LỜI NÓI ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Một trong những quan điểm cơ bản của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá là gắn liền tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường, đảm bảo một sự phát triển ổn định và bền vững.
Để phát triển môi trường của Thành phố Hà Nội bền vững thì quản lý chất thải đô thị là một vấn đề hết sức cấp bách. Hà Nội hiện nay là trung tâm kinh tế lớn ở phía Bắc của Việt Nam. Sự phát triển mạnh mẽ của Hà Nội góp
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thực trạng & đề xuất các giải pháp quản lý chất thải xây dựng tại thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần to lớn vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, đô thị hoá đã có nhiều tác động tới môi trường tự nhiên của Thành phố. Dân số tăng quá nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động công nghiệp, thương mại, dịch vụ… khiến cơ sở hạ tầng ở Hà Nội đang trong tình trạng quá tải. Nhà cửa xây dựng chen lấn, cơi nới trái phép. Các dự án xây dựng lại các điểm nút giao thông, các công trình cải tạo hạ tầng đô thị trọng điểm cũng đang được đồng loạt triển khai. Hoạt động xây dựng diễn ra mạnh mẽ nhưng lại thiếu sự quản lý của các cấp chính quyền.
Tất cả các hoạt động xây dựng này là bất khả kháng với mục đích nâng cấp cơ sở hạ tầng của thành phố. Tuy nhiên vấn đề quản lý chất thải xây dựng lại chưa được quan tâm đúng mức và chưa có các biện pháp kỹ thuật xử lý kịp thời.
Với tốc độ xây dựng như hiện nay, chất thải xây dựng ngày càng tăng về cả số lượng lẫn chất lượng và nó đang là một trong những nguyên nhân chính gây ảnh hưởng xấu đến môi trường thành phố. Vì vậy vấn đề được đặt ra hiện nay là phải nhận thức rõ được sự nguy hại của chất thải xây dựng, để từ đó có những biện pháp quản lý kịp thời nhằm quản lý được chất thải xây dựng.
Xuất phát từ những vấn đề trên và từ ngành học của mình là chuyên ngành Kinh tế, Quản lý Tài nguyên và Môi trường, tôi chọn đề tài tốt nghiệp: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp quản lý chất thải xây dựng tại thành phố Hà Nội”
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng Quản lý chất thải xây dựng trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Đề xuất các giải pháp quản lý chất thải xây dựng tại thành phố Hà Nội.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài là những lý luận và thực tế về tình hình phát sinh chất thải xây dựng trên địa bàn thủ đô Hà Nội, hoạt động quản lý thu gom và xử lý chất thải xây dựng tại Công ty Môi trường Đô thị.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là sẽ giới hạn việc nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, thu thập số liệu: dựa vào số liệu điều tra đã có từ các khu vực trọng điểm xây dựng tại Thành phố Hà Nội, xem xét các công trình xây dựng này có đảm bảo được tiêu chuẩn vệ sinh môi trường hay không. Thu thập số liệu về các chất thải xây dựng thải ra tại Thành phố Hà Nội và số lượng chất thải xây dựng được xử lý mỗi ngày.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu: các số liệu đã thu thập được sẽ tiếp tục được tổng hợp và phân tích, qua đó sẽ đánh giá được lượng chất thải xây dựng tại Thành Phố Hà Nội và thành phần chất thải trong đó để từ đó đề xuất ra những biện pháp xử lý thích hợp.
- Phương pháp dự báo: từ các số liệu thực tế tại thời điểm hiện tại sẽ dự báo được lượng chất thải xây dựng tại Hà Nội trong những năm tới.
Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về quản lý chất thải xây dựng
Chương II: Thực trạng quản lý chất thải xây dựng ở thành phố Hà Nội
Chương III: Đề xuất các giải pháp quản lý chất thải xây dựng cho thành phố Hà Nội
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI XÂY DỰNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI
Khái niệm và phân loại chất thải
1.1.. Khái niệm
Chất thải được hiểu là bất cứ loại vật liệu nào mà cá nhân không còn dùng nữa, chúng không còn tác dụng gì với cá nhân đó và được thải ra môi trường.
Theo quy định tại Điều 3, Điểm 10 của Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam (được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 ): “ Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác ”.
1.2. Phân loại chất thải
Việc phân loại chất thải sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý. Dưới đây là một số cách phân loại chất thải:
Phân loại chất thải theo nguồn gốc phát sinh:
Chất thải sinh hoạt
Chất thải y tế
Chất thải công nghiệp
Chất thải xây dựng
Phân loại chất thải theo thuộc tính vật lý:
Chất thải rắn
Chất thải lỏng
Chất thải khí
Phân loại chất thải theo tính chất hoá học:
Chất thải dạng hữu cơ
Chất thải dạng vô cơ
Hoặc theo đặc tính của vật chất như:
Chất thải dạng kim loại
Chất thải dạng chất dẻo
Chất thải dạng thuỷ tinh
Chất thải dạng giấy bìa
Phân loại chất thải theo mức độ nguy hại đối với con người và các loài sinh vật:
Chất thải không nguy hại
Chất thải nguy hại
Chất thải nguy hại đặc biệt
Mỗi một cách phân loại có một mục đích nhất định nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, sử dụng, tái chế hay kiểm soát và quản lý chất thải một cách có hiệu quả.
Nguồn gốc phát sinh
Chất thải phát sinh từ các hoạt động của con người, trong đó có thể kể đến những nguồn phát sinh chất thải chính là:
Hộ gia đình ( nhà ở riêng biệt, khu tập thể, chung cư…): Thực phẩm thừa, carton, plastics, vải, da, gỗ vụn, thuỷ tinh, lon, các loại kim loại khác, tro, lá cây, các chất thải đặc biệt (đồ điện, điện tử hỏng, pin, bình điện, dầu, lốp xe…) và các chất độc hại sử dụng trong gia đình.
Thương mại ( kho, quán ăn, chợ, văn phòng, khách sạn, nhà in, trạm xăng dầu, gara…): giấy, carton, plastics, gỗ, thức ăn thừa, thuỷ tinh, kim loại, các loại rác đặc biệt ( dầu mỡ, lốp xe…), các chất thải độc hại…
Cơ quan ( trường học, bệnh viện, các cơ quan hành chính…): giấy, bìa, gỗ, các đồ điện tử ...
Xây dựng, di dời ( các địa điểm xây dựng mới, sửa chữa đường xá, di dời nhà cửa…): gỗ, thép, gạch, bêtông, vữa, bụi…
Dịch vụ công cộng ( rửa đường, tu sửa cảnh quan, công viên, bãi biển…): các loại rác đường, cành, lá cây, các loại rác ở công viên, ở bãi biển…
Các nhà máy xử lý ô nhiễm ( xử lý nước, xử lý chất thải rắn, xử lý chất thải công nghiệp, chất thải nông nghiệp…): tro, bùn, cặn…
Công nghiệp ( xây dựng, chế tạo, công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, lọc dầu, nhà máy hóa chất, nhà máy chế biến…): chất thải từ các quá trình công nghiệp, các chất thải không phải từ quá trình công nghiệp như thức ăn thừa, tro, bã, chất thải xây dựng, các chất thải đặc biệt, các chất thải độc hại…
Nông nghiệp ( thu hoạch đồng ruộng, vườn, nông trại… ): các loại phế phẩm nông nghiệp như rau, củ, quả, các loại phân bón, thuốc trừ sâu…
Các hoạt động xã hội của con người
Sản xuất của cải vật chất
Các hoạt động trong lĩnh vực phi sản xuất
Hoạt động sống và tái sản sinh con người
Các hoạt động đối ngại
Các hoạt động giao tiếp
Các hoạt động quản lý
Chất thải
Thể lỏng
Thể khí
Thể rắn
Bùn ga cống
Chất lỏng; dầu mỡ
Hơi độc hại Khí ga; CH4
Vỏ hộp, thuỷ tinh, nilon, bao bì, sắt thép, phế liệu…
Rác sinh hoạt
(vô cơ)
Sơ đồ 1: Các nguồn phát sinh chất thải và phân loại chất thải
(Nguồn: Xí nghiệp Môi trường Đô thị số 1)
Công tác quản lý chất thải
3.1. Sự cần thiết của công tác quản lý chất thải
Con người tồn tại và phát triển trong môi trường tự nhiên. Cùng với sinh vật, con người chịu tác động thường xuyên và bị chi phối bởi các điều kiện vật lý, khí hậu, kinh tế, xã hội… của môi trường xung quanh. Tất cả các thành phần trong môi trường tương tác với nhau tạo ra một thể thống nhất hoạt động và phát triển theo thời gian và trong một không gian nhất định, đó chính là môi trường sống. Ô nhiễm môi trường , đặc biệt là ô nhiễm chất thải đô thị chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm chất lượng môi trường sống.
