyển dân cư theo không gian và thời gian từ nơi này đến nơi khác. Có ba tiêu chí để xác định: - Đây là sự dịch chuyển địa điểm từ đơn vị hành chính này đến đơn vị hành chính khác. - Vì mục đích kinh tế - xã hội, gắn với điều kiện kinh tế, phát triển đời sống. - Thời gian đến nơi ở mới phải lâu dài. Trong nghiên cứu di dân, các thuật ngữ “di dân” và “di cư” được dùng khá phổ biến và thường không phân biệt sự khác nhau vì cùng nói về sự di chuyển của con người. 2.1.1.3. Các loại hình di dân tự do (di cư tự do): * Theo độ dài thời gian cư trú, có thể phân biệt các loại di cư: di cư lâu dài, di cư tạm thời và di cư chuyển tiếp. - Di cư lâu dài: Gồm các hình thức thay đổi nơi cư trú thường xuyên và nơi làm việc đến nơi ở mới với mục đích sinh sống lâu dài, trong đó phần lớn những người di cư là do chuyển công tác đến nơi khác xa nơi ở cũ, những người kiếm tìm cơ hội mới di chuyển đến những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội tốt hơn, có thể tìm kiếm việc làm và cuộc sống mới. - Di cư tạm thời: là sự thay đổi nơi ở cũ lâu dài và đến một lúc nào đó sẽ quay trở lại nơi ở cũ, di cư này thường là sự di chuyển theo mùa vụ hoặc theo thời gian. - Di cư chuyển tiếp: là sự di cư mà đích đến sẽ là một nơi khác tiếp theo chứ không phải là nơi vừa mới tới. * Theo không gian: có thể hình thành các loại di cư trong một vùng hoặc gần nhau giữa nơi đi và nơi đến, di dân giữa các nước thì gọi là di cư quốc tế, di cư trong nước hoặc nội vùng thì gọi là di cư nội địa. * Theo hình thức tổ chức: bao gồm các loại hình di dân sau: - Di dân có tổ chức (di dân theo kế hoạch của Nhà nước): sự di chuyển này được thực hiện theo các chương trình, mục tiêu của Nhà nước vạch ra trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Hình thức này được sự hỗ trợ và giúp đỡ cần thiết từ nhà nước để ổn định đời sống, kinh tế - xã hội của cộng đồng di dân cả ở nơi đi và nơi đến; hình thức này thường là di dân đến vùng kinh tế mới, bảo vệ an ninh quốc phòng hoặc di dân để thực hiện các dự án của Nhà nước. - Di dân không có tổ chức, được phân chia thành hai loại di dân tự do và di dân bất hợp pháp: + Di dân tự do: Theo quy định tại Thông tư số 05/NN/ĐCĐC – KTM ngày 26 tháng 3 năm 1996 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì “Di dân tự do (di cư tự do) là đồng bào chuyển cư ngoài kế hoạch di dân hàng năm của nhà nước”, có nhiều quan điểm khác nhau về di dân tự do. Quan niệm phổ biến được các nhà nghiên cứu công nhận: di dân tự do cũng có đủ các tiêu chí như di dân nhưng trong trường hợp này một cá nhân, một gia đình, một nhóm nguời tự quyết định hành vi đi hay ở mà không chịu sự tác động từ phía Nhà nước hoặc bên ngoài. Có thể hiểu di dân tự do là sự di chuyển đến nơi ở mới hoàn toàn do người dân tự quyết định, bao gồm việc lựa chọn nơi đến, họ tự tổ chức di chuyển, tự lo các khoản kinh phí, tự tạo cuộc sống mới tại nơi đến trên cơ sở thực hiện một số các thủ tục đối với chính quyền sở tại nơi họ chuyển đến. Ngoài ra, nó còn thể hiện sức hút của nơi đến và lực đẩy của nơi đi. + Di dân bất hợp pháp: là sự di chuyển đến nơi cư trú mới có đặc điểm gần giống di dân tự do nhưng người đi bỏ qua sự kiểm soát và không trình diện với chính quyền địa phương nơi đến. Hình thức này thường gây ra những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và môi trường nơi đến. 2.1.1.4. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng di cư tự do: a. Điều kiện sống, nơi cư trú: Phần lớn những người di cư tự do là tìm kiếm cuộc sống tốt hơn tại nơi ở mới cho bản thân, gia đình và cộng đồng của mình. Đây là sự thay đổi cơ bản trong cuộc sống người dân về các mặt văn hoá, tinh thần, sinh hoạt trước đây, do nơi ở cũ thiếu công ăn việc làm, đời sống bấp bênh. b. Trình độ dân trí: Trình độ dân trí cũng tác động không nhỏ đến vấn đề di cư tự do, họ chủ yếu là ít được học hành, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức của họ đối với đời sống, kinh tế - xã hội ở cả nơi đi và nơi đến. c. Tập quán dân tộc: + Một số dân tộc ít người ở miền núi phía Bắc có tập quán dân tộc di cư tự do từ nơi này đến nơi khác canh tác theo kiểu phá đốt, chọc tỉa trên đất dốc nên đã làm cho đất bị rửa trôi mạnh và nhanh chóng trở nên cằn cỗi, bạc màu. Sau vài năm canh tác, khi thấy đất đã cằn cỗi, họ lại tiếp tục khai phá những vùng đất mới, hậu quả là đất trống đồi núi trọc tăng nhanh. Tình trạng du canh, du cư vẫn diễn ra thường xuyên, dẫn đến những khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng tiếp tục bị tàn phá, gây tác động xấu đến bảo vệ môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. d. Kẻ xấu xúi giục kích động: Hầu hết các hộ dân di cư tự do có đời sống vô cùng khó khăn, họ sống tự phát rải rác trên các khu đất sản xuất, một số sống trong các khu rừng, các vùng trũng thường xuyên bị ngập lụt, xa các khu trung tâm, những nơi thiếu cơ sở hạ tầng, điều kiện sống và sản xuất khó khăn, không có điều kiện khám chữa bệnh, con em không được đến trường, tỷ lệ thất học, mù chữ cao, nhiều thủ tục lạc hậu vẫn tồn tại. Tại nơi dân di cư tự do sinh sống thường xảy ra các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, cờ bạc, nghiện hút, việc mua bán, sang nhượng, tranh chấp đất đai giữa dân di cư tự do với dân sở tại, giữa dân di cư tự do với nhau, tình trạng đói nghèo phổ biến, nhất là tình trạng phá rừng làm nương rẫy xảy ra ngày càng nghiêm trọng, không kiểm soát được. Những nguyên nhân đó đã tạo điều kiện cho những kẻ lợi dụng dân tộc, tôn giáo, lôi kéo, kích động đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ gây mất ổn định tình hình an ninh, chính trị xã hội và tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, gây không ít khó khăn cho địa phương về quản lý nhân hộ khẩu cũng như qui hoạch bố trí dân cư. 2.1.2. Lý luận về di cư tự do 2.1.2.1. Vai trò của sự ổn định đời sống dân di cư tự do Việc ổn định đời sống những hộ đã di cư tự do sẽ từng bước khắc phục những khó khăn, tồn tại do tình trạng di cư tự do gây ra như: thiếu đói, tệ nạn xã hội, để tạo điều kiện cho đồng bào sớm hòa nhập cộng đồng, đảm bảo chính sách đoàn kết các dân tộc, khai thác tốt tiềm năng và sức lao động, từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế, tổ chức sản xuất - nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Mặt khác, việc ổn định đời sống dân di cư tự do còn góp phần hạn chế luồng di cư tự do từ những địa bàn thường xảy ra tình trạng này, tiến tới kiểm soát và điều chỉnh được hoạt động di dân phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từng vùng lãnh thổ, từng địa phương; từ đó có nguồn lực để tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc ở những điểm có nhiều đồng bào di cư tự do mà đời sống đang còn nhiều khó khăn. 2.1.2.2. Tác động của hiện tượng di cư, di cư tự do: * Di cư có kế hoạch: Di cư có kế hoạch trong những năm gần đây đã đem lại những kết quả đáng kể: - Làm giảm sức ép dân số, việc làm ở một số tỉnh vốn thiếu đất sản xuất, thiếu việc làm, là một trong những giải pháp phân bổ lao động. - Góp phần tích cực khai thác đất đai, phát triển vùng kinh tế mới, tạo thành nhiều vùng sản xuất tập trung lớn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu có giá trị. - Xây dựng vùng kinh tế mới, hình thành một hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân như đường, điện, thủy lợi, trường học, trạm y tế… - Xây dựng vùng kinh tế mới ở các vùng núi, biên giới, hải đảo, tăng cường khả năng an ninh quốc phòng cho đất nước. * Di cư tự do: - Mặt tích cực: + Di cư góp phần phần bổ lại lao động và dân cư một cách tự nhiên, mở các điểm kinh tế mới ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, thúc đẩy kinh tế địa phương (nơi có dân nhập cư) phát triển. + Di cư tự do đã tạo cơ hội việc làm cho họ và phần đông trong số họ đã có nguồn thu nhập cao hơn so với nơi ở cũ. Trong các chỉ tiêu so sánh giữa nơi ở cũ và nơi ở mới, thực tế cho thấy chỉ có hai chỉ tiêu là việc làm và thu nhập tại nơi ở mới được đánh giá là tốt hơn, các chỉ tiêu khác như nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, điều kiện học hành con cái, ý tế, giao thông, mua bán, thông tin liên lạc là kém hơn hoặc bằng nơi ở cũ. + Di cư tạo cơ hội tăng thu nhập, góp phần nâng cao mức sống gia đình và giảm đói nghèo ở các vùng nông thôn có thu nhập thấp. Ngoài ra, dân di cư tự do đã cung cấp một lực lượng lao động làm thuê cho các nông - lâm trường địa phương trong những lúc thời vụ (thu hái cà phê, chăm sóc cây cao su, thu hái chè và các loại nông sản khác). Di cư tự do đến địa phương nào thì họ cũng đã tham gia tích cực vào thị trường lao động tại các địa phương đó. + Đối với nơi có dân đi: các đối tượng di cư để lại một số diện tích đất canh tác, vườn cây cho những người ở lại sản xuất, tạo thêm cơ hội việc làm cho người dân ở lại địa phương, giảm sức ép về dân số đối với các vùng "đất chật, người đông". Một số dân di cư tự do làm ăn khá đã góp phần giải quyết khó khăn về kinh tế cho gia đình, bà con thân thích ở quê cũ. + Về mặt xã hội: di cư tự do còn góp phần tích cực đưa thêm ngành nghề đến nơi nhập cư; góp phần thực hiện các chính sách và nghĩa vụ công dân như thuế, nghĩa vụ quân sự và thực hiện đóng góp xây dựng địa phương mới nhập cư. - Mặt tiêu cực: + Song song với mặt tích cực thì di cư tự do cũng làm nảy sinh những mặt tiêu cực cho đời sống xã hội của đất nước. Di cư tự do làm tăng dân số một cách đột biến, khai phá rừng bừa bãi, làm suy thoái vốn rừng; quá tải sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở, làm trầm trọng môi trường sinh thái và mĩ quan đô thị. Một bộ phận những người di cư tự do không có đất dựng nhà nên đã phá rừng, đốt rẫy, lấy gỗ để dựng nhà khiến cho diện tích rừng bị thu hẹp, nhiều vùng đất đai bị xói mòn và thoái hóa nghiêm trọng cũng như làm cạn kiệt nguồn nước tự nhiên. + Di cư tự do ngoài kế hoạch làm đời sống nhân dân ở nhiều vùng định cư gặp nhiều khó khăn, còn tạo thêm gánh nặng cho địa phương (nơi nhập cư) trong việc đầu tư thêm cơ sở hạ tầng ở các vùng đất mới. Di cư tự do còn làm nảy sinh một số vấn đề xã hội phức tạp như mất trật tự an ninh, xung đột giữa người di cư và người địa phương; nạn cờ bạc, nghiện hút, mại dâm… Đa số những người đi di cư tự do không đăng ký hộ khẩu, kể cả hộ khẩu tạm trú nên địa phương nơi cư trú khó nắm bắt hoạt động của họ khi có những vi phạm về trật tự, an ninh xảy ra. + Di cư tự do đến các vùng đất mới cùng với việc tăng dân số tự nhiên làm tăng đột biến nhu cầu các dịch vụ xã hội, vượt khả năng đáp ứng hiện có ở địa phương, cơ sở hạ tầng phục vụ dân sinh vốn đã thiếu lại càng thiếu thêm. Do vậy tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh phụ khoa và tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng rất cao. - Nguyên nhân của tình hình tiêu cực nêu trên: Theo các tác giả Nguyễn Hữu Tiến (trong Điều tra cơ bản và xác định các giải pháp giải quyết tình hình di cư tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh khác), nguyên nhân của những tác động tiêu cực trên là do: + Trước hết, dòng di cư tự do với số lượng lớn ồ ạt đến vào thời điểm địa phương chưa có quy hoạch ổn định, đại bộ phận là dân nghèo, lại bao gồm nhiều dân tộc, nhiều địa phương khác nhau, nếp sống tập quán khác nhau, có nhiều người tốt nhưng cũng có kẻ xấu; lại không được quản lý tốt của địa phương nơi đi cũng như địa phương nơi đến nên gây ra những tiêu cực trên. + Dân di cư tự do phân bố rải rác, họ đến nơi cư trú mới để tìm đất sản xuất, tìm việc làm, mong cuộc sống khá hơn nơi ra đi nên nơi nào thuận lợi thì họ đến, nơi nào có sự quản lý lỏng lẻo thì họ tranh thủ làm ăn. Việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng gần như không thực hiện được vì họ không có gì ngoài hai bàn tay trắng và niềm tin tồn tại bằng sự khai phá đất rừng để canh tác. + Thu nhập và đời sống của số dân di cư tự do thấp kém lại đến những vùng mà ở đó dân bản địa đời sống cũng còn khó khăn, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống chưa có gì đáng kể. Ngân sách địa phương có hạn, nhà nước lại chưa có chính sách hỗ trợ về mặt tài chính, trách nhiệm của địa phương có dân đi cũng không đầy đủ nên khó ngăn chặn những tiêu cực xảy ra. + Các địa phương có dân di cư đến cũng như các địa phương có dân đi chưa có quy hoạch tổng thể về sử dụng đất đai, về phân bổ lao động và dân cư, về các vùng định canh định cư, các vùng kinh tế mới nên các dự án xây dựng thường bị động, phiến diện lại không được đầu tư dứt điểm, không đáp ứng được yêu cầu bức bách của người dân di chuyển cũng góp phần tạo nên những tiêu cực trên. + Sự quản lý của địa phương cũng có nhiều bất cập và tồn tại như chưa tuyên truyền, phổ biến, giáo dục một cách liên tục, rộng rãi đối với mọi tầng lớp dân cư (đặc biệt là vùng nông thôn, miền núi những vùng có dân đi và đến) về các quy định quản lý hộ khẩu, về di cư và định cư, về bảo vệ môi trường và tài nguyên. Mặt khác chưa xử lý nghiêm khắc những kẻ coi thường pháp luật, tuỳ tiện di cư, định cư, tuỳ tiện phá rừng, mua bán đất đai trái phép ở những vùng kinh tế mới, những kẻ dụ dỗ, lừa đảo người di cư tự do. + Chính quyền bị động trong việc đưa ra những chính sách kinh tế - xã hội để ổn định di cư tự do và các giải pháp có tính khả thi cho những vùng có dân đến như chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách đầu tư và trợ giúp vốn, chính sách xuất cư và nhập cư… và cho những vùng có dân đi như chính sách giải quyết về đất đai và tài sản của người dân di cư tự do, chính sách hỗ trợ cho người đã ra đi và dân nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người vốn có khó khăn triền miên. Nếu Nhà nước có sự hướng dẫn, chủ động làm tốt trong việc bố trí sản xuất, điều hòa phân phối dân cư lao động giữa các vùng, các tỉnh thì chắc chắn đã không xảy ra những mặt tiêu cực đáng tiếc trong thời gian qua. 2.1.2.3. Xu hướng di cư tự do: Những nghiên cứu và đánh giá gần đây cho thấy xu hướng di cư của Đông Nam Á nói chung và của Việt Nam nói riêng sẽ ngày càng tăng lên. Phương thức di cư của Việt Nam đi theo xu hướng đã xuất hiện ở các nước châu Á khác. Nghiên cứu của Viện kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã xác định bốn đặc điểm quan trọng về xu hướng di cư của nước ta là: - Mức độ di cư trong nước đang tăng lên. - Di cư nông thôn ra thành thị đang tăng lên. - Có một tỷ lệ khá cao trong di cư loại này là di cư tạm thời. - Dòng người di cư có một tỷ lệ cao là phụ nữ. Dựa trên các tài liệu về di cư ở Việt Nam, ta có thể xác định được ba dòng di cư chính như sau: i) Di cư từ đồng bằng sông Cửu Long, miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Hồng đến Đông Nam bộ. Những người này tìm kiếm các việc làm phi nông nghiệp ở các khu công nghiệp. Đông Nam bộ là khu vực năng động nhất nước ta và có nhiều thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Bình Dương và các khu công nghiệp lớn như Sóng Thần I, Sóng Thần II, Tân Tạo, Việt Nam - Singapore. ii) Di cư từ miền núi phía Bắc xuống đồng bằng sông Hồng. iii) Di cư từ vùng duyên hải miền Trung, miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Hồng lên Tây Nguyên. Những người này tìm kiếm việc làm và thu nhập từ các vùng có cây công nghiệp hoặc mua đất để đầu tư trồng cà phê, cao su, hồ tiêu và các mặt hàng xuất khẩu khác. Di cư nông thôn tới các doanh nghiệp ở khu vực thành thị cả ở kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh với số lượng ngày càng tăng dường như là dạng phát triển nhanh nhất của di cư cả nước. Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình năm 1997/98 chỉ ra rằng điểm đến chính cho người đi di cư gồm thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và một số trung tâm kinh tế mới phát triển như Quảng Ninh, Bình Dương, Đồng Nai. 2.1.2.4. Các quan điểm về di cư tự do: Lý thuyết về các yếu tố của lực đẩy và lực hút: * Mitchell (trong "Phân tích thực trạng di dân tự do đến Đăk Lăk và ảnh hưởng của nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội" 2002) nhấn mạnh sự cần thiết phải nhận thức được tầm quan trọng của cơ chế di cư và điều này rất hữu ích cho việc lý giải nguyên nhân vì sao một số người ra đi và những người khác vẫn ở lại, dù đó là cá nhân, cộng đồng nhỏ hay lớn. Người ta không di chuyển trong chân không mà di chuyển trong một môi trường nhất định, gồm: - Các yếu tố tự nhiên như khí hậu, thời tiết hay độ màu mỡ của đất. - Các yếu tố kinh tế như: sự giàu có (hoặc sự nghèo khổ) tương đối hay các cơ hội về việc làm. - Các yếu tố xã hội, chẳng hạn những yếu tố ngăn cản họ dời bỏ quê hương hoặc ngược lại đẩy họ ra đi. - Các yếu tố chính trị như vấn đề luật pháp khuyến khích họ hay thậm chí buộc họ phải di chuyển đến vùng nhất định hay bất cứ nơi đâu. Theo lý thuyết này, quá trình di cư tự do xảy ra khi có sự khác biệt rõ rệt giữa hai vùng đi và đến về các yếu tố đặc trưng tự nhiên, kinh tế, xã hội, trong đó các điều kiện kinh tế xã hội sẽ quyết định. Các yếu tố thường được gọi là lực đẩy, lực hút thường được tạo bởi các vấn đề khác nhau. * Everett Lee (trong "Di dân tự do nông thôn - thành thị ở thành phố Hồ Chí Minh" 1998). Mô hình của Everett Lee ra đời vào những năm 60 của thế kỷ XX trên cơ sở tóm tắt lại những "luật di cư" của Ravenstein và những cảm nhận của mình, ông cung cấp những cơ sở có giá trị về việc xem xét tại sao con người lại di chuyển và tại sao họ lại chọn địa điểm định cư. Ông cho rằng, dẫn đến di cư là sư kết hợp của tất cả các yếu tố nơi đi và nơi đến. Ông coi (+) là yếu tố tích cực, (-) là yếu tố tiêu cực, (0) là yếu tố trung lập. Mô hình của Everett Lee được thể hiện qua sơ đồ 1. Theo suy luận đơn giản nhất thì sự di cư có khả năng xảy ra nhiều nhất ở nơi mà tác động của các yếu tố tiêu cực ở địa điểm đi và các yếu tố tích cực ở địa điểm đến trong tương lai là lớn hơn những yếu tố gắn bó con người với vùng quê của họ, hoặc yếu tố ngăn cản họ di chuyển đến nơi khác. Sự cân bằng tương đối giữa các yếu tố tích cực có thể sẽ tác động mạnh mẽ không chỉ tới mức độ di cư mà còn tới cả hướng chuyển động, dòng di cư sẽ hướng tới nơi hấp dẫn hơn. Nó có khả năng tác động tới thời gian kéo dài của những người di chuyển, khi mà di cư trở lại (hồi cư) có thể xảy ra nhiều hơn nếu cộng đồng nơi đi tiếp tục duy trì sức hấp dẫn đối với những người di chuyển. Một yếu tố khác cũng tác động tới khả năng di cư là cái mà Lee gọi là "những trở ngại ở giữa", đây có thể là những rào chắn đối với di cư (như chi phí vận chuyển, khoảng cách về không gian và văn hóa khác nhau giữa các nơi, quan hệ họ hàng, gia đình, thiếu thông tin về cơ hội và điều kiện nơi ở mới, luật pháp,…) nó có thể vượt qua đối với một số người, nhưng đối với một số người khác lại là điều không thể vượt qua được. + - + - + - 0 + - 0 - + 0 0 + - + + - + 0 + - + - + 0 - + + - 0 + + - 0 + - + 0 + 0 + + - 0 + 0 + 0 0 + 0 + - Các trở ngại Nơi đi Nơi đến Sơ đồ 2.1: Lực hút, lực đẩy và các trở ngại trong di cư Như vậy, mô hình của Lee đã phân biệt bốn tập hợp các nhân tố cơ bản quyết định việc ra đi của người di cư, đó là: + Những nhân tố có liên quan đến nơi đi. + Những nhân tố có liên quan đến nơi đến. + Có trở ngại trung gian ngăn cách giữa nơi đi và nơi đến. + Những yếu tố mang tính cá nhân của con người. Nguyên nhân chênh lệch vùng: Tương tự như lý thuyết lực đẩy, lực hút, các nhà nghiên cứu của Viện nghiên cứu chiến lược phát triển Việt Nam khi xem xét các nhân tố tác động đến chênh lệch vùng coi như là nhân tố lực đẩy, lực hút. Có thể tóm tắt các nhân tố được xem xét trong chênh lệch vùng bao gồm: - Sự khác biệt của các nhân tố tự nhiên và tài nguyên (vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thủy văn, đất đai và tài nguyên khoáng sản, rừng, biển, nước…). Chênh lệch về các đặc điểm dân số, lao động và các vấn đề xã hội: trong đó chỉ tiêu cần xem xét là trình độ văn hóa nói chung và học vấn nói riêng, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động, mức hưởng thụ các sản phẩm văn hóa của cuộc sống xã hội, của cộng đồng và của mỗi gia đình, chất lượng cuộc sống thể hiện qua các điều kiện ăn ở, giáo dục, dịch vụ y tế, nhu cầu giải trí… - Chênh lệch vùng về phát triển kinh tế: Đây là đặc trưng quan trọng nhất được thể hiện qua chỉ tiêu tăng trưởng GDP, GDP/người, thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người, tiết kiệm, đầu tư phát triển và huy động ngân sách, phúc lợi xã hội… Hệ quả của chênh lệch vùng đã tạo ra các dòng di chuyển dân cư và lao động từ vùng nghèo (kém phát triển) ra các vùng giàu (vùng phát triển). Sự di chuyển đó hình thành nên hai vùng không gian: không gian tích cực (được tập trung có cả sức hút lẫn sức đẩy lớn) và không gian thụ động (không gian bị hút là chủ yếu) càng làm tăng sự chênh lệch về kinh tế, đời sống xã hội giữa các vùng, các cộng đồng, các tầng lớp dân cư giữa các vùng có thể gây ra xung đột và tạo ra hậu quả xã hội khó có thể lường được. Di cư tự do vì sinh kế: - Theo số liệu điều tra di cư Việt Nam năm 2004, lý do di chuyển nơi cư trú gồm nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng nguyên nhân cao nhất là về kinh tế, chiếm 68,6% trên tổng số người được phỏng vấn (bảng 2.1). Bảng 2.1: Lý do di chuyển chính chia theo nơi cư trú hiện tại và giới tính Lý do di chuyển chính Hà Nội Các khu kinh tế Tây nguyên Thành phố Hồ Chí Minh Khu công nghiệp Đông nam bộ Tổng số Kinh tế 54,3 71,2 58,5 79,7 79,3 68,6 Học tập 5,7 7,9 0,3 5,1 3,7 4,5 Gia đình 21,4 16,2 15,1 10,0 11,6 14,9 Lý do khác 18,6 4,6 26,0 5,2 5,4 12,0 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Số người 999 998 1.000 1.001 1.000 4.998 Nguồn: Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 - Tổng cục Thống kê Những nhân tố thúc đẩy di cư có quan hệ với các sự kiện trong đời sống hộ gia đình. Quyết định di cư thường là kết quả của những đắn đo, tính toán trong một thời gian dài, bao gồm cả việc cân nhắc những cái được và cái mất giữa các thành viên trong hộ. Ở vào những giai đoạn khác nhau của đời sống gia đình. Nếu không tham gia vào hoạt động kinh tế tăng thu nhập, các hộ ở nông thôn sẽ không thể có đủ thu nhập để tồn tại hoặc chi trả những khoản chi tiêu khi đau ốm và cho việc học tập. Thông qua di cư, các thành viên trong hộ sẽ chung sức đóng góp thu nhập, tích lũy vốn để phát triển. - Tại Hội nghị Sơ kết thực hiện Chỉ thị 660/TTg về giải quyết tình trạng dân di cư tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh khác, diễn ra ngày 16/9/2004, tại Hà Nội, ông Hứa Đức Nhị, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT cho biết: đối tượng di cư tự do gồm nhiều dân tộc khác nhau, diễn biến của di cư tự do khá phức tạp và khó kiểm soát, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi Bắc Bộ. Lý do khiến cho các đối tượng trên thường xuyên di cư tự do, đó chính là vì họ nghèo, đời sống kinh tế khó khăn, thiếu vốn sản xuất. