Phần I. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp được coi là những đơn vị kinh tế tự chủ từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Ba vấn đề chính là: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Hiện được các doanh nghiệp quan tâm để đạt được hiệu quả cao nhất trên cơ sở nguồn lực sẵn có của mình. Đó chính là
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm gà giống thương phẩm tại Công ty giống gia cầm Lương Mỹ - Chương mỹ - Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cả một quá trình mà các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đưa ra những sản phẩm, hàng hoá phù hợp với nhu cầu của thị trường, để thúc đẩy quá trình sản xuất của xã hội nói chung và của doanh nghiệp nói riêng.
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường khách hàng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định tới quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các đơn vị sản xuất khác. Nhiệm vụ quan trọng của các doanh nghiệp là phải nắm bắt được các nhu cầu về thị trường từ đó có định hướng cho sản xuất của doanh nghiệp mình, sản xuất sản phẩm mà thị trường cần phù hợp với nhu cầu thị trường trong từng khoảng thời gian, không gian nhất định.
Trong mấy năm gần đây, cùng với ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi của nước ta đã không ngừng phát triển và đã đạt được kết quả đáng kể. Đó là sự khởi đầu trong việc triền khai chương trình phát triển chăn nuôi, đưa ngành chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính của Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trương ương Đảng khoá VIII và nghị quyết 06 NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong đó ngành chăn nuôi gia cầm đã góp phần vào sự phát triển của ngành chăn nuôi cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Chăn nuôi gia cầm là một loại hình chăn nuôi phổ biến trong hộ gia đình Việt Nam là một số mô hình trang trại, xí nghiệp, doanh nghiệp . Với những đặc điểm nổi bật là nó phù hợp với điều kiện xã hội, tự nhiên, điều kiện địa lý... của nước ta.
Chăn nuôi gà là một nghề đã có từ lâu trong các hộ gia đình ở nông thôn. Thực tế đã chứng minh chăn nuôi gà đem lại hiệu quả kinh tế cao, chu kỳ sản xuất thịt và trứng nhanh hơn nhiều so với nhiều vật nuôi khác. Chi phí thức ăn cho 1 kg tăng trọng thấp và nó tạo ra nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Nó cung cấp phần lớn sản lượng thịt cho ngành chăn nuôi nói chung và ngành gia cầm nói riêng. Hơn nữa chu kỳ sản xuất gà ngắn do đó nó đáp ứng được nhu cầu thực phẩm ngày càng cao trong xã hội cả về số lượng cũng chất lượng sản phẩm. Ngành chăn nuôi gà phát triển còn góp phần bổ trợ đáng kể vào việc phát triển ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và các ngành kinh tế khác, làm tăng nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm, xuất khẩu thu ngoại tệ phục vụ cho các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
Ngành chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi gà nói riêng trong những năm gần đây đã từng bước được Nhà nước chú ý hơn đặc biệt là công tác giống. Nhà nước chú trọng đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm gà giống và nó đã đóng góp đáng kể vào việc đáp ứng nhu cầu về khối lượng thịt, trứng của nhân dân. Tuy nhiên trên thực tế khối lượng này vẫn còn khiêm tốn so với nhu cầu thực phẩm của nhân dân và nhu cầu làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm bởi lẽ một số xí nghiệp, doanh nghiệp cho ra sản phẩm giống tốt nhưng quá trình sản xuất và tiêu thụ còn nhiều điều bất cập.
Công ty giống gia cầm Lương Mỹ trực thuộc tổng công ty chăn nuôi Việt Nam, được thành lập theo nghị quyết số 160-NNTCQD ngày 24/09/1976 của Bộ trưởng bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) do sản phẩm gà giống của công ty gặp không ít khó khăn về phía đầu ra (thị trường tiêu thụ và giá cả) sản xuất kinh doanh gà chỉ có thể đứng vững và phát triển khi có một thị trường ổn định và chiếm thị phần lớn.
Để góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gà giống của Công ty trong thời gian tới, được sự phân công của khoa Kinh tế và phát triển nông thôn, được sự đồng ý của ban lãnh đạo Công ty giống gia cầm Lương Mỹ, dưới sự hướng dẫn của thầy Đặng Văn Tiến chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm gà giống thương phẩm tại Công ty giống gia cầm Lương Mỹ- Chương mỹ - Hà Tây".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực trạng tiêu thụ sản phẩm của Công ty để đề ra giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm cho Công ty.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường và tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế thị trường
+ Tìm hiểu đánh giá thực trạng tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty.
+ Phân tích các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty.
+ Định hướng và đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm cho công ty ngày càng có hiệu quả.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tiêu thụ sản phẩm gà giống của Công ty giống gia cầm Lương Mỹ -Chương Mỹ - Hà Tây.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm gà giống của Công ty giống gia cầm Lương Mỹ.
Thời gian nghiên cứu: Đánh giá thực trạng tiêu thụ sản phẩm gà giống của công ty qua 3 năm (2000-2001-2002).
Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu tại Công ty giống gia cầm Lương Mỹ - Chương Mỹ- Hà Tây.
Phần II. cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu đề tài
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số lý luận về thị trường
2.1.1.1. Khái niệm về thị trường
Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá và được hình thành trong lĩnh vực lưu thông người có hàng hoá đem ra trao đổi gọi là bên bán, người có nhu cầu chưa được thoả mãn và có khả năng thanh toán gọi là bên mua. Trong quá trình trao đổi đã hình thành các mối quan hệ nhất định, đó là quan hệ giữa bên bán và bên mua với nhau. Vì vậy theo các nhà Marketing thì thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Theo lý thuyết kinh tế học: Thị trường là nơi người bán và người mua gặp nhau để thoả mãn nhu cầu của mình bằng việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
Theo góc độ địa lí: Thị trường là vị trí kinh tế mà qua đó cung cầu được thoả mãn.
Theo các nhà kinh tế: Thị trường là sự biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định của doanh nghiệp về số lượng và chất lượng và mẫu mã hàng hoá. Đó là mối quan hệ giữa tổng số cung và tổng số cầu với cơ cấu cung cầu của từng loại hàng hoá cụ thể.
Tóm lại quan điểm cốt lõi của thị trường: Thị trường bao gồm toàn bộ quá trình trao đổi hàng hoá, nó được diễn ra trong một thời gian và một không gian nhất định.
2.1.1.2. Vai trò của thị trường với hoạt động sản xuất kinh doanh
Thị trường có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và sự phát triển kinh tế xã hội:
+ Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là mục tiêu của quá trình sản xuất hàng hoá. Thị trường chính là nơi hình thành và giải quyết các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp, doanh nghiệp với Nhà nước, doanh nghiệp với người tiêu dùng.
+Thị trường là đối tượng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
+ Thị trường là khâu tất yếu là quan trọng nhất của sản xuất hàng hoá, thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng.
+ Thông qua thị trường có thể nhận biết được sự phân phối của các nguồn lực sản xuất, thông qua hệ thống giá cả.
+ Thị trường là môi trường kinh doanh, nó giúp các nhà sản xuất nhận biết nhu cầu xã hội về thế mạnh kinh doanh của mình để có các phương án sản xuất kinh doanh phù hợp với đòi hỏi của thị trường
+ Thị trường là nơi cung cấp thông tin quan trọng trên cơ sở đó nhà sản xuất kinh doanh đưa ra các quyết định riêng cho doanh nghiệp mình.
+ Thị trường có vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế, đó là đối tượng căn cứ để kế hoạch hoá. Thị trường là công cụ bổ sung cho các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
2.1.1.3. Chức năng của thị trường
Thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán do đó nó có các chức năng nhất định và tầm quan trọng của từng chức năng được thể hiện như sau:
+ Chức năng thừa nhận : Thị trường là nơi gặp gỡ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình trao đổi hàng hoá, thị trường với mong muốn chủ quan bán được nhiều hàng hoá với giá cả sao cho bù đắp được mọi chi phí bỏ ra và có lợi nhuận, còn người tiêu dùng tìm đến thị trường để mua những hàng hoá đúng công dụng, hợp thị hiếu và có khả năng thanh toán theo mong muốn của mình. Trong quá trình diễn ra sự trao đổi, mặc cả trên thị trường giữa đôi bên về một mặt nào đó sẽ có 2 khả năng xẩy ra là thừa nhận hoặc không thừa nhận, tức là có thể loại hàng hoá đó không phù hợp với quá trình tái sản xuất sẽ bị ách tắc, không thực hiện được. Ngược lại trong trường hợp thị trường thực hiện chức năng chấp nhận tức là đôi bên đã thuận mua vừa bán thì quá trình tái sản xuất được giải quyết.
+ Chức năng thực hiện: Khi mà thị trường đã thừa nhân sự có mặt của hàng hoá nào đó trên thị trường thì chức năng thực hiện được hình thành và hàng hoá đó sẽ được lưu thông (bán) như mọi hàng hoá khác trên thị trường.
