Tài liệu Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị: ... Ebook Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2506 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
®¹i häc Th¸i Nguyªn
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
Hoàng Minh Đức
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN TRÕN
ĐƢỜNG TIÊU HÓA CỦA CHÓ NUÔI Ở HÀ NỘI VÀ
BIỆN PHÁP PHÕNG TRỊ
Chuyên ngành: Thú Y
Mã số: 60.62.50
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc n«ng nghiÖp
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NguyÔn ThÞ Kim Lan
Th¸i Nguyªn - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: đây là công trình nghiên cứu do tôi trực tiếp
thực hiện cùng với sự cộng tác giúp đỡ của PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Lan và
các đồng nghiệp tại bộ môn Ký Sinh trùng, Bộ môn Hoá Sinh - Miễn dịch -
Viện Thú y Quốc gia. Các số liệu, hình ảnh và kết quả trong luận văn là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Mọi
sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích
dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Hoàng Minh Đức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện luận văn, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi luôn
nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy hướng dẫn khoa học: Phó giáo sư -
Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Lan.
Sự giúp đỡ của Ban Giám đốc Viện Thú y, Bộ môn Ký sinh trùng, Bộ
môn Hoá sinh - Miễn dịch và Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật.
Sự giúp đỡ của các thầy cô giáo khoa Sau Đại học, khoa Chăn nuôi -
Thú y - Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Nhân dịp này cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban
Giám đốc Viện Thú y, PGS.TS Nguyễn Thị Kim Lan, PGS. TS. Phan Địch
Lân, PGS. TS. Phạm Sỹ Lăng, Thạc Sĩ Nguyễn Thế Hùng, Bác sỹ Đỗ Tuấn
Cương, Bác sỹ Đặng Xuân Sinh cùng toàn thể các thày cô giáo trường Đại
học Nông lâm Thái Nguyên và các bạn đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn
Hoàng Minh Đức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................. …………..1
2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................. …………..2
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài ....................................................... …………..2
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ....................................................... …………..2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................. 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ....................................................................... 3
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ............................................ 26
Chƣơng 2: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .. 32
2.1. Đối tượng, vật liệu và địa điểm nghiên cứu ........................................... 32
2.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................. 32
2.3. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 33
2.4. Phương pháp sử lý số liệu ...................................................................... 39
Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .................................................... 42
3.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun tròn đường tiêu hoá của chó ở Hà Nội .... 42
3.1.1. Thành phần loại giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội .. 42
3.1.2. Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó qua kiểm tra phân ............................... 44
3.1.3. Cường độ nhiễm giun tròn ở chó qua kiểm tra phân ....................... 46
3.1.4. Tỷ lệ cường độ nhiễm giun tròn ở chó qua mổ khám ...................... 47
3.1.5. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá của từng loại chó nuôi ở Hà Nội ... 49
3.1.6. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo lứa tuổi ở chó ............................................ 51
3.1.7. Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó theo mùa vụ ............................................ 54
3.1.8. Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó theo tính biệt ........................................... 56
3.2. Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý, l©m sµng cña bÖnh giun trßn đường tiªu
ho¸ chã ................................................................................................ 57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
3.2.1. Tỷ lệ về biểu hiệm triệu chứng bệnh lâm sàng của chó bị bệnh giun tròn57
3.2.2. Bệnh tích đại thể về vi thể ở cơ quan tiêu hóa của chó bị bệnh giun tròn .... 59
3.2.3. Sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học của chó bị bệnh giun móc so
với chó khỏe ................................................................................... 63
3.2.4. Công thức bạch cầu của chó khoẻ và chó bị bệnh giun móc ............ 65
3.2.5. Kết quả thử nghiệm một số loại thuốc tẩy giun tròn đườg tiêu hoá chó ....... 66
3.2.6. Độ an toàn của thuốc tẩy................................................................. 68
3.2.7. Biện pháp phòng trị ........................................................................ 71
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận .................................................................................................... 72
2. Đề nghị ..................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 75
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HOẠ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
DANH MôC b¶ng
B¶ng 3.1. Thành phần loài giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội .... 42
B¶ng 3.2. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội ......... 44
B¶ng 3.3. Cường độ nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội .... 46
B¶ng 3.4. Tỷ lệ và Cường độ nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà
Nội ................................................................................................................................. 48
B¶ng 3.5. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội ............... 49
B¶ng 3.6. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo tuổi của chó nuôi ở Hà Nội ................... 51
B¶ng 3.7. Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó theo mùa vụ ....................................... 54
B¶ng 3.8. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo tính đặc biệt của chó ............................ 56
B¶ng 3.9. Biều hiện lâm sàng của chó bị bệnh giun tròn .............................. 58
B¶ng 3.10. Bệnh tích đại thể ở cơ quan tiêu hoá chó bị bệnh giun móc ........ 60
B¶ng 3.11. So sánh lực lượng hồng cầu, bạch cầu, hàm lượng huyết sắc tố
giữa chó khỏe và chó bị bệnh giun móc ...................................... 64
B¶ng 3.12. So sánh công thức bạch cầu của chó khỏe và chó bị bệnh giun móc .... 65
B¶ng 3.13. Hiệu lực của một số loại thuốc tẩy giun tròn cho chó ................. 67
B¶ng 3.14. Một số chỉ tiêu sinh lý của chó trước và sau khi dùng thuốc ...... 69
B¶ng 3.15. Tỷ lệ chó có phản ứng sau khi dùng thuốc ................................. 70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Danh môc biÓu ®å
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá của 4 loại chó nuôi ở Hà Nội ........ 51
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá theo tuổi chó ................. 53
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo mùa vụ ........................................... 55
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá theo tính biệt của chó .... 57
DANH MỤC ẢNH BỆNH TÍCH VI THỂ
ẢNH 1. Xuất huyết niêm mạc ruột non ...................................................... 61
ẢNH 2. Niêm mạc ruột bình thường ............................................................ 61
ẢNH 3. Tế bào biểu mô ruột bị bong tróc, lông nhung biến dạng ................. 62
ẢNH 4. Tế bào biểu mô lành lặn ................................................................. 62
ẢNH 5. Thâm nhiễm tế bào bạch cầu ........................................................... 63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
DANH MỤC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
A. caninum Ancylostoma caninum
T. canis Toxocara canis
T. leonina Toxascaris leonina
T. vulpis Trichocephalus vulpis
> Lớn hơn
< Nhỏ hơn
- Đến
TT Thể trọng
SS Sơ sinh
% Phần trăm
cs Cộng sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu, chó được con người thuần hóa và coi như là người bạn gần
gũi, thân thiện. Chó dễ nuôi, trung thành với chủ, các giác quan rất phát
triển, thông minh, nhanh nhẹn và có tính thích nghi cao với điều kiện sống
khác nhau. Do vậy, chó được nuôi phổ biến ở khắp nơi trên thế giới, phục
vụ các mục đích khác nhau. Những năm gần đây, nền kinh tế ngày càng
phát triển, đời sống dân trí được nâng cao và cải thiện, do vậy việc nuôi
chó để giữ nhà, làm cảnh và làm kinh tế được quan tâm chú ý trong nhiều
gia đình người dân Hà Nội. Nhiều giống chó ngoại quý hiếm được nhập
làm phong phú thêm về số lượng và chủng loại chó ở nước ta. Song chó là
loài động vật rất mẫn cảm với các tác nhân gây bệnh. Bệnh truyền nhiễm
do vi khuẩn, vi rút và bệnh do ký sinh trùng đã và đang làm chết nhiều chó
ở Hà Nội, gây thiệt hại kinh tế cho nhiều hộ chăn nuôi, đặc biệt là các hộ
chăn nuôi những giống chó quý hiếm.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm,
mưa nhiều, có điều kiện thuận lợi cho giun sán phát triển quanh năm. Bệnh giun,
sán là một trong những bệnh ký sinh trùng phổ biến nhất ở chó. Một số tác giả
đó nghiên cứu về bệnh do ký sinh trùng gây nên ở chó như: Phạm Sĩ Lăng
(1985) [10], Ngô Huyền Thuý (1996) [34]. Cho tới nay, các nhà khoa học nước
ta đã xác định được 26 loài giun, sán ký sinh ở chó, trong đó có 16 loài giun tròn.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về bệnh của chó chưa được quan tâm đúng mức,
đặc biệt là bệnh do ký sinh trùng gây nên, trong đó có nhiều loài giun tròn ký
sinh ở đường tiêu hoá gây tác hại lớn đối với chó. Giun ký sinh lấy chất dinh
dưỡng, hút máu, tiết độc tố và chất chống đông máu. Bệnh âm ỉ, kéo dài làm
vật chủ mất máu suy dinh dưỡng, gầy yếu, rối loạn tiêu hoá, giảm sức đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
kháng. Từ đó, các vi khuẩn trong đường ruột có cơ hội trỗi dậy gây hội chứng
tiêu chảy nặng hơn và làm chết chó nếu không được điều trị kịp thời.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài:
“ Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hoá của chó nuôi ở
Hà Nội và biện pháp phòng trị”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định thành phần loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá của chó
nuôi ở Hà Nội.
- Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun tròn đường tiêu hoá
của chó ở các quận nội thành Hà Nội.
- Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý, lâm sàng của chó bị bệnh giun tròn.
- Xác định hiệu lực thuốc tẩy trừ giun tròn cho chó.
- Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh giun tròn cho chó có hiệu quả.
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học bổ sung và hoàn thiện
thêm các nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ và bệnh học của bệnh giun tròn ký
sinh ở đường tiêu hoá của chó trong điều kiện chăn nuôi hiện nay ở nước ta.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là những minh chứng về tác hại của
một số loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá của chó, đồng thời là những
khuyến cáo có ý nghĩa cho những hộ gia đình nuôi chó ở Hà Nội và các địa
phương khác.
- Kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng để chẩn đoán và phòng trừ bệnh
giun tròn đường tiêu hóa, góp phần khống chế bệnh trong thực tiễn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Vị trí của giun trong đƣờng tiêu hoá chó trong hệ thống phân loại
động vật học
Trong khu hệ giun trong đường tiêu hoá của chó, theo Nguyễn Thị Lê
và cs (1996) [17], các loài giun tròn ký sinh ở chó Việt Nam được phân
loại như sau:
Ngành Nemathelminthes, Huxley, 1856
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp: Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin và Schulz, 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz, 1928
Họ Trichocephalidae Baird, 1953
Phân họ Trichocephalinae Ransom, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus vulpis (Froelich, 1789)
(ký sinh ở manh tràng chó)
Phân lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Strongylida Railliet et Henry, 1913
Họ Ancylostomatidae Looss, 1905
Phân họ Ancylostomatinae Looss, 1911
Giống Ancylostoma Dubini, 1893
Loài Ancylostoma caninum (Ercolani, 1859)
Loài Ancylostoma braziliense Faria, 1910
(ký sinh ở ruột non chó)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Phân họ: Bunostomatinae Looss, 1911
Giống Uncinaria Froelich, 1789
Loài Uncinaria stenocephala Railliet, 1884
(ký sinh ở ruột non chó)
Bộ Ascaridida Skrjabin và Schulz, 1940
Phân bộ Ascaridina Skrjabin, 1915
Họ Ascaridae Baird, 1853
Giống Toxascaris Leiper, 1907
Loài Toxascaris leonina (Linstow, 1902) Leiper, 1907
( ký sinh ở dạ dày, ruột chó)
Họ Anisakidae Skrjabin và Karokhin, 1945
Giống Toxocara Stiles, 1905
Loài Toxocara canis (werner, 1782)
(ký sinh ở dạ dày, ruột non chó)
Bộ Spirurida Chitwood, 1933
Phân bộ Spirurina Railliet, 1914
Liên họ Spiruroidea Railliet et Henry, 1915
Họ Spiruridae Oerley, 1885
Giống Spirocerca Railliet et Henry, 1911
Loài Spirocerca lupi (Rudolphi,1809)
(ký sinh ở dạ dày, u thành thực quản của chó)
Bộ Rhabditida Chitwood, 1933
Phân bộ Rhabditina Chitwood, 1933
Họ Strongyloididae Chitwood et Mcinstosh, 1934
Giống Strongyloides Grassi, 1879
Loài Strongyloides canis Brumpt, 1922
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
1.1.2. Đặc điểm sinh học của một số loài giun tròn ký sinh ở đƣờng tiêu
hoá chó
1.1.2.1. Đặc điểm hình thái, cấu tạo
- Loài Ancylostoma caninum (Ercolani, 1859)
Là loài giun tròn nhỏ, thân hình sợi chỉ, màu vàng nhạt, đoạn trước cong
về phía lưng, bao miệng mỗi bên có 2 răng 3 chạc lớn, cong vào phía trong,
miệng hình bầu dục.
Con đực dài 9 - 12 mm, đuôi có túi kitin, 2 gai giao hợp bằng nhau dài
0,74- 0,87 mm, bánh lái dài 0,13 - 0,21 mm.
Con cái dài 10 - 21 mm, đuôi có gai nhọn, âm hộ nằm 1/3 phía sau của
thân. Trứng hình bầu dục dài 0,06 - 0,066 mm, rộng 0,037- 0,042 mm. Trứng
có nhiều nhân, vỏ trong suốt.
- Loài Ancylostoma braziliense (Faria, 1910)
Giun nhỏ hơn Ancylostoma caninum, cơ thể hình trụ, thon nhỏ 2 đầu.
Con đực dài 6,6 - 8,1 mm, rộng 0,278 - 0,354 mm. Lớp biểu bì dày, có
vân ngang, đầu hơi cong về mặt bụng, nang miệng hình cầu, có một đôi răng
không phân nhánh. Thực quản dài 0,62 - 0,69 mm. Túi sinh dục phát triển,
các nhóm sườn đều chung một gốc, sau đó mới phân tách. Gai sinh dục bằng
nhau, dài 1,05-1,30 mm, phần cuối thon nhỏ dần.