Công tác quản lý và xử lý chất thải ngày nay đã trở thành một vấn đề kinh tế, xã hội rất phức tạp đòi hỏi phải được quản lý với mức độ và quy mô lớn cùng với trình độ kỹ thuật hiện đại để vừa đảm bảo làm trong sạch môi trường vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Khối lượng chất thải trong các đô thị ngày càng tăng lên, nếu không được xử lý tốt sẽ dẫn đến hàng loạt những hậu quả tiêu cực đối với con người và môi sinh.
Việc rác thải tồn đọng lâu ngày trong thành phố làm cho việc xử lý chúng hết sức khó khăn và phức tạp. Đội ngũ lao động của các đơn vị làm công tác vệ sinh đô thị phải tiến hành làm việc trong một môi trường độc hại, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ. Chất thải không được giải quyết tốt còn gây mất mỹ quan đô thị, làm giảm hình ảnh tươi đẹp của thành phố trong con mắt của khách du lịch. Hơn nữa, trong rác thải vẫn còn chứa nhiều thành phần có ích, nếu xử lý không tốt sẽ dẫn đến lãng phí to lớn về của cải, vật chất của xã hội.
Chất thải nếu không được xử lý kịp thời sẽ là một tai hoạ cực kỳ to lớn cho các khu dân cư đông đúc: nó tạo ra một môi trường ô nhiễm, gây tác hại trực tiếp đến sức khoẻ con người, tạo môi trường thuận lợi cho dịch bệnh phát triển, tạo ra một nếp sống kém văn minh cho con người, gây ùn tắc giao thông, gây mất mỹ quan đô thị.
Sơ đồ 2: Tác hại của việc xử lý chất thải không hợp lý
Tác hại của việc xử lý chất thải không hợp lý
Môi trường ô nhiễm
Ảnh hưởng sức khoẻ con người
Tạo môi trường dịch bệnh
Tạo nếp sống kém văn minh
Ùn tắc giao thông
Mất vẻ đẹp đô thị
Hạn chế kết quả sản xuất kinh doanh
Tác động xấu đến ngành du lịch và văn hoá
(Nguồn: Xí nghiệp Môi trường Đô thị số 1)
3.2. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý chất thải
3.2.1. Phòng ngừa và giảm thiểu chất thải từ nguồn phát sinh
Phòng ngừa là một nguyên tắc hàng đầu trong quản lý, bảo vệ môi trường nói chung và quản lý chất thải nói riêng. Phòng ngừa là ngăn chặn sự phát thải hoặc tránh tạo ra chất thải.
Giảm thiểu là việc để làm sao cho sự phát thải là ít nhất. Phòng ngừa được coi là phương thức tốt nhất để giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn phát sinh. Và khi sự phát thải bằng 0 thì đó là sự phòng ngừa tuyệt đối.
Xét về phương diện kinh tế, phòng ngừa và giảm thiểu chất thải trong quá trình sản xuất, kinh doanh sẽ giảm được chi phí của xã hội trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên, tài sản vật chất của quốc gia. Phòng ngừa và giảm thiểu chất thải mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho nền kinh tế quốc dân và cho từng cơ sở sản xuất kinh doanh.
Nguyên tắc phòng ngừa được đưa ra chính thức lần đầu tiên vào năm 1987 và được hoàn chỉnh đầy đủ vào năm 1990 trong tuyên bố Bergen của các Bộ trưởng Môi trường. Nội dung nguyên tắc: “Để đạt tới sự phát triển bền vững, các chính sách phải dựa vào nguyên tắc phòng ngừa. Các biện pháp về môi trường phải ngăn ngừa, phòng tránh và tấn công vào những nguyên nhân làm suy giảm môi trường. Ở đâu có sự đe doạ nghiêm trọng hay thiệt hại không thể sửa được thì sự thiếu hụt cơ sở khoa học không thể là nguyên nhân trì hoãn đề ra các biện pháp ngăn ngừa suy giảm môi trường”.
Tại Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển do Liên hợp quốc tổ chức ở thành phố Rio de Janairo (Braxin) năm 1992, trong tuyên bố RIO về Môi trường và Phát triển bền vững, nguyên tắc này một lần nữa được khẳng định lại: “Để bảo vệ môi trường, các quốc gia cần áp dụng rộng rãi phương pháp tiếp cận ngăn ngừa tuỳ theo khả năng từng quốc gia, ở chỗ nào có nguy cơ tác hại nghiêm trọng hay không thể sửa được thì không thể nêu lý do là thiếu sự chắc chắn khoa học để trì hoãn áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn sự thoái hoá môi trường” (nguyên tắc 15).
Phòng ngừa là quan điểm và nguyên tắc chủ đạo trong mọi chủ trương, chiến lược và chính sách quản lý môi trường và bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Theo định hướng phát triển bền vững của đất nước trong thế kỷ 21, các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đều có yêu cầu lấy nguyên tắc, phương châm phòng ngừa trong bảo vệ môi trường là chính trong tất cả các quyết định về phát triển. Một trong những nguyên tắc của bảo vệ môi trường là mọi hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là chính kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
Phòng ngừa
Giảm thiểu
Tái chế
Tái sử dụng
Thu hồi
Thải bỏ
Khâu quản lý chất thải
Trình độ quản lý
O
a
b
c
d
e
f
Hình 1: Thang bậc quản lý chất thải
(Nguồn: Giáo trình Kinh tế và Quản lý chất thải)
Khả năng và cơ hội áp dụng nguyên tắc phòng ngừa trong các hoạt động kinh tế là rất to lớn. Hình 1 cho thấy các khả năng và cơ hội giảm thiểu chất thải hiện hữu ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng cũng như xử lý chất thải ở công đoạn cuối của dòng vật chất trước khi trả lại (thải bỏ) chúng về môi trường.
Nguyên tắc phòng ngừa càng được áp dụng sớm và tốt trong chuỗi các công đoạn của dòng vật chất này thì ý nghĩa, hiệu quả kinh tế và môi trường càng lớn. Đó cũng là lý do chủ yếu của việc nhiều quốc gia trên thế giới, nhiều doanh nghiệp đang từ bỏ cách tiếp cận theo dọc đường ống sản xuất và nhấn vảo người tiêu dùng.
3.2.2. Tái sử dụng và tái chế chất thải
Tái sử dụng chất thải là việc sử dụng lại sản phẩm hoặc nguyên, nhiên, vật liệu mà không có sự thay đổi về hình dạng, tính chất vật lý. Tái sử dụng thông thường liên quan đến việc sử dụng cho cùng một mục đích hoặc mục đích tương tự, ví dụ như chai đựng rượu được sử dụng lại để đựng rượu hoặc nước lọc. Tái sử dụng cũng nằm trong mục đích phòng ngừa, giảm thiểu chất thải bằng cách kéo dài tuổi đời hữu ích của sản phẩm, nguyên nhiên vật liệu, giúp tiết kiệm các chi phí sản xuất (chế tạo hoặc khai thác) cũng như chi phí thải bỏ.
Tái chế chất thải là việc sử dụng một phần của sản phẩm được loại bỏ làm nguyên vật liệu để chế tạo ra sản phẩm mới. Tái chế chất thải liên quan tới việc tách nguyên vật liệu từ một sản phẩm được loại bỏ để dùng cho mục tiêu khác. Việc tái chế thường liên quan đến chất thải rắn.