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở Mường Lát (Thanh Hóa) hơn 90%, Bình Thuận 50%, Sơn La, Điện Biên cũng trên 50%... Hơn nữa, các tỉnh miền núi phía Bắc thường có địa hình phức tạp, độ dốc lớn, khí hậu khắc nghiệt, trong khi các tỉnh Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và các vùng khác có điều kiện sản xuất nông, lâm nghiệp tốt hơn nên đã thu hút người dân di cư tự do đến lập nghiệp. 2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến DCTD và ổn định đời sống người DCTD: 2.1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến DCTD: Các yếu tố ảnh hưởng đến di cư tự do bao gồm từ các cơ hội về kinh tế, tính sẵn sàng về nhà ở và các điều lệ, quy định của địa phương nơi đến, loại hình di cư, các hỗ trợ mà người di cư có thể có được thông qua hệ thống phúc lợi xã hội chung h._.oặc mạng lưới xã hội riêng của người di cư. Có thể phân loại 3 nhân tố ảnh hưởng chính đến việc di cư tự do là yếu tố lực hút, yếu tố lực đẩy và yếu tố xúc tác. Trong đó yếu tố lực hút và lực đẩy nặng về các yếu tố bên ngoài và có ảnh hưởng đến nhu cầu di cư, còn các yếu tố xúc tác thường liên quan đến tâm tư, tình cảm và quyết tâm của người di cư tự do, khi có đủ các yếu tố xúc tác, sự di cư mới xảy ra. Chi tiết được thực hiện theo bảng phân loại dưới đây: Bảng 2.2: Các yếu tố ảnh hưởng đến việc di cư tự do Lực đẩy Lực hút Đói nghèo Kỳ vọng vào thu nhập cao hơn Thiếu đất sản xuất Kỳ vọng vào sử dụng nhiều đất đai hơn Thiếu việc làm, thất nghiệp Khả năng kiếm được việc làm Tập quán du canh du cư Điều kiện canh tác thuận lợi hơn Sự chán nản, bất đồng… Sự kêu gọi, thuyết phục di cư của những người di cư trước Xúc tác Nhu cầu về sự cần thiết phải di cư Sự sẵn sàng về di cư (sự tự nguyện di cư, đủ điều kiện về vật chất để di cư) Quyết tâm di cư Di cư Nguồn: Phân tích của tác giả Yếu tố xúc tác có vai trò hết sức quan trọng, tuỳ trường hợp mà nó có thể tạo ra sự di cư lâu dài, tạm thời hay tiếp tục di cư. Đồng thời người di cư có thể bỏ qua hoặc lặp lại yếu tố này trong quá trình quyết định di cư. 1 - Nhu cầu di cư 3 - Quyết tâm di cư 4 - Di cư 2- Sự sẵn sàng di cư Chiêm nghiệm Suy nghĩ Quyết định Tự đánh giá sự di cư Sơ đồ 2.2: Quá trình quyết định di cư tự do 2.1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định đời sống của người DCTD: * Nhóm yếu tố về điều kiện nội tại của người di cư tự do: - Trình độ học vấn và kỹ năng lao động Người di cư nói chung và di cư tự do nói riêng phần đông đều mong muốn có việc làm và thu nhập, một trong những yếu tố ảnh hưởng chính đến khả năng hội nhập nơi định cư là trình độ học vấn và kỹ năng lao động để tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất. Vì vậy, trình độ học vấn và kỹ năng lao động của người di cư có ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống của con người di cư tại nơi ở mới. - Tình trạng bệnh tật của người di cư/hộ di cư. - Tai nạn, không có khả năng tài chính. - Nợ nần, mất mùa. - Khả năng thích ứng, khả năng nắm bắt tình hình sản xuất và đời sống của địa phương nơi đến. - Phong tục, tập quán, văn hóa, ngôn ngữ của người di cư. - Khả năng về nghề nghiệp của người di cư… * Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên: - Vị trí địa lý và đất đai: Đối với người di cư vào Tây Nguyên và một số vùng khác với mục đích tìm kiếm việc làm có thu nhập từ các vùng có cây công nghiệp hoặc mua đất để đầu tư thì quy mô đất đai, địa hình và tính chất nông hóa thổ nhưỡng có sự ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, vì đất đai cũng một phần ảnh hưởng số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra, giá trị sản phẩm và lợi nhuận đem lại. - Khí hậu thời tiết và môi trường sinh thái: Khí hậu thời tiết có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, các yếu tố tự nhiên như hạn hán, lũ lụt, sạt lở đất là những tác động ảnh hưởng xấu đến đời sống người di cư tự do. * Nhóm yếu tố về kinh tế: - Vốn: Trong sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng, vốn là điều kiện đảm bảo cho người di cư tự do đảm bảo cuộc sống ban đầu và việc tiếp cận được các nguồn vốn cho phép họ có khả năng tiến hành phát triển, mở rộng sản xuất, kinh doanh. - Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng có tác dụng to lớn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, các nguồn lực cho sản xuất, vì vậy, nơi nào cơ sở hạ tầng phát triển thì nơi đó sản xuất phát triển, thu nhập tăng, mức độ thu hưởng các dịch vụ công cộng của người di cư được cải thiện. - Thị trường: Nhu cầu thị trường sẽ quyết định người di cư sản xuất theo hướng nào là có lợi nhất. Thị trường hàng hóa, dịch vụ cho phép người di cư tiếp cận và trao đổi hàng hóa được dễ dàng, giảm bớt các khó khăn trong bước đầu định cư cũng như cho phép họ thâm nhập vào đội ngũ lao động của các địa phương một cách nhanh nhất. * Nhóm yếu tố thuộc về quản lý vĩ mô của Nhà nước: Nhóm nhân tố này bao gồm chính sách, chủ trương của Đảng và nhà nước như: chính sách thuế, chính sách ruộng đất, chính sách bảo hộ sản phẩm, trợ giá nông sản, miễn thuế cho sản phẩm mới, chính sách cho vay vốn, giải quyết việc làm, chính sách ổn định dân cư tự do, chính sách đối với đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới…, Các chính sách này có ảnh hưởng lớn đến người di cư và là công cụ để Nhà nước bố trí lại dân cư và lao động, tạo điều kiện để từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người di cư tự do nói riêng và người dân nói chung. Tóm lại: Có rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định đời sống của người di cư. Việc xem xét các yếu tố ảnh hưởng này sẽ cho phép người di cư tự do cũng như các nhà quản lý đưa ra những biện pháp, chính sách phù hợp để giảm thiểu những tác động xấu, góp phần ổn định đời sống của người dân di cư tự do. 2.2. Cơ sở thực tiễn: 2.2.1. Thực trạng vấn đề di dân tự do trên Thế giới: 2.2.1.1. Di dân ở Ba Lan: Ba Lan đóng vai trò quan trọng trong lịch sử các cuộc di dân từ Châu Âu. Số phận bi kịch của Nước Ba Lan từ đầu thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã dẫn đến sự di dân của người Ba Lan. Đối với rất nhiều người dân yêu nước thì đây chính là cuộc di dân vì những lý do chính trị mà có liên quan đến việc mất độc lập của Ba Lan vào năm 1795, tiếp theo là 125 năm đô hộ, với những cuộc nổi dậy không thành công chống lại kẻ xâm lược. Cùng năm đó, lãnh thổ nước cộng hòa Ba Lan bị phân chia bởi 3 nước xâm lược là Nga, Phổ và Áo. Làn sóng di dân chính trị đầu tiên diễn ra sau khi Liên bang Bar bị đánh bại và việc chia cắt đầu tiên được diễn ra vào năm 1772. Những người di dân chủ yếu đi đến các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sỹ và Pháp. Sự di dân sau cuộc chiến tranh với Nga vào năm 1792 và chiến thắng của Liên Bang Targowica có ý nghĩa thực sự về mặt chính trị. Vào thời điểm đó, các nhà hoạt động chính trị nổi bật nhất và các quan chức cấp cao đã tham gia vào việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy Kosciuszko cùng phối hợp với các cuộc vận động tại quê nhà và đã cố gắng để có được sự hỗ trợ từ cuộc cách mạng Pháp, họ đã dời đất nước. Sau khi đánh bại quân khởi nghĩa Kosciuszko sự phân chia thứ 3 được diễn ra, kết quả là Ba Lan đã mất đi độc lập. Những người di cư Ba Lan chủ yếu đến các nước Pháp và Ý, nơi quân đội Ba Lan mang tên Dabrowski Legions lập nên. Bên cạnh đó, người di cư Ba Lan đã phục vụ ở các đơn vị quân đội Pháp và sau chiến thắng của Napoleon trong cuộc chiến tranh với quân Phổ vào năm 1806, họ đã tham gia vào việc thành lập chính phủ và quân đội của công tước Warsaw. Sau thất bại của Napoleon và việc kết thúc công ước Vienna, một bộ phận đáng kể những người di dân đã quay trở lại quê hương, làn sóng di dân mới được gọi là “Đại di dân” đã diễn ra sau sự sụp đổ của cuộc nổi dậy tháng 11 vào năm 1831. Khoảng 7.000 người dân đã dời đất nước cho đến năm 1831. Điểm đến chủ yếu của họ là Pháp, trong khi nhóm ít hơn những người di dân lại tìm đến Anh, Bỉ và Thụy Sỹ. Sau sự sụp đổ của cuộc nổi dậy tháng 01 năm 1863, khoảng 10.000 người tham gia vào cuộc nổi dậy đã rời Ba Lan. Nơi tập trung di dân chủ yếu được hình thành cơ bản tại Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sỹ. Nhóm nhỏ hơn những người di dân đến Anh, Đức, Italy, Bỉ và Mỹ, nơi họ đóng góp một phần quan trọng trong tổ chức di dân Ba Lan vì những lý do kinh tế gần đầu thế kỷ XIX. Khoảng đầu thế kỷ XIX cuộc di dân vì những lý do kinh tế bắt đầu mà dần dần phát triển lớn hơn so với cuộc di dân về chính trị và trở thành một cuộc di dân đồ sộ kể từ thập kỷ 1890. Cuộc di dân vì những lý do kinh tế xảy ra trên một quy mô đồ sộ vào giữa thế kỷ XIX (chủ yếu đến từ lãnh thổ phần chia của quân Phổ) sau cuộc bãi bỏ nông nô, chủ yếu liên quan đến dân số nông thôn. Cuộc di dân diễn ra theo đợt và thường đến từ các lãnh thổ của nước được chia phần. Trước cuộc chiến tranh thế giới lần thứ I, cuộc di dân diện rộng nhất là: Từ lãnh thổ của phần chia của nước Phổ di dân vào sâu nước Đức – có khoảng 650.000 người, đến Mỹ- Khoảng 600.000 người; từ phần chia của người Nga rời đến Mỹ và Brazil - hơn 750.000 người, từ lãnh thổ phần chia của nước Áo (cuộc di dân khoảng những năm 1900) rời đến Mỹ - khoảng 600.000 người. Vấn đề di dân được thể hiện