+ Chức năng điều tiết, kích thích: Như chúng ta đã biết lợi nhuận là mục đích cao nhất của quá trình sản xuất, trong khi đó lợi nhuận lại chỉ hình thành khi thông qua hoạt động của thị trường. Do vậy thị trường vừa là mục tiêu, vừa tạo ra động lực điều tiết kích thích được thể hiện ở chỗ thông qua nhu cầu thị trường các doanh nghiệp chủ động điều chỉnh hoặc di chuyển các yếu tố sản xuất từ ngành này sang ngành khác, hoặc sản phẩm này sang sản phẩm khác nhằm mục đích kiếm lợi nhuận cao hơn. Thông qua qui luật hoạt động của thị trường, các doanh nghiệp mạnh mẽ tận dụng khả năng, lợi thế của mình trong cạnh tranh để đẩy nhanh quá trình sản xuất. Ngược lại, các doanh nghiệp không có lợi thế cũng tìm cách vươn lên để tránh khỏi bị phá sản. Đó chính là động lực do thị trường tạo ra.
Giá cả sản phẩm ngoài thị trường là thước đo hiệu quả sản xuất và mức độ chi tiêu trong tiêu dùng của người mua, nó chỉ chấp nhận chi phí ở mức thấp hơn hoặc bằng mức xã hội cần thiết. Do đó thị trường có vai trò quan trọng đối với kích thích, tiết kiệm chi phí và tiết kiệm sức lao động.
+ Chức năng thông tin: Chức năng thông tin của thị trường sẽ góp phần đắc lực cho sự hiểu biết giữa người mua và người bán, giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Thông tin thị trường cho biết tổng số cung, tổng số cầu, cơ cấu cung cầu, quan hệ cung cầu giá cả, chất lượng sản phẩm... Do vậy thông tin thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với quản lý kinh tế, nhiều khi nó quyết định cả quá trình sản xuất.
Trong công tác quản lý nền kinh tế thị trường, vai trò tiếp nhận thông tin từ thị trường đã quan trọng, song việc chọn lọc và xử lý thông tin lại là công việc quan trọng hơn nhiều. Để đưa ra những quyết định chính xác nhằm thúc đẩy sự vạn hành mọi hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường, tuỳ thuộc vào sự chính xác của việc sàng lọc và xử lý thông tin.
Tóm lại: 4 chức năng của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thực tế một hiện tượng kinh tế diễn ra trên thị trường đều thể hiện đầy đủ và đan xen lẫn nhau giữa 4 chức năng. Tuy nhiên cũng phải thấy rõ là chỉ khi thực hiện chức năng thừa nhận thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng.
2.1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường
Các nhân tố kinh tế: Có vai trò trực tiếp đến cung, cầu cơ sở vật chất kỹ thuật, quan hệ kinh tế đối ngoại, giá cả, thu nhập bình quân trên đầu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Các nhân tố xã hội: Mật độ phân bổ dân cư, phong tục tập quán, trình độ văn hoá... Chúng có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của thị trường.
Các nhân tố về chính trị: Tình hình chính trị trong và ngoài nước, hệ thống pháp luật và các văn bản dưới luật, các công cụ chính sách của Nhà nước.
Các nhân tố thuộc về kinh tế vĩ mô: Thể hiện bằng các chính sách của Nhà nước như : Chính sách thuế, chính sách dự trữ và điều hoà, chính sách trợ giá... Các chính sách đều có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường. Nhà nước luôn có xu hướng quản lý và bình ổn giá cả.
Các nhân tố thuộc về kinh tế vi mô: Là chiến lược chính sách biện pháp của các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng trong kinh doanh như: chiến lược sản phẩm mới, chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, chiến lược giá, hoạt động marketing của doanh nghiệp. Các chiến lược tác động trực tiếp chủ quan vào thị trường.
2.1.1.5. Phân khúc thị trường
Khi quyết định tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhà sản xuất kinh doanh phải xác định được thị trường. Cụ thể là xác định nhu cầu của khách hàng mà mình có khả năng cung ứng. Hướng vào thị trường là hướng vào khách hàng chính, đó là mục tiêu hàng đầu của các nhà sản xuất kinh doanh. Do vậy mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh thường phân thị trường thành những khúc, những đoạn riêng biệt nhằm có những biện pháp, chính sách cụ thể đối với những khúc thị trường đó.
+ Căn cứ vào thu nhập của người tiêu dùng chia thành thị trường dành cho những người có thu nhập cao, thị trường dành cho những người có thu nhập trung bình, và thị trường dành cho những người có thu nhập thấp.
+ Căn cứ vào khu vực có thể chia thành, thị trường thành thị, thị trường nông thôn, thị trường vùng đồng bằng, thị trường vùng cao.
+Căn cứ vào số lượng dân cư có thể chia thành thị trường dành cho những vùng đông dân, thị trường dành cho những vùng ít dân.
+ Căn cứ vào trình độ văn hoá có thể chia thành thị trường dành cho những người có trình độ văn hoá cao và thị trường cho những có trình độ văn hoá thấp.
Tuỳ theo loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau mà các phương thức phân khúc thị trường khác nhau.
2.1.2. Những lý luận cơ bản về tiêu thụ sản phẩm
2.1.2.1. Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm
Theo nghĩa rộng : Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như: Nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng... nhằm mục đích đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Theo nghĩa hẹp: Tiêu thụ (bán hàng) là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng, đồng thời thu được tiền hàng hoá hoặc được quyền thu tiền
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá, thông qua tiêu thụ mà hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị (tiền tệ) và vòng chu chuyển vốn của doanh nghiệp được hoàn thành.
Tiêu thụ sản phẩm đơn giản được cấu thành từ người bán người mua hàng hoá, tiền tệ, khả năng thanh toán, sự sẵn sàng mua và bán... Nhằm tối da hoá lợi nhuận mỗi bên
2.1.2.2. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
T
H
Sản xuất
H'
T'
Tiêu thụ
Sơ đồ 1. Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Sơ đồ cho thấy: Kết quả tiêu thụ có vai trò quyết định đến sự vận động nhịp nhàng của các giai đoạn trước, trong chu kỳ sản xuất kinh doanh, cụ thể:
Tiêu thụ sản phẩm nhằm thực hiện quá trình đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nói cách khác tiêu thụ đóng vai trò là khâu lưu thông hàng hoá, là trung gian mua bán giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
Tiêu thụ sản phẩm làm cho người sản xuất hiểu cụ thể khách hàng mong muốn về số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã hàng hoá mà mình sản xuất ra, để từ đó thảo mãn nhu cầu của họ.
Tiêu thụ sản phẩm làm cho người tiêu dùng tiếp cận sản phẩm hàng hoá mà họ cần và chấp nhân được tính hữu ích của mỗi sản phẩm hàng hoá đó. Khi sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận thì doanh nghiệp mới thu hồi được các chi phí có liên quan và xác định được mức sản phẩm sản xuất ra .
Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân tiêu thụ có vai trò làm cân đối giữa cung và cầu để tạo nên sự ổn định xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng với mỗi sản phẩm hàng hoá. Căn cứ vào mỗi dự đoán đó mà mỗi doanh nghiệp có thể xây dựng cho mình kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để đem lại hiệu quả kinh doanh cao.
2.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm
Thị trường tiêu thụ nghiên cứu: Thị trường tiêu thụ chính là nghiên cứu mối quan hệ cung - cầu, giá cả sản phẩm hàng hoá trong một không gian, thời gian nhất định. Thị trường tiêu thụ là nhân tố tác động mạnh đến sản xuất của các doanh nghiệp bởi các quy luật cạnh tranh, qui luật cung cầu. Thị trường là đối tượng sản xuất đồng thời cũng là điều tiết sản xuất.
Chất lượng sản phẩm: Trong nền kinh tế thị trường chất lượng sản phẩm là vấn đề cơ bản quyết định khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sản phẩm của doanh nghiệp được người tiêu dùng chấp nhận khi chất lượng sản phẩm đảm bảo. Chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao sẽ làm tăng giá trị sử dụng, thời gian sử dụng của sản phẩm trên thị trường cạnh tranh, sản phẩm tiêu thụ rộng hơn, nhiều hơn và ngược lại sẽ mất dần sức cạnh tranh trên thị trường, sẽ bị đánh bại và nhanh chóng dẫn đến phá sản. Giá sản phẩm: Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm bởi người tiêu dùng quyết định xem giá cả của mặt hàng có phù hợp với ý tưởng của họ hay không? Do đó khi định giá doanh nghiệp phải xem xét vấn đề này kĩ càng để đưa ra mức giá thích hợp, thuyết phục người tiêu dùng, phản ánh đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Nhân tố vốn: Là một nhân tố quan trọng trong quá trình mở rộng sản xuất kinh doanh và trong quá trình cạnh tranh của doanh nghiệp
Nhân tố con người: Con người hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh nói chung và đối với khâu tiêu thụ nói riêng. Đối với doanh nghiệp thể hiện qua trình độ quản lý, điều hành.