3.2.3. Xử lý chất thải
Chất thải được xử lý bằng hai phương pháp chính, đó là: chôn lấp dưới lòng đất và thiêu đốt.
Chôn lấp chất thải:
Chôn lấp chất thải là loại bỏ chất thải bằng phương pháp chôn nén và phủ lấp bề mặt trong điều kiện được hoặc không được kiểm soát (M. Haight, Tài liệu giảng cho các khoá học đào tạo về Quản lý tổng hợp chất thải, Dự án kinh tế chất thải, 2004).
Chôn lấp là công nghệ cổ điển và thông dụng nhất đối với nhiều nơi trên thế giới. Chôn lấp được xem như là một giải pháp lựa chọn cuối cùng và về phương diện kinh tế là giải pháp ít tốn kém, nhưng về phương diện xã hội và môi trường lại thường đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Các bãi chôn lấp thường gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống xung quanh nó như gây ra mùi khó chịu, xuất hiện nhiều sâu bọ, côn trùng…, các bãi chôn lấp rác thải cũng là một tác nhân phát thải khí nhà kính. Ngay cả những bãi chôn lấp hiện đại nhất hiện nay cũng có những ảnh hưởng tiêu cực như vậy, mặc dù mức độ có ít hơn.
Thiêu đốt chất thải:
Thiêu đốt là một cách thức khác để xử lý thải bỏ chất thải, là quá trình tiêu huỷ cuối cùng, áp dụng cho các loại rác thải không có khả năng tái chế hay tái sử dụng.
Nhược điểm của phương pháp này là gây ô nhiễm môi trường (sinh ra các hạt rắn nhỏ, khó phân huỷ, khí thải mang tính axit, các chất nguy hại khác). Chi phí vận hành cho thiêu đốt khá cao, khó áp dụng được ở những nước đang phát triển, điều kiện kinh tế còn thấp.
Tuy nhiên phương pháp này cũng có những ưu điểm nổi bật như: giảm thể tích chất thải (đến 90%), giảm khối lượng chất thải (đến 70%), ổn định hoá chất thải (tro sau thiêu đốt trơ hơn), thu hồi được năng lượng để phục vụ cho các mục đích sản xuất khác, ô nhiễm có thể kiểm soát được (đối với khí thải trong thiêu đốt) và do đó cải thiện được điều kiện vệ sinh.
3.3. Nội dung của công tác quản lý chất thải
3.3.1. Thu gom
Thu gom chất thải là dồn chất thải từ các nguồn phát sinh khác nhau để đổ vào thùng trước khi đưa lên xe chuyển đến các nơi xử lý chất thải. Công đoạn chuyển chất thải đi đổ ở các bãi của những xe thu gom cũng được xem là một phần của quá trình thu gom chất thải.
Thời gian thu gom được tính bằng tổng thời gian của tất cả các yếu tố sau:
thời gian xe chạy từ bãi đậu đến khu vực thu gom chất thải
thời gian thu gom chất thải lên xe
thời gian chở chất thải từ nơi thu gom đến bãi đổ chất thải
thời gian đổ chất thải
thời gian không tham gia sản xuất ( tài xế nghỉ ngơi )
thời gian chạy từ bãi chôn lấp chất thải về bãi đậu xe
Chi phí thu gom = chi phí mua sắm phương tiện + chi phí xăng dầu + chi phí bảo trì phương tiện + chi phí nhân công.
3.3.2. Vận chuyển
Công tác vận chuyển là một khâu trong quá trình quản lý chất thải. Chất thải sau khi thu gom phải được vận chuyển ngay đến nơi xử lý. Việc tổ chức quản lý vận chuyển chất thải phụ thuộc vào những yếu tố sau:
hình thức và tổ chức hệ thống thu gom, vận chuyển
chất lượng hạ tầng cơ sở
chủng loại xe thô sơ và xe ôtô vận chuyển chất thải
kích thước của xe vận chuyển chất thải
số lượng công nhân trong một tổ công tác
số lượng xe và tổ công tác
thời gian làm việc trong ngày và trong tuần
cách thức thu gom và vận chuyển ( từng phần hay toàn phần )
tuyến đường dành cho xe vận chuyển
thời gian biểu cho xe vận chuyển
Mục tiêu của công tác vận chuyển chất thải là:
vận chuyển hết 100% lượng rác thu gom
rác không bị chờ quá lâu, rác được chở đi ngay sau khi thu gom
giảm thiểu chi phí vận chuyển
mỹ quan đường phố
3.3.3. Xử lý
a. Mục đích của việc xử lý chất thải:
- Thu hồi lại các chất như giấy, kim loại, thuỷ tinh, nhựa để làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất. Quá trình thu hồi nguyên liệu có thể thực hiện bằng tay hay dây chuyền cơ khí.
- Thu hồi năng lượng được tiến hành bằng phương pháp đốt rác.
- Giảm chất thải phải chôn lấp để tăng cường thời gian sử dụng các bãi chôn lấp rác và giảm ảnh hưởng đến môi trường. Chất thải chuyển đến bãi chôn lấp sau khi tuyển lựa sẽ có thể tích và khối lượng nhỏ hơn nhiều so với trước khi được tuyển lựa. Nếu rác qua công đoạn đốt thì phần chôn lấp còn lại chỉ là tro, có thể tích không đáng kể.
b. Các quá trình cơ bản của công nghệ xử lý chất thải bao gồm:
- Phân loại, là phân chia rác thải ra làm nhiều thành phần khác nhau để xử lý, chẳng hạn tách các chất hữu cơ để làm phân compos, tách các chất kim loại, plastic để tái chế…
- Giảm thiểu thể tích và khối lượng có thể được thực hiện bằng cách:
Giảm thể tích: nén, đốt
Giảm khối lượng rác cần phải chôn lấp: đốt
- Giảm kích thước được thực hiện bằng cách nghiền rác thành những hạt có kích thước nhỏ.
Các phương pháp xử lý
Xử lý chất thải nhằm thu hồi lại các chất như giấy, kim loại, thuỷ tinh, nhựa… để làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất. Quá trình thu hồi nguyên liệu có thể được thực hiện bằng tay hay bằng dây chuyền cơ khí. Sau đó những chất thải còn lại sẽ được xử bằng phương pháp chôn lấp hoặc thiêu đốt, và kết hợp với một số phương pháp xử lý chất thải mới.
Phương pháp chôn lấp:
Sự an toàn lâu dài của việc chôn lấp rác thải là một yếu tố quan trọng trong quản lý tổng hợp chất thải. Các chất thải tồn đọng là các phần rác không thể tái sinh, là những chất còn lại sau khi thu hồi vật chất thải ra trên mặt đất hay trên biển.
Theo kiểu chôn lấp rác, có thể phân ra thành các loại bãi sau: bãi rác truyền thống chôn lấp lẫn lộn rác thải đô thị, bãi chôn lấp rác đã nghiền, bãi chôn lấp chất thải rắn đặc biệt, các loại bãi chôn lấp chất thải khác. Phần lớn các bãi chôn lấp chất thải được thiết kế để chôn lấp chất thải đô thị hỗn hợp.
Trong vận hành bãi chôn lấp, sau khi hoàn tất một lớp rác, người ta trải lên một lớp phủ trung gian, thường là dùng đất làm lớp phủ. Trong một số trường hợp, để tăng hiệu quả chôn lấp rác, người ta sử dụng rác đã phân huỷ của bãi rác cũ làm lớp che phủ trung gian của bãi chôn lấp mới. Sau khi toàn bộ rác thải ở bãi rác cũ đã lấy hết, người ta tiến hành lắp đặt các cơ sở kỹ thuật để đưa nó vào hoạt động trở lại. Bãi chôn lấp hợp vệ sinh là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống quản lý tổng hợp chất thải, nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hạch toán giá thành xử lý rác.