ở đây phần lớn liên quan đến các khu vực phần chia của nước Nga, đặc biệt là tỉnh Plock, nằm trong vùng phía Bắc Mazovia. Những người di dân từ lãnh thổ phần chia của người Nga chủ yếu đến từ giai cấp nông dân. Cuộc cải cách ruộng đất năm 1864 đã không giải quyết được vấn đề ruộng đất. Những người chủ của các nông trại nhỏ sống tại vùng nông thôn không thể kiếm sống và không có thu nhập thêm. Tuy nhiên, thế hệ trẻ thường là con cháu của những người nông dân lại không được thừa hưởng mảnh đất là của số lượng lớn những người di cư. Các thị trấn đã không đủ cho sự dư thừa lực lượng lao động, đặc biệt tại những vùng ít công nghiệp hóa. Đối mặt với những khó khăn trong thị trường lao động, những người dân nghèo của thị trấn cũng đóng góp vào lượng di dân. Hơn nữa, số lượng các thị trấn nhỏ làm về nông nghiệp lại trở thành nơi dự trữ nguồn lao động nhàn rỗi. Cuộc khủng hoảng ruộng đất trong thập kỷ 1890 đã làm nổi thêm những vấn đề về đồn điền độc lập và làm tồi tệ thêm tình cảnh của những người nông dân không có ruộng đất. Tiền công thấp tại các đồn điền đã tạo thêm những tác nhân kích thích cho việc tìm kiếm công việc tại nước ngoài. Tình hình trở nên thậm chí tồi tệ hơn do sự phát triển dân số nhanh chóng – dân số tăng gấp đôi ở nửa sau của thế kỷ XIX. Tỉnh Plock, đặc biệt là các huyện biên giới trên dòng sông Drweca được coi là lãnh thổ mà việc di dân của những người nông dân được bắt đầu sớm nhất. Theo dữ liệu thống kê chính thức được cung cấp bởi người có thẩm quyền của Nga Hoàng, khoảng 4.000 người đã di dân từ lãnh thổ của tỉnh Plock vào thập kỷ 1880 đến nước Mỹ. Cho đến năm 1888, những người di dân nhiều nhất đến từ: Rypin và Lipno, tiếp theo là Przasnysz, Sierpc, Mlawa, Ciechanow, Plock và tỉnh Plonsk. Phần lớn những người di dân là nông dân - Khoảng 70%, tiếp theo là những người Do thái – 22,5%. Tổng số là 7.458 người đã di dân trong thập kỷ 1890 từ tỉnh Plock đến Bắc Mỹ. Trong phần lớn các trường hợp, cơ quan thẩm quyền đã ghi lại việc rời đất nước là do những lý do về kinh tế. Một vài trường hợp là trốn nghĩa vụ quân sự cũng được ghi chép mà đặc biệt liên quan đến những người có nguồn gốc Do thái. Do sự khan hiếm về các dữ liệu sẵn có nên rất khó để xác định những người di dân đã ở lại Mỹ trong bao lâu. Việc phân tích dữ liệu liên quan đến việc quay trở lại cho biết việc ở lại của người di dân điển hình kéo dài 2-3 năm. Phần lớn những người di dân là những người đàn ông đã lấy vợ và dời đi mà không mang theo vợ. Hơn nữa, hiện tượng tái di dân cũng được đề cập tới. Những người di dân Ba Lan thường xuyên đến Bắc Mỹ vài lần, sử dụng tiền họ kiếm được tại đó để cải thiện mức sống tại quê nhà. Những chuyến đi như vậy không gây ra sự tan vỡ gia đình và những mối ràng buộc tài sản giữa những người di dân và họ hàng ở tại quê hương. (Nguồn: 2.2.1.2. Di dân của người Thụy Sỹ tới Mỹ: Xuyên suốt thế kỷ XVIII, cái nhìn dành cho việc di dân được coi là một loại tội phạm chống lại tổ quốc tương đương với việc đào ngũ. Nó cướp đi nguồn lao động và những người lính để bảo vệ quê hương. Chỉ vào đầu thế kỷ XIX cơ chế di dân mới được khuyến khích. Trong hoàn cảnh này hội đồng của Bern đã ủng hộ cơ chế kiến nghị Nữ hoàng Anne để cho phép việc định cư của 4.000-5.000 người Thụy Sỹ tại Pennsylvia và Virginia. Hội đồng hi vọng sử dụng kế hoạch để thoát khỏi những điều không mong muốn: những người nghèo được hưởng cứu tế và không có quyền công dân là thành viên của các giáo phái những kẻ nổi dậy Baptist, Anabaptist và Mennonite. Thuế di cư nặng nề - đến 10% đã áp đặt một cách khắt khe để ngăn nguồn tiền chảy ra nước ngoài; kết quả là một vài người đã rời nước một cách bí mật để tránh việc phải chi trả. Mặc dù những nỗ lực để hạn chế sự di dân, phần lớn những người dân đi với sự cho phép, mặc dù cấp phép một cách miễn cưỡng, thậm chí với việc chứng nhận là người đến từ vùng nông thôn. Áp lực kinh tế chính là những lý do chính cho việc di dân: không phải vì họ trông mong mình sẽ giàu có mà để thoát khỏi sự nghèo đói khốc liệt. Ước tính có khoảng 25.000 người rời đến Mỹ với lượng lớn những người đã dời đi vào những năm 1734- 1744. (Nguồn: 2.2.1.3. Di dân của người Ai Len đến Bắc Mỹ: Ảnh hưởng của nạn đói lớn nên cuộc di dân là đáng kể và ngay lập tức. Giữa năm 1845 và 1855, gần 1,5 triệu người cập cảng nước Mỹ; 340.000 người đã đi tàu tới vùng Bắc Mỹ của người Anh, khoảng 300.000 người định cư ở các thành phố của Anh và khoảng 70.000 đã đến Úc. Nhìn chung, hơn 2,1 triệu người đã rời Ai Len trong 11 năm này, hơn 1/4 dân số trước nạn đói, lớn hơn tổng số kết hợp của những người di dân 2,5 thế kỷ trước. Cùng với số lượng lớn những trẻ em bị chết đói, hậu quả là sự biến mất hoàn toàn của gần như một thế hệ. Ở một chừng mực nào đó, làn sóng lớn những người di cư vì nạn đói đi theo khuôn của các cuộc di dân trước đó. Những tỉnh nghèo nhưng không hoàn toàn cơ cực – Đông Connacht, Nam Ulster và Trung Leinster đã đóng góp vào một lượng lớn những người di dân. Dẫu sao thì cũng có một sự khác biệt đáng kể so với các cuộc di dân trước. Trong khi chỉ có 60% người đến New York thuộc về tầng lớp lao động trong năm 1836, vào năm 1851-1855 tỷ lệ đã tăng lên giữa 79 và 90%. Hơn bao giờ hết, những người này cần sự hỗ trợ về tài chính để trả cho việc dời đi và chi phí chủ yếu được hỗ trợ bởi họ hàng. (Nguồn: 2.2.1.4. Di dân ở Thụy Điển: Cuộc di dân đồ sộ của những người Thụy điển từ giữa thế kỷ thứ XIX cho đến năm 1930 đã có những ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của đất nước và đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của người dân. Một số lượng lớn gia đình Thụy Điển vẫn có những người thân ở tại các nước Mỹ, Canada, Bắc Mỹ hoặc Úc. Qua thời gian vài trăm năm, khoảng 1.3 triệu người Thụy Điển đã đến các nước này để tìm kiếm vận may vì những lý do như: - Nghèo đói. - Sự khủng bố về mặt tôn giáo. - Thiếu niềm tin vào tương lại. - Căng thẳng về mặt chính trị. - Sự khao khát phiêu lưu. - Cơn sốt vàng và những lý do tương tự như vậy. Cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ I cùng với sự hạn chế nhập cư vào Mỹ đã làm giảm tỷ lệ di dân mà trở thành vấn đề chính của xã hội Thụy Điển. Kết hợp với cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, Thụy Điển đã chuyển từ một nước di dân thành một nước nhập cư. 2.2.1.5. Di dân ở Đức: Từ 1683-1820: Kỷ nguyên của sự di cư này phần lớn là do khó khăn về mặt kinh tế và khủng bố tôn giáo tiếp theo là những thay đổi do cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm từ 1618 đến 1648 và các cuộc chiến tranh của Napoleon kéo dài từ năm 1799 đến 1815. Trong năm 1708 chính phủ bắt đầu khuyến khích những kẻ phản kháng từ nước Đức định cư vào Mỹ. Vài năm sau, khoảng 13.500 người Đức đã tới Anh. Nhiều người trong những người di dân này là những kẻ phản kháng từ khu vực Palatinate của Đức. Từ 1820-1871: Nguyên nhân căn bản của sự di dân trong suốt giai đoạn này chính là sư chuyển biến về mặt chính trị và những khó khăn về mặt kinh tế. Nguyên nhân gây ra chính là cuộc cách mạng tháng 3 của Đức, kéo dài từ 1848 đến 1849, thất nghiệp, mùa màng thất bát và nạn đói. Đất tại nước Mỹ thì nhiều và khá rẻ, công việc dư thừa, nguồn lao động khan hiếm. Cộng với sự gia tăng trong nghành công nghiệp ở tại Mỹ khiến cho đất nước này trở nên hấp dẫn hơn. Các thông tin sinh động của những người Đức đã làm ra những thành phẩm trên đất Mỹ vào thời gian đầu đã bổ sung thêm quan điểm Mỹ là mảnh đất của cơ hội. Phần lớn những người di dân này đến từ Alsace-Lorraine, Baden, Württemberg, Rheinland, và Hessen Từ 1871-1914: Giai đoạn di dân này phần lớn là do sự phát triển dân số và hiện đại hoá ở tại Đức đã buộc nhiều người dân Đức rời bỏ việc kinh doanh tại quê hương. Hơn thế nữa, hiện đại hoá làm cho việc nhập cư trở nên thuận tiện hơn và nhanh hơn với các phát minh như tàu hơi nước và thuyền hơi nước. Việc di dân trở nên dễ dàng hơn trong suốt giai đoạn này, cũng như nó trở nên phổ biến hơn. Thêm vào đó, Mỹ vẫn tiếp tục trở thành mảnh đất của những cơ hội. Nguồn: www.schneider-family.110mb.com/emigration.html 2.2.1.6. Di dân ở Trung Quốc: Di dân từ năm 1850 - 1949 Việc khám phá ra vàng ở các núi phía tây nước Mỹ từ năm 1848, nam Úc từ năm 1851 và tây Canada từ năm 1858 là nguyên nhân dẫn đến dòng người từ Trung Quốc chảy đến các nước này hơn 8 thập kỷ bao gồm hàng triệu người. Phần lớn những người di dân chưa bao giờ tham gia vào các mỏ vàng và chưa bao giờ đi đến những nơi xa hơn. Nhưng những người quay trở lại ở giai đoạn đầu chính là công cụ truyền bá thông tin về thế giới nằm ngoài giới hạn các thị trấn và làng mạc Trung Quốc. Vài người rời Trung Quốc như là những người di dân tự trả chi phí cho chuyến đi của họ, nhiều người khác rời đi như là những lao động hợp đồng hoặc giao kèo được tuyển dụng trực tiếp từ Chính phủ hoặc nhà tuyển dụng lao động. Những người khác rời đi theo dạng thức hệ thống “vé tín dụng” với chi phí được trả trước cho họ và họ sẽ phải trả nợ sau khi họ đến được điểm đến. Phần lớn những người di dân là nam giới, những người được trông mong sẽ quay trở lại quê hương về với gia đình của họ hoặc quay về để kết hôn sau quãng thời gian tại nước ngoài. Họ sẽ sống tạm trú tại nước ngoài và trên thực tế rất nhiều người đã chết tại xứ người hoặc bị mắc trong nợ nần. Mặc dù vậy, người Trung Quốc đã định cư tại nước ngoài, đặc biệt là nơi những người phụ nữ di dân hoặc là được phép di dân. Vì vậy, cộng đồng lớn và ổn định những người Trung Quốc tại nước ngoài đã được lập trước khi Chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra. Khoảng 8.5 đến 9 triệu người Trung Quốc sống tại nước ngoài với các cộng đồng người tại Châu Mỹ la tinh, vùng biển Caribean, Quần đảo Thái Bình Dương, Nam Phi, Bắc Mỹ và Úc. Theo ước tính, giữa năm 1850 đến 1939, riêng Hong Kong có khoảng hơn 6 triệu người đã dời đi. Thập kỷ 1850, lượng lớn những người di dân đến Bắc Mỹ và Úc. Trong khi đó từ 1870 trở đi các nước Singapore và Malay nổi lên như là điểm đến chủ yếu, việc chuyển hướng các điểm đến này là do 2 quá trình xảy ra đồng thời. Đầu tiên là “những bức tường trắng lớn” của chính sách loại trừ đã được dựng lên bao quanh nước Mỹ, Canada, Úc và New Zealand- các chính sách đặc biệt được đưa ra để loại trừ những người Châu Á. Thứ 2 là Chính phủ thực dân ở tại Đông Nam Á, chủ yếu là người Anh, đang tìm kiếm nguồn lao động để phát triển kinh tế lãnh thổ và chúng lập tức thu hút sự chú ý. Vào những năm chuyển giao của thế kỷ, hơn 100.000 người trong một năm đã rời Hong Kong và Amoy đến Nanyang. Đương nhiên phần lớn trong số họ là những người nông dân nghèo từ các làng mạc, thị trấn nhỏ ở phía Nam Trung Quốc, họ trở thành lao động