Nhân tố chính sách và pháp luật của Nhà nước: Môi trường chính sách có thể tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp này phát triển song kìm hãm doanh nghiệp khác, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến tiêu thụ. Môi trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước, đường lối phát triển kinh tế có sự can thiệp của Đảng. Các công cụ của Đảng và Nhà nước ta đề ra như : Chính sách tín dụng ngân hàng, chính sách xuất nhập khẩu... đã trực tiếp, gián tiếp tác động đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1.2.4. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả tiêu thụ
Khối lượng sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ được thể hiện dưới hai hình thức là hiện vật và giá trị.
Hình thức hiện vật có ưu điểm là biểu hiện cụ thể khối lượng đang tiêu thụ, từng loại hàng, song hình thức này không tổng hợp và không so sánh được.
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong một năm hoặc trong một kỳ được tính theo công thức:
Lượng tồn kho đầu năm + Lượng sản xuất trong năm - Lượng tồn cuối năm
Số lượng tồn kho đầu năm tiêu thụ trong năm hình thức hiện vật là chỉ tiêu phản ánh bằng tiền của khối lượng sản phẩm bán ra và doanh nghiệp đã thu được doanh thu hoặc lấy giấy báo của ngân hàng.
Doanh số (doanh thu) = khối lượng tiêu thụ trong năm x giá bán
Kt =
Trong đó: Kt: giá trị sản phẩm hàng hoá thực hiện
Qi: Lượng hàng hoá loại i được tiêu thụ
Gi: Giá bán hàng hoá i
Chỉ tiêu so sánh kết quả đạt được của từng mặt hàng trong quá trình tiêu thụ.
Hệ số tiêu thụ =
Khối lượng tiêu thụ trong năm
Khối lượng sản xuất trong năm + tồn kỳ trước chuyển sang
Hệ số này đánh giá mức độ tiêu thụ sản phẩm và cho biết mức độ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
(Hệ số này càng gần 1 thì quá trình tiêu thụ càng có hiệu quả)
2.2. Cơ sở thực tiễn nghiên cứu đề tài
2.2.1. Vai trò của chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gà nói riêng trong phát triển kinh tế
2.2.1.1. Vai trò của ngành chăn nuôi
+ Đối với nền kinh tế quốc dân
Trong nền kinh tế quốc dân, chăn nuôi đóng vai trò khá quan trọng, nó góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế và góp một lượng hàng hoá cho xuất khẩu. Tuỳ theo lợi thế so sánh của mình, mỗi nước có thể xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp mà trong đó có một phần là sản phẩm chăn nuôi để thu ngoại tệ hay trao đổi để lấy các sản phẩm công nghiệp đầu tư lại cho ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. Vì thế sự phát triển của ngành chăn nuôi sẽ ảnh hưởng tới phân bổ và phát triển các ngành sản xuất công nghiệp.
Chăn nuôi không những cung cấp nguồn sản phẩm hàng hoá cho thị trường trong nước và cho xuất khẩu mà nó còn giúp sử dụng một cách đầy đủ và hợp lí lực lượng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp nông thôn. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao, hơn nữa lao động trong nông nghiệp lại chiếm một tỉ trọng khá lớn trong tổng số lao động của nước ta và các nước đang phát triển khác. Lực lượng lao động này có một thời gian nhàn rỗi quá lớn do tính chất thời vụ trong sản xuất sinh ra. Do đó việc phát triển ngành chăn nuôi đã giúp tạo công ăn việc làm cho nông dân và giúp họ tăng thu nhập.
+ Đối với ngành nông nghiệp
Đối với sản xuất nông nghiệp chăn nuôi có một vai trò rất quan trọng. Trong sản xuất nông nghiệp thì hai ngành chính cấu thành nên nó là ngành trồng trọt và chăn nuôi. Hai ngành này có sự liên hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Một nền nông nghiệp muốn phát triển được một cách bền vững và ổn định thì cần phải có sự phát triển một cách cân đối giữa hai ngành trồng trọt và chăn nuôi. Trồng trọt cung cấp thức ăn cho ngành chăn nuôi phát triển, mặt khác chăn nuôi cung cấp phân bón, sức kéo cho ngành trồng trọt. Nguồn phân hữu cơ mà chăn nuôi cung cấp cho ngành trồng trọt có vai trò hết sức quan trọng. Vì thế để có một nền nông nghiệp bền vững thì không bao giờ được phép coi nhẹ vai trò của ngành chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp.
+ Đối với hộ nông dân
ở nước ta hiện nay trong nền kinh tế thị trường, hộ nông dân đã được coi là một đơn vị kinh tế tự chủ thì vai trò của ngành chăn nuôi càng được coi trọng. Một thực tế không thể chối cãi được đó là ngành chăn nuôi chiếm một vai trò quan trọng trong thu nhập của người nông dân, sản phẩm hàng hoá của nông hộ chủ yếu là sản phẩm thu được từ quá trình chăn nuôi. Chăn nuôi đã gắn bó mật thiết đối với đời sống của người dân, giúp tận dụng những sản phẩm dư thừa trong sinh hoạt hàng ngày, tận dụng lao động nhàn rỗi và làm tăng thu nhập, cải thiện bữa ăn hàng ngày của nông hộ.
Từ những phân tích trên cho thấy chăn nuôi có một vai trò rất to lớn không chỉ trong nông nghiệp mà còn kể cả trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong đời sống xã hội. Nó không ngừng đóng góp một phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân mà nó còn sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân lực, từ đó làm tăng thu nhập cho người lao động góp phần ổn định và cải thiện đời sống cho các hộ nông dân nói riêng và xã hội nói chung.
2.2.1.2. Vai trò của chăn nuôi gà trong phát triển kinh tế
Ngành chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chính của sản xuất nông nghiệp. Phát triển mạnh ngành chăn nuôi gà có ý nghĩa quan trọng:
+ Chăn nuôi gà cung cấp thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, rất cần thiết cho nhu cầu của con người, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Chăn nuôi phát triển tạo điều kiện cho trồng trọt phát triển cân đối và toàn diện, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, và cải thiện đời sống cho nhân dân.
+ Gà là giống gia cầm tương đối dễ nuôi so với các loại gia cầm vòng đời ngắn, quay vòng nhanh nên có thể áp dụng nuôi ở các hộ gia đình, các trang trại và cả các xí nghiệp doanh nghiệp, nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình, cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời phát triển nền kinh tế quốc dân.
2.2.2. Đặc điểm của hoạt động tiêu thụ gà giống
- Gà giống là một loại sản phẩm có tính chất, đặc điểm riêng. Vì là gà giống thương phẩm nên sản xuất phải được tiêu thụ ngay trong ngày, nếu không sẽ bị ảnh hưởng đến chất lượng con giống
- Gà giống sản xuất trong qui trình 21 ngày nhưng phải tuân thủ nghiêm ngặt theo đúng yêu cầu kỹ thuật để đảm bảo chất lượng con giống bán ra.
- Quá trình vận chuyển đến người chăn nuôi phải đảm bảo gà được che chắn cẩn thận không bị mưa, nắng.
2.2.3. Tình hình chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam
Trước năm 1974 nhìn chung ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta phát triển theo hình thức chăn thả tự nhiên là chủ yếu. Sau năm 1974 được sự giúp đỡ của Cu Ba, Bungari và sự quan tâm của Nhà nước ngành chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi gà nói riêng đã và đang phát triển nhanh chóng. Hàng loạt xí nghiệp gà giống được xây dựng như xí nghiệp gà giống Lương Mỹ, Tam Dương, Phúc Thịnh, Hà Nội, Nhân Lễ. Các xí nghiệp đã không ngừng nghiên cứu thể hiện nhiều công thức lai tạo nhằm tạo ra con lai thích hợp cho hoàn cảnh cụ thể ở nước ta, phần nào đáp ứng được nhu cầu con giống cho chăn nuôi ở nước ta cả về số lượng và chất lượng sản phẩm gà.
Sau hơn 10 năm đổi mới, đặc biệt từ năm 1990 trở lại đây chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi gà nói riêng có những bước phát triển đáng khích lệ.
Biểu 01. Số lượng và sản lượng thịt, trứng của cả nước qua 10 năm
Năm
Tổng số gia cầm
(nghìn con)
Gà
(nghìn con)
Sản lượng thịt
(nghìn tấn)
Sản lượng trứng
(nghìn quả)
1990
103820,1
80184,0
167,9
1896,4
1991
105258,7
80578,2
146,4
2016,9
1992
117875,6
89704,9
154,4
2269,0
1993
126399,4
95087,2
169,9
2346,9
1994
131668,3
99627,1
186,4
2672,1
1995
140004,0
107958,4
197,1
2825,0
1996
151405,6
112788,7
212,9
3083,8
1997
160550,1
120567,0
226,1
3168,6
1998
167890,0
126361,0
250,1
3226,7
1999
179323,0
135760,0
261,8
3442,8
2000
196164,0
147050,0
286,5
3708,6
Tốc độ tăng BQ (%)
6,3
6,1
5,7
6,8
Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Tổng cục Thống kê
Theo số liệu thống kê biểu 01 cho thấy số lượng gia cầm ở nước ta không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1999 số lượng gia cầm là 179323,0 nghìn con tăng 11433,0 nghìn con so với năm 1998 và đến năm 2000 là 196164,0 tăng 16871,0 nghìn con, tốc độ tăng bình quân là 6,3% qua các năm.
