Lời nói đầu
Lịch sử phát triển kinh tế của loài người từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều hình thái kinh tế xã hội. Nổi bật và rõ nét nhất đó là các hình thái kinh tế công xã nguyên thuỷ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên trong tất cả các hình thái kinh tế đó chưa có một hình thái kinh tế nào có cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách hợp lý và phù hợp nhất từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào cơ chế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản của nề
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế của nhà nước. Do đó tìm ra một cơ chế quản lý phù hợp nhất đối với mỗi quốc gia đang là vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu và tìm tòi.
ở Việt Nam từ sau Đại hội VI của Đảng cơ chế kinh tế được chuyển sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ - cơ chế kế hoạch hoá - tập trung quan liêu bao cấp - là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ và khá phức tạp chưa từng xảy ra trong lịch sử phát triển kinh tế của bất cứ một quốc gia nào. Chính vì lẽ đó đòi hỏi chúng ta cần phải tỉnh táo nhìn nhận đối với mỗi quyết định của mình. Trước kia trong nền kinh tế hiện vật vai trò kinh tế của nhà nước được cường điệu quá mức, đã trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế. Vậy khi chuyển sang kinh tế thị trường vai trò kinh tế của nhà nước đã thay đổi như thế nào. Đó chính là nội dung sẽ được làm rõ trong đề tài: “Nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”.
Với năng lực và trình độ có hạn tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn sinh viên để đề án được hoàn thành một cách tốt đẹp, góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam.
Tác giả xin chân thành cảm ơn !
A - đặt vấn đề
“ Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” là đề tài nghiên cứu sự kết hợp hài hoà tương hỗ lẫn nhau giữa “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình”. Hay nói một cách khác là nghiên cứu sự kết hợp giữa sự quản lý của nhà nước và cơ chế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất đồng thời hạn chế và khắc phục được những khuyết tật của thị trường một cách có hiệu quả nhất.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, trong kinh tế thị trường, sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế đã hạn chế được những khuyết tật của thị trường, tạo lập các cân đối vĩ mô, ngăn ngừa những đột biến xấu. Nhà nước tạo điều kiện và môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều tiết các quan hệ kinh tế thông qua chính sách kinh tế vĩ mô, phân bổ các nguồn lực, quản lý tài sản quốc gia nhằm bảo đảm phát triển các tài sản đó, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, hạn chế bất công, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, tham gia sản xuất kinh doanh với tư cách là chủ sở hữu của các cơ sở kinh tế nhà nước để tác động vào thị trường bảo đảm định hướng chính trị phù hợp với mục tiêu phát triển của mỗi đất nước.
Vì vậy tìm ra nghệ thuật quản lý kinh tế của nhà nước đối với nước ta hiện nay xuyên suốt từ định hướng chiến lược hệ thống luật pháp đến các công đoạn trong kế hoạch hành động từ vĩ mô đến vi mô là nội dung xin được nghiên cứu xem xét trong đề án kinh tế chính trị này. Với các mục chính như sau:
I - Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước .
II - Tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế.
III - Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước
IV - Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước.
B - Giải quyết vấn đề
I - Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước.
1 - Các lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước
a - Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin:
Chủ nghĩa Mác - Lê nin với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã chứng minh một cách khoa học rằng nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước luôn luôn vận động phát triển tồn tại và cũng sẽ tiêu vong khi những tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của nó không còn nữa. Quan điểm duy vật lịch sử chứng tỏ rằng chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà nước. Xã hội tổ chức thành các thị tộc, nhiều thị tộc hợp lại thành bào tộc nhiều bào tộc hợp lại thành bộ lạc. Quyền lực là quyền lực xã hội, không có quyền lực đặc biệt không mang tính cưỡng chế tổ chức xã hội rất đơn giản trong thị tộc có hội đồng thị tộc trong bào tộc có hội đồng bào tộc, trong bộ lạc có hội đồng bộ lạc. Dần dần năng suất lao động tăng lên, lực lượng sản xuất phát triển cộng với ba lần phân công lao động: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, làm xuất hiện ngành thương nghiệp chế độ tư hữu về tài sản dẫn đến có sự phân chia giai cấp là chủ nô và nô lệ. Lúc này chế độ thị tộc không còn phù hợp nữa xã hội đòi hỏi có một tổ chức khác có khả năng giải quyết các xung đột và mâu thuẫn đó chính là nhà nước. Vậy nhà nước theo Mác - Lênin “ là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị có một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý nhằm duy trì trật tự chung bảo vệ địa vị thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp”.
b - Lý luận của trường phái cổ điển và tân cổ điển.