Con cái dài 7,3 - 9,6 mm, đầu cong về mặt bụng. Âm hộ cách mút đuôi
2,65-3,04 mm. Đuôi hình nón, mút đuôi có gai nhọn, dài 0,005 mm. Trứng
hình ô van, kích thước 0,040 - 0,30 mm.
- Loài Toxocara canis (werner 1782)
Loài Toxocara canis là loài giun tròn có kích thước khá lớn, màu vàng
nhạt, đầu hơi cong về phía bụng, miệng có 3 môi bao quanh, trên mỗi môi đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
có răng nhỏ, thực quản hình trụ, đặc biệt giữa thực quản và ruột có đoạn
phình to tạo thành “dạ dày giả” của giun.
Con đực dài 50 - 90 mm, đầu có cánh dài, hẹp, hơi giống mũi giáo có 2
gai giao cấu bằng nhau dài 0,75 - 0,95 mm.
Con cái dài 90 - 170 mm, đuôi thẳng. Giun cái đẻ trứng. Lỗ sinh dục cái
ở khoảng 1/4 phía trước thân, trứng gần như tròn, đường kính 0,068- 0,075
mm, trên vỏ trứng có những nếp nhăn nhỏ mịn.
- Loài Toxascaris leonina (Linstow, 1902).
Loài Toxascaris leonina màu vàng nhạt, đầu có 3 môi, thực quản hình
trụ, không có đoạn phình to như loài Toxocara canis.
Giun đực dài 20 - 70 mm, 2 gai giao hợp dài gần bằng nhau, không có
bánh lái.
Giun cái dài 60 - 80 mm, lỗ sinh dục cái ở phía trước thân, tử cung
chia làm 2 nhánh, trứng gần như tròn, vỏ trứng dày, bằng phẳng, nhẵn, đường
kính từ 0,075 - 0,085 mm
- Loài Trichocephalus vulpis (Froelich, 1989).
Giun có kích thước lớn, con đực dài 45-75 mm, thực quản chiếm 3/4
chiều dài cơ thể. Đuôi giun đực thường cuộn tròn về phía trong, mang một gai
giao hợp rất dài (8,31- 11,1 mm).
Con cái dài 62 -75 mm, thực quản dài 42 -56,3 mm, âm hộ nằm về
phía sau của đoạn cuối thực quản. Trứng có hình cái thùng, có nắp ở hai đầu,
dài 0,083 - 0,93 mm và rộng 0,037- 0,40 mm.
- Loài Uncinaria stenocephala (Railiet,1884).
Giun có màu vàng nhạt, hai đầu hơi nhọn, túi miệng hình phễu, có các mảnh
kitin sắc, mặt trong của túi miệng có 2 đôi răng hình bán nguyệt đối xứng.
Thực quản dài 0,75 - 0,88mm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Giun đực dài 6 - 11 mm, túi đuôi rất phát triển, 2 gai giao hợp dài bằng
nhau 0,65- 0,75 mm, đầu mút của gai rất nhọn, không có bánh lái.
Giun cái dài 9 - 16 mm, lỗ sinh dục ở vào 1/3 phía trước cơ thể. Trứng
hình bầu dục, có kích thước 0,078 - 0.083 x 0,052 - 0,059 mm.
- Loài Spirocerca lupi (Rudolphi, 1809)
Giun trưởng thành ký sinh ở thực quản, thành dạ dày, đôi khi còn thấy ở
động mạch chủ. Giun có màu đỏ, miệng hình 6 cạnh, không có môi, thực
quản hẹp, phần trước là cổ ngắn, ở gai cố có vòng thần kinh.
Con đực dài 30-54 mm, hai gai giao hợp không bằng nhau, đuôi xoắn,
có cánh đuôi, 4 đôi gai nhỏ phía trước hậu môn, một gai lớn trước huyệt
Con cái dài 54 - 80 mm, âm hộ nằm phía trước thân, gần cuối thực
quản. Trứng rất nhỏ, hình elíp 0,035 - 0,039 x 0,014 - 0,023mm, trứng có
chứa ấu trùng.
1.1.2.2. Đặc điểm vòng đời sinh học
- Loài Ancylostoma caninum (Ercolani, 1859)
Giun trưởng thành sống ở niêm mạc ruột non của ký chủ, tập chung
chủ yếu ở tá tràng, không tràng và kết tràng. Giun cái mỗi ngày đẻ ra 10.000 -
15.000 trứng. Trứng mới bài xuất ra ngoài có từ 2-8 tế bào nhân, ấu trùng
phát triển thành ẩu trùng cảm nhiễm nếu gặp điều kiện thuận lợi. Ấu trùng
không phát triển tới giai đoạn cảm nhiễm ở nhiệt độ dưới 17 0c. Ấu trùng giun
móc phát triển qua 3 giai đoạn để trở thành ấu trùng cảm nhiễm. Foster Cont
(1935) đã nghiên cứu thấy nếu ở điều kiện nhiệt độ từ 20 -300 C và độ ẩm
thích hợp, PH trung tính, trứng sẽ nở thành ấu trùng sau 24- 48 giờ và trở
thành ấu trùng cảm nhiễm sau 6 - 7 ngày. Ấu trùng gây nhiễm dài 0,59 - 0,69
mm, có màng bọc bên ngoài và chứa 30 - 34 tế bào ruột. Ấu trùng có hướng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
động đặc biệt là luôn tìm đến vị trí cao và nơi ẩm ướt, nhiệt độ thích hợp và
hướng đến vật chủ gần chúng.
Ấu trùng tuy cần độ ẩm nhưng không phát triển trong nước mặn, khi bị
khô, ấu trùng sẽ chết nhanh trong 24 giờ. Do vậy việc lan truyền bệnh bị hạn
chế trong mùa khô. Theo Swensson (1925), khi nhiệt độ của đất tăng lên, ấu
trùng di chuyển tới chỗ lồi lõm của đất và tụ lại từng đám ở những chỗ râm
mát và có độ ẩm thích hợp. Từ chỗ ban đầu, ấu trùng di chuyển trong phạm vi
10-20 cm. Trong khi di chuyển, ấu trùng có khuynh hướng leo lên cao, có thể
tới 2 m. Ấu trùng ít chui xuống đất, nhưng nếu ở đất cát, ấu trùng có thể chui
xuống sâu 1 m, đất mùn chui xuống sâu 30cm, đất sét chui sâu 15 cm. Nói
chung, từ điểm di chuyển ban đầu, ấu trùng thường di chuyển ở bề mặt của
đất. Thời gian sống của ấu trùng thay đổi tuỳ thuộc điều kiện của môi trường,
ấu trùng có thể tồn tại ngoài tự nhiên từ vài tuần tới 1 tháng. Nhưng nếu trong
điều kiện ẩm ướt, nhiệt độ từ 15-300C ấu trùng có thể tồn tại được 18 tháng.
Theo Đỗ Dương Thái [23], ấu trùng gây nhiễm dài 0,59-0,69 mm có màng
bọc bên ngoài và chứa 30-34 tế bào ruột, ấu trùng có hướng động đặc biệt là
tìm đến vật chủ gần chúng và đến vị trí cao nhất.
Sự phát triển tiếp theo của ấu trùng Ancylostoma caninum tiến hành trên
cơ thể ký chủ và cảm nhiễm vào ký chủ theo 2 con đường:
- Qua đường tiêu hoá: ấu trùng được ký chủ nuốt vào đường tiêu hoá
qua thức ăn, nước uống. Vào ruột, ấu trùng lột xác và sau một thời gian di
hành thì phát triển thành giun trưởng thành.
- Qua da: ấu trùng cảm nhiễm xâm nhập qua da vào hệ thống tuần hoàn
đến tim, phổi, xuyên qua phế nang vào phế quản. Khi vật chủ ho, ấu trùng lên
hầu và được nuốt xuống đường tiêu hoá, từ đó phát triển thành giun trưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
thành và ký sinh ở ruột non. Thời gian phát triển đến giai đoạn trưởng thành
từ 14-16 ngày. Giun trưởng thành có thể sống trong cơ thể ký chủ từ 43-
100 tuần.
Theo Petrov A.M và Skrjabin K.I (1979)[21], cảm nhiễm ấu trùng
Ancylostoma caninum ở chó con nặng hơn chó trưởng thành. Tuy nhiên, khi
ấu trùng chui qua da chó con ít gây phản ứng. Trong khi đó, ấu trùng chui qua
da chó trưởng thành gây phản ứng viêm rõ rệt, hiện tượng này được xác nhận:
ấu trùng bị chết và bị giữ lại ở da chó trưởng thành, tạo ra xung quanh nó sự
thâm nhiễm tế bào.
Trịnh Văn Thịnh (1963)[25] cho biết: ấu trùng giun móc khi chui qua da
làm cho con vật bị ngứa và viêm da, ấu trùng còn gây tổn thương ở phổi. Giun
trưởng thành hút nhiều máu, răng 6 móc được cấu tạo bằng chất kitin cắm sâu
vào niêm mạc ruột gây tổn thươmg niêm mạc, đồng thời giun còn tiết chất
kháng đông máu, giúp giun móc dễ hút máu. Độc tố và sản vật của giun làm
hồng cầu giảm, bạch cầu toan tính tăng.
- Loài Ancylostoma braziliense (Faria, 1910)
Giun trưởng thành ký sinh ở ruột non, giun cái đẻ trứng, trứng theo phân
ra ngoài. Ở môi trường bên ngoài, sau 20 giờ tới một vài ngày, nếu gặp điều
kiện thuận lợi, phôi bào trong trứng phát triển tới dạng ấu trùng. Ấu trùng
thoát ra khỏi trứng, qua 2 lần lột xác thành ấu trùng cảm nhiễm và xâm nhập
vào ký chủ theo 2 con đường:
+ Qua thức ăn, nước uống vào đường tiêu hoá, ấu trùng chui vào thành
ruột, dạ dày. Ở đó vài ngày rồi về ruột non phát triển đến giai đoạn trưởng thành.
+ Qua da: ấu trùng gây nhiễm qua da ký chủ về hệ thống tuần hoàn, về
tim, lên phổi, qua phế bào đến khí quản rồi về ruột non phát triển tới giai đoạn
trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 14-20 ngày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
- Loài Uncinaria stenocephala (Railiet,1884)
Các loài giun tròn thuộc họ Ancylostomatidae đều phát triển trực tiếp.
Giun trưởng thành đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài. Trứng và ấu trùng có sức
đề kháng với ngoại cảnh. Cũng như Ancylostoma caninum, ấu trùng Uncinaria
stenocephala qua 3 lần lột xác phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng có
thể đi xa và có thể gây bệnh. Chó bị nhiễm qua 2 con đường:
+ Qua miệng: ấu trùng gây nhiễm theo thức ăn nước uống vào cơ thể gây
bệnh cho ký chủ. Fulleborn (1920-1927) thấy rằng: ấu trùng cảm nhiễm vào
ruột ký chủ, phát triển ở tầng dưới của nhung mao và trong tuyến nhày
Lieberkul, sau đó chúng quay lại nhung mao của ruột non. Kolevatova AL.
(1957) đã chứng minh bằng thực nghiêm khi gây nhiễm ấu trùng Uncinaria
stenocephala qua miệng, sau 24 giờ đã thấy có trong niêm mạc dạ dày và tá
tràng của chó. Sau thời gian ngắn ở niêm mạc, những ấu trùng này lại chui
vào ruột, lột xác trở thành ấu trùng giai đoạn 4 và đạt tới giai đoạn trưởng
thành sau 13- 20 ngày.
+ Qua da: khi nghiên cứu cảm nhiễm qua da, Kolevatova A.L (1957) đã
xác định ấu trùng cảm nhiễm chui qua da chỉ sau 6 phút, sau 40 phút tất cả
đã chuyển vào hệ thống tuần hoàn của chó. Theo tác giả, khi nhiễm qua da,
con đường di chuyển bình thường theo hệ thống tuần hoàn của chó, nhiều
nhất trong 2 ngày đầu. Sự phát triển của Uncinaria stenocephala khi nhiễm
qua da lâu hơn nhiễm qua miệng từ 2- 4 ngày. Thời gian hoàn thành vòng
đời 14- 20 ngày.
- Loài Toxocara canis (werner 1782)
Giun cái trưởng thành ký sinh ở dạ dày, ruột non, đẻ trứng. Trứng giun
được thải ra môi trường theo phân, gặp điều kiện ngoại cảnh thích hợp (nhiệt
độ, độ ẩm, ánh sáng), trứng phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
nằm trong vỏ trứng. Khi xâm nhập vào đường tiêu hoá của chó qua thức ăn,
nước uống. Ấu trùng cảm nhiễm phá vỡ vỏ và chui ra bắt đầu quá trình di
hành trong cơ thể ký chủ. Ấu trùng xuyên qua niêm mạc ruột, vào máu, theo
hệ thống tuần hoàn đến gan, về tim, lên phổi vào khí quản, lên miệng rồi trở
lại ruột non, tiếp tục phát triển ở niêm mạc ruột non và trở thành giun trưởng
thành gây bệnh cho chó. Một số ấu trùng sau khi vào phổi tiếp tục theo hệ
thống tuần hoàn về các tổ chức cư trú làm thành kén nhưng vẫn có khả năng
gây nhiễm nếu các đông vật cảm nhiễm khác ăn phải. Ấu trùng còn qua hệ
tuần hoàn của chó mẹ khi có chửa và nhiễm vào bào thai. Ở bào thai ấu trùng
cư trú chủ yếu ở gan và phổi. Do vậy chó con sau khi được sinh ra đã mang
mầm bệnh, đến 14 ngày tuổi đã gây bệnh cho chó con và khi 30 ngày tuổi đã
thành giun trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 26-28 ngày
(Skrjabin và cs, 1973) [20].
- Loài Toxascaris leonina (Linstow, 1902)
Giun cái trưởng thành ký sinh ở ruột non của chó, đẻ trứng, trứng theo
phân ra ngoài, gặp điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng thích hợp sẽ phát triển
thành ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng vẫn nằm trong trứng. Khi chó nuốt phải
ấu trùng vào ruột, ấu trùng phá vỡ vỏ chui vào niêm mạc ruột, qua tĩnh mạch
cửa rồi vào gan, đi qua tâm nhĩ phải, xuống tâm thất phải, qua động mạch
phổi vào phổi, vào phế nang, lên yết hầu, xuống thực quản rồi trở về ruột non.