ở cả vùng nông thôn và thành thị. Có lẽ có ý nghĩa nhất chính là các điểm đến đã tạo ra cho người di dân nghèo cơ hội thành công qua sự chăm chỉ và mối quan hệ xã hội. Thập kỷ 1930, với tình trạng suy thoái trong thế giới tư bản, điểm đến Đông Nam Á đã giới hạn sự nhập cư của người Trung Quốc. Giai đoạn này đã lên đến đỉnh điểm bởi cuộc di dân đồ sộ khoảng 2 đến 3 triệu người đã dời đến Hong Kong và Đài Loan sau Chiến thắng của đảng cộng sản năm 1949. Di dân từ 1950 - 1978: Giai đoạn di dân bị kiểm soát và giới hạn. Người dân Trung Quốc trong giai đoạn này chủ yếu di dân đến Hong Kong với khoảng 40.000 người trước một năm bước vào thuộc địa của Anh trong năm 1950. Con số này xuống 10.000 trong suốt thập kỷ 1960, ngoài trừ giai đoạn hỗn độn của năm 1962. Tiếp theo là nạn đói lớn khi đó hơn 120.000 người đã đến Hong Kong trong vòng hơn 6 tuần, hơn 1/2 số họ đã bị bắt và trục xuất. Năm 1966 với cuộc cách mạng văn hóa và sự di dân sang nước ngoài hoàn toàn bị cấm theo phương thức gợi lại những chính sách của thời nhà Thanh. Ngoài việc di cư đến Hong Kong, người di dân Trung Quốc chỉ được giới hạn đến các nước thuộc khối chủ nghĩa xã hội. Nguồn: www.iupui.edu/~anthkb/a104china.chinamigraton4.htm 2.2.2. Di dân tự do ở Việt Nam: a. Di dân là một nhu cầu khách quan: Do đặc điểm địa lý của Việt Nam đã dẫn đến sự phân bố không đồng đều giữa dân số và diện tích đất đai. Chính vì vậy, yêu cầu di dân được đặt ra để nhằm cân bằng lại sự mất cân đối này. Nếu xét về yếu tố địa lý, sự khác nhau giữa phía Bắc đông dân với phía Nam thưa dân, giữa những vùng đồng bằng ven biển và vùng miền núi (hơn 80% dân số cả nước sống ở đồng bằng với 20% diện tích tự nhiên và 20% dân số sống ở miền núi với 80% diện tích cả nước) đã làm cho việc sử dụng lao động không có hiệu quả. Do vậy, việc khai thác đất đai phì nhiêu, nguồn thổ sản phong phú tại các miền đất mới chưa ai khai phá đã có sự hấp dẫn lớn đối với những người dân ở những nơi "đất chật người đông", đặc biệt là những người nghèo, thiếu hoặc không có ruộng đất. Giữa các vùng trong cả nước cũng có sự khác nhau về phân bố các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động. Những miền vùng núi rất giàu tài nguyên khoáng sản nhưng do dân số ít nên chưa được khai thác đầy đủ. Trong khi đó, những vùng đồng bằng đông dân, dư thừa lao động nhưng lại thiếu đất. Mặt khác, vấn đề đảm bảo an ninh quốc phòng tại các vùng giáp ranh biên giới, tăng mật độ dân cư tại các địa bàn xung yếu cũng đặt ra yêu cầu cần phải thực hiện việc di dân. Ngoài ra, nhiều nguyên nhân khác như đi theo gia đình, sự thay đổi khí hậu, đến những nơi có mức thu nhập cao hơn, điều kiện văn hóa, giáo dục y tế tốt hơn… cũng dẫn đến hiện tượng di dân. b. Tình hình di dân và di cư tự do: Việc di dân thể hiện rõ nhất là sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, di dân được tiến hành trên phạm vi cả nước. Mục đích di dân thời kỳ này là nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp để phục vụ xuất khẩu. Tại những nơi xuất cư, do có sự tổ chức lại sản xuất nên sản lượng thực đã tăng rõ rệt qua các năm. Đối với những vùng nhập cư, dân cư từ nơi khác đã góp phần tạo sự cân đối giữa lao động và đất đai, tạo điều kiện cho sự khai thác và phát huy các thế mạnh của vùng nơi họ nhập cư, điều này cũng đáp ứng được nhu cầu việc làm và cải thiện đời sống - mục đích chính của dân di cư. Địa bàn di cư trong giai đoạn này bao gồm: vùng xuất cư là các vùng đông dân như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng ven biển khu Bốn cũ và khu Năm. Vùng nhập cư gồm có Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và trung du miền núi phía Bắc. Tại các vùng nhập cư, người dân ở các vùng khác di cư đến đã đáp ứng được nhu cầu về lao động tại đây, bổ sung lực lượng lao động đông đảo cho các ngành kinh tế quan trọng, xây dựng mới nhiều vùng chuyên canh cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè… Hình thức di dân chủ yếu là tập trung, quy mô lớn. Ngoài ra còn có các đợt di dân với quy mô nhỏ tới tất cả mọi miền có khả năng mở rộng thêm đất đai. Bảng 2.4: Di dân xây dựng các vùng kinh tế mới trong 12 năm 1976 - 1987 Đơn vị: triệu người Giai đoạn Kế hoạch Thực hiện Khẩu Lao động Khẩu Lao động 1976 - 1980 4,0 1,8 1,5 0,55 1981 - 1985 1,0 0,4 1,3 0,59 1985 - 1987 0,97 0,42 0,60 0,28 Nguồn: Hội nghị khoa học về di dân - Trung tâm nghiên cứu dân số và nguồn lao động 1988 Theo bảng trên, trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 toàn quốc sẽ di chuyển 4 triệu nhân khẩu, 1,8 triệu lao động đi khai hoang, mở rộng diện tích. Nhưng trong thực tế chỉ di chuyển được 1,5 triệu nhân khẩu với 0,55 triệu lao động do không tính được hết những điều kiện của nơi tiếp nhận. Sau giai đoạn 1981 - 1985, theo kế hoạch di chuyển 1 triệu nhân khẩu với hơn 0,4 triệu lao động nhưng số thực tế lại vượt quá chỉ tiêu. Một trong những nguyên nhân khiến cho số lượng người di dân tăng cao hơn kế hoạch là trong giai đoạn này, nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn, đời sống của nhân dân rất thấp. Bên cạnh các luồng di dân có tổ chức theo kế hoạch của nhà nước còn tồn tại các luồng di cư tự do. Đặc trưng của dòng di dân này là người dân cân nhắc và tự quyết định cùng với vốn và sự tính toán của họ. Các địa bàn di cư tự do nơi đi là các vùng trung du miền núi phía Bắc gồm Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn (cũ), Bắc Thái, Hà Bắc; khu 4 (cũ) gồm Nghệ Tĩnh, Quảng Trị. Vùng nhập cư là Tây Nguyên gồm Đăk Lăk (cũ), Lâm Đồng, Gia Lai Kon Tum; Đông Nam Bộ gồm Đồng Nai, sông Bé (cũ), khu 4 gồm Thanh Hóa, Khu 5 gồm Thuận Hải (cũ), Khánh Hòa, Quảng Nam, Đà Nẵng. Vùng vừa xuất cư, vừa nhập cư là trung du miền núi phía Bắc: Sơn La, Lai Châu, Bắc Thái (cũ). Trong các tỉnh trên, lượng dân di cư do chủ yếu tập trung ở 3 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn (cũ). Các tỉnh có số dân nhập cư chiếm đa số bao gồm Đăk Lăk, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum ở Tây Nguyên và Đồng Nai, Sông Bé (Đông Nam Bộ). Các dòng di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc vào các tỉnh phía Nam chiếm gần 30% nhưng nếu xét riêng dòng di cư tự do từ các tỉnh miền núi trung du phía Bắc đến Tây Nguyên mà trước hết là Đăk Lăk (cũ), và Lâm Đồng thì tỷ lệ này là trên 50%. Đây là dòng di cư tự do có cự ly xa nhất và quy mô lớn nhất. Trong dòng di cư này chủ yếu là người các dân tộc Tày, Nùng, H'Mông và Dao. Sau năm 1975, đặc biệt là trong thời gian xảy ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, dòng di cư này được hình thành và ngày một gia tăng. Ngoài ra, trong giai đoạn 1976 - 1990, cuộc sống của người dân phía Bắc rất khó khăn, đối với các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cuộc sống của đồng bào các dân tộc còn vất vả, khó khăn hơn nữa. Đó là nguyên nhân khiến cho dòng di cư tự do này có quy mô lớn. 2.2.3. Tình hình di dân và dân di cư tự do đến Đăk Nông: Từ năm 1976 đến năm 2005, tỉnh Đăk Lăk (cũ) bao gồm cả Đăk Nông hiện nay đã nhận 21.389 hộ với 101.455 nhân khẩu của các tỉnh đến xây dựng vùng kinh tế mới theo kế hoạch của Nhà nước, góp phần giải quyết việc làm cho hàng chục nghìn lao động từ mọi miền đất nước cũng như hình thành và phát triển nhiều nông lâm trường quốc doanh, nhiều đơn vị hành chính, đã góp phần phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng khu vực Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đăk Nông nói riêng. Trong khi việc quy hoạch các dự án di dân để phát triển kinh tế mới ngày càng khó khăn thì làn sóng dân di cư tự do từ các tỉnh khác đến Đăk Nông ngày càng ồ ạt và phát triển mạnh, đã gây ra nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế xã hội cho tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 660 - TTg ngày 17 tháng 10 năm 1995 của Thủ tướng chính phủ về việc giải quyết tình trạng di cư tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh khác, từ năm 1996 đến hết năm 2005, tỉnh Đăk Nông đã sắp xếp được 10.610hộ/16.496hộ vào khu vực quy hoạch theo dự án. Nhiều vùng dự án, nhiều điểm dân di cư tự do đã phát triển mạnh, sản xuất và đời sống kinh tế xã hội đã được nâng lên, an ninh chính trị được ổn định. Ngay trên địa bàn huyện Tuy Đức, tỉnh đã có chủ trương ổn định dân di cư và đã lập dự án quy hoạch số dân di cư tự do đến địa bàn. Tuy nhiên, đời sống của đồng bào di cư tự do hiện nay còn rất khó khăn. Bên cạnh đó việc di cư tự do vẫn còn tiếp tục đến các địa phương trong tỉnh Đăk Nông đã gây ra nhiều áp lực và khó khăn, lúng túng trong việc điều hành, chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các cấp chính quyền địa phương. Riêng trong năm 2006 có 186 hộ với 821 nhân khẩu của 4 dân tộc khác nhau đã di cư tự do đến Đăk Nông, nhiều nhất là dân tộc H'Mông với 165 hộ - 729 nhân khẩu, chiếm 88,7%, đa số là theo đạo Tin lành và có cả các mục sư đi theo. 2.2.4. Một số kinh nghiệm giải quyết vấn đề di cư: 2.2.4.1. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới: - Hàn Quốc: Cùng với quá trình công nghiệp hóa là sự phát triển không đồng đều, kéo theo sự chênh lệch về thu nhập và mức sống ngày càng lớn giữa nông thôn và thành thị. Ngay trong những năm 60s của thế kỷ XX, di dân ra khu vực đô thị đã gây ra nhiều vấn đề tiêu cực, thậm chí cản trở quá trình phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc. Hàn Quốc đã cố gắng tìm cách ngăn luồng di cư này không phải bằng các biện pháp hành chính mà bằng cách khuyến khích phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn để người dân tiếp cận tốt hơn với cơ hội việc làm phi nông nghiệp ngay tại địa phương mình, phát triển nông thôn tổng hợp để giảm khoảng cách chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa nông thôn - thành thị. Có 5 hướng tạo việc làm phi nông nghiệp mà Hàn Quốc đã sử dụng, đó là: (i) Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp truyền thống ở nông thôn, trong đó đặc biệt chú ý đến chế biến nông sản và sử dụng tài nguyên thiên nhiên tại chỗ kết hợp với phát triển làng xã thông qua phát triển làng mới, phát triển các thị trấn, thị tứ, cơ sở hạ tầng ở nông thôn; (ii) Đưa nhà máy về nông thôn, xây dựng các cụ công nghiệp nông thôn; (iii) Khuyến khích phát triển các hộ kinh doanh du lịch dựa trên khai thác lợi thế về sản xuất nông nghiệp và văn hóa xã hội của cộng đồng nông thôn; (iv) Phát triển cơ sở hạ tầng, đảm bảo điều kiện sinh sống và làm việc cho lao động di cư tại nơi đến; và (v) Nhập khẩu lao động để giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động trong phát triển của nền kinh tế. - Malaysia: Cùng với quá trình công nghiệp hóa, lao động nông nghiệp ở Malaysia đã giảm mạnh từ gần 60% vào năm 1957 xuống chỉ còn 12% năm 2005. Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra nhanh chóng như vậy là nhờ có sự tham gia của di dân từ nông thôn ra thành thị, trong đó phần lớn là lao động trẻ tìm kiếm cơ hội việc làm ở đô thị, khu công nghiệp. Chính sách của Malaysia đối với việc quản lý luồng di cư có thể khác nhau ở các giai đoạn nhưng tựu chung lại là giảm khoảng cách giữa nông thôn và thành thị bằng cách phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn, cung cấp các điều kiện tốt hơn để người dân nông thôn nhất là người thuộc nhóm mục tiêu (người Mã Lai) được tiếp cận tốt hơn với giáo dục và đào tạo để tham gia thị trường lao động. Các chính sách trực tiếp và gián tiếp đối với quản lý lao động di cư bao gồm: (i) Phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp; chuyển từ trồng cao su là chính sang phát triển cọ dầu, cây lương thực và một số cây ngắn ngày khác. Tăng cường chế biến công nghiệp đảm bảo liên kết giữa nhà máy chế biến và người trồng nguyên liệu thông qua cơ chế lợi ích, phát triển bền vững gắn với công nghệ sinh học thân thiện với môi trường; (ii) Đẩy mạnh thực hiện chương trình khai hoang để người dân nông thôn có đủ điều kiện c._.sống của số hộ dân tộc vùng sâu, vùng xa, quen sống du canh du cư, giúp họ định canh, định cư. Đầu tư đồng bộ và dứt điểm các điểm dân cư, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho họ để sớm ngăn chặn dòng di dân vào Tây Nguyên, Đông Nam Bộ của các tỉnh miền núi phía Bắc. Coi việc chăm lo đời sống của đồng bào dân tộc ít người và vùng có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống để giúp họ xoá đói giảm nghèo tại quê hương tại quê hương mà không cần phải di cư tự do vào các vùng xa xôi của Tây Nguyên. Chính quyền địa phương nơi dân đến rà soát lại số hộ di cư tự do đến địa phương cùng tỉnh có dân đi giải quyết đăng ký hộ khẩu chính thức cho số hộ có nguyện vọng chính đáng được ổn định làm ăn lâu dài, là người lương thiện, chấp hành pháp luật. Qua đó kiên quyết xử lý những phần tử xấu lợi dụng chính sách tôn giáo của Nhà nước để lừa phỉnh, lôi kéo kích động nhân dân, xoá nạn nghiện hút, cờ bạc và các tệ nạn xã hội. 4.4. Một số Định hướng cho việc ổn định đời sống đồng bào di cư tự do: 4.4.1. Mục tiêu chung: Quy hoạch sắp xếp ổn định dân cư cho dân di cư tự do theo từng địa bàn, gắn với quy hoạch kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và lĩnh vực nhằm: - Khắc phục những tồn tại do tình trạng dân di cư tự do gây ra như: đói nghèo, thất học, bệnh tật, tranh chấp đất đai, phá rừng, và các tệ nạn xã hội khác, tạo điều kiện cho đồng bào sớm hoà nhập cộng đồng, đảm bảo chính sách đoàn kết dân tộc. - Hạn chế luồng di cư tự do từ các tỉnh khác đến, tiến tới kiểm soát và điều chỉnh được hoạt động di dân phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. - Từng bước chấm dứt tình trạng phá rừng làm nương rẫy, chuyển đổi kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp trong vùng dân di cư tự do sang phát triển kinh tế hàng hoá, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. - Quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng và đảm bảo an ninh chính trị trên địa bàn, khai thác có hiệu quả nguồn lao động, tài nguyên đất đai hiện có. - Quản lý chặt chẽ tình hình dân DCTD, hạn chế tình trạng dân DCTD tập trung. 4.4.2. Mục tiêu cụ thể: - Di chuyển toàn bộ dân di cư tự do đang sống phân tán rãi rác trên nương rẫy, sống trong rừng, ở những nơi thường xuyên bị ngập lụt đưa về vùng qui hoạch dân cư, thành lập các khu dân cư tập trung, để tạo điều kiện đầu tư các cơ sở hạ tầng trong vùng dân cư, ổn định cuộc sống cho các hộ dân nhằm khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên một cách bền vững, phát triển kinh tế - xã hội. - Giúp cho các đối tượng dân di cư tự do đã có nơi ở và đất sản xuất nhưng đời sống còn khó khăn, có điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, từng bước hình thành cơ cấu nông - lâm - công nghiệp, xây dựng nông thôn mới - Đầu tư hỗ trợ cộng đồng các thôn, bon, xã có dân di cư tự do một số công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu: giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước sinh hoạt, trường học, ... một cách đồng bộ trên phạm vi toàn tỉnh. - Đến năm 2015 cơ bản giải quyết ổn định cho toàn bộ đối tượng dân di cư tự do trên địa bàn tỉnh, xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống và có điều kiện phát triển kinh tế. Vùng dân di cư tự do có đầy đủ điều kiện để thực hiện tốt các chương trình quốc gia về xã hội như y tế, giáo dục, văn hoá,.. giảm dần khoảng cách về mức sống giữa các bộ phận dân cư. Để thực hiện tốt mục tiêu nêu trên, tôi xây dựng phương án sau: Phương án 1: Đối với những hộ di dân tư do từ các tỉnh khác (chủ yếu là các tỉnh miền núi phía Bắc) đến huyện Tuy Đức cần sắp xếp vào một vùng đất có điều kiện để họ sản suất và ổn định đời sống. Phần lớn đất sản xuất là mua lại của đân địa phương hoặc phá rừng làm rẫy; tự dựng lán trại hoặc nhà tạm để ở; hạ tầng cơ sở (điện, đường, trường, trạm,…) chưa có gì; cuộc sống mang tính chất tạm bợ và rất khó khăn. Nhằm tạo điều kiện cho họ ổn định sản xuất, nâng cao đời sống. Chính quyền địa phương cần có phương án để họ ở nguyên tại chỗ; đồng thời có cơ chế chính sách quy hoạch, xây dựng hạ tầng cơ sở: giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước sinh hoạt, trường học, ... một cách đồng bộ; bố trí quỹ đất ở, đất sản xuất cho các hộ, hình thành một thôn, bon mới. Ưu điểm: Tạo điều kiện hỗ trợ cho các hộ dân di cư tự do sớm ổn định sản xuất, ổn định đời sống. Nhược điểm: - Việc quy hoạch hạ tầng cơ sở: giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước sinh hoạt, trường học,.. một cách đồng bộ; bố trí quỹ đất ở, đất sản xuất cho các hộ, hình thànhh một thôn, bon mới cho nhóm hộ này là rất khó khăn vì không nằm trong quy hoạch phát triển chung của huyện. - Phương án này sẽ tạo một cơ hội để lượng dân di cư tự do vào huyện Tuy Đức ngày càng nhiều, lúc đó huyện sẽ không đủ quỹ đất, không đủ tiền để bố trí, sắp xếp cho họ; Do vậy sẽ phát sinh nhiều hiện tượng phá rừng, mất ổn định xã hội. Phương án 2: Khi phát hiện có một nhóm hộ dân di cư tự do đã tự bố trí, sắp xếp vào một vùng đất của huyện, họ mua lại đất sản xuất của đân địa phương hoặc phá rừng làm rẫy; tự dựng lán trại hoặc nhà tạm để ở. Chính quyền sở tại liên hệ với Chính quyền địa phương nơi họ đi để tìm biện pháp trả họ về cho địa phương nơi họ đi. Ưu điểm: - Chính quyền địa phương không cần phải quy hoạch, bố trí, sắp xếp ổn định đời sống cho những người dân di cư tự do này; giảm được hiện tượng phá rừng làm rẫy; quy hoạch chung của địa phương không bị phá vỡ. - Giảm áp lực gia tăng dân số cơ học. Nhược điểm: - Không giúp được cho những người dân khó khăn; Chắc chắn một điều rằng khi sống tại địa phương mà họ xuất phát cuộc sống của họ rất khó khăn, nếu được tạo điều kiện hỗ trợ, bố trí cho họ được ổn định cuộc sống với điều kiện đất đai, khí hậu cộng với kinh nghiệm, cần cù trong sản xuất thì cuộc sống của họ sẽ khá hơn. - Họ đã tự ra đi di cư tự do nếu có trả về thì có thể họ lại tiếp tục di cư vào. Phương án 3: Quy hoạch bố trí sắp xếp ổn định đời sống cho họ ở một vùng khác nằm trong quy hoạch phát triển chung của địa phương (cả việc di chuyển những hộ đang sống rãi rác trong rừng vào vùng quy hoạch) từ việc đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở: giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước sinh hoạt, trường học,.. một cách đồng bộ; bố trí quỹ đất ở, đất sản xuất cho các hộ, hình thành một thôn, bon, buôn mới; Tổ chức phát triển sản xuất để nâng cao thu nhập cho họ. Ưu điểm: Phương án này tạo điều kiện hỗ trợ cho các hộ dân di cư tự do sớm ổn định sản xuất, ổn định đời sống; trong khi đó quy hoạch chung của địa phương không bị phá vỡ. Nhược điểm: Phần đa dân di cư tự do đến sinh sống không khai báo cho chính quyền địa phương, vì thế công tác quản lý nhân hộ khẩu cũng gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, quốc phòng cũng như điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy việc quy hoạch bố trí sắp xếp ổn định đời sống cho họ cũng khó khăn, với lượng dân di cư vào tỉnh trong kế hoạch tiếp nhận hàng năm thì quy hoạch bố trí được, còn những hộ không nằm trong kế hoạch thì không bố trí được. * Lựa chọn phương án: Qua việc phân tích ưu điểm, nhược điểm của 3 phương án trên cho thấy rằng: Mội phương án giải quyết đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Lựa chọn một phương án phù hợp để áp dụng trong thực tế hiệu quả là một vấn đề rất khó; Hướng giải quyết tốt nhất là áp dụng tổng hợp 3 phương án tùy thuộc vào tình hình dân di cư tự do cụ thể vào địa phương. 5. KẾT LUẬN Huyện Tuy Đức có nguồn gốc đất đai phong phú, khí hậu và thổ nhưỡng đa dạng thích hợp cho sự phát triển nhiều loại cây trồng khác nhau, vì vậy từ năm 1996 đến nay, số dân di cư tự do từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến địa bàn huyện là rất lớn, cư trú rải rác tại 23 điểm với 20.964 hộ, 97.421 khẩu. Những hộ dân di cư tự do này đến huyện Tuy Đức đã có sự ảnh hưởng không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế xã hội của huyện, tỷ lệ hộ nghèo trong nhóm này chiếm tỷ lệ rất cao. Vì vậy, việc ổn định đời sống cho người dân di cư tự do cần phải có sự đánh giá, phân tích các vấn đề liên quan để tìm ra cách giải quyết khoa học nhằm tạo điều kiện cho họ hoà nhập cộng đồng, phát triển kinh tế ổn định trên quê hương mới. - Mặc dù trong những năm qua huyện đã xây dựng nhiều dự án nhằm bố trí, sắp xếp dân di cư tự do nhưng vẫn còn một lượng lớn dân di cư tự do chưa được sắp xếp ổn định. - Các dự án chỉ tập trung cho những địa bàn nóng, còn những nơi chưa có dự án cũng đang rất cần vốn hỗ trợ, nguồn vốn đầu tư phân bổ theo từng dự án còn thiếu so với nhu cầu thực tế, nên hầu hết không đáp ứng được tiến độ theo dự án được phê duyệt. - Một số định mức, đơn giá đầu tư chưa phù hợp so với thực tế, chưa tính đến các yếu tố trượt giá do thời gian thực hiện dự án dài, nên khi triển khai đầu tư đã gặp rất nhiều khó khăn, thời gian đầu tư kéo dài, giảm hiệu quả đầu tư, khó đạt được mục tiêu đề ra. Đời sống người di cư tự do còn thấp và chưa ổn định là do các khó khăn về vốn; thiếu đất đai; cơ sở hạ tầng kém; đau ốm, bệnh tật; thay đổi kỹ thuật canh tác; thiếu lao động; thị trường tiêu thụ sản phẩm; khó khăn trong quan hệ cộng đồng; trình độ dân trí thấp; sự giúp đỡ của chính quyền địa phương nơi đi và nơi đến chưa kịp thời. Thu nhập bình quân hằng năm còn rất thấp; số hộ thiếu ăn chiếm đến 58% tổng số hộ; số hộ có người không biết đọc và biết viết của đồng bào dân tộc di