Bằng phương pháp trừu tượng hoá kinh tế chính trị học trường phái cổ điển đã xâm nhập vào sâu bên trong các hiện tượng và quá trình kinh tế. Trường phái kinh tế chính trị học cổ điển thừa nhận sự tồn tại của các qui luật kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý chí con người. Những qui luật đó có khả năng đảm bảo sự cân bằng tự nhiên trong hệ thống kinh tế.Vì vậy trường phái cổ điển tán thành hạn chế bằng mọi cách sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Và tiếp theo đó vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng giống như trường phái cổ điển các nhà kinh tế học trường phái tân cổ điển ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Họ tin tưởng chắc chắn vào cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm bảo thăng bằng cung cầu, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển.
Như vậy có thể nói rằng trong lý luận của trường phái cổ điển và tân cổ điển họ phủ nhận sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Họ cho rằng nhà nước không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế mà bản thân các qui luật kinh tế có thể tự điều tiết và đưa đến sự cân bằng.
c - Lý luận của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước:
Theo Keynes để đảm bảo cho sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp và khủng hoảng thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết mà cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế để tăng “cầu có hiệu quả” kích thích tiêu dùng sản xuất, kích thích đầu tư cơ bản đảm bảo việc làm và tăng thu nhập. Vì vậy ông đề nghị nhà nước phải duy trì cầu đầu tư. Muốn vậy phải sử dụng nguồn ngân sách của nhà nước để kích cầu đầu tư của tư nhân và nhà nước. Ông chủ trương thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước, hệ thống mua của nhà nước, trợ cấp về tài chính, tín dụng do ngân sách Nhà nước, đảm bảo để tạo sự ổn định về lợi nhuận và đầu tư cho tư bản độc quyền.
Để kích thích đầu tư cần phải xây dựng lòng tin và lạc quan của doanh nhân, phải có các biện pháp tăng cường lợi nhuận và giảm lãi suất. Muốn vậy phải tăng cường đưa tiền vào lưu thông, thực hiện “lạm phát có mức độ”. Ông cho rằng “lạm phát có mức độ” sẽ kích thích tính tích cực hoạt động của tư bản độc quyền, tăng hiệu quả giới hạn của tư bản. Đó là biện pháp có hiệu quả để kích thích tình hình thị trường và không có gì nguy hiểm. Từ đó ông đề nghị thực hiện “lạm phát có điều tiết”.
Để bù đắp cho sự thâm hụt ngân sách nhà nước, Keynes đề nghị phải in thêm tiền giấy. Ông cho rằng làm như vậy sẽ duy trì được tình hình thị trường trong thời kỳ sản xuất và việc làm giảm sút.
Ông đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế khoá, công trái nhà nước. Nhờ đó mà bổ sung ngân sách, tác động tích cực đến cục diện thị trường điều tiết việc làm.
Có thể nói rằng Keynes đánh giá cao vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước và xem nhẹ cơ chế tự điều tiết của thị trường. Theo ông khủng hoảng và thất nghiệp là do chính sách lỗi thời không can thiệp của nhà nước do tự do kinh tế gây ra, muốn có cân bằng kinh tế nhà nước phải can thiệp kinh tế thực hiện điều chỉnh kinh tế .
2 - Vai trò kinh tế của nhà nước nói chung trong lịch sử.
Lịch sử đã chứng minh vai trò kinh tế nhà nước được phôi thai ngay từ buổi ban đầu, khi nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện.
Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải sản xuất ra. Nhà nước chủ nô trong thời kỳ này là nhà nước của giai cấp chủ nô do đó vai trò chính của nó là quản lý xã hội phục vụ lợi ích của giai cấp chủ nô bằng các thủ đoạn bạo lực chiếm đoạt và cưỡng bức kinh tế đối với giai cấp nô lệ. Chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự xâm lăng của các bộ lạc khác. Trong xã hội phong kiến, nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp phong kiến bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong xã hội phong kiến nhà nước phong kiến can thiệp vào tất cả các quá trình kinh tế từ việc phân phối của cải vật chất cho đến việc phát triển kinh tế. Nền kinh tế phong kiến là nền kinh tế nông nhghiệp thô sơ và lạc hậu hoạt động dưới sự điều khiển của nhà nước phong kiến thông qua các chính sách ruộng đất.
Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa nhà nước tư sản ra đời can thiệp vào nền kinh tế với vai trò như “bà đẻ” của nền kinh tế thông qua các chính sách tiền tệ ngoại thương làm cho nền kinh tế thị trường phát triển mạnh nâng cao tích luỹ và tiền của cho giai cấp tư sản.
Trong thời kỳ XHCN nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời trực tiếp quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thông qua các kế hoạch, chỉ tiêu pháp lệnh. Phát triển nền kinh tế theo xu hướng kế hoạch hoá tập trung. Quan tâm đến lợi ích xã hội và đời sống đại đa số nhân dân.
II - Tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế ở Việt Nam.
1 - Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta :
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về TLSX. Với sự nỗ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác, mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù hợp. Nó đã tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sau ngày giải phóng Miền Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế xã hội đã thay đổi. Các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, vì vậy việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực. Đến cuối những năm 80 giá cả leo thang khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như vậy đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn.
a - Về mặt lý luận
Chúng ta thấy rằng đổi mới cơ chế quản lý là phù hợp với các qui luật kinh tế và các quan hệ kinh tế mới nảy sinh. Một khi mà các quan hệ kinh tế mới xuất hiện các nhu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng nâng cao, các nhân tố của thị trường đã hình thành và phát triển thông suốt và vươn tới các thị trường quốc tế thì việc không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế cũ kế hoạch hoá tập trung - là một điều phi khoa học. mặt khác xem xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Xem xét về xu hướng chung phát triển kinh tế htế giới. Ta thấy sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Vậy đổi mới cơ chế kinh tế là điều đúng đắn về mặt lý luận.
b - Về mặt thực tiễn:
Thực trạng nước ta trước những năm 1986 cho thấy với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế nước ta đang lâm vào tình trạng bế tắc, tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ cho tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Mà nguyên nhân sâu xa của sự suy thoái kinh tế đó là do ta rập khuôn mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung không còn thích hợp nữa vả lại còn chứa đựng nhiều nhược điểm kìm hãm sự phát triển kinh tế đó là:
Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên giao xuống không phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ.
Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với quyết định của mình. Các đơn vị cơ sở vừa không có quyền tự chủ vừa không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh. Chưa chú ý đầy đủ đến quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế dẫn tới cách quản lý kinh tế và kế hoạch hàng hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, không ràng buộc trách nhiệm và lợi ích vật chất đối với hiệu quả sử dụng tiền vốn tài sản vật tư lao động tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động.
Cơ chế đó đẻ ra bộ máy quản lý rất công kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý không theo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền.
2 - Quá trình chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới
Trước sự cần thiết phải đổi mới như trên tại Đại hội VI với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật nói rõ sự thật” Đảng và nhà nước Việt Nam đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng. Phải vận dụng tổng hợp các quy luật kinh tế cơ chế cơ bản cùng với các qui luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế phải được quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu. Và kết quả từ khi đổi mới tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần dần được cải thiện sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên. Tình hình lương thực thực phẩm có chuyển biến tốt từ chỗ thiéu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo thì nay đã vươn lên đáp ứng được nhu cầu trong nước có dự trữ và xuất khẩu. Hàng hoá trên thị trường nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tườn đối thuận lợi. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng hơn trước về qui mô, hình thức và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 493 triệu rúp và 384 triệu đô la năm 1986 lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đo la năm 1990. Đã giảm được khá lớn mức độ nhập siêu so với trước đây. Phát huy những thành tựu đó đến Đại Hội VII Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hứu đều tự chủ kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật.
Kết quả qua 10 năm đổi mới (1986 -1996) nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực. Nó chẳng những không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN. Do đó trong phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế tại Đại hội VIII tiếp tục khẳng định “Từ nay đến năm 2000 tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN”.
3 - Cơ chế thị trường và những ưu khuyết của nó:
a - Cơ chế thị trường:
- Khái niệm: Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các qui luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết 3 vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì như thế nào và cho ai.
b - Ưu khuyết của cơ chế thị trường:
- Ưu điểm:
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ, Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế.
Cơ chế thị trường với cạnh tranh tự do buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá.
Cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra các quyết định.
Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội.