Ở đây tiếp tục phát triển qua 3 lần lột xác nữa để trở thành giun trưởng thành.
Thời gian hoàn thành vòng đời từ 55-72 ngày (Skrjabin và cs, 1963) [20].
- Loài Trichocephalus vulpis (Froelich, 1989)
Giun cái đẻ trứng trong ruột già ký chủ, trứng của Trichocephalus vulpis
theo phân ra ngoài ở giai đoạn tiền phân, trong điều kiện thuận lợi về ngoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
cảnh như nhiệt độ và độ ẩm, ấu trùng phát triển trong trứng, sau 25 -26 ngày
trở thành trứng có khả năng cảm nhiễm. Chó ăn phải trứng cảm nhiễm cùng với
thức ăn và nước uống, ấu trùng nở ra sẽ chui sâu vào niêm mạc ruột già và tiếp
tục phát triển thành giun trưởng thành. Thời gian phát triển của Trichocephalus
vulpis đến giai đoạn trưởng thành trong cơ thể chó khoảng 30 - 107 ngày
(Skrjabin và cs, 1963) [20].
- Loài Spirocerca lupi (Rudolphi, 1809)
Giun trưởng thành ký sinh trong các u, kén ở dạ dày và thực quản của
chó, đẻ trứng, trong có ấu trùng. Trứng giun theo các lỗ dò ở kén, đi vào
xoang thực quản hoặc dạ dày, theo phân ra môi trường bên ngoài, được vật
chủ trung gian là bọ hung ăn vào. Trong đường tiêu hoá của bọ hung, ấu trùng
nở ra khỏi trứng, vào xoang đại thể và biến đổi thành ấu trùng kỳ II. Ấu trùng
tiếp tục phát triển thành ấu trùng kỳ III có khả năng gây nhiễm.
Ký chủ dự trữ ăn phải ký chủ trung gian, ấu trùng kỳ III được giải
phóng, ấu trùng sẽ tạo thành kén ở một vài cơ quan tổ chức. Khi chó ăn phải
ký chủ dự trữ, ấu trùng được giải phóng khỏi đường tiêu hoá của ký chủ dự
trữ, chúng xuyên qua thành dạ dày, di hành trong hệ tuần hoàn, đến động
mạch chủ, ở đó khoảng 3 tuần. Sau 10-12 tuần, ấu trùng di hành đến thực
quản, tạo thành kén và phát triển đến dạng trưởng thành. Thời gian hoàn
thành vòng đời từ 5 - 6 tháng.
1.1.3. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun tròn đƣờng tiêu hoá của chó
Nghiên cứu dịch tễ học cho ta cơ sở phòng trị bệnh ký sinh trùng có
hiệu quả. Sự phát triển của ký sinh trùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau. Ở nước ta việc điều tra dịch tễ bệnh do giun tròn gây ra ở chó đã
được các tác giả như Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1963), Đỗ Hài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
(1972), Phạm Sĩ Lăng (1985), Phạm Văn Khuê (1993), Phan Lục, Đào Hữu
Thanh, Đoàn văn Phúc, Ngô Huyền Thuý (1996) đề cập đến.
1.1.3.1. Động vật cảm nhiễm
Chó và hầu hết các loài thú ăn thịt họ chó (Canidae) đều nhiễm một số
loài giun tròn (Nematoda) như: giun đũa (Toxocara canis, Toxascaris
leonina), giun móc (Ancylostoma caninum, Uncinaria stenocephala), giun tóc
Trichocephalus vulpis.
Theo Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977), chó ở Việt
Nam nhiễm 16 loài giun tròn.
Hầu hết các tác giả trong và ngoài nước đều thấy rằng: chó cũng như thú
ăn thịt khác bị nhiễm giun nặng ở giai đoạn còn non và nhẹ hơn ở giai đoạn
trưởng thành (Trịnh Văn Thịnh, 1963)[25], Đoàn Văn Phúc, Phạm Văn
Khuê, 1993[6].
1.1.3.2. Tuổi cảm nhiễm
Qua nghiên cứu của nhiều tác giả, hầu hết các tài liệu cho thấy: chó
nhiễm giun đũa chủ yếu ở giai đoạn tuổi còn non chiếm 60%, và nhiễm nặng
hơn chó trưởng thành. Petrov A.M (1963) cho biết: chó con 80-90 ngày tuổi
mới thấy nhiễm giun đũa Toxascaris leonina, chó 2 tháng tuổi nhiễm nặng
giun đũa Toxocara canis. Thậm chí chó 15-21 ngày tuổi đã thấy nhiễm
Toxocara canis do vòng đời phát triển của loại này qua bào thai.
William và Menning (1978) điều tra sự nhiễm Toxocara canis ở các lứa
tuổi khác nhau của chó, tác giả cho biết: chó dưới 1 năm tuổi tỷ lệ nhiễm
45%, trên 1 năm tuổi (20%).
Chó con nhiễm giun nặng (đáng chó ý là giun đũa, giun móc) vì cơ thể
chó non sức đề kháng yếu với mầm bệnh, dễ mẫn cảm với các loài giun. Mặt
khác một số loài (giun đũa, móc) truyền cho chó non ngay từ khi còn trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
bụng mẹ (qua bào thai). Foster và Cross (1954) quan sát thấy rằng, ấu trùng
giun móc theo máu vào bào thai và cư trú ở phổi bào thai, sau khi chó con ra
đời, ấu trùng bắt đầu hoạt động và quay về đường tiêu hoá và phát triển thành
giun trưởng thành. Do vậy, chó con chưa đầy 1 tháng tuổi đã nhiễm giun móc,
giun đũa. Chó trưởng thành nhiễm ít hơn, do có sức đề kháng với ký sinh
trùng. Mặt khác, tuổi thọ của ký sinh trùng có hạn. Kolevatova (1959) cho
biết: nếu chó có miễn dịch với giun móc thì nó có khả năng tống phần lớn
giun này ra khỏi cơ thể.
Skrjabin và Petrov (1977)[20] cho biết: ở chó lớn, bệnh do Toxocara
canis ít thấy hơn so với chó non, điều đó nói lên rằng: chó trưởng thành có
sức đề kháng (miễn dịch) đối với bệnh do Toxocara canis.
Theo Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn Văn Phúc (1989) [16], ._.kết
quả kiểm tra 96 chó con từ 1-3 tháng tuổi tại Hà Nội, tẩy giun cho chó bằng
thuốc Piperazin và Levamisol, kết hợp kiểm tra phân, cho biết: 82 chó
nhiễm giun Toxascaris leonina, tỷ lệ 85,41%, tác giả cho biết, chó con bị
nhiễm Toxascaris leonina với tỷ lệ rất cao và thường bị bệnh nặng hơn chó
trưởng thành...
Theo Petrov A.M (1963), chó con 80 - 90 ngày tuổi, kiểm tra phân mới
bắt đầu thấy trứng của Toxascaris leonia, bệnh thường xảy ra nhiều từ tháng
thứ 7 - 8. Chó trưởng thành 2- 3 tuổi ít thấy nhiễm và 4 tuổi trở lên thì chỉ gặp
trong những trường hợp đặc biệt.
Phạm Văn Khuê và cs, (1993)[6] cho biết: chó con từ 1-3 tháng tuổi đã
thấy nhiễm 5 loài giun, một số loài như: giun đũa, giun móc tỷ lệ nhiễm cao,
Toxocara canis 57,1%, chó 7-12 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm Toxocara canis
(14,8%), chó trên 12 tháng tuổi không nhiễm loại này. Tỷ lệ nhiễm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Ancylostoma caninum là 68,8%, Uncinaria stenocephala (80%). Đó là những
nguyên nhân gây cho chó rối loạn tiêu hoá, còi cọc, chậm lớn...
Ngược lại, một số loài giun tỷ lệ nhiễm tăng dần theo tuổi chó như giun
thực quản (Spirocerca lupi, giun tóc Trichocerphalus vulpis) Phạm Sĩ Lăng
(1985)[10].
Skrjabin và Petrov (1963) cho thấy: chó mắc bệnh sớm nhất vào tuần
tuổi thứ năm, chó trưởng thành mắc bệnh nhẹ hơn chó non. Chó trưởng thành
được nuôi dưỡng tốt, có sức đề kháng cao với giun đũa Toxocara canis.
Người ta đã làm thực nghiệm gây nhiễm 15.000 trứng giun có sức gây bệnh
cho 3 chó hai năm tuổi, cả ba chó đều không bị bệnh khi nuôi dưỡng tốt.
Nhưng chó bị mắc bệnh ngay sau khi giảm tiêu chuẩn vitamin A trong thức
ăn. Chó và các loài thú ăn thịt trưởng thành khác ít bị nhiễm Toxocara canis,
điều này chứng tỏ rằng: chó trưởng thành có sức đề kháng với bệnh và được
duy trì khi được nuôi dưỡng và chăm sóc tốt.
Phạm Sĩ Lăng(1985)[10] cho biết: chó Nhật, Becger, Tây Ban Nha, Fok
từ 1-3 tháng tuổi nhiễm giun móc 62,1%; 3-6 tháng tuổi (90,7%), Toxocara
canis là 14,6%, Toxascaris leonina là 85,4%. Tỷ lệ nhiễm của chó con còn
phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng chăm sóc, điều kiện môi trường bị ô nhiễm,
mất vệ sinh, ẩm thấp thì tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó cao, có thể từ 30 - 60 %.
Qua kết quả nghiên cứu thực tế của các tác giả, tỷ lệ nhiễm giun tròn
đường tiêu hoá qua các lứa tuổi ở chó khác nhau.
1.1.3.3. Mùa vụ
Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn Văn Phúc (1989)[16] cho biết: chó
con từ 1-3 tháng tuổi bị nhiễm bệnh hầu hết các tháng trong năm. Chó con,
ngoài con đường lây nhiễm trực tiếp (do ăn phải trứng giun cảm nhiễm), còn
bị lây nhiễm ấu trùng từ lúc còn trong bào thai thông qua máu của con mẹ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Bệnh lây nhiễm và phát sinh nhiều vào mùa hè và mùa thu, nhiệt độ
nóng và ẩm ướt là điều kiện thích hợp để trứng phát triển. Mùa đông thời tiết
lạnh sẽ hạn chế sự phát triển của ấu trùng và ấu trùng có thể bị chết. Vì vậy
mùa đông chó ít mắc bệnh giun tròn đường tiêu hoá hơn.
Ở nước ta, do điều kiện nóng, ẩm gần như quanh năm nên trứng giun có
thể phát triển thành ấu trùng trong trứng, ở bất cứ tháng nào và lây nhiễm cho
chó và các loài ăn thịt khác. Nhiệt độ thích hợp để trứng phát triển thành ấu
trùng là 20 -30
0c, thời gian lây nhiễm giun móc thường xảy ra từ tháng 4 -
tháng 10, đó là mùa nóng ẩm, mưa nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho trứng
giun móc phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm. Khi chó nhiễm ấu trùng qua
da, con đường di chuyển bình thường theo hệ thống tuần hoàn, qua phổi.
Những ấu trùng này lưu lại một thời gian ở phổi và bắt đầu vào đường tiêu
hoá sau 6 -9 giờ.
Tuy nhiên, chó con thường bị nhiễm nặng trong những tháng nóng ẩm từ
mùa hè sang mùa thu.
1.1.4. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng bệnh giun tròn đƣờng tiêu hoá chó
1.1.4.1. Biểu hiện lâm sàng
Khi nghiên cứu về bệnh lý lâm sàng, các tác giả đều cho thấy: bệnh xảy
ra ở thể cấp và mãn tính. Tuỳ theo số lượng giun và sức đề kháng của chó mà
biểu hiện lâm sàng nặng hay nhẹ khác nhau.
+ Thể cấp tính: thường xảy ra ở chó non, sức đề kháng yếu, chó hay nôn
mửa là do giun tròn kích thích vào niêm mạc ruột, đặc biệt chó nhiễm nhiều
giun đũa, cuộn thành từng búi trong ruột, chó nôn ra cả giun.
Skrjabin K.I (1963) cho biết: giun đũa tiết độc tố, phá hoại hồng cầu
và mạch máu ngoại biên, gây rối loạn tiêu hoá, ảnh hưởng đến quá trình
trao đổi chất của chó dẫn đến viêm đường tiêu hoá, gây ỉa chảy, suy nhược
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
cơ thể. Ngoài ra độc tố của giun còn gây các triệu chứng thần kinh: co giật,
sùi bọt mép.
Kolevatova (1959), Brumpt (1949) cho biết: chó nôn dữ dội là do tác
động cơ giới của giun bám vào tá tràng, tạo các vết tổn thương làm ruột tăng
nhu động gây nôn (dẫn theo Skrjabin K.I 1977) [20].
Phạm Sĩ Lăng (1985)[10] quan sát 64 chó nghiệp vụ và chó cảnh bị
nhiễm giun móc cấp tính thấy biểu hiện lâm sàng đặc trưng là: nôn mửa
91,1%, bỏ ăn hoặc ăn ít 87,7%, ỉa chảy 84,3%, chảy máu ruột 98,3%, thân
nhiệt tăng do viêm ruột kế phát 35,9%. Chó chết sau 2-3 ngày nếu không
được điều trị kịp thời.
Tổng hợp các triệu chứng lâm sàng của chó mắc bệnh do Ancylostomosis ở
nước ngoài và trong nước. Trịnh Văn Thịnh, 1963[25] nhận xét: chó bị bệnh
giun móc thường có biểu hiện mệt mỏi, buồn rầu, lờ đờ, lông rụng, da dầy,
những chỗ tróc da mẩn đỏ, nhất là ở chỗ nhọn mông và mũi, chó gầy dần, trở
thành bần huyết, bạch cầu tăng, hồng cầu giảm, cuối cùng thuỷ thũng ở chân,
đi tả, con vật chết trong hôn mê, và có những cơn co giật.