Phương pháp đốt:
Phương pháp đốt nhằm thu hồi năng lượng của chất thải, đồng thời giảm thiểu được khối lượng và thể tích của chất thải đem đi chôn lấp. Chất thải chuyển đến bãi chôn lấp sau khi tuyển lựa sẽ có thể tích và khối lượng nhỏ hơn nhiều so với trước khi đuợc tuyển lựa. Nếu rác qua công đoạn đốt thì phần chôn lấp còn lại chỉ là tro, có thể tích không đáng kể.
Xử lý rác bằng phương pháp đốt ngoài lợi ích của việc thu hồi năng lượng, nó còn là phương pháp hiệu quả để xử lý rác thải bệnh viện và một số rác thải nguy hiểm khác. Khi đốt, rác thải dạng rắn biến thành dạng khí, phần còn lại phải chôn lấp là tro với thể tích rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 10 – 20% thể tích rác ban đầu.
Trong phương pháp đốt, điều cần đặc biệt quan tâm là ô nhiễm môi trường không khí do khí thải của lò đốt gây ra. Quá trình cháy của chất thải sẽ phát sinh ra những chất ô nhiễm với môi trường không khí như CO, NOX, SOX, dioxine, bồ hóng, bụi…Vì vậy lò đốt rác phải kèm theo hệ thống xử lý khí thải một cách nghiêm ngặt bao gồm hệ thống lọc hạt rắn, hệ thống xử lý các chất thải dạng khí. Tro của rác còn lại sau khi đốt cũng chứa những chất độc nguy hiểm (đặc biệt là các kim loại nặng) nên việc chôn lấp nó cũng phải được thực hiện ở những bãi rác đặc biệt. Tất cả những biện pháp xử lý này rất tốn kém làm hạn chế việc xử lý rác bằng phương pháp đốt.
Việc xử lý rác bằng phương pháp đốt cần phải được đi kèm với các biện pháp sau đây: kiểm soát ô nhiễm không khí (thiết bị xử lý khí thải, bộ lắng bụi tích điện, ống khói…); bãi đặc biệt chôn lấp tro, hệ thống phòng cháy, hệ thống thông gió, biện pháp bảo hộ lao động cho công nhân.
II.QUẢN LÝ CHẤT THẢI XÂY DỰNG
Khái niệm chất thải xây dựng
Chất thải xây dựng là các loại chất thải được tạo ra trong hoạt động xây dựng như đất, cát, gạch vụn, trạt vữa… Chất thải xây dựng chủ yếu ở dạng rắn và cũng được coi như một loại chất thải đô thị cần được xử lý kịp thời để tránh nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí thành phố.
Đặc điểm và thành phần của chất thải xây dựng
Thành phần của chất thải xây dựng được khái quát thông qua bảng bỉểu sau:
Bảng 1: Thành phần chất thải xây dựng
TT
Thành phần
Tỷ lệ
1
Đất cát
43%
2
Gạch vỡ, ngói vỡ, gốm
17%
3
Trạt vữa
13%
4
Bê tông vỡ
14%
5
Gỗ, bao bì cát tông
5%
6
Sắt thép
3%
7
Thuỷ tinh, kính
1%
8
Khác
4%
Tổng
100%
(Nguồn:Trung tâm tư vấn kỹ thuật môi trường)
Hình 2: Thành phần chất thải xây dựng
Có thể thấy rằng đặc điểm chủ yếu của chất thải xây dựng là ở dạng rắn, phát sinh trong hoạt động xây dựng với khối lượng lớn, gây ô nhiễm bụi là chủ yếu. Thành phần chính của chất thải xây dựng là đất thải (chiếm 43%), sau đó là các loại khác như bê tông, gỗ, bao bì, sắt thép… Chất thải xây dựng có khả năng tái sử dụng cao, nếu có những biện pháp quản lý tốt sẽ tiết kiệm được một khoản kinh phí đáng kể trong việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải xây dựng.
Ảnh hưởng của chất thải xây dựng đến môi trường đô thị
Ảnh hưởng rõ ràng và dễ nhận thấy nhất là ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt là ô nhiễm bụi tại các khu vực có mật độ xây dựng cao.
Trong những năm qua đã có rất nhiều đề tài tiến hành quan trắc hiện trạng chất lượng môi trường không khí xung quanh Hà Nội và sử dụng các quy định của TCVN 5937-1995 và TCVN 5938-1995 để đánh giá mức độ ô nhiễm không khí Hà Nội. Dưới đây đưa ra kết quả nghiên cứu của một số đề tài điển hình, trong đó chúng ta chỉ quan tâm đến các thông số bụi.
Bảng 2: Kết quả quan trắc về nồng độ bụi của các quận/huyện Hà Nội
TT
QUẬN HUYỆN
TPS (mg/m3)
1
Hoàn Kiếm
0,52
2
Hai Bà Trưng
0,67
3
Đống Đa
0,8
4
Ba Đình
0,55
5
Tây Hồ
0,78
6
Hoàng Mai
0,72
7
Từ Liêm
0,59
8
Long Biên
0,80
TCVN
0,2
(Nguồn: Trung tâm tư vấn kỹ thuật môi trường - 2004)
Bảng 3: Nồng độ bụi tại một số tuyến phố Hà Nội
TUYẾN PHỐ
TPS(mg/m3)
TRUNG BÌNH 8H
MAX
Ngã Tư Sở
0,57
0,61
Ngã Tư Vọng
0,78
0,79
Ngã Tư Nam Thăng Long – Tây Hồ
1,28
1,35
Trần Khát Chân
0,661
0,685
Hoàng Quốc Việt
0,6
0,62
(Nguồn: Trung tâm tư vấn kỹ thuật môi trường - 2004)
Xét các giá trị đo đạc nồng độ về bụi ở 2 bảng trên, ta thấy ô nhiễm không khí do bụi là rất trầm trọng vượt trị số tiêu chuẩn cho phép gấp nhiều lần, có khu vực từ 3-4 lần, đặc biệt là các vùng có các công trình xây dựng trọng điểm, các khu công nghiệp cũ, các tuyến phố có mật độ phương tiện vận chuyển lớn.
Ô nhiễm bụi gây ra nhiều tác động xấu đến sức khoẻ của người dân, chúng gây ra các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, viêm da…Những khu vực có mật độ xây dựng cao luôn ở trong tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, không những ảnh hưởng đến sức khoẻ con người mà còn gây mất mỹ quan đô thị. Các chất thải xây dựng không được thu gom, để bừa bãi ra lòng đường, hè phố tạo nên một hình ảnh không đẹp mắt cho khách du lịch. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến ngành Du lịch – Văn hoá và trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nội dung công tác quản lý chất thải xây dựng
Nhìn chung, công tác quản lý chất thải xây dựng cũng gồm có 3 bước như công tác quản lý chất thải đô thị, đó là: thu gom, vận chuyển, xử lý. Tuy nhiên do đặc điểm của chất thải xây dựng là có khối lượng lớn, chiếm nhiều diện tích, lại phân bố ở mọi nơi trong thành phố, phân bố không đều, tập trung ở những khu vực có mật độ xây dựng lớn nên công tác quản lý chất thải xây dựng gặp rất nhiều vấn đề khó khăn.
Về hoạt động thu gom: do chất thải xây dựng phân bố ở khắp mọi nơi trong thành phố, lại phân bố không đều nên công tác thu gom gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung chất thải xây dựng hiện nay vẫn được thu gom chung với các loại chất thải đô thị khác. Do khối lượng lớn và chiếm nhiều diện tích trên xe đẩy tay nên công tác thu gom chất thải xây dựng trên địa bàn Hà Nội vẫn chưa đạt hiệu quả cao.
Về công tác vận chuyển: công tác vận chuyển chất thải hiện nay vẫn được tiến hành bằng xe đẩy tay thô sơ, tập kết về các điểm cẩu rác rồi từ đó được các xe cơ giới chuyên chở đến khu chôn lấp, xử lý chất thải chung với các loại chất thải khác. Nhìn chung, do chất thải xây dựng chủ yếu là đất thải, các loại gạch, ngói, bêtông, ximăng, sắt thép… nên cần có loại xe chuyên chở riêng để tránh cồng kềnh, chiếm nhiều thể tích trên xe, giảm năng suất vận chuyển các loại rác khác.