Cùng với số lượng gia cầm tăng lên thì số lượng gà cũng tăng đáng kể qua các năm bình quân là tăng 6,1% cụ thể năm 2000 số lượng gà là 147050.0 nghìn con tăng hơn so với năm 1999 là 11290 nghìn con.
Sản lượng thịt có tăng nhưng chậm hơn chỉ tăng bình quân 5,7% qua các năm, năm 1999 đạt 261,8 nghìn tấn thì đến năm 2000 là 286,5 nghìn tấn tăng 24,7 nghìn tấn.
Sản lượng trứng gia cầm tăng tương đối cao bình quân qua các năm tăng 6,8%, đến năm 2000 đạt 3708,6 nghìn tấn.
Biểu 02: Số lượng gia cầm và sản lượng thịt gia cầm ở các vùng sinh thái (2000)
Chỉ tiêu
Tổng đàn gia cầm
Sản lượng thịt gia cầm
Tổng đàn gia cầm
Trong đó gà
Sản lượng (1000 tấn)
Tỷ lệ(%)
Tổng đàn (tr.con)
Tỷ lệ (%)
Tổng đàn (tr.con)
Tỷ lệ (%)
Cả nước
196,2
100,0
147,1
100,0
286,5
100,0
Miền Bắc
112,8
57,5
94,9
64,5
146,1
51,0
Miền Nam
83,3
42,5
52,2
35,5
140,4
49,0
ĐB s.Hồng
44,8
22,8
37,4
25,4
67,4
23,5
Đông Bắc
39,9
20,3
34,4
23,4
47,0
16,4
Tây Bắc
5,0
2,5
4,5
3,1
4,2
1,5
Bắc Trung Bộ
23,0
11,7
18,6
12,6
27,5
9,6
DH miền Trung
13,9
7,1
9,2
6,3
13,7
4,8
Tây Nguyên
4,9
2,5
4,4
3,0
5,6
2,0
Đông Nam Bộ
20,3
10,3
15,8
10,7
42,9
14,0
ĐB s. Cửu Long
44,2
22,5
22,8
15,5
78,2
27,2
Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Tổng cục Thống kê
Nhìn chung ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta trong đó có gà vẫn chủ yếu là phương thức nuôi tận dụng tự nhiên, tận dụng thức ăn gia đình, chăn nuôi theo kiểu công nghiệp, chuyên môn hoá phát triển còn chậm. Số lượng gia cầm được phân bổ ở các vùng trong nước được phản ánh qua biểu 2. Tổng đàn gia cầm của cả nước là 196, 2 triệu con. Đàn gia cầm chủ yếu tập trung ở phía Bắc và phía Nam, phía Bắc có 112,8 triệu con chiếm 57,5% và phía Nam là 42,5%. Trong đó đàn gà ở phía Bắc là 94,9 triệu con, chiếm 64,5%, và miền nam là 52,2 triệu con, chiếm 35,5%. Tây Nguyên tỷ lệ đàn gà thấp nhất trong cả nước chỉ có 4,4 triệu con chiếm 3,0% trong tổng số đàn gà của cả nước. Riêng sản lượng thịt gia cầm cũng tập trung ở miền Bắc và miền Nam chiếm gần 50,0% tỷ lệ thịt gia cầm của cả nước vì đây là hai nơi tập trung đông dân nhất trong cả nước.
2.2.4. Thị trường gà công nghiệp trong mấy năm gần đây tại Việt Nam
Nước ta mấy năm gàn đây chăn nuôi gia cầm phát triển khá mạnh trong đó có gà công nghiệp chiếm từ 30 - 32% tổng đàn gà cả nước. Năm 2000 tổng đàn gà công nghiệp là 39,5 triệu con.
Theo số liệu Cục khuyến nông - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 1999 cả nước có tổng đàn gà công nghiệp bố mẹ là 420.000 con, mái để sản xuất khoảng 32 triệu con gà giống mỗi năm, sang năm 2001 cả nước có khoảng 460.000 con mái để và cung cấp ra thị trường gần 42 triệu gà giống thịt.
Do đó nhu cầu gà giống tăng lên, ngoài các trại sản xuất gà con của liên hiệp chăn nuôi gia cầm và các công ty liên doanh còn có các trại sản xuất các gà con giống với quy mô nhỏ.
Hiện nay ở nước ta đã hình thành hàng vạn hộ chăn nuôi gia đình với qui mô khác nhau vừa phân tán, vừa tập trung tạo thành làng gà, xã gà như: xã Lê Lợi, Thường Tín - Hà Tây... Riêng ngoại thành Hà Nội có khoảng 4000 hộ nuôi gà với qui mô lớn nhỏ.
ở miền Nam nghề nuôi gà công nghiệp phát triển từ thành phố Hồ Chí Minh phát triển ra các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước riêng công ty gia cầm Việt Thái có mạng lưới gia công hơn 420 hộ gia đình nuôi từ 25 triệu con gà thịt/năm.
Tập đoàn CP Group tổ chức chăn nuôi gà công nghiệp ở những hộ gia đình ở các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, ở miền Nam và Hà Tây ở miền Bắc với qui mô từ 4000- 6000/ hộ. Từ năm 1998 chăn nuôi gà công nghiệp bắt đầu có sự khó khăn từ phía đầu ra nhất là ở miền Nam, chăn nuôi gà công nghiệp có số lượng lớn và qui mô lớn hơn so với miền Bắc.
Cụ thể ở thành phố Hồ Chí Minh gà thịt khó tiêu thụ dẫn đến tình trạng hàng loạt gà xuất khẩu bị ứ đọng do vậy dẫn đến tình trạng gà con giống không tiêu thụ được, trứng giống phải đem bán thành trứng thương phẩm.
Đến năm 2000 thì thị trường gà trong nước có phần tốt hơn song đầu ra của sản phẩm ngành vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn xu hướng cung vượt quá cầu, người chăn nuôi gà công nghiệp vẫn bị lỗ. Như vậy vấn đề tiêu thụ sản phẩm của ngành gà hiện nay là một vấn đề mang tính cấp bách, đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có các chiến lược, sách lược kịp thời trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời Nhà nước cần có chính sách bổ trợ.
Hiện nay nước ta chỉ dừng lại ở công đoạn đầu, các khâu cuối cùng chưa được chú trọng đúng mức, nhất là khâu chế biến sản phẩm của ta cực kỳ yếu kém. Thực tế cho thấy chăn nuôi gà có lợi nhuận chưa cao, tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn.
Lâu nay việc tiêu thụ gà thịt xuất chuồng chủ yếu là do các nhà bán buôn trực tiếp bán lẻ cho các lò mổ, các nhà hàng..._.. Mặc dù nước ta có một số cơ sở chế biến nhưng vẫn hoạt động cầm chừng, ít coi trọng khâu tiếp thị, thông tin quảng cáo - quảng cáo cho sản phẩm của mình đó cũng chính là một nguyên nhân.
Chưa đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm dẫn đến tình trạng lo ngại dùng thịt, trứng trong nước. Hàng năm chúng ta vẫn còn nhập thịt và trứng phục vụ cho khách sạn.
Phần III: đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty giống gia cầm Lương Mỹ trực thuộc công ty Chăn nuôi Việt Nam. Là một doanh nghiệp quốc doanh, công ty được thành lập theo Quyết định số 160-NN/TCQD ngày 24/9/1976 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), được Chính phủ Cu Ba giúp đỡ xây dựng và được lấy tên là Xí nghiệp Gà sinh sản 2/12. Sau đó được đổi tên là Xí nghiệp gà GRAMMA, đến năm 1993 Xí nghiệp chuyển sang hạch toán độc lập theo Quyết định số 114NN ngày 02/03/1993 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đổi tên thành Xí nghiệp Gà giống Lương Mỹ thuộc Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Từ ngày 20/3/2002 Xí nghiệp đổi tên là Công ty giống gia cầm Lương Mỹ. Với chức năng nhiệm vụ chăn nuôi các đàn gà giống ông bà, đàn gà giống bố mẹ, sản xuất gà con giống cung cấp cho thị trường cả nước đáp ứng nhu cầu của nhân dân về con giống, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi cho dân, giúp cho dân phát triển chăn nuôi, cung cấp thực phẩm cho toàn xã hội nhằm cải thiện cuộc sống cho người dân và tiến lên làm giầu.
3.1.2. Vị trí địa lý
Công ty giống gia cầm Lương Mỹ nằm trên địa bàn xã Hoàng Văn Thụ - huyện Chương Mỹ - tỉnh Hà Tây, một phần nhỏ nằm trên địa bàn xã Thành Lập - huyện Lương Sơn - tỉnh Hoà Bình.