Phạm Sĩ Lăng (1985) cho biết: chó bị bệnh cấp tính thường thấy ở chó
con từ 1- 4 tháng tuổi khi cảm nhiễm ấu trùng giun móc. Thể cấp tính phù
hợp với sự phát triển của ấu trùng trong cơ thể chó kéo dài từ 8 -30 ngày.
Chó biểu hiện: nôn mửa liên tục, ăn kém hoặc bỏ ăn, chảy máu ruột. Những
trường hợp nặng thấy chó nôn ra máu tươi và ỉa phân lỏng có màu đen như
bã cà phê. Chó bị rối loạn chức năng tiết dịch và co bóp của dạ dày, dẫn đến
tình trạng viêm ruột và dạ dày. Chó bị chết do ỉa chảy nặng, mất máu, mất
nước, dẫn đến rối loạn chất điện giải, kiệt sức và trụy tim mạch. Chó chết
với tỷ lệ cao 80-100 %.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Hội chứng viêm ruột không những do tác động của độc tố giun móc mà
còn do các vi khuẩn gây bênh đường ruột như: E.coli, Salmonella có sẵn trong
ống tiêu hoá tác động vào những vết thương do giun móc bám vào để hút máu
gây ra.
Lapage (1968)[48] nhận xét: chó bị bệnh giun móc biểu hiện thiếu máu
đặc thù, ở ruột non chó, giun móc nhanh chóng bám vào thành ruột hút máu,
tạo các vết thương ở nhung mao ruột, làm cho các vết thương luôn rỉ máu.
Thời gian hút máu tới lúc no khoảng 100-250 phút. Giun cái hút máu nhiều
hơn giun đực. Một giun móc trưởng thành hút của ký chủ 0,84ml máu trong
khoảng 24 giờ, làm hồng cầu, huyết sắc tố giảm, bạch cầu toan tính tăng.
Froelich (1989) cho biết: chó bị nhiễm nặng loài giun tóc Trichocephalus
vulpis thường có cơn co thắt đại tràng, làm chó đau đớn rên rỉ, đầu của
Trichocephalus vulpis xuyên sâu vào niêm mạc ruột già để hút chất dinh
dưỡng, tạo ra các tổn thương và gây chảy máu. Bởi vậy, phân chó có lẫn máu
tươi. Trường hợp xuất huyết nặng có thể thấy chó ỉa ra toàn máu lẫn với
những mảnh niêm mạc ruột bị tróc ra giống như hội chứng lỵ (dẫn theo Trịnh
Văn Thịnh 1963)[25].
Theo Ngô Huyền Thuý (1996) [34], chó biểu hiện gày còm, thiếu máu,
niêm mạc nhợt nhạt, lông xù, rối loạn tiêu hóa, ỉa ra máu. Chó chết với tỷ lệ
cao 62-85% do rối loạn chất điện giải, hạ huyết áp, trụy tim mạch. Chó 2- 6
tháng tuổi nôn mửa liên tục, mồm có nhiều nước dãi, nhiều con nôn ra cả giun
đũa Toxocara canis, có những cơn đau bụng vật vã, kêu rên dãy dụa (do
nhiễm nhiều giun đũa).
+ Thể mãn tính:
Thể này thường thấy ở chó lớn, triệu chứng lâm sàng giống như thể cấp
tính, nhưng thể hiện với mức độ nhẹ hơn và thời gian kéo dài. Một tháng sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
khi nhiễm ấu trùng, chó thể hiện hội chứng thiếu máu, chảy máu ruột. Nhưng
sau vài tháng, triệu chứng này giảm dần, chó chỉ còn hiện tương gầy còm, thể
hiện thiếu máu và thỉnh thoảng nôn khan, đôi khi ỉa chảy, lông xù, không
bóng, có biểu hiện rối loạn thần kinh. Petrov.A.M.(1963) cho biết: chó rối
loạn cả tính thèm ăn, ăn cả phân của chính nó hoặc của gia súc khác.
Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978)[23] nhận xét: khi mắc bệnh
giun đũa, chó thường gầy còm, lông xù, bụng to, ăn uống thất thường, đi tả
hoặc đi táo, có khi có triệu chứng như động kinh, nôn mửa, chất chứa nôn ra
có mùi hắc như mùi bơ để lâu. Khi bội nhiễm giun đũa, chó run rẩy, thỉnh
thoảng lên cơn co rật, giẫy dụa, chảy nước dãi. Chó 3 tháng tuổi nhiễm giun
đũa có biểu hiện viêm phúc mạc, xoang bụng tích nước. Thời kỳ ấu trùng di
hành qua phổi gây viêm phổi, tắc ống dẫn mật.
Theo Kolevatova AL (1959): trong điều kiện được nuôi dưỡng tốt thì sau
một thời gian nhất định, chó có thể tự khỏi bệnh và phục hồi sức khoẻ.
Ngô Huyền Thuý (1996)[34] cho biết: chó biểu hiện nôn khan, phân
lỏng, thỉnh thoảng có màng nhày, lẫn máu màu cà phê hay màu mận chín, có
trường hợp phân chó thành khuôn nhưng cuối bãi phân có máu lẫn màng nhày
ruột, chó ăn ít, thỉnh thoảng bỏ ăn, gày yếu, bụng to, đi lại siêu vẹo. Nếu chó
được chăm sóc tốt thì thể trạng được phục hồi dần. Ancylostoma caninum là
một trong những giun tròn có sức gây bệnh nặng cho chó do hai yếu tố cơ bản
là tác động cơ học và tiết độc tố. Giun có bao miệng phát triển lại được trang
bị bởi các mảnh kitin, nhờ vậy mà giun có thể bám chắc vào niêm mạc ruột và
gây chảy máu mao mạch, viêm ruột cata. Giun còn tiết ra chất chống đông
máu, gây chảy máu kéo dài và trầm trọng hơn. Ấu trùng giun móc khi xâm
nhập qua da phá huỷ các mô của cơ thể, dẫn đến hiện tượng nhiễm khuẩn và
phát sinh các bệnh truyền nhiễm khác nhau ở chó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Trong quá trình ký sinh, giun móc tiết ra độc tố và độc tố này hấp thu
vào máu gây ra một số biến đổi về bệnh lý thể hiện: viêm ruột cấp và mãn
tính, dẫn đến tình trạng bần huyết kéo dài và suy nhược cơ thể, giảm khả năng
sinh sản và làm việc (đối với chó nghiệp vụ).
Khi mắc bệnh do giun đũa Toxocara canis, chó gầy còm, suy nhược do
giun chiếm đoạt chất dinh dưỡng, chó ăn kém, hay nôn mửa, chậm lớn và hầu
như không tăng trọng, bụng to làm cho người ta nhầm với với bệnh viêm gan
ở chó con và hội chứng còi xương. Độc tố của giun tác động lên hệ thần kinh
làm cho súc vật non biểu hiện run rẩy, co giật.
Phạm Sĩ Lăng và cs (1999)[14] quan sát thấy 6 chó con 45 ngày tuổi có
biểu hiện triệu chứng này, khi được tẩy giun, bình quân mỗi chó thải ra 48
giun đũa trưởng thành.
Phạm Sĩ Lăng và cs, (1989)[10] cho biết: hội chứng viêm ruột cấp và
mãn tính cũng thấy rõ ở chó với các triệu chứng như: nôn mửa, ỉa chảy, phân
tanh khắm. Chó con 1- 2 tháng tuổi ỉa phân trắng xám, lỏng, đau bụng, rên rỉ,
lăn lộn, có con nôn ra giun và ỉa ra giun, chó có hội chứng thần kinh như đi lại
run rẩy, loạng choạng giống như trạng thái thần kinh của bệnh care, chỉ khác
là không tăng nhiệt độ. Chó trưởng thành bị nhiễm giun chỉ thể hiện gầy còm,
thỉnh thoảng nôn khan và ít biểu hiện triệu chứng lâm sàng như chó con.
Trường hợp chó nhiễm nhẹ (số lượng Toxascaris leonina ít), thường không có
biểu hiện bệnh lý. Nếu chó nhiễm nặng, số lượng giun có thể đến vài trăm con
trong ruột non chó thì bệnh lý thể hiện rõ. Phạm Sĩ Lăng(1985) [10] tẩy giun
cho 2 chó nhỏ có trọng lượng 3kg và đếm được 292 giun, bình quân mỗi chó
nhiễm 146 giun.
1.1.4.2. Bệnh tích
Theo Sprent (1955), ấu trùng giun đũa Toxocara canis khi di hành trong
máu có thể làm tắc mao mạch, tắc ống dẫn mật và gây viêm nhiễm ở đó. Giun
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
đũa Toxascaris leonina trưởng thành với số lượng nhiều có thể gây tắc ruột và
thủng ruột non của chó.
Trịnh Văn Thịnh (1963) nhận xét: ấu trùng giun móc khi chui qua da gây
tổn thương lớp biểu bì và tổ chức liên kết dưới da, làm con vật bị ngứa và
viêm da. Ấu trùng giun đũa, giun móc còn gây những tổn thương ở phổi, phế
nang khi chóng di hành. Giun móc tiết độc tố phá vỡ hồng cầu, làm máu khó
đông, gây tổn thương niêm mạc, mạch máu ruột. Đó là nguyên nhân gây xuất
huyết kéo dài.
Theo Phạm Sĩ Lăng (1985)[10], chó bị nhiễm giun móc nặng, khi chết
mổ khám thấy nhiều giun trong tá tràng, không tràng. Biểu hiện viêm ruột
cata, xuất huyết niêm mạc ruột. Trong quá trình di hành trong cơ thể chó, ấu
trùng gây ra một số trạng thái bệnh lý ở nội tạng. Biểu hiện chó bị ho do viêm
phổi, viêm phế quản khi ấu trùng di hành đến phổi, mang theo các vi khuẩn
gây bệnh. Hiện tượng viêm niêm mạc dạ dày, ruột cũng thường xảy ra khi ấu
trùng hoạt động tại đây. Toxocara canis gây hiện tượng tắc ruột, thủng ruột và
viêm túi mật khi nhiễm số lượng nhiều.
Ngô Huyền Thuý (1996)[34] cho biết: khi mổ khám chó chết vì nhiễm
nhiều giun móc thấy hiện tượng xung huyết, xuất huyết niêm mạc ruột non,
nhiều giun móc cắm sâu vào niêm mạc ruột, nằm lẫn trong tổ chức tương
mạc ruột.
Phạm Văn Khuê và cs (1993) [6] cho biết: viêm gan, viêm túi mật, viêm
phổi ở chó non do quá trình di hành của ấu trùng Toxocara canis, hoặc giun
đũa trưởng thành chui vào túi mật phá hoại chức năng hoạt động của các cơ
quan này dẫn đến gan bị tổn thương sưng to, màu vàng úa, viêm nát.
Phạm Văn Khuê và cs (1993)[6] nghiên cứu tình hình nhiễm Spirocerca
lupi ở Hà Nội cho biết: tỷ lệ nhiễm là 14,2%, giun thường tạo thành những tổn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
thương khối u cứng, kích thước bằng hạt đậu đến quả trứng vịt, trong khối u
chứa nhiều chất mủ lỏng và có nhiều giun quấn lại với nhau thành từng búi.
1.1.5. Phòng trị bệnh giun tròn đƣờng tiêu hoá chó
* Điều trị bệnh:
Ngày nay, có rất nhiều loại hoá dược đã được nghiên cứu ở trong và
ngoài nước được sử dụng để điều trị và phòng bệnh giun sán cho gia súc và
gia cầm. Trong số đó có những loại thuốc dễ sử dụng có hiệu lực cao, an toàn,
đã và đang được áp dụng để điều trị cho động vật.
1.1.5.1. Piperazin
Sloan (1954) dùng cho chó với liều 200mg/kg TT và mèo với liều 100mg/kg
đều có hiệu lực tẩy giun đũa. Sprent và English (1958) nói rằng: Piperazin
adipate liều 200mg/kg tẩy được giun đũa trưởng thành. Chó con 1-2 tuần tuổi,
khi điều trị có thể ngăn ngừa sự sinh sản của giun, từ đó phòng sự phát tán
trứng ra môi trường. Tuy nhiên, thuốc này không ngăn được chó con bị nhiễm
trước khi sinh.
Theo (Hayes và Medaniel, 1959), hợp chất Piperazin được dung nạp tốt
(dẫn theo Soulsby E.J.L, 1965) [50].
1.1.5.2. Mebendazol
Biệt dược của Mebendazol là vermox, là một loại hoá dược an toàn, có
thể tẩy được nhiều loại giun tròn ở chó, mèo với liều 60-100mg/kg TT, hiệu
lực đạt 93% (Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn văn Phúc, 1989)[16].
1.1.5.3. Levamisol
Ở liều 10mg/kgTT dùng 2 lần trong 14 ngày có hiệu quả tẩy trừ giun
tròn chó (Arundel, H.J, 2000)[39].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Phạm Sĩ Lăng (1985)[10], sử dụng Levamisol để tẩy các loài giun đũa,
giun lươn ở động vật ăn thịt với liều 7-10mg/kg cho kết quả tốt, hiệu lực đạt
90-100% đối với giun đũa và giun tóc.
1.1.5.4. Thymol
Dùng để tẩy giun tóc Trichuris vulpis cho thú ăn thịt với liều 0,2g/kgTT
pha với nước ấm 420c, cho uống hoặc thụt trực tràng cho hiệu lực tốt.
1.1.5.5. Mebenvet
Là chế phẩm chứa 10% hoạt chất Mebendazol, liều dùng 0,6-1gam/
kgTT, chia thuốc làm 2 liều tẩy vào 2 buổi sáng, có tác dụng tẩy giun móc,
giun đũa, giun lươn (Trần Minh Châu và cs, 1988)[1].
Những loại thuốc trên dùng để điều trị giun tròn cho chó, tẩy định kỳ 3-6
tháng một lần.