Về công tác xử lý: thành phần của chất thải xây dựng chủ yếu là các chất vô cơ nên không thể dùng phương pháp ủ để chế biến thành phân compos như các loại chất thải hữu cơ khác. Phương pháp chủ yếu là chôn lấp hợp vệ sinh cùng các loại rác thải sinh hoạt. Tuy nhiên, do chất thải xây dựng có nhiều thành phần có thể tái chế, tái sử dụng được như: sắt thép, gạch, ngói, bao bì đựng ximăng, giấy… nên cần chú ý phân loại ngay từ nguồn để có thể tiết kiệm được một khoản chi phí cho công tác chôn lấp.
Tóm lại, để quản lý chất thải xây dựng có hiệu quả, chúng ta cần quan tâm chú trọng vào các hoạt động sau:
Phải thu gom và vận chuyển hết chất thải xây dựng. Đây là yêu cầu đầu tiên, cơ bản của công tác quản lý chất thải xây dựng nhưng hiện nay đang còn là một vấn đề khó khăn, cần cố gắng để khắc phục.
Phải đảm bảo việc thu gom và xử lý có hiệu quả theo nguồn kinh phí nhỏ nhất, nhưng lại thu được kết quả cao nhất. Bảo đảm sức khoẻ cho đội ngũ những người lao động tham gia trực tiếp vào việc thu gom, vận chuyển chất thải xây dựng. Công tác quản lý, xử lý chất thải xây dựng phải phù hợp với khả năng kinh phí của Thành phố và Nhà nước.
Đưa được các công nghệ và kỹ thuật, các trang thiết bị xử lý chất thải xây dựng tiên tiến ở các nước vào sử dụng trong nước. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và lao động có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và lòng yêu nghề, có trách nhiệm với vấn đề môi trường của đất nước.
Phù hợp với cơ chế quản lý chung của Nhà nước theo hướng chấp nhận mở cửa và cạnh tranh với nhiều thành phần kinh tế.
Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về quản lý chất thải xây dựng
5.1. Xử lý chất thải ở Nhật Bản
Do sự chật hẹp về lãnh thổ nên Nhật Bản hiện đang sử dụng phương pháp đốt là chủ yếu để loại bỏ chất thải. Đốt rác là giai đoạn xử lý cuối cùng được áp dụng cho một số loại rác nhất định không thể xử lý bằng biện pháp tái chế, tái sử dụng hoặc phân huỷ an toàn tại bãi chôn lấp. Đây là một giai đoạn ôxy hoá nhiệt độ cao với sự có mặt của ôxy trong không khí, trong đó chất thải độc hại được chuyển hoá thành khí và các chất thải rắn không cháy. Các chất thải khí được làm sạch hoặc không được làm sạch thoát ra ngoài không khí, còn chất thải rắn được chôn lấp.
Nhật Bản sử dụng phương pháp đốt cho các trường hợp sau:
Rác độc hại về mặt sinh học
Rác không phân huỷ về mặt sinh học
Chất thải có thể bốc hơi và do đó dễ phân tán
Chất thải có thể đốt cháy với nhiệt độ dưới 400 C
Chất thải không thể xử lý an toàn tại bãi chôn lấp
Chất thải chứa halogen, chì, thuỷ ngân, cadmium, zinc, citơ, phốt pho, sulfur.
Nếu các hoá chất độc hại là chất hữu cơ ( ví dụ các chất có chứa cacbon, hydro và oxy ) có thể xử lý bằng đốt. Các loại chất thải có thể đốt bao gồm:
Chất thải dung môi
Dầu thải, nhũ tương dầu và hỗn hợp dầu
Nhựa, cao su và mủ cao su
Rác bệnh viện
Rác dược phẩm
Một số loại chất thải xây dựng
Nhựa đường axit và đất sét đã sử dụng
Chất thải phênon
Mỡ, sáp
Rác hữu cơ chứa halogen, sulfur, phôt pho…
Chất thải bị nhiễm khuẩn bởi các chất độc hại
Quá trình đốt sinh ra các sản phẩm khí chủ yếu là: Cacbon dioxide, nước, khí thừa, axit halogen, nitrogen… còn các sản phẩm của buồng đốt bao gồm: tro, kim loại, oxide và các chất không cháy được chôn vào bãi chôn lấp.
Ngoài ra, lượng chất thải sinh hoạt ở Nhật Bản được thiêu đốt chiếm 70% tổng lượng chất thải phát sinh.* Nguồn: Báo cáo Diễn biến Môi trường Việt Nam 2004
Các lò đốt chất thải nguy hại được phân loại là lò đốt cơ học và lò tầng sôi. Cả nước Nhật có hơn 1.915 xí nghiệp đốt rác hoạt động, công suất của xí nghiệp lớn nhất lên tới 1.980 tấn/ngày đêm. Phần lớn các xí nghiệp này đều có những lò đốt rác nhỏ hoạt động theo chu kỳ, bên cạnh các lò đó có lò đốt lớn hoạt động liên tục và dùng nhiệt năng của các lò đó để cung cấp năng lượng. Tại nhiều xí nghiệp, những chất thải của đô thị được đốt sau khi loại bỏ trước phần lớn những vật liệu không cháy.
Hiện nay Nhật Bản là một trong những nước có số lượng chất thải được xử lý lớn nhất trên thế giới. Ở đây tổ chức phân loại và tái chế chất thải sinh hoạt cũng đã đạt mức hiệu quả kinh tế lớn nhất trên thế giới.
5.2. Xử lý chất thải ở Hà Lan
Hà Lan là một nước không lớn, nhưng những kết quả hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của nước này cũng được dư luận thế giới chú ý.
Một trong các hoạt động của Hà Lan theo hướng bảo vệ môi trường là xử lý chất thải. Việc xử lý chất thải ở Hà Lan có sự tham gia của chính quyền, xã hội, cũng như các cơ quan chuyên n._.gành bởi vì khối lượng công việc rất lớn. Chất thải ở đất nước này được xử lý bằng nhiều cách, một phần các chất thải được tiêu huỷ, một phần khác được đưa vào tái chế.
Hà Lan đã đạt được bước chuyển biến lớn trong việc mở rộng chương trình giáo dục trong trường học, trong các xí nghiệp công nghiệp, trong các hoạt động xây dựng và cả những người nội trợ về sự cần thiết phải đảm bảo cho môi trường sống được trong sạch. Nhờ đó, chất thải rắn đều được chứa bằng túi nilong và được phân loại ngay tại nguồn. Do được giáo dục tốt nên người dân của đất nước Hà Lan có ý thức rất cao trong việc phải phân loại chất thải ngay tại nguồn, nhờ đó các loại chất thải được phân loại trước khi chúng được thu gom. Đây là điểm mà Việt Nam chúng ta cần phải lưu ý để học hỏi và đưa vào ứng dụng thực tế.
Ở nhiều nơi, các chất thải được phân loại thành giấy loại, kính vỡ, các chất thải khác được để riêng từng loại. Các chất thải có thể tái chế được như: giấy, chai lọ, vỏ đồ hộp, một số chất thải xây dựng như gạch, ngói… được đưa về nhà máy tái chế. Dầu cặn, sơn thừa được xử lý và tái chế sử dụng. Đối với các chất thải độc hại như các loại dược phẩm, sơn, pin, ắc quy… không để lẫn với các loại chất thải khác.
Hà Lan đã xây dựng một nhà máy xử lý chất thải để bảo vệ môi trường. Tại đây sẽ chôn lấp khối lượng lớn các loại chất thải độc hại ( những chất trước đây thường được huỷ ngoài biển ) sau khi chúng đã được xử lý bằng các phương pháp cần thiết. Chất thải như chất thải dung môi, cao su và mủ cao su, rác bệnh viện, rác dược phẩm, chất thải phênon, mỡ, sáp, rác hữu cơ chứa halogen, sulfur, phốt pho, chất thải rắn bị nhiễm khuẩn bởi các hoá chất độc hại, một số sản phẩm thải ra từ hoạt động xây dựng… được đưa về các nhà máy đốt chất thải đang áp dụng công nghệ hiện đại, đảm bảo được các tiêu chuẩn về môi trường. Sau đó tổ chức việc sản xuất phân ủ từ chất thải với kỹ thuật hiện đại nhất hoặc ứng dụng những quy trình đặc biệt nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu mới, thuận lợi cho công việc chế biến.