Phía Nam giáp xã Thành Lập - huyện Lương Sơn - tỉnh Hoà Bình.
Phía Tây giáp Nông trường chè Lương Mỹ - huyện Chương Mỹ - Hà Tây
Phía Đông giáp xã Hữu Văn - huyện Chương Mỹ - tỉnh Hà Tây
Phía Bắc giáp xã Hoàng Văn Thụ - huyện Chương Mỹ - tỉnh Hà Tây
Trung tâm của Công ty nằm trên trục đường 21A, cách thủ đô Hà Nội 40 km về phía Tây Bắc. Hệ thống giao thông đường bộ tương đối thuận lợi. Tổng diện tích đất tự nhiên của công ty quản lý là 53,5 ha, địa hình tương đối dốc, trung tâm và hai khu vực sản xuất chính được nằm trên 3 quả đồi.
Khí hậu ở công ty mang tính chất khí hậu vùng núi trung du, phân chia thành 4 mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình 1 năm là 23,5 0C, mùa đông rất lạnh, mùa hè lại quá nóng bức.
3.1.3. Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty
Giám đốc
P. Giám đốc
P. Tiếp thị
P. Kỹ thuật
P. Tài vụ
P.TC-HC
Chi nhánh Quảng nam Đà nẵng
PX vi sinh
PX ấp
PX sản xuất
VPĐD
Tổ chế biến thức ăn
Tổ chăn nuôi
Sơ đồ 2. Tổ chức bộ máy của công ty
Trong đó:
Quan hệ trực tuyến
Quan hệ kiểm tra giám sát
Quan hệ tham mưu giúp việc
Các phòng ban và các đơn vị sản xuất chịu sự quản lý và điều hành của giám đốc. Các phòng ban chức năng thực hiện một số chức năng nhất định, ngoài ra các phòng ban này đảm bảo mệnh mệnh của Ban Giám đóc, thực hiện đúng, hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của sản xuất phát huy được năng lực của cán bộ giúp việc và thực sự phù hợp với quy mô của Công ty.
3.1.4. Tình hình phân bổ và sử dụng lao động của công ty
Qua biểu 03 ta thấy tình hình phân bổ và sử dụng lao động của Công ty được phản ánh tương đối ổn định. Tổng số lao động năm 2001 tăng hơn so với năm 2000 là 2 người tức tăng 1,33%, năm 2002 tăng 8,55% nghĩa là 13 người so với năm 2001, bình quân tăng 4,88%. Qua 3 năm số lao động cũng được kiện toàn để phục vụ cho sản xuất của Công ty.
Nếu ta phân loại lao động trong Công ty theo trình độ lao động thì trình độ đại học - cao đẳng năm 2000 là 12 người, chiếm 8,0% tổng số lao động, và không thay đổi trong năm 2001, đến năm 2002 tăng lên 1 người đạt 7,88%. Số lao động có trình độ trung cấp năm 2000 là 15 người, chiếm 10,0% đến năm 2002 tăng lên 5 người chiếm 12,12%, bình quân tăng trong 3 năm là 15,47%. Nhưng lao động của Công ty có trình độ sơ cấp là chủ yếu, năm 2000 là 82,00 và 79,10 % năm 2002.
Khối lao động gián tiếp của công ty được thống nhất, tương đối ổn định, không bổ sung thêm mà có phần giảm đi, bình quân qua 3 năm giảm 6,19% công ty chủ yếu bổ sung lao động trực tiếp cho sản xuất kinh doanh do Công ty mở rộng quy mô sản xuất.
Về hợp đồng lao động với công ty phần lớn là lao động biên chế chiếm khoảng 90% tổng số lao động, còn lao động hợp đồng chiếm gần 10%.
Do đặc thù ngành nghề sản xuất kinh doanh nên lao động nữ của công ty chiếm tỷ lệ lơn hơn lao động nam, trên 60% là lao động nữ.
Biểu 03. Tình hình lao động và sử dụng lao động của công ty
3.1.5. Tình hình vốn của Công ty
Vốn là yếu tố cơ bản để thành lập doanh nghiệp, nó cũng là yếu tố quyết định đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nó là những yếu tố cơ bản tạo nên kết quả của các hàng hoá dịch vụ. Do vậy tạo nguồn vốn, quản lý, sử dụng vốn và tài sản là một trong những nội dung quan trọng có liên quan đến tài chính của công ty. Mục tiêu quan trọng nhất của quản lý, sử dụng vốn và tài sản là đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường và hiệu quả kinh tế cao.
Qua biểu 04 cho thấy vốn sản xuất kinh doanh của Công ty trong mấy năm qua có xu hướng tăng lên. Cụ thể là tổng giá trị tài sản năm 2000 là 12350,7 triệu đồng, đến năm 2001 là 15990,4 triệu đồng, tăng 3639,7 triệu đồng, tức là 29,4%, năm 2002 tổng giá trị tài sản là 19811,2 triệu đồng, tăng 23,8% tương đương với 3820,8 triệu đồng so với năm 2001. Bình quân tổng giá trị tài sản đạt 126,6%. Như vậy phần biến động về tổng tài sản của công ty là sự biến động của tài sản lưu động và tài sản cố định . Cụ thể năm 2001 tài sản lưu động của Công ty là tăng 23,86%, sang năm 2002 tăng 1066,4 triệu đồng so với năm 2001. Trong khi đó tài sản cố định cũng tăng trong 3 năm, năm 2001 so với năm 2000 tăng 38,04% tức là tăng 1859,4 triệu đồng và đến năm 2002 là 9502,2 triệu đồng, tăng so với năm 2001 là 40,8%. Bình quân cả 3 năm tăng 39,4%, lớn hơn tốc độ tăng bình quân của tổng tài sản. Điều này chứng tỏ Công ty đã bỏ vốn của mình vào xây dựng thêm nhà trại, mua thêm phương tiện vận tải, máy móc phục vụ cho sản xuất.
Xét theo nguồn hình thành ta thấy công ty đã sản xuất và có hiệu quả, nó được thể hiện là nguồn vốn tự bổ sung của công ty tăng qua các năm. Năm 2000 vốn tự bổ sung là 9237,7 triệu đồng, nhưng đến năm 2001 là 9479,1 triệu đồng, tăng 241,4 triệu đồng và năm 2002 là 12882,4 triệu đồng đạt 65,03%, bình quân tăng qua 3 năm là 18,1%. Tuy vậy để mở rộng quy mô sản xuất thì vốn do ngân sách cấp của Công ty cũng tăng qua các năm. Năm 2001 so với năm 2000 tăng 3398,3
Biểu 04. Tình hình vốn sản xuất kinh doanh của Công ty
triệu đồng và đến năm 2002 là 6928,8 triệu đồng , tăng so với 2001 là 417,5 triệu đồng tăng 6,4%. Bình quân qua 3 năm tăng 49,2%
3.1.6. Tình hình trang bị cơ sở vật chất của công ty
Để đáp ứng cho việc sản xuất kinh doanh được phát triển tình hình trang bị cơ sở vật chất của Công ty được phản ánh qua biểu 05. Qua biểu cho thấy năm 2001 là 6747,8 triệu đồng, tăng 1859,4 triệu đồng bằng 38,03% so vơi năm 2000. Năm 2002 tăng so với năm 2001 là 2754,4 triệu đồng. Bình quân cả 3 năm tăng 39,42%, cụ thể giá trị nhà cửa kho tàng chiếm tỷ lệ cao nhất vì được xây dựng, tu bổ qua các năm, năm 2000 là 2554,2 triệu đồng, đến năm 2001 là 3855,9 triệu đồng, tăng 1301,7 triệu đồng. Năm 2002 tăng so với năm 2001 là 2421,4 triệu đồng, tăng 62,79%, qua cả 3 năm tăng 56,76%. Máy móc thiết bị được Công ty chú trọng nhất , năm 2001 đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị mới để dùng vào sản xuất quyết tâm nâng cao chất lượng sản phẩm là 2296,9 triệu đồng, tăng 490,6 triệu đồng so với năm 2000. Phương tiện vận tải dể phục vụ cho việc vận chuyển hàng hoá cũng được tăng dần qua các năm, bình quân tăng 36,54% qua 3 năm.
Biểu 05. Tình hình trang bị cơ sở vật chất của Công ty
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
So sánh (%)
01/00
02/01
BQ
Nhà cửa, kho tàng
2554,2
3855,9
6277,3
150,96
162,79
156,76
Máy móc, thiết bị
1806,3
2296,9
2283,5
127,1
99,4
112,39
Phương tiện vận tải
505,4
572,5
925,8
113,2
164,7
136,54
Tài sản cố định khác
22,5
22,5
15,6
100,0
69,3
83,25
Tổng
4888,4
6747,8
9502,2
138,03
140,81
139,42
Nguồn: Phòng Tài vụ công ty
3.1.7. Một số thuận lợi khó khăn của Công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Thuận lợi là Công ty chuyên chăn nuôi gia cầm, có địa bàn nằm cách xa khu dân cư tránh được lây lan dịch bệnh, không gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Có thị trường tiêu thụ rộng lớn, vùng nguyên liệu dồi dào ổn định được cung cấp bởi các tỉnh lân cận như Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn La... Xí nghiệp có ban lãnh đạo năng động, đội ngũ khoa học kỹ thuật có tay nghề cao, nhiều năm liền là đơn vị kinh doanh có lãi, có điều kiện đất đai rộng lớn, thuận lợi cho chăn nuôi.