1.1.5.6. Fenbendazol
Nghiên cứu ở Mỹ, Burke và cs, (1982) nhận xét: thuốc Fenbendazol có
khả năng chống lại giun tròn, liều 50mg/kgTT, dùng liên tục trong 3 ngày(dẫn
theo Arundel, H.J 2000) [39].
1.1.5.7. Disophenol
Nghiên cứu ở Australia, Arundel (2000)[39] cho biết: thuốc Disophenol
liều 10mg/kgTT có hiệu quả tẩy trừ cao đối với loài Ancylostoma caninum và
Uncinaria stenocephala.
1.1.5.8. Ivermectin
Là thuốc trị ký sinh trùng do công ty cổ phần dược và vật tư Thú y
(Hanvet) sản xuất. Thuốc có nguồn gốc từ nấm, thuộc nhóm các Imidazol -
thiazol, dẫn xuất của Imidazole.
Tính chất: thuốc có dạng bột kết tinh màu trắng, ngà vàng, không hoà tan
trong nước. Là sản phẩm lên men của nấm mốc Streptomyces avermitilis.
Thuốc dung nạp khá tốt, được bào chế dưới dạng dung dịch tiêm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Thuốc tác động bằng cách phong bế sự dẫn truyền xung động thần kinh
của ký sinh trùng do tăng hiệu quả phóng thích axit gamma aminobutyric.
Chất trung gian hóa học này can thiệp chủ yếu vào các loại giun tròn. Phổ
hoạt lực rộng đối với các loại giun tròn [36].
Jackson R.F và cs, (1981) đã thử nghiệm tẩy giun đường tiêu hoá chó với
liều 0,2mg/kgTT, cho biết thuốc có hiệu lực với giun tóc Trichocephalus
vulpis, Toxascaris leonina (dẫn theo Arundel, H.J, 2000)[39].
1.1.5.9. Levamisol injectable
Là thuốc trị giun tròn. Chế phẩm là dung dịch trong, chứa Levamisol
hydroclorit với các chất làm ổn định và các chất bổ sung để chế phẩm thích
hợp cho việc tiêm. Thuốc phân tán nhanh trong cơ thể, phổ hoạt lực rộng với
các loài giun tròn dạng trưởng thành và chưa trưởng thành [36]
1.1.5.10. Albendazol
Là dẫn xuất của Imidazol, thuộc nhóm Benzimidazol.
Tính chất: thuốc ở dạng bột màu trắng, không tan trong nước, có thành
phần hóa học là 5n - propionilthio- benzimidazol carbonnatmethyl.
Tác dụng: thuốc có tác dụng đối với các loài giun tròn đường tiêu hoá
của gia súc, ở cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng, làm giảm sức sống của
trứng trước khi bài xuất ra môi trường. Thuốc tác động chủ yếu là phong bế
men Fumarat reductaza của giun tròn, làm giun bị tê liệt và bị tống ra ngoài
qua tiêu hoá.
1.1.5.11. Sanpet
Thuốc trị ký sinh trùng do Công ty cổ phần dược và vật tư Thú y
(Hanvet) sản xuất. Là hỗn hợp của 2 loại thuốc Pyrantel và Praziquantel, liều
chỉ định 25mg/kgTT.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Praziquantel là dẫn chất của pyrazinisoquinolone. Thuốc dựa trên đặc
tính làm co cứng, tê liệt cơ và phá hủy vỏ của giun sán. Thuốc được dung nạp
tốt và không gây tác dụng phụ.
Pyrantel: công thức hoá học 1,4,5,6 - tetrahydro - metyl - (thienyl) vinyl
pirimidine, thuốc ở dạng tatrat được hấp thu nhanh, đạt nồng độ hữu hiệu
trong huyết tương sau 2-3 giờ, thuốc có tác dụng đối với các loài giun tròn.
* Phòng bệnh
Phòng chống các bệnh giun sán đường tiêu hoá cho động vật nói
chung, các loài chó và thú ăn thịt nói riêng, Skrjabin và Petrov (1963)[20],
Lapage (1968)[48] đã đề ra một số biện pháp phòng bệnh:
- Kiểm tra định kỳ, đối với chó con một tháng một lần, đối với chó
trưởng thành 3 tháng một lần.
- Quét dọn phân trong chuồng nuôi và sân chơi hàng ngày, tẩy uế 2 lần
một tháng và dội nước sôi.
- Không để chó nhà tiếp xúc với chó thả rông.
- Tẩy giun cho chó chưa trưởng thành theo kế hoạch lần đầu vào lúc 70-
80 ngày tuổi, sau đó 2 tuần phải xét nghiệm phân đối với súc vật non, và tẩy
lần 2 đối với tất cả chó và thú vật khác.
- Diệt ký chủ trung gian và các động vật gặm nhấm khác.
Một số tác giả trong nước như Đỗ Hài (1972)[2], Phan Địch Lân, Phạm
Sĩ Lăng (1989)[16], Phạm Văn Khuê, Đoàn Văn Phúc (1993)[6] đề ra một số
biện pháp phòng bệnh giun sán cho chó như sau:
- Sử dụng thuốc tẩy giun sán định kỳ đối với chó nhiễm giun: 3 tháng tẩy
một lần bằng các loại thuốc Piperazinadipate, Mebenvet, Mebendazol.
- Thực hiện vệ sinh Thú y, tẩy uế chuồng nuôi 1 lần/tháng bằng thuốc
sát trùng Crêzin 1%, đun nước sôi dội chuồng, vệ sinh khu vực xung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
quanh chuồng, ủ phân bằng vôi bột để diệt trứng giun và ấu trùng, diệt ký chủ
trung gian và các loài gặm nhấm là ký chủ dự trữ.
- Cho chó ăn uống đảm bảo vệ sinh, đầy đủ cả về lượng lẫn chất để giúp
chó con vật có sức đề kháng chống lại bệnh tật nói chung và bệnh ký sinh
trùng nói riêng.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC
1.2.1. Những nghiên cứu trong nƣớc
Bệnh giun sán là bệnh nội ký sinh trùng phổ biến và gây nhiều tác hại ở
nhiều loài động vật và cả ở người. Vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về bệnh do ký sinh trùng gây nên ở vật nuôi, trong đó có các công trình
nghiên cứu về bệnh giun sán chó.
Ở nước ta, vào những năm đầu thế kỷ 20, nghiên cứu về ký sinh trùng ở
chó còn rất ít, chủ yếu là nghiên cứu của một số tác giả người Pháp như
Houdemer, Noc, Bauche...
Kết quả nghiên cứu bước đầu xác nhận; chó ở Việt Nam nhiễm 26 loài
giun sán, trong đó chó nhiễm Ancylostoma caninum với tỷ lệ cao nhất
(75,87%) (dẫn theo Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh 1978)[23]. Houdemer
(1938) đã phát hiện ra loài Ancylostoma braziliense ký sinh ở ruột non chó,
Ancylostoma caninum ký sinh ở chó Sài Gòn, Huế và Bắc Bộ.
Công tác điều tra cơ bản về giun sán ở chó đã được các tác giả nghiên
cứu hệ thống và liên tục với những phương pháp và kỹ thuật kinh điển sử
dụng cho ký sinh trùng học. Đó là các tác giả: Trịnh Văn Thịnh (1963),
Đặng Văn Ngữ (1963-1974), Bùi Lập (1965), Phạm Sĩ Lăng (1985), Phan
Địch Lân, Đoàn Văn Phúc, (1989), Phạm Văn Khuê (1993), Ngô Huyền
Thuý (1996).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Đỗ Hài 1970 - 1972[2] đã kiểm tra 174 mẫu phân chó săn. Tác giả cho
biết: chó dưới 1 tháng tuổi đã thấy nhiễm trứng giun đũa, cho đến khi hơn 1
tháng tuổi hầu như tất cả chó đều nhiễm giun đũa và sau khi cai sữa toàn bộ
chó đều nhiễm giun đũa và giun móc. Từ 3-5 tháng tuổi trở lên, tỷ lệ nhiễm
giun đũa có giảm, nhưng chó lớn tỷ lệ nhiễm giun móc là 100% và tồn tại cho
đến khi chó già và chết. Tác giả cho biết, chó mẹ nuôi con nhiễm giun tóc
93.7%, giun đũa 73,7%, giun móc 100%.
Trịnh Văn Thịnh (1978)[23] cho biết: chó nhiễm 11 loài giun tròn gồm:
Toxocara canis, Toxascaris leonina, Ancylostoma caninum, Strongyloides sp,
Trichocephalus sp, Uncinaria stenocephala, Ancylostoma braziliense,
Dirofilaria immitis, Dirofilaria repens, Dipetallonema dracunculoides,
Spirocerca lupi.
Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977)[38] cho biết: chó
nhiễm 16 loài giun tròn.
Phạm Sĩ Lăng (1985)[10] xét nghiệm 1718 mẫu phân chó và cho biết, tỷ
lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum là 74,8%.
Phạm Sĩ Lăng (1993)[12] mổ khám 23 chó chết và xét nghiệm phân của
574 chó cảnh ở vườn thú Thủ Lệ, đã phát hiện 5 loài giun tròn ký sinh ở chó
với tỷ lệ nhiễm:
Ancylostoma caninum 72 %
Toxocara canis 20,4 %
Toxascaris leonina 29,4 %
Trichocephalus vulpis 17,1%
Strongyloides canis 14,2%
Phạm Văn Khuê và cs (1993)[6] xét nghiệm 187 mẫu phân chó và mổ
khám một số chó nuôi tại 4 quận nội thành Hà Nội và huyện Gia lâm đã tìm
thấy 5 loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá của chó với tỷ lệ nhiễm là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Ancylostoma caninum 59,7 %
Toxocara canis 20,2 %
Toxascaris leonina 29,4 %
Trichocephalus vulpis 17,1%
Spirocerca lupi 14,2%
Ngô Huyền Thuý và cs, (1994)[31] xét nghiệm phân chó ở Hải Phòng và
Hà Nội thấy nhiễm 5 loài giun tròn, tỷ lệ lần lượt là:
Toxocara canis 27,8% và 27%
Toxascaris leonina 17,8% và 21,9%
Ancylostoma caninum 67,7% và 62,3%
Uncinaria stenocephala 66,1% và 64,9%
Trichocephalus vupis 3,4% và 12,4%
Đào Huyền Giang (1995) xét nghiệm phân chó Nhật, chó Fok, chó lai và
chó nội, cho biết cả 4 giống chó đều nhiễm 2 loài giun Toxocara canis từ
15,39 % - 20% và Toxascaris leonina từ 30,7% - 37,5 % (dẫn theo Ngô
Huyền Thuý, 1996) [34].
Ngô Huyền Thuý (1996)[34] xét nghiệm mẫu phân chó nuôi tại Hà Nội
thấy nhiễm 12 loài thuộc 12 giống giun sán, mổ khám 516 chó thấy tỷ lệ
nhiễm giun tròn, sán dây, sán lá, lần lượt là 98,5%, 36,8% và 10,4%, trong đó
tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum là cao nhất 70,5% - 81,65%, tỷ lệ
nhiễm giun thực quản Spirocerca lupi là 6,9% .
Lê Hữu Khương, Lương Văn Huấn (1998)[8] mổ khám ruột non của 253
chó và xét nghiệm 753 mẫu phân chó nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh. Tác
giả cho biết, tỷ lệ nhiễm giun móc lần lượt là 90,51% và 61,62%, Tác giả phát
hiện được 3 loài giun móc là: Ancylostoma caninum, Uncinaria stenocephala,
Ancylostoma brazillense.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Lê Hữu Nghị và cs (2000)[19] kiểm tra 130 chó ở thành phố Huế, cho
biết tỷ lệ nhiễm Toxocara canis là 58,46%.
Từ thống kê trên cho thấy, chó ở nước ta nhiễm nhiều loài giun tròn, trong
đó số lượng loài ký sinh ở đường tiêu hoá là phổ biến. Những loài giun tròn
gây tác hại nhiều cho chó và khả năng lây sang người là Toxocara canis,
Toxascaris leonina, Trichocephalus vulpis và đặc biệt là loài giun móc
Ancylostoma caninum.
1.2.2. Những nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Werner (1782) lần đầu tiên phát hiện ra giun Toxocara canis kí sinh ở ruột
non chó và chó sói. Petrov A.M (1941) và Sprent (1959) nghiên cứu và phát hiện
ra vòng đời, phương thức nhiễm vào vật chủ của loài Toxocara canis.
Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [20] cho biết: chó nhiễm Toxocara
canis do nuốt phải trứng chứa ấu trùng gây nhiễm và bệnh nặng ở chó con
dưới 2 tháng tuổi. Đặc biệt Toxocara canis có khả năng nhiễm qua bào thai.
Vì vậy chó con mới sinh ra kiểm tra phân đã thấy trứng giun đũa.
Linstow (1902) đã mô tả loài giun đũa Toxascaris leonina mà tác giả
phát hiện ra. Tiếp đó Petrov A.M (1941) đã nghiên cứu và bổ sung về vòng
đời phát triển của Toxascaris leonina.
Watkins và Havey (1942) đã tìm thấy ở ruột non chó, cáo vùng tây nam
nước Anh và vùng Shorophier loài Toxocara canis (dẫn theo Ngô Huyền
Thuý, 1996).
Frohlich (1798) phát hiện trong manh tràng của chó có loài giun
Trichocephalus vulpis, sau đó được Skrjabin và Orlov (1957) nghiên cứu sâu
hơn về đặc điểm và vòng đời phát triển của loài giun này.
Năm 1884, Railliet phân loại và tìm thấy loài giun Uncinaria
stenocephala gây ra bệnh Ancylostomatosis và được Petrov A.M chỉ ra vòng
đời và đường xâm nhập của ấu trùng vào cơ thể vật chủ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Houdemer (1938) đã thấy ở Việt Nam loài giun móc Ancylostoma
braziliense ở ruột non chó, loài Ancylostoma caninum của chó ở Sài gòn, ở
Huế và ở Bắc bộ (dẫn theo Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh, 1978).