Việc xử lý các chất thải ở Hà Lan đã làm xuất hiện một ngành kinh doanh mới, đòi hỏi công nghệ tiên tiến và vốn đầu tư lớn. Việc xử lý các chất thải ở Hà Lan tập trung ở 5 khu vực trong toàn quốc, thường do các xí nghiệp tư nhân với sự tham gia của nhiều công ty tiến hành dưới sự giám sát của cơ quan chuyên môn.
5.3. Xử lý chất thải ở Singapore
Singapore nổi tiếng là một quốc đảo du lịch, với những đường phố được coi là sạch nhất trên thế giới. Ngoài ý thức bảo vệ môi trường của người dân rất cao, công tác quản lý chất thải cũng rất được chú trọng.
Ở Singapore có 4 nhà máy thiêu huỷ chất thải, với công suất 2500 tấn/ngày, giá thành xây dựng nhà máy là 340 triệu USD. Nhiệt lượng trong quá trình thiêu huỷ chất thải được thu lại để chạy máy phát điện. Công nghệ thiêu huỷ chất thải đang áp dụng là công nghệ hiện đại, đảm bảo được các tiêu chuẩn về môi trường.
Ngoài các biện pháp xử lý về mặt kỹ thuật, Luật Bảo vệ Môi trường của Singapore còn rất nghiêm khắc. Các công trình xây dựng nếu để xe ô tô vận chuyển đất cát làm bẩn đường phố sẽ bị phạt 20.000 đô Sing ( tương đương với 14.000 USD ). Các công trình xây dựng đều phải được che chắn kín để chống bụi, nếu bị vi phạm sẽ bị xử phạt từ 20.000 đô Sing trở lên, tuỳ theo từng mức độ vị phạm.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI XÂY DỰNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
ÁP LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI LÊN MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ Ở HÀ NỘI
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội trong thời gian qua
1.1. Khái quát chung
Hà Nội là thủ đô của đất nước, là trung tâm kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị, an ninh quốc phòng của Việt Nam. Hà Nội nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng sông Hồng, trong phạm vi từ 20053’ đến 21023’ vĩ độ Bắc, và từ 105044’ đến 106002’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp Thái Nguyên, phía Đông giáp Bắc Ninh, Hưng Yên, phía Tây giáp Vĩnh Phúc, giáp Hà Tây ở phía Nam và Tây Nam. Hiện nay, Hà Nội có diện tích 920,97km2 , với số dân là 3.145.300 người (Theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2005), mật độ dân số trung bình là 3415 người/km2 ( trong đó nội thành là 1879 người/km2 và ngoại thành là 1533 người/km2 ). Trước đây Hà Nội có 7 Quận ( bao gồm: Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Ba Đình, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Tây Hồ ) và 5 Huyện ( bao gồm: Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì, Đông Anh và Sóc Sơn ), gồm 228 phường, xã, thị trấn. Đến ngày 6/11/2003, theo Nghị định số 132/NĐ-CP của Chính Phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập các Quận Long Biên, Hoàng Mai và thành lập các phường trực thuộc 2 quận trên, Hà Nội đã tách ra thêm 2 quận mới là Hoàng Mai và Long Biên thành lên 14 quận, huyện trong toàn thành phố.
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của Hà Nội
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ thành phố Hà Nội tháng 12 năm 2000 khi nhận định về tình hình phát triển kinh tế xã hội Thủ đô trong 10 năm từ 1990 đến 2000 đã nhận định:
Hà Nội là trung tâm kinh tế- chính trị- văn hoá lớn của cả nước, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bộ mặt của thủ đô Hà Nội hiện nay đã có nhiều thay đổi, tiến bộ rõ nét qua từng năm. Nền kinh tế đã chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, coi trọng xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế Hà Nội trong 10 năm qua( 1990 – 2000) đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 11,6%, gấp 1,55 lần so với cả nước. GDP bình quân đầu người tăng từ 446 USD năm 1990 lên 990 USD năm 2000. Năm 2005 GDP của Hà Nội đạt 210.937 USD và năm 2006 đạt 252.940 USD (Theo số liệu của Quỹ tiền tệ thế giới).
Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển biến quan trọng theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tỷ trọng của công nghiệp, xây dựng trong GDP đã tăng 12%, trong khi đó tuy giá trị tuyệt đối của ngành nông lâm nghiệp và dịch vụ tăng song tỷ trọng trong GDP lại giảm tương ứng là 4,3% và 7,7% (năm 2004).
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở một số lĩnh vực đã phát triển, vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã tăng 11 lần. Xây dựng kết cấu hạ tầng và quản lý đô thị có những mặt tiến bộ. Văn hoá – xã hội có nhiều lĩnh vực đạt thành tích tốt. Đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của đại bộ phận các tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt. Chính trị ổn định, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, Hà Nội vẫn đứng trước những khó khăn tồn tại chủ yếu như nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, sức cạnh tranh chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế của thủ đô. Vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc và tệ nạn xã hội chậm được khắc phục, cải cách hành chính còn chậm và thiếu đồng bộ, hạ tầng đô thị tuy được chú ý phát triển nhưng còn thấp so với yêu cầu phát triển của thành phố. Công tác xây dựng và quản lý đô thị còn nhiều yếu kém.
Một số định hướng phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2001 – 2010:
Tổng sản phẩm xã hội GDP tăng 2,7 lần.
Thu nhập bình quân của nhân dân tăng 2 lần.
Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 10 – 11%.
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân đạt 14 – 15%/năm, dịch vụ đạt 10 – 10,5%/năm, nông nghiệp đạt 2,5 – 3%/năm, xuất khẩu đạt 16 – 18%/năm.
Để thực hiện mục tiêu đề ra, trong 3 năm từ 2001 đến 2003, Hà Nội đã đạt được một số thành tích đáng khích lệ. Theo Báo cáo giữa nhiệm kỳ XIII của Đảng bộ thành phố Hà Nội, tính trung bình mỗi năm Hà Nội đóng góp 7,8% vào GDP cả nước; 9,4% vào giá trị sản xuất công nghiệp, 10% giá trị kim ngạch xuất khẩu; 9,6% tổng mức bán lẻ hàng hoá và 11,7% vốn đầu tư xã hội… khẳng định vị trí đầu tàu của Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
1.3. Tình hình cơ sở hạ tầng của Hà Nội
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, Hà Nội đang trong quá trình đô thị hoá nhanh, với quy mô lớn, hạ tầng kỹ thuật được tập trung đầu tư và tương đối hiện đại. Nhiều công trình giao thông quan trọng đã được hoàn thành góp phần giảm ùn tắc giao thông, tỷ lệ đường nội thành được rải thảm lên tới 92%, mạng lưới vận tải hành khách công cộng đáp ứng được 4,3% nhu cầu đi lại của nhân dân. Tổng công suất cấp nước của thành phố đạt 420.000m3/ngày đêm, số hộ dân được sử dụng nước sạch ở đô thị trên 80%, tình trạng ngập úng tại một số tuyến đường trong khu vực nội thành đã được khắc phục, tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch giảm. Tỷ lệ cây xanh trên đầu người đạt 4m2/người, tỷ lệ chiếu sáng bình quân đạt 90% …
Tuy nhiên, lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị của Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp và đáp ứng được nhu cầu phát triển. Tốc độ đô thị hoá quá nhanh dẫn đến tình trạng quá tải: mạng lưới giao thông chưa đồng bộ, tỷ lệ giao thông còn thấp ( mới ở mức khoảng 8%, trong khi tỷ lệ này thường là 25% ở các thành phố phát triển trên thế giới ), giao thông công cộng kém phát triển, ùn tắc giao thông ngày càng nghiêm trọng, úng ngập và ô nhiễm môi trường vẫn chưa được giải quyết triệt để, nhiều khu vực trong thành phố còn thiếu nước sạch. Cơ sở hạ tầng như trường học, bệnh viện, trung tâm văn hoá, thể dục thể thao, trung tâm dịch vụ… chưa từng được xây dựng, trang bị bổ sung đầy đủ để đáp ứng kịp thời công cuộc đổi mới.