cư tự do còn rất lớn; sản xuất hàng hoá còn mang tính tự cấp, tự túc; trang bị các phương tiện nghe nhìn thấp; tình trạng mắc bệnh tiêu chảy, sốt rét còn cao, do đó các tệ nạn xã hội cũng không ngừng gia tăng. Để ổn định sản xuất cũng như nâng cao đời sống của đồng bào di cư tự do, đòi hỏi phải có sự quan tâm của các cấp, các ngành và địa phương trong huyện nhằm thực hiện tốt các biện pháp về đất đai, nhân khẩu hộ khẩu về các chính sách cho đồng bào mới định cư, đặc biệt là quy hoạch các dự án ổn định dân di cư tự do. Việc ổn định và nâng cao đời sống cho người di cư tự do đến huyện Tuy Đức còn tạo điều kiện cho họ hoà nhập cộng đồng và góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đặng Nguyên Anh (2005), Di dân trong nước: vận hội và thách thức đối với công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội. Đặng Nguyên Anh (2007), "Xã hội học dân số", Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Huỳnh Thu Ba và cộng sự (1998), Di dân và sử dụng tài nguyên - Báo cáo nghiên về biến động dân số và sử dụng tài nguyên tại khu vực vùng đệm của vườn quốc gia Yok Don tỉnh Đắk Lắk. Bộ lao động thương binh và xã hội (1993), Thông tư số 7 - LĐTBXH ngày 12-5-1993 hướng dẫn về chế độ trợ cấp cho hộ gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới theo quyết định số 327-CT ngày 15-9-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (1996), Thông tư số 05NN/ĐCĐC-KTM ngày 26 tháng 03 năm 1996 hướng dẫn thi hành chỉ thị số 660/TTg ngày 17-10-1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết tình trạng di cư tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh khác. Bộ nông nghiệp nông thôn và Phát triển nông thôn (2007), Thông tư số 21/2007/TT-BNN ngày 27/03/2007 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Mai Thanh Cúc, TS. Quyền Đình Hà (2005), Giáo trình phát triển nông thôn, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Nguyễn Duy Thiệu (2008) "Di cư và chuyển dổi lối sống - Trường hợp cộng đồng Việt ở Lào" Nhà xuất bản Thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1997. Hội đồng Bộ trưởng (1990), Quyết định của số 116-HĐBT ngày 9-4-1990 về quản lý công tác phân bố lao động dân cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Hiệp hôi các đo thị Việt Nam - Kỷ yếu hội thảo "Di dân với vấn đề phát triển đô thị, nông thôn" Cát Bà ngày, Hải Phòng ngày 29-31/8/2006; Thành phố Hồ Chí Minh 5-7/9/2006. Nguyễn Xuân Hưng (2007), Đánh giá tình hình kinh tế hộ dân di cư tại địa bàn huyện ĐăkLong tỉnh Đắk Nông, Báo cáo tốt nghiệp Đại học Tây Nguyên. Đào Lan (2007), Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam www.cpi.org ngày 2/9/2007. Trần Thị Vân Nga (1999), Thực trạng và giải pháp về di dân phát triển vùng kinh tế mới ở xã Trúc Sơn huyện Cư Jút tỉnh Đắk Lắk, ĐH Tây Nguyên .1999. Quốc hội khoá XI, ban các vấn đề xã hội (2005), Báo cáo kết quả nghiên cứu đánh giá chính sách di dân tới đô thị. Nguyễn Hữu Tiến (1998), Điều tra cơ bản và xác định các giải pháp giải quyết tình hình di cư tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh khác, Đề tài cấp Bộ. Thông tư liên Bộ số 09/TT-LT, ngày 31/03/2004 của liên Bộ giữa: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Bộ Tài chính “V/v: Hướng dẫn thực hiện chế độ hỗ trợ di dân theo Quyết định số 190/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ”. Tổng Cục thống kê - Quỹ dân số liên hiệp quốc tháng 11/2006 - Điều tra di cư Việt Nam năm 2004: "Chất lượng cuộc sống của người di cư Việt Nam"; "Di dân và sức khoẻ" và "Di cư trong nước và mối liên hệ với các sự kiện của cuộc sống". Thủ tướng Chính phủ (1995), Chỉ thị số 660-TTg ngày 17 tháng 10 năm 1995 về việc giải quyết tình trạng di cư tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh khác. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số: 168/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt định hướng dài hạn kế hoạch 5 năm (2001-2005) và các giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số: 190/2003/QĐ-TTG ngày 16/9/2003 về chính sách di dân thực hiện quy hoạch, bố trí dân cư giai đoạn 2003-2010. Thủ tướng Chính phủ (2004), Chỉ thị số 39/2004/CT-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2004 về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục giải quyết tình trạng dân di cư tự do. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 8 năm 2006 về việc phê duyệt chương trình bố trí dân cư các vùng: thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do, xung yếu và rất xung yếu của rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến 2015. Thủ tướng chính phủ Quyết định 193/2006/QĐ-TTg, ngày 24/8/2006 “V/v phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng: thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới , hải đảo, di cư tự do, xung yếu và rất xung yếu của rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc trưng giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2015”. Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 78/2008/QĐ-TTg, ngày 10/6/2008, “Về một số chính sách thực hiện chương trình bố trí dân cư theo Quyết định số 193/2006/QĐ- TTg, ngày 24/8/2006”. Tỉnh uỷ Đắk Nông (2009), Quyết định số 354/QĐ-UBND ngày 11/03/1009 “V/v Phê duyệt Dự án ổn định dân di cư tại tiểu khu 1541, xã Đăk Ngo, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông”. Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hiệp Quốc (2006), Báo cáo về chất lượng cuộc sống của người di cư ở Việt Nam. UBND tỉnh Đăk Nông (2005), Quyết định số: 1953/QĐ-CTUBND “V/v Phê duyệt Dự án quy hoạch bố trí dân cư tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2005-2010” ngày 23/12/2005. UBND tỉnh Đăk Nông (2006), Quyết định số: 1651/QĐ-CTUBND “V/v Phê duyệt Dự án quy hoạch tổng quan ổn định dân di cư tự do tỉnh Đăk Nông” ngày 27/12/2006. Văn phòng chính phủ (1999), Công văn số 4371/VPCP-NN ngày 24 tháng 9 năm 1999 về việc dự thảo quyết định về định canh, định cư, di dân phát triển vùng kinh tế mới. Văn phòng chính phủ, công văn số 1527/VPCP, ngày 11/03/2008 “V/v giải quyết tình trạng dân di, cư tự do đến Đắc Nông”; Phân tích thực trạng di dân tự do đến Đăk Lăk và ảnh hưởng của nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội" 2002 - Mitchell. "Di dân tự do nông thôn - thành thị ở thành phố Hồ Chí Minh" 1998 Everett Lee www.monre.gov.vn/monreNet/default.aspx?tabid=207&ItemID=7979) www.binhthuantoday.com/modules.php?name=News&file=article&sid=5326 www.irishtime.com/ancestor/magazine/emigration/emig2.htm www.swissroots.org/swissroots/en/stories/heritage/Swiss%20Emigration%20to%the%20USA/th%20century.html www.emigrantletters.com/PL/output.asp?CategoryID=6617 www.swissroots.org/swissroots/en/stories/heritage/Swiss%20Emigration%20to%20the%20USA/th%20century.html www.schneider-family.110mb.com/emigration.html www.iupui.edu/~anthkb/a104china.chinamigraton4.htm BM 01 PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ GIA ĐÌNH DI CƯ TỰ DO Họ tên người được phỏng vấn: ………………………………………… Quan hệ với chủ hộ: …………………………………………………… Thôn/bản: ……………………………………………………………… Xã: ……………………………………………………………………... Thời gian thực hiện: Ngày…….tháng…….năm……. I. Thông tin chung về hộ gia đình - Họ tên chủ hộ: ……………..…………Giới tính……..Tuổi…...... - Dân tộc: …………………Trình độ văn hoá: ……………………... - Số lao động chính: ………………. lao động phụ: ………………... - Số khẩu trong gia đình: ……….trong đó: nam ………… nữ……....... - Năm di cư vào Đắk Lắk: …….Năm di cư đến Tuy Đức……………. - Nơi ở trước khi di cư vào Tuy Đức: ……………………………… - Nguyên nhân di cư vào Tuy Đức: …………………………………… - Di cư theo hình thức (đánh dấu): Do chính quyền tổ chức £ Do tự phát£ TT Họ và tên Quan hệ với chủ hộ Giới tính Trình độ văn hoá Nghề nghiệp chính/thu nhập 1 2 3 4 … Ghi chú: Nếu nghề nào tính được thu nhập thì ghi, ví dụ: lương, làm thuê, buôn bán,… II. Hoạt động kinh tế chính của hộ (đánh dấu vào ô thích hợp): Loại hình sản xuất, kinh doanh của hộ Ghi chú - Sản xuất nông nghiệp - Sản xuất nông - lâm nghiệp - Nông nghiệp - buôn bán - Nông nghiệp + Tiểu thủ CN Nông nghiệp + Dịch vụ - Kinh doanh và cung cấp dịch vụ - Công chức, viên chức, công nhân - Lao động phổ thông - Nghành nghề khác (nêu rõ) III. Đất đai và sản xuất nông nghiệp Loại ruộng đất Tổng số (m2) Được cấp sử dụng đất (m2) Nhận khoán, đấu thầu (m2) Đất tự khai phá (m2) Ghi chú (m2) Tổng diện tích Đất nông nghiệp 1. Đất ruộng lúa - lúa - lúa + màu - màu 2. Đất màu bãi 3. Đất nương rẫy - Trồng lúa - Trồng cây CN ngắn ngày - Trồng màu 4. Đất trồng cây CN lâu năm 5. Đất lâm nghiệp - Rừng tự nhiên -Rừng khoanh nuôi tái sinh - Rừng trồng 6. Đất trống, đồi núi trọc 7. DT mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 8. Đồng cỏ chăn thả 9. Đất thổ cư Trong đó: vườn - Diện tích đất được tưới: Trong đó: - Đất ruộng .….m2 (.…%); Trong đó: Lúa 2 vụ:…..m2; Lúa 1 vụ:….m2 - Đất màu:…………………………….m2 (………..%) - Đất cây CN lâu năm: ……………….m2 (………...%) IV. Chăn nuôi Gia đình có tiến hành hoạt động chăn nuôi nào không? Có….. Không….. Nếu có, hãy điền vào bảng dưới đây: Tên vật nuôi Hiện có Bán năm ngoái Số con Giá trị (đ) Số con Giá trị (đ) Trâu (cả nghé) Bò (cả bê) Lợn tổng số Dê tổng số Ngựa Gà Vịt, ngan, ngỗng V. Tài sản, công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt 1. Loại nhà mà gia đình đang ở? Đánh dấu vào loại hình thích hợp dưới đây: - Nhà xây kiên cố (mái bằng, cao tầng): ………………………...m2 - Nhà xây mái ngói: ..……………………….m2 - Nhà gỗ mái ngói hoặc tôn: ….……………………..m2 - Nhà vách đất + mái lá: …...……………………m2 - Nhà tạm (tranh tre, nứa, lá): ………………………...m2 2. Gia đình có sử dụng điện không? Có ……Không ………. 3. Gia đình có sử dụng nhà vệ sinh không? Có……Không ………. Nếu có, là loại nào? 4. Gia đình có sử dụng nguồn nước nào cho sinh hoạt hằng ngày: Giếng khoan, đào…. Hệ tự chảy….. Bể nước mưa….. Nước suối….. 