Kolevatova A.l (1957) đã chứng minh bằng thực nghiệm quá trình xâm
nhập của ấu trùng, những tác động bệnh lý của hai loài Ancylostoma caninum,
Uncinaria stenocephala(dẫn theo Skrjabin K.I, 1963).
Rud (1809) phát hiện ra giun Spirocerca lupi, sau đó Skrjabin K.L,
R.Schulz (1937) nghiên cứu phương thức lây nhiễm và vòng đời hoàn chỉnh.
Theo Soulsby E.JL (1965) [50], bệnh này đã tìm thấy nhiều ở vùng nam Châu
Âu, nhưng không được coi là bệnh ký sinh trùng chính và loài tương tự được
tìm thấy nhiều ở Liên xô cũ.
Ngoài những loài giun tròn ký sinh chủ yếu ở chó, các tác giả đã tìm
thấy rất nhiều loài giun tròn khác ở trong bộ máy tiêu hoá, tuần hoàn của các
loại chó như:
Owen (1835) phát hiện ra giun bao Trichinella ở chó.
Leiz năm (1856) tìm thấy giun chỉ Dirofilaria immitis ký sinh ở tim chó.
(dẫn theo Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh, 1978).
Những năm gần đây, nhiều tác giả ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ và
trên thế giới đã công bố những kết quả về tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó.
Coebenberg (1977) kiểm tra 387 chó ở Mỹ cho biết tỷ lệ nhiễm
Toxocara canis là 18,9%, Toxascaris leonina 18,9%.
Miloyet (1978) kiểm tra 474 chó, tỷ lệ nhiễm Toxocara canis 26,6%,
Toxascaris leonina 2,3%.
Mile và Hansbory (1982) kiểm tra 1720 chó tại Leipzia (Đức) cho biết tỷ
lệ nhiễm Toxocara canis 5,4%, Toxascaris leonina 38%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Uknown (1987) kiểm tra 2086 chó cho biết tỷ lệ nhiễm Toxocara canis
8,05%, Toxascaris leonina 0,48%. (dẫn theo Ngô Huyền Thuý 1996) [34].
Eva Fok, Takas Schilla (1988) [44] kiểm tra 1674 mẫu phân chó và 200
mẫu lấy của chó ở công viên Budapet cho biết: tỷ lệ nhiễm Toxocara canis
30%, Toxascaris leonina 35%, chó nhiễm Toxocara canis giảm dần theo tuổi;
chó 1-3 tháng tuổi nhiễm 35%, 4-6 tháng tuổi nhiễm 28,6%, 7-12 tháng tuổi
nhiễm 6,5%, trên 12 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm thấp (4%); tỷ lệ nhiễm giun móc
Ancylostoma caninum là 50,1%.
Aguilar và cs (2005)[40] đã mổ khám ruột non của 120 chó ở thành phố
Mexico, các tác giả phát hiện 102 chó bị nhiễm giun sán, trong đó 75 chó
nhiễm Ancylostoma caninum, chiếm tỷ lệ 62,5%. Giun đũa Toxocara canis
nhiễm phổ biến ở chó non và chủ yếu nhiễm vào mùa khô.
Tại Braxin, DeCastro và cs (2005)[43] kiểm tra phân chó ở những luống
hoa, cỏ hướng ra phía bờ biển của Praia Grande, Sao paulo cho biết: tỷ lệ
nhiễm Toxocara canis là 1,2%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Chƣơng 2
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 ĐỐI TƢỢNG, VẬT LIỆU VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên các loại chó: chó nội, Berger, Nhật, Fok, tại
các hộ gia đình nuôi chó ở 9 quận nội thành Hà Nội.
2.1.2 Vật liệu nghiên cứu
- Mẫu phân của 457 chó các loại và ở các lứa tuổi khác nhau (dùng để
xét nghiệm trứng giun tròn, mổ khám 116 chó).
- Máu chó mắc bệnh giun móc qua xét nghiệm phân (10 mẫu) và không
mắc bệnh (10 mẫu).
- Bệnh phẩm (ruột non) của chó bị bệnh giun móc để xác định bệnh tích
đại thể và vi thể.
- Kính hiển quang học có gắn máy ảnh, lamen, lam kính, bộ ống hút
hồng cầu, bạch cầu, huyết sắc kế shali, buồng đếm Newbauer, thuốc nhuộm
Hematoxylin - eosin. Dung dịch pha loãng hồng cầu, bạch cầu, cồn tuyệt đối,
dung dịch HCL 0,1N, du._. hoá chó bị bệnh giun tròn
Số chó
mổ
khám
(con)
Số chó
có
bệnh
tích
(con)
Tỷ lệ
(%)
Những bệnh tích đại thể
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
116 81 69,82
- Ruột non viêm cata, trong lòng
ruột chứa dịch màu nâu hồng.
17 20,98
- Niêm mạc ruột non tổn thương
xung huyết, xuất huyết từng
đám, thành ruột viêm tăng sinh
dày lên.
56 69,13
- Niêm mạc ruột non có những
điểm xuất huyết lấm chấm.
8 9,87
Bệnh tích vi thể
Bằng phương pháp cắt cúp tổ chức bệnh phẩm có bệnh tích đại thể rõ
rệt, chúng tôi đã xác định được những biến đổi vi thể ở cơ quan tiêu hoá
của chó bị bệnh giun móc. Đó là: niêm mạc ruột non xuất huyết, hồng cầu
thoát khỏi mạch quản vào lòng ruột (ảnh 1). So sánh với tổ chức ruột non
của chó không bị bệnh giun móc (ảnh 2), chúng tôi thấy, niêm mạc ruột non
bình thường, không bị xuất huyết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
ẢNH 1. Xuất huyết niêm mạc ruột non ẢNH 2. Niêm mạc ruột bình thƣờng
Hồng cầu thoát khỏi mạch quản, lan tràn giữa các lông nhung. Sự thoát
khỏi lòng mạch của hồng cầu gây nên hiện tượng xuất huyết cấp tính, quá
trình này xảy ra do sự tác động cục bộ ở niêm mạc ruột, các tế bào niêm mạc
ruột bị bong tróc, hạ niêm mạc thấm dịch phù, lông nhung ruột bị tổn thương,
đứt nát và biến dạng. Tại các vị trí bị phá huỷ, tổ chức liên kết trở nên lỏng
lẻo (ảnh 3); tiêu bản vi thể ruột non bình thường: vị trí đối chứng (ảnh 4),
thấy tế bào biểu mô lành lặn, sắp xếp chặt chẽ, không bị xuất huyết.
Biến đổi vi thể ở ruột non mà chúng tôi quan sát được chính là hiện
tượng mất máu của vật chủ (giảm số lượng hồng cầu và huyết sắc tố…). Niêm
mạc ruột non bị tổn thương dẫn đến viêm cata, tăng nhu động ruột, gây tiêu
chảy, phân có máu và chất nhày. Kết quả xác định biến đổi vi thể phù hợp với
kết quả xác định bệnh tích đại thể mà chúng tôi quan sát được khi mổ khám.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
ẢNH 3. Tế bào biểu mô ruột bị bong tróc, ẢNH 4. Tế bào biểu mô lành lặn
lông nhung biến dạng
Khi số lượng giun ký sinh nhiều, chúng tác động trên lớp tương mạc, niêm
mạc ruột bằng tác động cơ học, đồng thời tiết nhiều độc tố và chất chống
đông máu, làm cho quá trình xuất huyết trở nên trầm trọng và lan tràn. Sau
thời gian giun tác động và cơ thể đáp ứng cục bộ, xuất hiện các tế bào viêm,
các tế bào xâm nhập vào xoang ruột gồm: đại thực bào, bạch cầu ái toan, bạch
cầu đa nhân trung tính (ảnh 5).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
ẢNH 5. Thâm nhiễm tế bào bạch cầu
3.2.3. Sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học của chó bị bệnh giun móc
Trong chẩn đoán, điều trị bệnh cho vật nuôi, việc xét nghiệm các chỉ tiêu
huyết học có ý nghĩa quan trọng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tình
hình nhiễm giun, sán của chó, nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu về các
chỉ tiêu huyết học của chó bị bệnh giun móc đường tiêu hoá. Để có cơ sở
chứng minh tác hại của giun tròn đường tiêu hoá chó, đặc biệt là giun móc
Ancylostoma caninum, chúng tôi đã xét nghiệm máu của chó bị bệnh giun
móc (10 mẫu) và chó không bị bệnh giun móc (10 mẫu). Kết quả về một số
chỉ tiêu huyết học được trình bày ở bảng 3.11.
Qua bảng 3.11 cho thấy: khi bị bệnh giun móc, số lượng hồng cầu giảm rõ
rệt, từ 6,51 triệu/ mm3 máu (chó không bị bệnh giun móc) còn 4,67 triệu/mm3
máu (chó bị bệnh giun móc); bạch cầu tăng từ 9,34 nghìn/mm3 máu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
(chó không bị bệnh giun móc) lên 14,5 nghìn/mm3 máu (chó bị bệnh giun
móc); hàm lượng huyết sắc tố giảm từ 12,1 g% (chó không bị bệnh giun móc)
xuống còn 9,1g% (chó bị bệnh giun móc). Sự thay đổi này có ý nghĩa thống
kê (P đều < 0,001).
Bảng 3.11. So sánh số lƣợng hồng cầu, bạch cầu, hàm lƣợng huyết sắc tố
giữa chó khỏe và chó bị bệnh giun móc
Chỉ tiêu huyết học
Chó khoẻ
(
xmX
)
(n=10)
Chó bệnh
(
xmX
)
(n=10)
So sánh
Số lượng hồng cầu
(Triệu/mm3 máu)
6,51 0,13 4,67 0,10 P< 0,001
Số lượng bạch cầu
(Nghìn/mm
3
máu)
9,34 0,05 14,50 0,32 P< 0,001
Hàm lượng huyết sắc tố
(g%)
12,10 0,22 9,10 0,10 P< 0,001
Theo chúng tôi, số lượng hồng cầu giảm là do giun móc ký sinh, hút
máu làm cho các mao mạch bị tổn thương, rỉ máu. Giun còn tiết chất chống
đông máu làm cho máu không đông. Độc tố của giun còn phá vỡ hồng cầu,
gây hiện tượng mất máu, niêm mạc nhợt nhạt. Đó là nguyên nhân làm cho
lượng huyết sắc tố giảm, lượng máu có thể mất nhiều hay ít còn phụ thuộc
vào số lượng giun ký sinh. Các mao mạch tổn thương gây hiện tượng viêm,
xuất hiện sự thâm nhiễm các tế bào bạch cầu. Do vậy, số lượng bạch cầu tăng
lên so với chó không bị bệnh giun móc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Lapage (1968)[48] nhận xét: chó bị bệnh giun móc biểu hiện thiếu máu
đặc thù, ở ruột non chó, giun móc nhanh chóng bám vào thành ruột hút máu,
tạo các vết thương ở nhung mao ruột, làm cho các vết thương luôn rỉ máu.
Thời gian hút máu tới lúc no khoảng 100-250 phút. Giun cái hút máu nhiều
hơn giun đực. Một giun móc trưởng thành hút của ký chủ 0,84ml máu trong
khoảng 24 giờ, làm hồng cầu, huyết sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng.
Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với nhận xét của Trịnh Văn Thịnh
(1963)[25], (1982)[29]: chó bị bệnh giun móc thường có biểu hiện mệt mỏi,
buồn rầu, lờ đờ, lông dựng, da dầy, những chỗ chóc da mẩn đỏ, chó gầy dần,
trở thành bần huyết (thiếu máu).
3.2.4. Công thức bạch cầu của chó khoẻ và chó bị bệnh giun móc
Để biết khi chó bị bệnh giun móc, loại bạch cầu nào tăng trong công
thức bạch cầu, chúng tôi đã làm tiêu bản máu, nhuộm Hematoxilin- eosin và
phân loại bạch cầu, sau đó tính tỷ lệ phần trăm từng loại. Kết quả được trình
bày ở bảng 3.12.
Bảng 3.12. Công thức bạch cầu của chó khoẻ và chó bị bệnh giun móc
Công thức bạch cầu
(%)
Chó khoẻ
(
xmX
)
(n=10)
Chó bệnh
(
xmX
)
(n=10)
So sánh
Trung tính 61,5 0,65 64,81 0,48 P < 0,01
Ái toan 6,41 0,05 10,67 0,27 P < 0,001
Ái kiềm 0,64 0,03 0,77 0,04 P > 0,05
Đơn nhân lớn 6,30 0,09 6,63 0,11 P > 0,05
Lâm ba cầu 25,15 0,69 17,12 0,46 P < 0,001
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
Bảng 3.12 cho thấy: tỷ lệ các loại bạch cầu của chó bị bệnh giun móc
đều khác so với chó khoẻ, rõ nhất là sự thay đổi bạch cầu ái toan: tỷ lệ bạch
cầu ái toan từ 6,41% (ở chó khoẻ) tăng lên 10,67% (ở chó bệnh) (P<0,001); tỷ
lệ các loại bạch cầu khác như: bạch cầu đa nhân trung tính và lâm ba cầu cũng
tăng lên trong máu chó bệnh (P<0,01 và P< 0,001), bạch cầu ái kiềm và đơn
nhân lớn thay đổi không đáng kể (P>0,05).
Qua kết quả trên, chúng tôi có nhận xét: khi chó bị bệnh giun móc,
công thức bạch cầu thay đổi, đặc biệt tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng lên rất cao so
với chó khỏe.
Trịnh Văn Thịnh (1963)[25], (1982)[29] nhận xét: tác động hút máu ký
chủ và độc tố của giun làm hồng cầu, huyết sắc tố giảm, bạch cầu toan tính
tăng. Theo nhiều tác giả, bạch cầu toan tính tăng lên là một chỉ tiêu quan
trọng xác định gia súc bị nhiễm giun, sán. Kết quả của chúng tôi phù hợp với
nhận xét của các tác giả này.