Vấn đề nhà ở của dân cư, nhất là trong nội thành còn nhiều khó khăn. Bình quân diện tích nhà ở theo đầu người còn thấp, khoảng 30% số dân có mức bình quân diện tích nhà ở dưới 3m2/người. Ngoài ra còn hàng chục vạn hộ có mức thu nhập thấp không có khả năng tự tạo lập được chỗ ở. Phần lớn các hộ dân không có giấy tờ hợp pháp về nhà đất. Chế độ bao cấp về nhà ở của Nhà nước đã được xoá bỏ trong khi nhu cầu cải thiện về nhà ở là rất lớn. Nhà nước và Thành phố đã có chủ trương khuyến khích nhân dân tham gia phát triển nhà ở. Kết quả trong 10 năm từ 1991 đến 2000, hơn 2,7 triệu m2 nhà ở đã được xây dựng mới, đưa quỹ nhà nội thành lên 7,5 triệu m2, tăng diện tích nhà ở bình quân đầu người lên khoảng 6 m2/người năm 2000. Từ 2001 đến 2003 đã có gần 3 triệu m2 nhà ở được xây dựng. Thành phố đang tiến hành xây dựng các khu dân cư đô thị mới và cải tạo các khu nhà ở cũ, phát triển nhanh khu đô thị tại Bắc sông Hồng theo hướng khai thác quỹ đất ven sông Hồng để phát triển đô thị hiện đại – sinh thái – cao tầng. Trong 3 năm gần đây đã phát triển 52 khu đô thị mới ra phía Nam, phía Tây thành phố, từng bước tạo ra diện mạo mới hiện đại cho thủ đô. Dự kiến đến năm 2010 sẽ đạt tiêu chuẩn diện tích nhà ở bình quân 8,5m2/người, góp phần cải thiện điều kiện sống của người dân Hà Nội.
Ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế - xã hội lên môi trường đô thị ở Hà Nội
2.1. Ảnh hưởng đến môi trường đất
Trong những năm gần đây, với sự phát triển kinh tế nhanh chóng, các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra mạnh mẽ. Lượng chất thải phát sinh cũng gia tăng nhanh chóng. Thành phần chất thải cũng rất phức tạp, chứa nhiều chất nguy hiểm độc hại. Bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải hoặc bùn lắng từ các cửa cống cũng chứa nhiều các kim loại nặng và hợp chất vô cơ, ngấm xuống đất gây ô nhiễm môi trường đất.
Việc chôn lấp các chất thải độc hại không qua kiểm soát còn có thể gây ra những tai hoạ như tạo ra các chất khác có tính độc cao hơn, có nguy cơ cháy nổ, ô nhiễm cả một vùng đất rộng lớn. Có thể thấy rằng các chất thải nguy hại đã góp phần làm ô nhiễm môi trường đất rõ rệt nhất, làm thoái hoá đất, giảm năng suất cây trồng, nhiều nơi khu vực nội thành hoa màu bị chết do ô nhiễm đất quá nặng…
2.2. Ảnh hưởng đến môi trường nước
Hiện nay, tổng lượng nước thải sinh hoạt của cán bộ nhân dân khu vực nội thành Hà Nội khoảng gần 400.000 m3/ngày đêm (Báo cáo tổng quan diễn biến môi trường thành phố Hà Nội từ năm 1995 đến nay). Toàn bộ lượng nước thải này thoát qua hệ thống cống thoát và 4 sông tiêu chính của Thành phố (Tô Lịch, Lừ, Sét, Kim Ngưu).
Nước thải sinh hoạt phần lớn qua xử lý sơ bộ tại các bể tự hoại trước khi vào các tuyến cống chung hoặc kênh mương, ao, hồ. Tuy nhiên các bể tự hoại làm việc kém hiệu quả do xây dựng không đúng quy cách, không hút phân cặn thường xuyên nên hàm lượng các chất bẩn trong nước thải cao, gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng nước ở các cống ngầm, kênh mương và sông hồ. Nước tại các cống ngầm và kênh mương thoát nước hiện nay đang bị ô nhiễm nặng, nước ở các sông tiêu thoát nước đều bị nhiễm bẩn hữu cơ và chất thải lơ lửng, đặc biệt là vào mùa khô.
Đối với lượng nước ngầm: trung bình ở Hà Nội lượng nước ngầm khai thác hàng ngày từ 600.000 đến 650.000 m3 và theo dự báo đến năm 2010 nhu cầu sử dụng nước của thành phố sẽ tiếp cận với giới hạn trữ lượng nước ngầm có thể khai thác an toàn (700.000 m3/ngày đêm) và vấn đề tìm nguồn nước mặt để xử lý, cung cấp đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt của Thành phố vẫn ngày một gia tăng đang là một vấn đề bức xúc. Giải quyết được vấn đề này cho phép Thành phố giảm dần tỷ trọng nước ngầm, thay bằng nguồn nước mặt nhằm đảm bảo khai thác tài nguyên nước bền vững phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
Về chất lượng nước ngầm của Hà Nội đã được nhiều đề tài, dự án tiến hành khảo sát điều tra. Các kết quả điều tra, nghiên cứu gần đây nhất do Sở KHCN&MT cùng Trường ĐH Mỏ - Địa chất tiến hành 1996-1997 và cùng nhóm chuyên gia nghiên cứu JICA (Nhật Bản) tiến hành 1998-1999 đã thống nhất đánh giá:
- Nước dưới đất trên phạm vi Hà Nội vốn là nước sạch, nhưng do khai thác và sử dụng bừa bãi nên một số nơi đã có biểu hiện suy thoái cả về chất và lượng. Đặc biệt sự suy thoái về chất biểu hiện ngày càng rõ rệt (rõ nhất là NH4 và một số vi nguyên tố, đặc biệt là các vi sinh vật).
- Đối với tầng chứa nước Pleistoxen đang khai thác để cung cấp nước sạch cho thành phố, nồng độ các hợp chất Nitơ và Fe trong nước của một số giếng khai thác như Pháp Vân, Tương Mai, Hạ Đình có xu hướng tăng theo thời gian khai thác nhưng rất chậm.
- Cả hai tầng chứa nước đều có hàm lượng Fe và Mn khá cao, vượt giới hạn cho phép. Khu vực Thanh Trì, Gia Lâm hàm lượng Fe và NH4 thường là rất cao.
- Sự xâm nhập của nước bẩn do nước thải, chất thải và phân bón, chủ yếu mới xảy ra đối với tầng chứa nước thứ nhất (tầng nông) và xảy ra mạnh nhất ở khu vực phía Nam thành phố (huyện Thanh Trì).
2.3. Ảnh hưởng đến môi trường không khí
Môi trường không khí ở Hà Nội chịu tác động chủ yếu của hoạt động sản xuất công nghiệp, hoạt động giao thông vận tải, hoạt động xây dựng và sinh hoạt cộng đồng.
Kết quả thực hiện chương trình quan trắc môi trường không khí do Sở KHCN&MT tiến hành từ năm 1996 đến nay cho thấy: nồng độ bụi lơ lửng tại hầu hết các khu vực đều có xu hướng gia tăng liên tục từ năm 1995 đến cuối 2004, hầu hết đều vượt quá chỉ tiêu cho phép từ 2,5 đến 4,5 lần. Tại khu vực trung tâm nội thành, chất lượng môi trường không khí có biểu hiện suy thoái, đặc biệt là ở các khu vực tập trung đông dân cư. Nồng độ bụi có biểu hiện tăng rõ rệt và vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Nồng độ các khí thải độc hại tuy vẫn ở mức dưới giới hạn cho phép, song có biểu hiện tăng dần. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động giao thông và hoạt động xây dựng.