Như vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Cần sản xuất loại hàng hoà gì với khối lượng bao nhiêu do người tiêu dùng quyết định khi họ quyết định mua hàng hoá này mà không cần mua hàng hoá kia. Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có mức lợi nhuận cao do đó mà đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Sản xuất bằng phương thức nào, bằng công nghệ nào được quyết định bởi cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá. Cách dùng duy nhất để các doanh nghiệp có thể cạnh tranh được về giá cả và đạt được lợi nhuận tối đa cho mình là giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Hệ thống giá cả là tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai hay là sản phẩm sản xuất ra được phân phối như thế nào, một phần được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất.
- Khuyết tật:
Sự phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo mà nó vốn có những khuyết tật đặc biệt về mặt xã hội. Cụ thể đó là:
Do mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế xã hội không được bảo đảm.
Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được.
Cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức tình người vì cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính không xét đến các khía cạnh đạo đức tình người:
Cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có lạm phát thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ.
4 - Vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế
Qua phân tích trên ta thấy nền kinh tế thị trường có khả năng tập hợp tự động được hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến lợi ích chung của cả xã hội đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả tăng sản xuất. Nhưng nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó cũng chứa đựng rất nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải. Vì vậy để khắc phục hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường cần thiết phải có sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế tạo ra cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong cơ chế thị trường đó nhà nước đóng vai trò là người định hướng thị trường, tạo điều kiện và môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều tiết các quan hệ kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, phân bổ các nguồn lực, quản lý tài sản quốc gia nhằm đảm bảo phát triển các tài sản đó. Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, hạn chế bất công bất bình đẳng trong phân phối và thu nhập. Tham gia sản xuất kinh doanh với tư cách là chủ sở hữu của các cơ sở kinh tế nhà nước để tác động vào thị trường bảo đảm định hướng chính trị phù hợp với mục tiêu phát triển của mỗi nước. Đặc biệt là đối với nước ta thị trường đang được hình thành thì cùng một lúc nhà nước phải đảm nhận hai vai trò lớn đó là vừa tạo lập thị trường vừa phải điều tiết sự vận động của cơ chế thị trường. Vậy vai tròquản lý vĩ mô nền kinh tế của nước ta trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở những điểm sau:
Một là: Nhà nước phải xây dựng các chương trình kế haọch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn.
Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay các doanh nghiệp được quyền tự do lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ về sản xuất cái gì ? bằng cách nào ? Tiêu thụ ở đâu ? Trong việc lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Chính vì vậy đã dẫn đến sự triệt tiêu các nguồn lực kinh tế làm cho môi trường kinh doanh bị phá huỷ và nền kinh tế không thể nào phát triển. Để khắc phục tình trạng này nhà nước cần phải định hướng cho sự phát triển kinh tế hay thực chất là nhà nước thống nhất các lợi ích để sao cho trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần của mình vào việc theo đuổi lợi ích dân tộc. Để làm được điều này nhà nước phải là người hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội mà mỗi chương trình là mỗi cơ hội mở rộng đầu tư phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp. Chỉ có con đường hoạch định chiến lược phát triển kinh tế nước ngoài mới có thể dẫn dắt các doanh nghiệp, chỉ cho họ thấy chỗ nào là có thể và cần phải đầu tư vào nơi nào là lợi cho mình đồng thời cho dân tộc. Bằng việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhà nước có thể thực hiện được ý đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng lãnh thổ khai thác sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đưa thị trường trong nước hoà nhập vào thị trường thế giới làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng ổn định vững chắc công bằng và có hiệu quả.
Hai là: Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển.
Mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế - xã hội cần và đủ. Thực tiễn cho thấy rằng - Con đường lịch sử tự nhiên của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển rất lâu dài. Ngày nay khi kinh nghiệm lịch sử của các nước đã trở thành lý luận các nước đi sau có thể rút ngắn chặng đường phát triển của mình chỉ bằng cách: nhà nước chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng. Quyền lực nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành vai trò đó nhà nước cần phải:
Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế.
Qui định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất
Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường
ổn định về chính trị và xã hội
Ba là: Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng hiệu quả tạo ra động lực của sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng sự hoạt động của các qui luật càng dẫn đến sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ dưới quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị xã hội, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp có thể dẫn tới sự đe doạ ổn định về mặt chính trị, tạo môi trường xã hội lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước phải hoàn thành chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cài về năng lực sở trường trình độ tay nghề và may mắn dẫn đến sự khác nhau trong thu nhập. Nhà nước cần phải biết lựa chọn phương án phân phối lại như thế nào đó cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả trong sự bất bình đẳng cho phép.