+ Khó khăn: Do nằm trên địa bàn trung du có khí hậu nắng nóng ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của gia cầm. Vị trí của Công ty nằm cách xa khu trung tâm gây khó khăn cho việc giao lưu để tiếp cận khoa học kỹ thuật tiên tiến và nền kinh tế thị trường còn mới mẻ ở nước ta. Điều kiện giao thông không thuận lợi gây khó khăn cho công ty trong việc vận chuyển sản phẩm, nhất là vận chuyển con giống đến nơi tiêu thụ. Trong khi dó công ty lại bị cạnh tranh quyết liệt bởi công ty CP-Thái Lan, Xí nghiệp gà giống Hoà Bình, Xí nghiệp gà giống Tam Đảo của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam, ngoài ra còn có các loại gà giống từ miền Nam chuyển ra. Đây là một cuộc cạnh tranh khốc liệt đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng và đổi mới của Công ty mới có thể ổn định và phát triển sản xuất.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp chung
+ Phương pháp duy vật biện chứng: Đây là phương pháp để nhận thức đúng đắn các quy luật tự nhiên và xã hội tác động tới quá trình sản xuất và tiêu thụ. Phương pháp này đòi hỏi người nghiên cứu phải thấy hết được mối quan hệ giữa các khâu sản xuất, thấy được các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm, đưa ra những giải pháp đúng đắn cụ thể sản xuất, tiêu thụ ngày càng đạt được hiệu quả cao hơn. Phương pháp này cần phải nghiên cứu các hiện tượng trong quá trình vận động không ngừng giữa các hiện tượng kinh tế xã hội.
+ Phương pháp duy vật lịch sử: Phương pháp này đòi hỏi người nghiên cứu phải đặt vấn đề của mình nghiên cứu trong các giai đoạn lịch sử cụ thể đưa ra các kết luận đúng đắn, có như vậy những nhận xét mới mang tính khách quan.
3.2.2. Phương pháp cụ thể
3.2.2.1. Phương pháp thống kê kinh tế
Đây là phương pháp phổ biến nhằm nghiên cứu các hoạt động kinh tế xã hội. Thực chất của phương pháp này là tổ chức điều tra, thu thập tài liệu... sau khi đã tổng hợp, phân tổ thì đối chiếu và so sánh phân tích để có các kết luận chính xác về thực trạng sản xuất và tiêu thụ của Công ty.
3.2.2.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Sau khi đã thu thập số liệu, tiến hành phân tích và xử lý số liệu. Việc xử lý số liệu tiến hành bằng máy tính bỏ túi và xử lý bằng máy vi tính trên chương trình Excel.
3.2.2.3. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến và lâu đời. So sánh trong phân tích là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế xã hội đã được lượng hoá có cùng nội dung, một tính chất tương tự để xác định xu hướng, mức độ bình quân của chỉ tiêu. Trên cơ sở đó đánh giá các mặt phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay không hiệu quả để tìm ra các giải pháp quản lý tối ưu trong từng trường hợp tuỳ thuộc vào mục đích cụ thể của phân tích mà ta xác định phương pháp so sánh.
Trong đề tài chúng tôi so sánh số lượng tiêu thụ sản phẩm năm nay so sánh với năm trước để nghiên cứu biến động của khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như thực trạng tiêu thụ sản phẩm của Công ty, qua đó đánh giá được thực trạng tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
3.2.2.4. Phương pháp phân tích hệ thống
Đây là phương pháp bao quát, nó cho chúng ta cái nhìn tổng thể hiện tượng từ các góc độ để từ đó đưa ra những kết luận cần thiết. Để thực hiện được phương pháp này thường phải sử dụng các phương pháp nghiệp vụ khác. Muốn có kết quả phân tích hệ thống tốt cần đến những thông tin số liệu chính xác, cụ thể, đầy đủ và kịp thời. Trong đề tài nghiên cứu khi phân tích tình hình về tiêu thụ sản phẩm thì cần phải có những thông tin chính xác, cụ thể từ phía công ty, khách hàng, thị trường và các đối thủ cạnh tranh trên thị trường để từ đó tìm ra điểm mạnh, khắc phục điểm yếu của mình trong kinh doanh nhằm đưa ra các giải pháp thích hợp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
3.2.2.5. Phương pháp dự báo nhu cầu
Dự báo nhu cầu thị trường là ước tính khả năng tiêu thụ của thị trường về sản phẩm hàng hoá trong tương lai, đây là một việc làm cần thiết cho các doanh nghiệp để hoạch định chính sách sản xuất kinh doanh, kế hoạch tiêu thụ trong tương lai, định hướng cho doanh nghiệp phát triển, tránh ứ đọng sản phẩm, đạt lợi nhuận cao. Đối với sản phẩm gà 1 ngày tuổi của công ty thì phương pháp dự báo này là rất cần thiết.
Phần IV. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Tình hình sản xuất già giống của Công ty giống gia cầm Lương Mỹ
4.1.1. Tình hình chung
Công ty giống gia cầm Lương Mỹ là doanh nghiệp Nhà nước sản xuất chăn nuôi gia cầm. Sản phẩm chính là con giống chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu. Là một doanh nghiệp sản xuất đặc thù của ngành nông nghiệp mà đối tượng sản xuất là thực thể sống cho nên việc sản xuất kinh doanh rất phức tạp, đòi hỏi ngoài trình độ chuyên môn còn phải có sự am hiểu sâu rộng hơn đối với thời tiết khí hậu của từng vùng. Song với sự phát triển của ngành chăn nuôi nước ta nói chung và sự lớn mạnh của Công ty giống gia cầm Lương Mỹ cộng với sự cạnh tranh quyết liệt trên thương trường Công ty giống gia cầm Lương Mỹ trong nhiều năm là doanh nghiệp đầu đàn của ngành chăn nuôi Việt Nam, sản xuất kinh doanh liên tục phát triển, đầu tư nhiều trang thiết bị hiện đại của các nước tiên tiến trên thế giới .Trong mấy năm gần đây công ty lấy chất lượng sản phẩm là quan trọng nhất, thường xuyên cải tiến và nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm con giống tốt, để đáp ứng được yêu cầu của thị trường, liên tục là doanh nghiệp làm ăn có lãi đảm bảo cuộc sống cho cán bộ công nhân viên và tích luỹ tái sản xuất đóng góp cho Nhà nước.
4.1.2. Chủng loại sản phẩm sản xuất chính của Công ty
Trong nền kinh tế thị trường để đứng vững và tồn tại, các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu thị trường để sản xuất các loại sản phẩm có giá trị được thị trường chấp nhận nhằm tăng khối lượng tiêu thụ chiếm lĩnh thị phần,đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhà kinh doanh, Công ty giống gia cầm Lương Mỹ đã sản xuất các loại sản phẩm như : Trứng giống, gà giống, phân vi sinh... nhưng trứng giống của Công ty không tiêu thụ ra ngoài vì đây là sản phẩm chủ lực của Công ty loại trứng giống này khi nhập về chủ yếu chỉ để nhân giống do đó sản phẩm này không có số liệu trên bảng biểu. Chủ yếu được tập trung vào sản xuất 2 loại gà giống chính đó là : Gà giống thương phẩm ISA và gà giống thương phẩm Tam Hoàng 882. Còn gà giống bố mẹ ISA và gà giống bố mẹ TH 882 sản xuất theo đơn đặt hàng vì sản phẩm này có giá bán cao. Đối với sản phẩm phân vi sinh Công ty sản xuất ra loại phân này chủ yếu để tận dụng phân gà thải ra, giải quyết vấn đề môi trường, đây chỉ là mặt hàng phụ công ty sản xuất theo đơn đặt hàng.
Chủng loại sản phẩm sản xuất chính của Công ty
Loại sản phẩm
1. Trứng
Trứng giống bố mẹ ISA
Trứng giống thương phẩm ISA
Trứng giống bố mẹ TH882
2. Gà giống 1 ngày tuổi
Gà giống bố mẹ ISA
Gà giống thương phẩm ISA
Gà giống bố mẹ TH882
3. Phân vi sinh
4.1.3 Quy trình sản xuất gà giống thương phẩm
Gà giống (ÔB) 1nt nhập ngoại
Gà 140
ngày tuổi
Cho vào máy ấp
Gà giống bố mẹ 1 ngày tuổi
Cho vào
máy nở
Trứng
Gà 140
ngày tuổi
Trứng
Cho vào máy ấp
Cho vào
máy nở
Gà giống thương phẩm 1 ngày tuổi
Cho vào đẻ
3 ngày
19 ngày
Nuôi lớn
3 ngày
19 ngày
Sơ đồ 3. Quy trình sản xuất gà giống TP của công ty
4.1.4 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
Đây là điểm mấu chốt mà Công ty cũng như cán bộ công nhân viên phải quan tâm bởi nó quyết định tới sự tồn tại và phát triển của Công ty.