3.2.5. Kết quả thử nghiệm các loại thuốc tẩy giun tròn cho chó
Hiện nay trên thị trường có nhiều loại thuốc tẩy giun tròn cho chó. Để
có cơ sở khoa học cho việc dùng thuốc phòng trị giun tròn có hiệu quả, chúng
tôi đã thử nghiệm 4 loại thuốc tẩy (2 loại thuốc tiêm, 2 loại thuốc cho uống),
mỗi loại thuốc thử nghiệm cho 15 chó nhiễm giun tròn (có kết quả dương tính
qua xét nghiệm phân) và xác định hiệu lực của các loại thuốc: thuốc
Albendazol (uống) dùng để tẩy giun móc, Levamisol (tiêm) dùng để tẩy giun
đũa, Ivermectin (tiêm) dùng để tẩy giun tóc, Sanpet (uống) dùng để tẩy hỗn
hợp các loại giun tròn. Hiệu lực được đánh giá bằng xét nghiệm phân sau khi
dùng thuốc không còn trứng giun tròn. Sau khi cho thuốc 24 giờ, chúng tôi
theo dõi sự thải giun qua phân chó, sau 15 ngày kiểm tra phân chó tìm trứng
giun để xác định hiệu lực của thuốc. Kết quả được trình bày ở bảng 3.13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
Bảng 3.13. Hiệu lực của một số loại thuốc tẩy giun tròn cho chó
Tên thuốc
Tác dụng tẩy
(loài giun tròn)
Liều dùng
(mg/kgTT)
Số chó
dùng
thuốc
(con)
Kết quả
Sau khi tẩy
Số chó
(-)
Tỷ lệ
(%)
Albendazol
Ancylostoma
caninum
20 15 14 93,33
Levamisol
Toxocara canis
Toxascaris leonina
15 15 13 86,66
Ivermectin
Trichocephalus
vulpis
0,3 15 12 80,00
Sanpet Hỗn hợp 25 15 14 93,33
Bảng 3.13 cho thấy:
- Thuốc Albendazol với liều 20mg/kgTT, tẩy giun móc Ancylostoma
caninum, kết quả có 14 chó trong phân không còn trứng giun móc, 1 chó vẫn
còn trứng trong phân, hiệu lực đạt 93,33%.
- Thuốc Sanpet liều 25mg/kgTT, dùng để tẩy cho những chó nhiễm hỗn
hợp các loài giun tròn, kết quả có 14 chó sạch trứng, 1 chó vẫn còn trứng, đạt
hiệu lực 93,33%.
- Thuốc Levamisol với liều 15mg/kgTT, tẩy giun đũa cho 15 chó, kết
quả 13 chó sạch trứng giun (1 chó còn trứng giun Toxocara canis, 1 chó còn
trứng Toxascaris leonina) đạt hiệu lực tỷ lệ 86,66%.
- Thuốc Ivermectin liều 0,3mg/kgTT, tẩy giun tóc cho 15 chó, kết quả 12
chó sạch trứng giun, đạt hiệu lực 80,00%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
Như vậy, sử dụng 4 loại thuốc tẩy giun tròn cho chó, bước đầu chúng tôi
thấy: thuốc Albendazol có tác dụng tẩy giun móc khá tốt (hiệu lực đạt
93,33%), thuốc Sanpet có tác dụng tẩy cùng lúc 4 loài giun tròn đường tiêu
hoá, tỷ lệ hiệu lực đạt 93,33%; thuốc Levamisol có tác dụng tẩy 86,66% số
chó bị nhiễm giun đũa được tẩy; thuốc Ivermectin có tác dụng tẩy 80% số chó
nhiễm giun tóc được dùng thuốc.
Kết quả trên cho phép chúng tôi sơ bộ đánh giá: cả 4 loại thuốc đều có
tác dụng tẩy giun tròn đường tiêu hoá cho chó. Tuy nhiên, Sanpet là thuốc có
ưu điểm cùng lúc tẩy được nhiều loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá chó.
3.2.6. Độ an toàn của thuốc tẩy giun tròn đƣờng tiêu hoá chó
Để đánh giá mức độ an toàn của thuốc đối với chó, trước và sau khi
cho chó dùng thuốc từ 1- 3 giờ, chúng tôi theo dõi một số các chỉ tiêu sinh
lý như: thân nhiệt, tần số hô hấp, nhịp tim. Kết quả được trình bày ở bảng
3.14.
Bảng 3.14 cho thấy, sau khi sử dụng thuốc tẩy cho chó, các chỉ tiêu sinh
lý như: thân nhiệt, tần số hô hấp và nhịp tim đều có sự thay đổi chút ít so với
trước khi sử dụng thuốc lần lượt là:
Albendazol: trước khi tẩy (380,4, 27,7, 89,8), sau khi tẩy(380,46, 28,0, 90,4).
Levamisol: trước khi tẩy (380,4, 27,2, 89,8), sau khi tẩy (380,48, 28,1, 90,8).
Ivermectin: trước khi tẩy (380,4, 26,7, 91,5), sau tẩy (380,52, 29,0, 93,0).
Sanpet: trước khi tẩy (380,48, 27,3, 91,4), sau khi tẩy (380,53, 28,5, 92,5).
Nhưng sự thay đổi này vẫn nằm trong giới hạn sinh lý bình thường. Điều này
chứng tỏ rằng, các loại thuốc thử nghiệm trên ít độc đối với chó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
Bảng 3.14. Một số chỉ tiêu sinh lý của chó trƣớc và sau khi dùng thuốc
Tên thuốc
Số
chó
theo
dõi
(con)
Trƣớc khi dùng thuốc Sau khi dùng thuốc
Thân nhiệt
(
0
C)
(
xmX
)
Hô hấp
(Lần /phút)
(
xmX
)
Nhịp tim
(Lần /phút)
(
xmX
)
Thân nhiệt
(
0
C)
(
xmX
)
Hô hấp
(Lần /phút)
(
xmX
)
Nhịp tim
(Lần/phút)
(
xmX
)
Albendazol 15 38,40 0,03 27,70 0,32 89,80 0,42 38,46 0,02 28,00 0,32 90,40 0,31
Levamisol 15 38,40 0,02 27,20 0,27 89,80 0,39 38,48 0,02 28,10 0,24 90,80 0,40
Ivermectin 15 38,42 0,01 26,70 0,23 91,50 0,51 38,52 0,01 29,00 0,22 93,00 0,36
Sanpet 15 38,48 0,02 27,30 0,35 91,40 0,42 38,53 0,02 28,50 0,3 92,50 0,31
Ngoài phương pháp theo dõi các chỉ tiêu sinh lý, chúng tôi cũng theo dõi
những phản ứng phụ dưới tác dụng của thuốc như: nôn mửa, ỉa chảy, run rẩy,
chảy nước bọt.v.v. Kết quả được trình bày ở bảng 3.15
Bảng 3.15 cho thấy:
Sau khi sử dụng 3 loại thuốc; Albendazol, Sanpet, Levamisol cho chó,
không thấy chó nào có biểu hiện phản ứng, tỷ lệ an toàn đạt 100%.
Đối với thuốc Ivermectin, sau khi sử dụng 1 giờ, 1 chó có biểu hiện rối
loạn tiêu hoá (tiêu chảy), nhưng sau 3 giờ biểu hiện đó mất hoàn toàn, chó trở
lại bình thường, tỷ lệ an toàn đạt 93,33%.
Theo chúng tôi, một loại thuốc được coi là tốt khi đảm bảo được hai yêu
cầu: có tác dụng tốt và an toàn đối với đối tượng được dùng thuốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
Bảng 3.15. Tỷ lệ chó có phản ứng sau khi dùng thuốc
Tên thuốc
Liều
lƣợng
(mg/kgTT)
Số chó
dùng
thuốc
(con)
An toàn Phản ứng
Biểu hiện
phản ứng
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
Albendazol 20 15 15 100 0 0,00 Không
Levamisol 15 15 15 100 0 0,00 Không
Ivermectin 0,3 15 14 93,33 1 6,66 Tiêu chảy
Sanpet 25 15 15 100 0 0,00 Không
Từ kết quả ở bảng 3.13, 3.14 và 3.15, chúng tôi bước đầu có nhận xét:
Thuốc Albendazol, với liều 20mg/kgTT, có tỷ lệ hiệu lực là 93,33% và
an toàn 100%, có thể sử dụng tẩy giun móc cho chó
Thuốc Levamisol, với liều 15mg/kgTT, có hiệu lực 86,66% và an toàn
100%, có thể sử dụng tẩy giun đũa chó.
Thuốc Ivermectin, liều 0,3mg/kgTT, có hiệu lực 80,00% và tỷ lệ an toàn
là 93,33%. Tuy có 1 chó biểu hiện phản ứng, nhưng chúng tôi vẫn coi thuốc
này là thuốc tẩy giun tóc đối với chó khá tốt.
Thuốc Sanpet, liều 25mg/kgTT, tẩy cho những chó nhiễm hỗn hợp 4 loài
giun tròn, đạt hiệu lực là 93,33% và tỷ lệ an toàn 100%.
Sau khi đã xác định được hiệu lực và độ an toàn của 4 loại thuốc trên,
chúng tôi đã hướng dẫn các hộ gia đình nuôi chó ở 9 quận nội thành Hà Nội
(các gia đình mà chúng tôi đã xét nghiệm phân chó có kết quả dương tính với
giun đũa, giun móc và giun tóc) tẩy giun cho chó bằng 4 loại thuốc này.
Qua theo dõi trên số lượng chó khá lớn (108 con), chúng tôi thấy các loại
thuốc này nhìn chung có tác dụng tốt và an toàn đối với chó. Những chó được
tẩy giun tròn hầu hết được cải thiện về tình trạng sức khoẻ, ăn uống tốt hơn,
nhanh nhẹn hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
3.2.7. Biện pháp phòng trị
Đặc điểm khí hậu miền Bắc nước ta là khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều
kéo dài làm cho khu hệ giun, sán rất đa dạng và phong phú, là điều kiện
thuận lợi cho mầm bệnh giun sán tồn tại và phát triển quanh năm, làm cho
chó nuôi ở nước ta nhiễm ký sinh trùng một cách dễ dàng. Từ kết quả về
một số đặc điểm dịch tễ và kết quả thử nghiệm thuốc trị bệnh giun tròn cho
chó. Chúng tôi bước đầu đề xuất qui trình phòng bệnh giun tròn cho chó
nuôi ở Hà Nội như sau:
+ Tẩy giun cho chó (sau khi đã chẩn đoán chó nhiễm loại giun tròn nào)
bằng một trong những thuốc trên hoặc dùng thuốc Sanpet nếu chó bị nhiễm
hỗn hợp nhiều loài giun tròn.
+ Đối với chó mẹ, tẩy giun trước khi mang thai để tránh lây nhiễm mầm
bệnh cho con trong thời gian mang thai. Sau khi sinh con 20 ngày tẩy lại cho
chó mẹ.
+ Chó con tẩy giun lần đầu vào lúc 25 - 30 ngày tuổi, tẩy lần 2 lúc 3
tháng tuổi. Sau đó cứ 3 - 4 tháng tẩy cho chó 1 lần.
+ Thực hiện vệ sinh Thú y đối với thức ăn, nước uống, chuồng nuôi và
môi trường ngoại cảnh để hạn chế tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó.
+ Hàng ngày thu gom phân trong chuồng nuôi và sân chơi, ủ phân theo
phương pháp nhiệt sinh học, tẩy uế nền chuồng, sân chơi của chó bằng chất
sát trùng 2 tháng một lần và dội nước sôi mỗi tháng 2 lần để tiêu diệt trứng và
ấu trùng giun tròn.
+ Không để chó khoẻ tiếp xúc với chó bệnh, nên nuôi nhốt chuồng,
không thả rông chó để tránh lây nhiễm mầm bệnh từ môi trường ngoại cảnh.
+ Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng để nâng cao sức đề kháng của chó
với bệnh nói chung và bệnh giun tròn đường tiêu hoá nói riêng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Từ các kết quả nghiên cứu về tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu
hoá của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị, chúng tôi rút ra một
số kết luận sau:
1.1. Thành phần giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá của chó nuôi tại khu
vực Hà nội gồm 4 loài: Ancylostoma caninum, Toxocara canis, Toxascaris
leonina, và Trichocephalus vulpis.
1.2. Qua xét nghiệm phân, tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum
là 68,05%; giun đũa Toxocara canis 19,91%, Toxascaris leonina 24,07%;
giun tóc Trichocephalus vulpis 7,00%. Nhiễm giun móc ở cường độ nặng là
37,62%, rất nặng (21,86%); nhiễm giun đũa (Toxocara canis, Toxascaris
leonina) cường độ nặng (39,56%, 39,09%); loài giun tóc Trichocephalus
vulpis nhiễm mức từ nhẹ đến trung bình (65,62, 34,37%).
1.3. Qua mổ khám, tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum là
71,55%, cường độ 16-72 giun/chó; giun đũa Toxocara canis 20,68%, cường
độ 1-6 giun/chó, Toxascaris leonina 26,72%, cường độ 1-7 giun/chó; giun tóc
Trichocephalus vulpis 7,75%, cường độ 1-4 giun/chó.
1.4. Chó Fok nhiễm các loài giun tròn thấp nhất (1,53% - 43,84%), chó
Nhật (3,53% - 63,52%), chó Berger (8,69% - 80,43%), cao nhất là chó nội
(12,66% - 84,00%)
1.5. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá giảm dần theo tuổi chó, riêng
giun tóc Trichocephalus vulpis tỷ lệ nhiễm tăng theo tuổi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
1.6. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá của chó ở vụ hè - thu cao hơn
vụ đông - xuân và không phụ thuộc vào tính biệt của chó.
1.7. Chó bị bệnh giun tròn đường tiêu hoá biểu hiện triệu chứng: nôn
mửa (90,38%); ăn ít, bỏ ăn, (91,34%); ỉa chảy, phân không có máu và chất
nhầy (31,73%); ỉa ra máu, phân có chất nhày (68,26%); gày yếu.suy nhược,
(82,69%); có triệu chứng thần kinh (5,76%).