Để giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập cần thiết phải xây dựng lại hệ thống thuế để điều tiết một phần thu nhập của lớp người giàu có. Đồng thời cần giúp đỡ những người nghèo có cơ hội trở thành giầu có. Nhà nước cần phải giúp đỡ tạo công ăn việc làm, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghiệp vụ, cho vay vốn ban đầu với cế độ ưu đãi thích đáng. Đồng thời cần phải hình thành các quĩ trợ cấp bảo hiểm từ nguòn vốn ngân sách và tư nguồn vốn huy động của dân để giúp cho những người tạm thời thất nghiệp những người già yếu...
Phân phối lại thu nhập, hình thành các quĩ trợ cấp là một trong những công cụ có hiệu lực nhất để định hướng xã hội chủ nghiã của một nền kinh tế. Thể hiện tính cộng đồng dân tộc trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Bốn là: Can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết. Định hướng tạo môi trường, phân phối thu nhập là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của nhà nước trong mọt chiến lược dài hạn. Trong quá trình thực hiện các chiến lược đó dưới ảnh hưởng cả cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nôị địa đống thời dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra các “cú sốc” làm chệch mục tiêu là điều không tránh khỏi. Trong trường hợp đó nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sôcs gây ra đưa nền kinh tế đi theo định hướng.
Năm là: Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý.
Nhà nước phải là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế trong cương vị quốc gia. Về mặt đối ngoại nhà nước có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng trời và vùng biển. Về mặt đối nội nhà nước là chủ sở hữu các nguồn lực này phân bố sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý.
Đồng thời nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước, nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế. Với tư cách là người chủ quản lý đất nước. Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế không làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội.
Tóm lại có thể nói rằng mọi quốc gia dù kinh tế có phát triển thành công hay suy thoái đình trệ, giàu hay nghèo, ổn định hay rối loạn đều tìm thấy nguyên nhân chủ yếu ở vai trò quản lý của nhà nước. Vì thế chuyển sang cơ chế thị trường chỉ là điều kiện cần còn điều kiện đủ phải là vai trò quản lý của nhà nước. Đó là nhân tố vô cùng quan trọng và cần thiết mà không quốc gia nào có thể bỏ qua.
5 - Đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng bởi lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy nền kinh tế đó mang các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Cụ thể là:
- Sự phát triển kinh tế phải gắn liền với việc giải quyết những vấn đề xã hội.
Để phát triển kinh tế chúng ta không chỉ quan tâm đến vấn đề sản xuất mà vấn đề xã hội là một trong những vấn đề day dứt hàng ngày của toàn xã hội. Vì vậy phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với xã hội , xã hội với kinh tế. Mục tiêu của Đảng và nhà nước không chỉ là ổn định chính trị, xây dựng cơ sở vật chất cơ sở kỹ thuật, phát triển sản xuất mà còn giải quyết các vấn đề xã hội từ công ăn việc làm đến đời sống văn hoá, xây dựng các quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, công bằng xã hội.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều sử dụng cỗ xe kinh tế hàng hoá, nhưng chỗ khác nhau là sự cân bằng giữa kinh tế xã hội, con người và quan hệ con người với con người, quan hệ phân phối, thiết chế chính trị cả hai đều sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển nhưng dưới chủ nghĩa tư bản không thể tránh khỏi qui luật cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng bất công. Chúng ta chấp nhận thị trường là chấp nhận cạnh tranh đua tranh nhưng sẽ không dã man, tăng trưởng kinh tế đi đối với xoá đói giảm nghèo, sự gia tăng về mức sống những giữ gìn đạo đức bản sắc văn hoá dân tộc.
- Phát triển kinh tế Việt Nam phải là phát triển bền vững:
Kinh tế thị trường có thể nhanh chónh tăng trưởng và đạt đến đỉnh cao những cũng rất dễ dẫn đến suy thoái và khủng hoảng do đó mục tiêu phát triển kinh tế của chúng ta phải là phát triển bền vững.
- Tốc độ phát triển kinh tế phải cao:
Phải ổn định và phát triển sản xuất, nâng dần nhịp độ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế xã hội. Ưu tiên phát triển những ngành trọng điểm những địa bàn và những cơ sở sớm đưa lại hiệu quả cao. Đẩy mạnh xuất khẩu, hợp tác nước ngoài.
- Kinh tế nước ta l._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0291.doc