5. Gia đình có loại công cụ sản xuất nào? (Điền vào mục thích hợp) Loại công cụ Số lượng (cái, chiếc…) Tổng giá trị hiện tại (nghìn đồng) - Ô tô (tải, bán tải) - Máy kéo, máy cày - Máy xay xát - Xe súc vật kéo - Máy phát điện - Bình phun thuốc sâu - Máy bơm nước - Máy tuốt lúa - Thuyền 6. Các đồ dùng có giá trị trong gia đình: Tên đồ dùng Số lượng (cái, chiếc, bộ) Giá trị hiện tại (nghìn đồng) - Xe máy - Xe đạp - Tivi - Đầu video - Radio cassette - Máy điện thoại - Bếp ga - Tủ gỗ - Bàn ghế VI. Thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình trong năm qua 1. Thu nhập trong năm qua của hộ gia đình Hạng mục Giá trị thành tiền (nghìn đồng) Thu nhập Trong đó hàng hoá bán ra 1. Thu từ trồng trọt - Lúa, gạo - Ngô, khoai, sắn - Lạc, đậu… - Cà phê, điều… - - 2. Thu từ chăn nuôi - Trâu (kể cả nghé) - Bò (kể cả bê) - Lợn (các loại) - Gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng) -… - Từ các hoạt động lâm nghiệp - Nhận khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng - Các sản phẩm từ rừng (gỗ, củi, lâm sản) - … 4. Từ nuôi trồng thuỷ sản - - … 5. Từ các hoạt động khác (buôn bán, cung cấp dịch vụ, làm thuê, lương hưu…..) - … 6. Từ săn bắt thú rừng Tổng thu nhập Giá trị hàng hoá 2. Các khoản chi tiêu trong năm qua các gia đình Các khoản chi Giá trị thành tiền (nghìn đồng) Ghi chú 1. Chi cho sản xuất - Sản xuất nông nghiệp (giống, phân bón, các yếu tố đầu vào khác) - Chăn nuôi (giống, thức ăn, tiêm phòng, dịch bệnh…) - Các hoạt động sản xuất lâm nghiệp - Nuôi trồng thuỷ sản (giống, thức ăn, phòng bệnh…) - Các khoản phải nộp (thuế NN , phí thuỷ lợi, phí HTX…) 2. Chi cho sinh hoạt, đời sống - Lương thực, thực phẩm (gạo, thịt, rau….) - Mua sắm đồ gia dụng - Mua sắm quần áo - Khám chữa bệnh - Học hành của con cái - Tiền điện 3. Chi phí hoạt động cộng đồng - Đóng góp cho lễ hội tại địa phương - Ma chay, cưới xin - Thăm viếng người ốm đau, thai sản 4. Chi khác: - - Tổng chi: 3. Cân đối thu chi của hộ: ………………………đồng. 4. Trong năm qua gia đình có thiếu ăn không? Nếu có, bao nhiêu tháng…. Và cách giải quyết của gia đình (ghi rõ: mua lương thực, vay mượn…):…………………………………………. VII. Tiếp cận một số dịch vụ xã hội 1. Giáo dục: - Khoảng cách từ nhà tới trường học: Trường tiểu học ………..km Trung học cơ sở ………….km Trung học PT …………..km - Gia đình hiện có mấy cháu đang trong độ tuổi đi học (6- 17 tuổi)?....... Trong đó: - Đang đi học …………………… - Chưa đi học bao giờ ………………. - Đang học giở rồi bỏ ……………….. - Nguyên nhân bỏ học?......................... - Gia đình có mấy người lớn (15 tuổi trở lên) không biết đọc, biết viết:……..người. 2. Y tế. - Khoảng cách từ nhà tới trạm y tế là bao nhiêu km?: - Các thành viên trong gia đình có hay bị ốm đau không? Có……..Không - Các bệnh thường mắc phải (ghi rõ bệnh): …………………….. Khi có người đau ốm, thường chữa bệnh thế nào? Chọn các hình thức phù hợp: Đến khám, chữa tại các trạm y tế xã Đi khám bệnh viện huyện, tỉnh Khám, chữa tại phòng khám tư nhân Chữa thầy lang Mời thầy cúng Tự chữa lấy (nêu rõ: vì không có tiền đi bệnh viện, trạm xá ở xa, biết cách chữa bệnh…) 3. Chợ: - Khoảng cách từ nhà tới chợ gần nhất: …………………………km - Các hàng hoá phổ biến bán tại chợ (nêu rõ tên):………………….. - Gia đình thường bán sản phẩm nông lâm nghiệp và chăn nuôi như thế nào? Chọn các hình thức sau: a) Bán tại nhà ……….... b) Bán tại ruộng …………. c) Bán tại chợ …………. 4. Đường giao thông: - Hiện tại đường giao thông ở khu vực mà gia đình đang sinh sống chủ yếu là loại đường nào? Đường nhựa £ ; Đường cấp phối £ ; Đường đất £ ; Đường mòn £ - Khoảng cách gần nhất từ nhà đến đường nhựa là …………..km. 5. Điện chiếu sáng: - Gia đình có sử dụng điện chiếu sáng không: Có £ ; Không £ Nếu có, sử dụng từ nguồn nào: Nhà nước £ ; Máy phát điện £ ; Thuỷ điện gia đình £ VII: Các khoản được chính quyền và các tổ chức trợ cấp, giúp đỡ trong năm qua: - Gạo: …..kg. - Vải: ……m. - Dầu hoả thắp sáng…… lít. - Muối I ốt, muối ăn: …….kg. - Hỗ trợ vay vốn: …….đồng. - Hướng dẫn khuyến nông:……..lần. - Chăm sóc y tế (ghi cụ thể):………………………………………….. - Hỗ trợ sách, vở và đồ dùng học tập cho con em đi học. - Cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất: ………………………….. - Hướng dẫn kê khai và đăng ký hộ khẩu: ……………………………. - Định canh, định cư: ………………………………….. - Phương tiện nghe nhìn: ………………………………. VIII. Tự đánh giá mức độ ổn định cuộc sống của gia đình 1- Về kinh tế Khá hơn: Như cũ: Thấp hơn: 2- Về đời sống xã hội (y tế, giáo dục, nhà ở, tham gia các hoạt động xã hội…) Khá hơn: Như cũ: Thấp hơn: 3- Sự phân biệt, khó hoà nhập với người bản địa Có sự phân biệt Không có sự phân biệt IX. Những khó khăn, vướng mắc của các hộ trong ổn định cuộc sống TT Vấn đề khó khăn Đánh dấu vào dòng thích hợp 1 Thiếu vốn 2 Thiếu đất đai 3 Cơ sở hạ tầng kém 4 Giá bán thấp 5 Đau ốm, bệnh tật 6 Khó tham gia vào sinh hoạt tại địa phương 7 Thiếu lao động 8 Khó khăn về nhà ở X. Các đề xuất của hộ trong việc ổn định cuộc sống: 1. Về đất đai: 2. Về đăng ký hộ khẩu: ………………………………………….. 3. Về cơ sở hạ tầng, giao thông: 4. Về trường học, trạm y tế, nước sạch: 5. Ngành nghề nông thôn tạo thêm thu nhập và việc làm: …………………………………………………………………. 6. Các ý kiến đề xuất khác: …………………………………………………………………. Chủ hộ ký tên Nguời điều tra PHIẾU ĐIỀU TRA BM 02 CHÍNH QUYỀN XÃ NƠI CÓ ĐỒNG BÀO DI CƯ TỰ DO - Họ tên người được phỏng vấn: …………………………… - Chức vụ: ………………………………………………….. - Xã: ……………………………………………………….. I. Một số thông tin cơ bản của xã: - Diện tích tự nhiên: ……………………………..km2 - Dân số: …………………………………………người Trong đó: Dân tộc Kinh: …………người Dân tộc M’Nông: …………người Dân tộc H’Mông: …………người Dân tộc Dao: …………người Dân tộc Thái: ………...người Dân tộc Tày: ……..…..người Dân tộc Nùng: ..……….người Dân tộc: ..………người … II- Các hoạt động của Chính quyền xã đối với việc ổn định đời sống cho người dân di cư tự do 1- Về đất đai: ……………………………………………………. 2- Về quản lý nhân khẩu, hộ khẩu: ……………………………… 3- Về quy hoạch định canh, định cư: ……………………………. 4- Về các trợ giúp khác: …………………………………………. III- Các biện pháp và sự phối hợp của Chính quyền xã trong việc ổn định đời sống người dân di cư tự do trên địa bàn ……………………………………………………………………… ………………………………………………………………………. Ngày tháng năm TM. UND xã………… 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: 1 1.2. Mục tiêu của đề tài: 2 1.2.1. Mục tiêu chung: 2 1.2.2. Mục tiêu cụ thể: 3 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 3 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu: 3 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu: 3 1.3.2.1. Phạm vi về thời gian: 3 1.3.2.2. Phạm vi về không gian: 3 1.3.2.3. Phạm vi về nội dung: 3 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN DI CƯ TỰ DO 4 2.1. Cơ sở lý luận 4 2.1.1. Các khái niệm cơ bản: 4 2.1.1.1. Di cư: 4 2.1.1.2. Di dân: 4 2.1.1.3. Các loại hình di dân tự do (di cư tự do): 6 2.1.1.4. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng di cư tự do: 7 2.1.2. Lý luận về di cư tự do 8 2.1.2.1. Vai trò của sự ổn định đời sống dân di cư tự do 8 2.1.2.2. Tác động của hiện tượng di cư, di cư tự do: 9 2.1.2.3. Xu hướng di cư tự do: 13 2.1.2.4. Các quan điểm về di cư tự do: 14 2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến DCTD và ổn định đời sống người DCTD: 18 2.1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến DCTD: 18 2.1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định đời sống của người DCTD: 20 2.2. Cơ sở thực tiễn: 22 2.2.1. Thực trạng vấn đề di dân tự do trên Thế giới: 22 2.2.1.1. Di dân ở Ba Lan: 22 2.2.1.2. Di dân của người Thụy Sỹ tới Mỹ: 25 2.2.1.3. Di dân của người Ai Len đến Bắc Mỹ: 26 2.2.1.4. Di dân ở Thụy Điển: 27 2.2.1.5. Di dân ở Đức: 27 2.2.1.6. Di dân ở Trung Quốc: 28 2.2.2. Di dân tự do ở Việt Nam: 30 2.2.3. Tình hình di dân và dân di cư tự do đến Đăk Nông: 33 2.2.4. Một số kinh nghiệm giải quyết vấn đề di cư: 34 2.2.4.1. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới: 34 2.2.4.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh, huyện trong nước: 38 2.2.5. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phân bổ lao động và dân cư, di cư trong từng thời kỳ từ năm 1975 đến nay: 40 2.2.5.1. Một số quyền lợi cơ bản của công dân liên quan đến người di cư: 40 2.2.5.2. Một số chủ trương của Đảng và nhà nước ta về vấn đề phân bổ lao động và dân cư, di cư trong từng thời kỳ từ năm 1975 đến nay: 42 2.2.6. Một số nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân có liên quan: 46 3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 48 3.1. Đặc điểm địa bàn: 48 3.1.1. Đặc điểm tự nhiên: 48 3.1.1.1. Vị trí địa lý: 48 3.1.1.2. Đặc điểm địa hình: 48 3.1.1.3. Khí hậu: 48 3.1.1.4. Nguồn nước, thủy văn: 49 3.1.1.5. Các nguồn tài nguyên cơ bản: 49 3.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội: 50 3.1.2.1. Đất đai và tình hình sử dụng đất đai của huyện Tuy Đức: 50 3.1.2.2. Tình hình dân số và lao động 52 3.1.2.3. Tình hình phát triển nông lâm nghiệp trên địa bàn huyện Tuy Đức: 54 3.1.2.4. Tình hình kết cấu hạ tầng nông thôn: 56 3.1.2.5. Tình hình giáo dục y tế: 57 3.2. Phương pháp nghiên cứu: 60 3.2.1. Chọn điểm nghiên cứu: 60 3.2.2. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu: 60 3.2.2.1. Thông tin thứ cấp: 60 3.2.2.2. Thông tin sơ cấp: 60 3.2.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích thông tin: 61 3.2.3.1. Phương pháp thống kê kinh tế: 61 3.2.3.2. Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (Rapid Rural Appraisal - RRA): 61 3.2.3.3 Phương pháp chuyên gia: 61 3.2.3.4. Phương pháp phân tích SWOT 61 3.2.4. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 62 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 63 4.1.Thực trạng đời sống đồng bào DCTD vào huyện Tuy Đức: 63 4.1.1. Tình hình di dân tự do trong thời gian qua tại huyện Tuy Đức: 63 4.1.1.1. Tình hình chung: 63 4.1.1.2. Những khó khăn chủ yếu hiện nay của huyện Tuy Đức trong công tác ổn định đời sống dân DCTD: 65 4.1.1.3. Một số thông tin cơ bản của 3 xã Đăk Ngo, Quảng Tân và Quảng Trực: 67 4.1.2. Một số thông tin về đồng bào di cư tự do: 68 4.1.2.1. Lý do di cư tự do: 68 4.1.2.2. Xuất xứ nơi di cư tự do: 70 4.1.3. Mức độ ổn định đời sống của đồng bào di cư tự do trên địa bàn huyện: 71 4.1.3.1. Về kinh tế: 71 4.1.3.2. Về xã hội 73 4.1.3.3. Về y tế, môi trường: 78 4.1.3.4. Mức độ thích ứng của đồng bào DCTD tại nơi đến: 79 4.1.3.5.Phân tích SWOT đối với sự ổn định đời sống người di cư tự do: 80 4.2. Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến ổn định đời sống cộng đồng dân di cư: 82 4.2.1. Nguyên nhân: 82 4.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng 84 4.2.2.1. Vốn 84 4.2.2.2. Đất đai: 85 4.2.2.3. Lao động: 85 4.2.2.5. Sự trợ giúp của Chính quyền địa phương: 85 4.3. Một số giải pháp chủ yếu để ổn định đời sống đồng bào DCTD: 87 4.3.1. Những căn cứ để xây dựng các giải pháp: 87 4.3.2. Một số giải pháp chủ yếu: 91 4.3.2.1. Giải pháp về nhận thức, tuyên truyền: 91 4.3.2.2. Giải pháp về quy hoạch, kế hoạch để ổn định đời sống người DCTD: 92 4.3.2.3. Giải pháp về đầu tư cơ sở hạ tầng: 96 4.3.2.6. Giải pháp về khuyến nông: 98 4.3.2.7. Giải pháp về sự phối hợp giữa chính quyền nơi dân DCTD đi và đến: 99 4.4. Một số Định hướng cho việc ổn định đời sống đồng bào di cư tự do: 100 4.4.1. Mục tiêu chung: 100 4.4.2. Mục tiêu cụ thể: 100 5. KẾT LUẬN 104 TÀI LIỆU THAM KHẢO 106 PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ GIA ĐÌNH DI CƯ TỰ DO 111 PHIẾU ĐIỀU TRACHÍNH QUYỀN XÃ NƠI CÓ ĐỒNG BÀO DI CƯ TỰ DO 120 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn up.doc
Tài liệu liên quan