1.8. Bệnh tích đại thể ở đường tiêu hoá chó bị bệnh giun tròn: niêm mạc
ruột (tá tràng, không tràng) viêm cata, trong lòng ruột chứa dịch màu nâu
hồng (20,98%); xung huyết, xuất huyết từng đám, vách ruột bị tổn thương,
dày (69,13%); niêm mạc ruột non xuất huyết lấm chấm (9,87%)
- Bệnh tích vi thể: niêm mạc ruột xung huyết, xuất huyết, hồng cầu thoát
ra khỏi mạch quản vào lòng ruột, lan tràn giữa các lông nhung, lông nhung bị
tổn thương, biến dạng, tế bào biểu mô ruột bị bong tróc, thâm nhiễm các tế
bào bạch cầu, đặc biệt là bạch cầu ái toan.
1.9. Số lượng hồng cầu, hàm lượng huyết sắc tố của chó bị bệnh giun
móc giảm, số lượng bạch cầu tăng. Công thức bạch cầu thay đổi, bạch cầu ái
toan tăng cao rõ rệt.
1.10. Thuốc Albendazol với liều 20mg/kgTT, tẩy giun móc Ancylostoma
caninum, hiệu lực đạt 93,33%.
- Thuốc Sanpet liều 25mg/kgTT, dùng để tẩy cho những chó nhiễm hỗn
hợp các loài giun tròn, đạt hiệu lực 93,33%.
- Thuốc Levamisol với liều 15mg/kgTT, đạt hiệu lực tỷ lệ 86,66%.
- Thuốc Ivermectin liều 0,3mg/kgTT, tẩy giun tóc, đạt hiệu lực 80,00%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74
2. Đề nghị
- Sử dụng thuốc Albendazol, Levamisol, Ivermectin, Sanpet tẩy giun
tròn đường tiêu hoá cho chó.
- Tiếp tục thử nghiệm các biện pháp phòng trị bệnh giun tròn ở chó, từ
đó có cơ sở khoa học để hoàn thiện qui trình phòng trị bệnh giun tròn đường
tiêu hoá chó có hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Trần Minh Châu, Hồ Đình Chúc, Phạm Sĩ Lăng, Dương Công Thuận
(1988), Bệnh thường thấy ở chó và biện pháp phòng trị, Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 125- 128.
2. Đỗ Hài (1972), “Nhận xét về giun tròn (Nematoda) trên chó săn nuôi ở
Việt Nam”, Tạp chí khoa học và Kỹ thuật Nông nghiệp, (số 6), tr. 438.
3. Đỗ Hài (1975), “Quan sát dịch bệnh của chó Berger”, Tạp chí Khoa học
và Kỹ thuật Nông nghiệp, (số 8), tr 605.
4. Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương (1997), Ký sinh và bệnh ký sinh ở gia
súc- gia cầm, Nhà xuất bản Nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh,
Tập I, Phần giun sán, chương V, tr. 171 - 252.
5. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1979), Ký sinh trùng học Thú y, Nhà xuất bản
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr. 142-149.
6. Phạm Văn Khuê, Trần Văn Quyên, Đoàn Văn Phúc (1993), “Nhận xét về
giun sán ký sinh của chó ở Hà Nội”, Công trình nghiên cứu trường
Đại học Nông nghiệp I, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 70-76.
7. Phạm Văn Khuê(1995), “Điều tra tình hình một số bệnh ký sinh trùng gia
súc lây sang người qua thịt ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Kỹ
thuật Thú y, Tập II, (Số 3), tr. 68.
8. Lê Hữu Khương, Lương Văn Huấn (1998), “Giun móc ký sinh trên đàn
chó ở Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y,
TậpV, (số 4), tr. 69.
9. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999),
Giáo trình Ký sinh trùng Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,
tr. 127.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
10. Phạm Sĩ Lăng (1985), “Bệnh giun móc ở chó Việt Nam”, Công trình
nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Thú y (1985 - 1989) Viện Thú y,
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr 114.
11. Phạm Sĩ Lăng, Đào Hữu Thanh (1989), “Đặc điểm bệnh học của bệnh sán
dây ở chó khu vực Hà Nội và qui trình phòng trừ bệnh”, Công trình
nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Thú y (1985-1989) Viện Thú y, Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 107.
12. Phạm Sĩ Lăng, Lê Thanh Hải, Nguyễn Thị Rật (1993), “Một số nhận xét
về loài giun ký sinh ở thú ăn thịt ở vườn thú Thủ lệ và chó cảnh, kỹ
thuật phòng trị”, Công trình nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật (1990-
1991) Viện Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 16 - 17.
13. Phạm Sĩ Lăng, Phan Địch Lân, Bùi Văn Đoan (1993), Chó cảnh - kỹ thuật
nuôi dạy và phòng trị, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 6, 12,
23, 41.
14. Phạm Sĩ Lăng, Nguyễn Thị Kim Thành (1999), “Tình hình nhiễm giun
đũa ở đàn chó và một số thú ăn thịt (họ chó và mèo) nuôi tại vườn thú
Hà Nội”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y, Tập III, (Số 4), tr. 67.
15. Phạm Sĩ Lăng, Phan Địch Lân (2001), Bệnh Ký sinh trùng ở Gia súc và
biện pháp phòng trị, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 154, 162,
204, 208.
16. Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn Văn Phúc (1989), Bệnh giun tròn
ở động vật nuôi Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,
tr.115-118.
17. Nguyễn Thị Lê, Phạm Văn Lực, Hà Duy Ngọ, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn
Thị Minh (1996), Giun sán ký sinh ở gia súc Việt Nam, Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 129, 142-172.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
18. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Giáo
trình chẩn đoán lâm sàng Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,
tr. 135 - 176.
19. Lê Hữu Nghị, Nguyễn Văn Duệ (2000), “Tình hình nhiễm giun sán của
chó tại thành phố Huế và hiệu quả của thuốc tẩy”, Tạp chí Khoa học
Kỹ thuật Thú y, Tập VII, (số 4), tr. 58.
20. Skrjabin K.I và Petrov A.M. (1963), Nguyên lý môn giun tròn Thú y, Tập I
(do Bùi Lập, Đoàn Thị Băng Tâm, Tạ Thị Vinh dịch từ nguyên bản tiếng
Nga), Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 1977, tr. 34-35.
21. Skrjabin K.I và Petrov A.M. (1963), Nguyên lý môn giun tròn Thú y, Tập
II (do Bùi Lập, Đoàn Thị Băng Tâm, Tạ Thị Vinh dịch từ nguyên bản
tiếng Nga), Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 1979, tr.60 -
90, 165-168.
22. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1976), Công trình nghiên cứu Ký sinh
trùng ở Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội,
tr.102-105.
23. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978), Công trình nghiên cứu Ký sinh
trùng ở Việt Nam, Tập II, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội,
tr.252-267.
24. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan (2002),
Giáo trình Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 72 - 96.
25. Trịnh Văn Thịnh (1963), “Những nhận xét đầu tiên về sinh thái học của
một số loài ký sinh ở gia súc nước ta”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật
Nông nghiệp, (số 4), tr. 238.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
26. Trịnh Văn Thịnh (1963), Ký sinh trùng Thú y, Nhà xuất bản Nông thôn,
Hà nội, tr. 215.
27. Trịnh Văn Thịnh (1966), Một số bệnh giun sán của gia súc, Nhà xuất bản
Nông thôn, Hà Nội, tr 178.
28. Trịnh Văn Thịnh (1967), “Bệnh giun sán và năng suất chăn nuôi”, Tạp chí
Khoa học và Kỹ thuật Nông nghiệp, (số 6), tr. 136-138.
29. Trịnh Văn Thịnh, Phan Trọng Cung, Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1982), Giáo
trình Ký sinh trùng học Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,
tr.162.
30. Ngô Huyền Thuý (1994), “Nhận xét về tình hình bệnh tật đàn chó cảnh ở
Hà Nội và biện pháp phòng trị”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y,
Tập I, (Số 5), tr. 82.
31. Ngô Huyền Thuý, Nhữ Văn Thụ (1994), “Giun móc gây hại cho chó”,
Tạp chí Khoa học công nghệ và Quản lý kinh tế, (Số 12), tr. 463.
32. Ngô Huyền Thuý, Nhữ Văn Thụ (1995), “Tình hình nhiễm giun
Spirocerca lupi ở chó Hà Nội”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y,
Tập II, (Số 1), tr. 87.
33. Ngô Huyền Thuý (1995), “Tỷ lệ nhiễm giun sán theo tuổi và giống chó”,
Tạp chí Khoa học công nghệ và Quản lý kinh tế, (Số 8), tr. 6-9.
34. Ngô Huyền Thuý (1996), Giun sán đường tiêu hoá của chó ở Hà Nội và
một số đặc điểm giun thực quản Spirocerca lupi, Luận án Tiến sĩ
Nông nghiệp, Hà Nội.
35. Mai Quế Tiệp (1996), Tình hình nhiễm giun sán ký sinh đường tiêu hoá
của thú ăn thịt và biện pháp phòng trị, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
Nông nghiệp.
36. Nguyễn Phước Tương (1994), Thuốc và biệt dược Thú y, Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 252.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
37. Nguyễn Phước Tương (2000), Bệnh ký sinh trùng của vật nuôi và thú
hoang lây sang người, Tập I, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr.31.
38. Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977), Giun sán ký sinh ở Động
vật Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 177- 180.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
39. Arundel H.J. (2000), Veterinary anthelmintic, Published by the University
of Sydney, p. 21.
40. Aguilar A., Reyes J.J., Maya (2005), Ecological analysis and discription of
intestinal Helminthes present in dogs in Mexicocity, Vet parasitol, p. 73.
41. Bugio R.D., Capello M. (2005), “Detection of excretory sectetory
coproantigens in experimental hookworm infection”, Am, I, Trop,
Med, Hyg, p.69.
42. Bowman D.D., Rock T., Heaney K., Neumann N.R., Ulrich M., Amodied
(2003), Persistent efficacy of moxidectin canien sustained-release
injectable against experimental infection of Ancylostoma caninum and
Uncinaria stenocephala in dogs, Vet, p.228 - 333.
43. De Castro J.M., Dos Santos S.V., Monteiro N.A.(2005), Contamination of
public gardens along seafrom of Praia Grande City, Sao Paulo,
Brazil, by eggs of Ancylostoma and Toxocara in dogsfess, Bras, Med,
Trop, p. 40-42.
44. Eva Fok, Jakats Schilla, Beata Simidoza, Savakes Stamethy, Meikles
Kavakas (1988), Prevalence of intestinal helminth in dogs and cats,
Hungari-21- Budapest, p. 47.
45. Glen Coleman (1998), Parasitic diseases of companion animals, the
University of Queensland, p. 26.
46. Giraldo M.T., Garcia N.L., Castano J.C. (2005), Prevalence of intestinal
helminthes present in dogs from Quindio province, Biomedica, p. 52.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
47. Juer Landman and Paul prociv (2003), Experimental human infection with
the hookworm Ancylostoma caninum. MJA, p. 69-71.
48. Lapage A.G. (1968), Veterinary parasitology, Oliver and Boyd - London,
p.76-77, 102-103, 145-157.
49. Segovia J.M., Guerrero R., Torrest J., Miquel J., Feliu (2003), Ecological
analyses of the intestinal helminth communities of the wolf,
Canislupus, in Spain, Folia Parasitol(Praha); 50 (3); p. 231.
50. Soulsby E.J.L. (1965), Textbook of veterinary clinical parasitology
volume1, Helminths Black Well- ford, P. 9-25, 33-45, 86-145.
51. William Heinemann (1978), Medical Books, Veterinary Helminthology,
Second edition-Senior lecture, Department of Veterinary School,
Glass gow, London, p. 178.
52. William J.F. (1990), Veterinary parasitology reference manual, College
of veterinary medicine, Wasington state university, p. 79-80.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HOẠ
ẢNH 6. Kiểm tra trứng giun tròn ở mẫu phân chó dƣới kính hiển vi
ẢNH 7. Trứng giun Ancylostoma caninum dƣới kính hiển vi ( x100)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
ẢNH 8. Trứng giun Toxocara canis dƣới kính hiển vi ( x 100)
ẢNH 9. Trứng giun Toxascaris leonina dƣới kính hiển vi ( x 100)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
ẢNH 10. Trứng giun Trichocephalus vulpis dƣới kính hiển vi (x 100)
ẢNH 11. Mổ khám toàn diện đƣờng tiêu hoá chó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
ẢNH 12
Bệnh tích đại thể ở ruột non chó do giun móc gây ra
ẢNH 13
Bệnh tích đại thể ở ruột non chó do giun móc gây ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
ẢNH 14. Giun móc Ancylostoma caninum
ẢNH 15. Giun đũa Toxocara canis
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
ẢNH 16. Giun đũa Toxascaris leonina
ẢNH 17. Giun tóc Trichocephalus vulpis
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
ẢNH 18. Đầu giun móc Ancylostoma caninum
(với những răng lớn trong xoang miệng)
ẢNH 19 ẢNH 20
ẢNH 19 ẢNH 20
Đuôi giun móc Ancylostoma caninum cái Đuôi giun móc Ancylostoma caninum đực
( x 40 ) (x 40 )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
ẢNH 21. Các mẫu máu chó khoẻ và chó bị bệnh giun móc
ẢNH 22. Bạch cầu ái toan trong tiêu bản máu chó bị bệnh giun móc
( x 100)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
ẢNH 23. Lâm ba cầu trong tiêu bản máu chó bị bệnh giun móc
( x 100)
ẢNH 24. Bạch cầu đơn nhân lớn trong tiêu bản máu chó bị bệnh giun móc
( x 100)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
ẢNH 25. Bạch cầu trung tính trong tiêu bản máu chó bị bệnh giun móc
( x 100)
ẢNH 26. THUỐC SỬ DỤNG TẨY GIUN TRÒN CHO CHÓ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9345.pdf