Qua biểu 06 chúng ta thấy kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty tăng qua các năm. Năm 2001 tổng doanh thu của Công ty là 12931,61 triệu đồng tăng 1618,16 triệu đồng đạt 14,30% so với năm 2000. Năm 2002 tổng doanh thu tăng rất cao 24135,40 triệu đồng tăng hơn so với năm 2001 là 86,63% tương đương với 11203,79 triệu đồng bình quân cả 3 năm tổng doanh thu của Công ty tăng 46,05%. Tổng doanh thu được tăng lên qua các năm mà các khoản giảm trừ lại được giảm đi nên doanh thu thuần của Công ty tăng lên. Năm 2001 doanh thu thuần của Công ty là 12458,16 triệu đồng nhưng đến năm 2002 là 23988,69 triệu đồng tăng 11530,53 triệu đồng bằng 92,55%, bình quân cả 3 năm doanh thu thuần tăng 49,54%. Cùng với việc tăng doanh thu lợi tức gộp của công ty cũng tăng, năm 2001 là 2382,87 triệu đồng tăng 388,13 triệu đồng bằng 19,45% so với năm 2000 đến năm 2002 lợi tức gộp tăng cao tăng 2525,79 triệu đồng so với năm 2001 bình quân tăng 56,87% qua 3 năm.
Biểu 06. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
ĐVT: tr.đ
TT
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Tốc độ phát triển (%)
01/00
02/01
BQ
A
Kết quả SXKD
1
Tổng doanh thu
11313,45
12931,61
24135,40
114,30
186,63
146,05
2
Các khoản giảm trừ
587,16
473,46
146,71
3
Doanh thu thuần
10726,29
12458,16
23988,69
116,14
192,55
149,54
4
Giá vốn hàng bán
8731,54
10075,29
19080,03
115,38
189,37
147,81
5
Lợi tức gộp
1994,74
2382,87
4908,66
119,45
205,99
156,87
6
CF bán hàng
744,53
1093,16
1809,86
146,82
165,56
155,91
7
CF quản lý DN
1137,58
910,98
1919,45
80,08
210,70
129,89
8
Lợi tức thuần HĐSXKD
112,62
378,72
1179,34
336,28
311,40
323,60
9
Lợi thức từ HĐTC
38,90
1,05
17,56
2,69
1672,3
67,08
10
Lợi tức bất thường
1,20
22,45
7,45
1870,8
33,18
249,16
11
S lợi tức trước thuế
152,73
102,22
1204,35
263,35
299,42
280,81
12
Thuế thu nhập nộp
48,87
128,71
385,39
263,37
299,42
280,82
13
Lợi tức sau thuế
103,86
273,51
818,96
263,34
299,42
280,80
B
Lao động tiền lương
1
Tổng quỹ lương
1446,93
1637,70
1851,97
113,18
113,13
113,15
2
Thu nhập bq /người/tháng
0,803800
0,897862
1,021135
111,70
112,71
112,20
Nguồn: Phòng Tài vụ công ty
Giá vốn bán hàng của các năm đều tăng nguyên nhân chủ yếu là do giá nguyên liệu thức ăn tăng nhanh vì năm 2001 tập đoàn sản xuất thức ăn chăn nuôi của Thái Lan thu mua nguyên liệu với số lượng quá lớn để sản xuất thức ăn ở khu vực cùng với công ty nên giá vốn hàng bán của công ty có sự biến động qua các năm , năm 2002 giá vốn hàng bán ra 19080,03 triệu đồng tăng 9004,74 triệu đồng tương đương 89,37% so với năm 2001. Chính vì vậy chi phí bán hàng tăng lên cụ thể là năm 2001 là 1093,16 triệu đồng và năm 2000 là 744,53 triệu đồng tăng 46,82% tương đương 348,63 triệu đồng nhưng đến năm 2002 là 1809,86 triệu đồng tăng 716,7 triệu đồng chủ yếu là ở khâu chi phí tiếp cận mở rộng thêm thị trường tổ chức hội nghị chuyển giao kỹ thuật hội nghị khách hàng chi phí vận chuyển cộng chuyển sản phẩm đến tận người chăn nuôi mà không tính vào giá thành.
Là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi nên thuế thu nhập phải nộp cũng tăng lên đáng kể qua các năm , lợi tức sau thuế cũng được tăng lên từ 103,86 triệu đồng năm 2000 thì đến năm 2001 là 273,51 triệu đồng tăng 169,65 triệu đồng và năm 2002 là 818,96 triệu đồng tăng 545,45 triệu đồng bình quân cả 3 năm lợi tức sau thuế tăng 108,80 %.
Công ty rất chú trọng tới việc đảm bảo đời sống cho người lao động vì nó có ý nghĩa quan trọng đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên tổng quỹ lương của Công ty được tăng lên qua các năm. Năm 2001 tổng quỹ lương là 1637,70 triệu đồng tăng 190,77 triệu đồng bằng 13,18% qua đến năm 2002 là 1851,79 triệu đồng tăng 13,08% tương đương với 214,27 triệu đồng, bình quân tăng 13,13% qua 3 năm . Chính vì vậy mà thu nhập bình quân/ người/ tháng được đảm bảo và tăng nên năm 2000 là 803800 đồng/ người/ tháng thì đến năm 2001là 897862 đồng/ người/ tháng tăng 94062 đồng/ người/ tháng , năm 2002 tăng 123273 đồng / người/ tháng bằng 13, 72% so với năm 2001 bình quân qua ba năm thu nhập của người lao động tăng 12,71%.
4.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ gà giống thương phẩm ISA và gà giống TH 882
Công ty sản xuất chủ yếu là hai loại gà giống chính đó là gà giống thương phẩm ISA và giống thương phẩm TH 882 nên nhu cầu của thị trường mua con giống nào nhiều hơn thì Công ty sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó với số lượng lớn hơn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nên khối lượng sản xuất và tiêu thụ của 2 loại gà giống thương phẩm này biến động mạnh.
4.2.1. Khối lượng sản xuất và chi phí sản xuất gà giống thương phẩm ISA
Biểu 07. Số lượng sản xuất gà giống ISA của công ty qua 3 năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
So sánh (%)
01/00
02/01
BQ
Tổng
1808711
1718388
3138781
95,01
182,66
131,73
Quý i
349417
452625
831767
129,54
183,81
154,30
Quý II
588298
489071
890120
83,31
182,00
123,01
Quý III
486755
465223
869065
95,51
186,81
133,62
Quý IV
484241
311469
547829
64,32
175,89
106,36
Nguồn: Tài vụ công ty
Qua biểu 07 ta thấy khối lượng gà giống sản xuất thương phẩm ISA biến động mạnh qua các năm, năm 2001 khối lượng gà giống này sản xuất là 1718388 con giảm so với năm 2000 là 4,99% tương đương với số lượng 90323 con. Nhưng đến năm 2002 thì khối lượng gà giống thương phẩm ISA tăng cao lên tới 3138781 con tăng hơn so với năm 2001 là 142093 con bằng 82,66% bình quân cả 3 năm tăng 31,73%.
Đạt được kết quả này là do sản phẩm gà giống ISA là loại sản phẩm chính chủ yếu của công ty. Công ty được độc quyền nuôi giữ và sản xuất bộ giống ông bà ISA. Mặt khác do chính ưu thế về sản phẩm có chu kỳ kinh doanh ngắn ( từ 6- 8 tuần tuổi có thể đạt được thể trọng từ 2,2 - 2,8 Kg), hàm lượng chất dinh dưỡng cao, sản phẩm thực phẩm là thịt gà loại ISA được xuất chủ yếu cho thị trường Nga nên đã tạo được đầu ra ổn định. Vì vậy kích thích người chăn nuôi, chăn nuôi đàn gà này.
Theo nhu cầu của người chăn nuôi các quí có sự thay đổi khác nhau về khối lượng sản phẩm sản xuất ra, thường quí II có khối lượng sản phẩm sản xuất ra cao nhất do phong tục tập quán của người dân Việt Nam những tháng đầu năm là dịp lễ hội, cưới hỏi nhiều nên quý II qua 3 năm có khối lượng sản xuất ra đều tăng bình quân tăng 32,01% cụ thể năm 2002 đạt con số 890120 con tăng 82,00% tương đương với 401049 con so với năm 2001
Qua thực tế chúng tôi biết sản phẩm gà giống thương phẩm ISA và gà giống thương phẩm TH 882 là sản phẩm chính của Công ty đã chiếm được lòng tin của khách hàng. Trong những năm qua Công ty đã gặt hái được kết quả cao đối với hai sản phẩm này do có nhiều ưu điểm: Năng suất cao, số ngày nuôi ngắn... Cho nên trong thời gian qua sản phẩm này đã đem lại doanh thu và lợi nhuận cho Công ty ,đồng thời đà gây được chữ tín đối với khách hàng. Cho nên con đường cơ bản ngắn nhất đồng thời cũng là chiến lược chiến thuật của Công ty đề ra là hạ giá thành sản phẩm để hạ giá bán trong kinh doanh và là điều kiên cần thiết trong cạnh tranh thị trường.
Do đặc thù của sản xuất gà giống chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố như khí hậu thời tiết yếu tố kĩ thuật... Do vậy nó ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí gà giống. Số lượng cung ứng gà giống thương phẩm chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu và giá cả sản phẩm gà giống ngoài thị trường.
Giá thành sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố nên tăng giảm, thay đổi qua các quý trong năm, quý II năm 2000 có giá thành sản xuất là thấp nhất là 2515đồng /con, riêng quý III năm 2002 lại có giá thanh sản xuất cao là 5373 động /con. Sự tăng về tổng giá thành gà giống thương phẩm ISA chủ yếu là do sự tăng lên của khối lượng sản phẩm sản xuất kéo theo các chi phí dùng để sản xuất tăng lên như chi phí nguyên vật liệu chính dùng vào sản xuất. Tổng giá thành sản phẩm là chỉ tiêu giá trị, nó thể hiện phần nào quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty, chưa đánh giá được đầy đủ hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy để tìm hiểu rõ hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh phải đi sâu phân tích chi phí sản xuất qua biểu 08.
Giá thành sản xuất của năm có sự biến động. Năm 2000giá thành sản xuất nhỏ nhất băng 3242đồng /con và năm 2002 là lớn nhất bình quân giá thành sản xuất ra là 4376 đồng/con, bình quân giá thành tăng lên qua 3 năm là 16,18 %.
Biểu 08. Giá thành sản xuất và tổng chi phí sản xuất gà giống ISA của công ty qua 3 năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
So sánh (%)
Giá thành (đ/con)
Tổng CPSX (1000 đ)
Giá thành (đ/con)
Tổng CPSX (1000 đ)
Giá thành (đ/con)
Tổng CPSX (1000 đ)
01/00
02/01
BQ
Tổng
3242
5864550
3883
6672025
4376
13737276
119,77
112,69
116,18
Quý I
2935
1025538
3885
1758448
3308
2751485
132,36
85,15
106,16
Quý II
2515
1479569
4785
2340205
4276
3806153
190,26
89,36
130,39
Quý III
4343
2113976
3059
1423117
5373
4669486
70,44
175,65
111,23
Quý IV
2572
1245467
3693
1150255
4582
2510152
143,58
124,07
133,47
Nguồn :Phòng Tài vụ công ty
Năm 2002 tổng chi phí sản xuất là 1373726 nghìn đồng tăng 82,66% so với năm 2001 số lượng biến động qua các tháng, các quý dẫn tới khó khăn cho việc lập kế hoạch và bố trí sản xuất nó cúng ảnh hưởng tới chi phí sản xuất của công ty.
Để phân tích tình hình chi phí sản xuất cụ thể cho 1000 sản phẩm , ta có biểu 09.
Qua đó ta thấy tổng chi phí sản xuất của năm 2001 giảm hơn so với năm 2000 là 4,49% tương đương với giảm 126929 đồng chi phí sang năm 2002 tổng chi phí tăng lên cao 4209979 đồng chi phí do công ty phải đầu tư thêm các yếu tố chi phí , cụ thể là đầu tư chất lượng con giống năm 2002 chi phí về con giống là 15,21% tương đương với 275231 đồng / 1000 gà giống so với năm 2001. Thức ăn nguyên liệu chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng giá thành đây là phần quan trọng tạo nên thực thể vật chất của sản phẩm sản xuất ra. Thức ăn sử dụng cho chăn nuôi của Công ty chủ yếu là thức ăn nghiền và tự chế biến năm 2002 chi phí thức ăn chiếm 51,64% trên tổng chi phí số tuyệt đối là 1312505 đồng/1000 gà giống. Năm 2001 là 51,4% giảm hơn so với năm 2000 là 1,61%.
Gà giống là một loại vật nuôi dễ mẫn cảm với bệnh tật đặc biệt là giai đoạn con giống nên phải uống thuốc kháng sinh và tiêm vacxin để phòng bệnh cho gà. Do Công ty chú trọng tới công tác phòng chữa bệnh cho con giống do đó làm cho chi phí thuốc thú y tăng lên qua các năm . Năm 2002 chi phí thuốc thú y là 478253 đồng/1000 gà giống chiếm 11,36% tăng 216497 đồng/1000 gà giống bằng 82,71% so với năm 2001, bình quân qua 3 năm tăng 33,57% các loại chi phí khác như : Chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí nhân công, chí phí quản lý chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng chi phí nhưng cũng có sự biến động tăng giảm qua các năm.
Tóm lại qua nghiên cứu tình hình chi phí sản xuất gà giống thương phẩm ISA qua 3 năm ta thấy chi phí cho 1000 gà giống ISA vẫn còn tăng trong những năm tới Công ty cần có biện pháp để hạ thấp các loại chi phí giảm chi phí giá thành sản phẩm từ đó quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn
Biểu 09. Chi phí sản xuất bình quân trên 1000 gà giống ISA của công ty
4.2.2. Khối lượng sản xuất và chi phí sản xuất gà giống thương phẩm Tam Hoàng 882
Gà giống thương phẩm Tam Hoàng 882 và gà giống thương phẩm ISA là 2 sản phẩm gà giống thương phẩm chính của Công ty nhưng số lượng sản xuất gà giống thương phẩm Tam Hoàng 882 ít hơn so với gà giống thương phẩm ISA.
Biểu 10. Số lượng sản xuất gà giống TH882 của công ty qua 3 năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
So sánh (%)
01/00
02/01
BQ
Tổng
287167
577992
510248
201,27
88,28
133,29
Quý I
62217
138600
135033
222,77
97,42
147,32
Quý II
73223
160827
89722
219,64
55,78
110,69
Quý III
79498
142784
170685
179,61
119,54
146,53
Quý IV
72229
135781
114808
187,99
84,55
126,08
Nguồn: Phòng Tài Vụ công ty
Đối với sản phẩm gà giống TH 882 do có nhiều công ty, xí nghiệp cùng sản xuất loại gà này vì vậy lượng sản xuất hàng năm đạt tỷ trọng thấp hơn so với tổng số con sản xuất, nhưng cũng có xu hướng tăng, giảm qua các năm. Qua biểu ta thấy năm 2000 lượng sản xuất ra là 287167 con, năm 2001 là 577992 con tăng 29082 con, đạt 101,27%. Kết quả này cho thấy cầu về sản phẩm gà giống TH882 được tăng lên nó phản ánh xu hướng của người tiêu dùng trong nước đang dần lựa chọn sử dụng gà TH882 hoặc loại gà Lương Phượng thay thế cho các loại gà ta truyền thống trong các dịp tết, lễ hội... Mặt khác cũng phản ánh sự cố gắng của Công ty không chỉ trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn đẩy mạnh việc truyền bá, hướng dẫn kỹ thuật, tư vấn thiết bị chuồng trại miễn phí cho khách hàng dã tạo ra sự quan tâm mến mộ của khách hàng. Nhưng đến năm 2002 thì lại giảm xuống 510248 con, giảm 11,72% tương đương với 67744 con, do khối lượng gà giống ISA của công ty sản xuất ra trong năm 2002 là rất lớn. Nên để phù hợp với yêu cầu của khách hàng và đảm bảo được kết quả kinh doanh vì vậy khối lượng sản xuất gà giống TH882 giảm xuống, bình quân qua 3 năm tăng 3,29%.
Cũng như gà giống thương phẩm ISA lượng sản xuất cũng có sự biến động qua các quý trong năm. So sánh về số lượng sản xuất giữa các quý qua các năm cho thấy quý II và quý III có mức tăng bình quân cao nhất 47,32% và 46,53%. Lượng sản xuất quý II năm 2002 so với năm 2001 giảm mạnh 77105 con tương đương với giảm 44,22%. Trong khi đó quý III năm 2002 so với quý III năm 2001 tăng 27904 con, tương đương với 19,54%. Bình quân cả 3 năm quý III tăng 46,53%. Qua nghiên cứu về lượng sản xuất ta thấy lượng sản xuất qua quí II và quý III cao hơn quý I và quý IV. Số lượng biến động giữa các quý qua các năm là khác nhau do đó nó cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tổng chi phí, nhìn chung chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm thay đổi qua các năm. Năm 2000 chi phí bình quân trên 1 đơn vị sản phẩm là 2677 đồng/con, năm 2001 là 2178 đồng/con giảm 499 đồng/con, năm 2002 là 2918 đồng/con tăng 704 đồng/con, bình quân giá thành qua 3 năm tăng 4,4 % là do khối lượng sản phẩm sản xuất ra tăng. Đây là sự đầu tư đúng đắn có hiệu ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23214.doc