Có thể đánh giá chất lượng môi trường không khí ở Hà Nội nói chung kể cả các khu công nghiệp, các nút giao thông, các công trình xây dựng, tuy có nồng độ bụi và tiếng ồn vượt quá giới hạn cho phép, nhưng vẫn còn ở mức độ ô nhiễm nhẹ nếu so với thành phố Hồ Chí Minh.
Công tác quản lý chất thải ở Hà Nội trong thời gian qua
3.1. Cơ cấu tổ chức quản lý
Quản lý chất thải là vấn đề then chốt trong việc đảm bảo môi trường sống cho con người mà thành phố Hà Nội phải có kế hoạch tổng thể trong việc quản lý chất thải mới có thể xử lý kịp thời và hiệu quả.
Bộ Tài nguyên Môi trường có trách nhiệm vạch chiến lược, cải thiện môi trường chung cho cả nước, tư vấn cho Nhà nước trong việc đề xuất luật lệ, chính sách quản lý môi trường quốc gia. Bộ Xây dựng hướng dẫn chiến lược quản lý và xây dựng đô thị, quản lý chất thải.
Uỷ ban nhân dân thành phố chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các quận huyện, Sở Tài nguyên Môi trường và Sở Giao thông công chính thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường đô thị, chấp hành nghiêm chỉnh chiến lược chung và luật pháp chung về bảo vệ môi trường của Nhà nước thông qua việc xây dựng các quy tắc, quy chế cụ thể trong việc bảo vệ môi trường của thành phố.
Công ty môi trường đô thị là cơ quan trực tiếp đảm nhận nhiệm vụ xử lý chất thải bảo đảm vệ sinh môi trường của thành phố Hà Nội được Sở Giao thông công chính giao.
Sơ đồ 3: Hệ thống quản lý chất thải
Chính phủ
Bộ Xây dựng
UBND Thành phố
Bộ Tài nguyên & môi trường
Sở GTCC
Sở Tài nguyên & môi trường
UBND các cấp dưới
Công ty Môi trường đô thị
Chất thải
(Nguồn: Xí nghiệp Môi trường Đô thị số 1-Công ty Môi trường Đô thị)
Thành phố Hà Nội hiện nay có 4 đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ quản lý chất thải gồm: Công ty môi trường đô thị Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích có nhiệm vụ thu gom xử lý rác thải trên địa bàn các quận, huyện; Xí nghiệp chế biến phế thải thành phân hữu cơ; Xí nghiệp đốt rác bệnh viện; Xí nghiệp xử lý chất thải công nghiệp và một số đơn vị chuyên môn về bơm hút phân, thu dọn đất, tưới rửa đường… Ngoài ra còn có các đơn vị như Công ty cổ phần dịch vụ môi trường Thăng Long, Hợp tác xã Thành Công, Công ty cổ phần môi trường xanh và các xí nghiệp môi trường đô thị tại các huyện ngoại thành, các đơn vị này chỉ tham gia vào công tác thu gom và vận chuyển rác thải chứ chưa có biện pháp xử lý.
3.2. Về hệ thống pháp luật
Luật Bảo vệ Môi trường nước ta được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ tháng 7/2006. Nội dung quản lý chất thải được phân cấp theo các nội dung quản lý môi trường nói chung. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình mà có trách nhiệm thực hiện việc quản lý chất thải.
Để thi hành chỉ thị số 199/TTG ngày 3/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách trong quản lý chất thải rắn ở các đô thị, Bộ Tài nguyên Môi trường và Bộ Xây dựng đã ban hành thông tư liên tịch 1590/TTLT trong đó có ghi: “Quản lý chất thải rắn là các hoạt động nhằm kiểm soát toàn bộ quá trình từ khâu sản sinh chất thải đến thu gom, vận chuyển và xử lý, tiêu huỷ chất thải và giám sát các địa điểm tiêu huỷ chất thải”.
- Quy định cho các tổ chức, cá nhân trong hoạt động phát sinh chất thải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về xả thải và quản lý chất thải.
- Địa điểm bãi chôn lấp chất thải không được đặt gần khu dân cư để tránh tác động có hại đến môi trường và sức khoẻ con người, nhưng cũng không được quá xa trung tâm đô thị và các khu công nghiệp để hạn chế cho việc vận chuyển rác thải.
- Thiết kế, xây dựng các bãi chôn lấp chất thải phải phù hợp với yêu cầu kỹ thuật và vệ sinh môi trường.
Nghị định 80/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/8/2006 vể việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ Môi trường có ghi: “Chất thải sinh hoạt tại các khu đô thị, khu công nghiệp cần được thu gom, vận chuyển và xử lý theo quy định quản lý chất thải. Chất thải có chứa các chất độc hại khó phân huỷ phải được xử lý riêng, không được đổ thải vào khu chứa chất thải sinh hoạt”.
Hà Nội đã ban hành quyết định 3008/QĐ-UB ngày 13/9/1996 là quy định về vấn đề quản lý chất thải của thành phố, cùng đó thành phố ban hành kèm theo quyết định số 3039/QĐ-UB ngày 21/9/1996 và các quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm công tác bảo vệ môi trường. Đây là quy định đầu tiên và có tính chất pháp lý cao nhất của Hà Nội về việc quản lý chất thải. Tuy nhiên quy định này không nêu rõ trách nhiệm của chủ thể gây phát sinh chất thải, do đó việc thực thi quy định của UBND Thành phố còn chưa đạt hiệu quả cao.
3.3. Công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải ở Hà Nội
3.3.1. Công tác thu gom
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội tồn tại song song hai lực lượng thu gom rác thải. Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội và các xí nghiệp Môi trường đô thị các quận, huyện là các đơn vị được giao nhiệm vụ thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải thành phố. Lực lượng tư nhân bao gồm các hợp tác xã, các tổ vận chuyển và những cá thể tham gia một cách tự phát vào quá trình thu gom và vận chuyển chất thải.
Hàng ngày, các xí nghiệp Môi trường đô thị sẽ tiến hành thu gom rác ở các nhà dân, các cơ quan xí nghiệp, trường học, nơi công cộng, rác thải sinh hoạt bệnh viện, các công trình xây dựng trên thành phố theo quy định và theo các đơn hợp đồng với các đơn vị.
Công tác thu gom chất thải, vệ sinh do công nhân môi trường các xí nghiệp thực hiện bằng xe đẩy tay tập trung tới vị trí quy định để cẩu đổ vào các xe thùng cơ giới, xe container và chở tới bãi chôn lấp. Việc thu gom rác không thể thực hiện trong thời gian ngắn do quy trình thu gom thủ công. Thông thường, Công ty sẽ giao chỉ tiêu công việc và ký hợp đồng với các xí nghiệp, từ đó xí nghiệp sẽ giao lại cho các tổ sản xuất, các tổ sẽ chịu trách nhiệm báo cáo về xí nghiệp. Công nhân được chia thành nhiều tổ và hoạt động trên một địa bàn phường được phân công. Số công nhân trong mỗi tổ tuỳ thuộc vào khối lượng duy trì vệ sinh.
Phương thức thu gom là nhân dân đưa rác ra đổ vào các xe thu gom, hay đổ vào các điểm tập trung rác đã quy định vào buổi tối. Rác thải của các chợ thường được thu gom vào buổi sáng và tối. Rác được công nhân thu gom chở đến các chân điểm cẩu rác theo các tuyến xe. Số điểm tập trung rác sẽ được hạn chế để lượng rác tại mỗi điểm nhiều hơn và hạn chế thời gian xe chạy.
Bên cạnh đó còn có một lượng lớn công nhân làm công tác nhặt rác ngày trên các tuyến phố, trung bình cứ 2 người/km. Để đảm bảo duy trì vệ sinh đường phố, hàng ngày công nhân phải đảm nhiệm việc nhặt rác do dân đổ trộm ra đường. Do sự vô ý thức của người dân mà đã gây nên sự lãng phí nhân công lớn. Vấn đề này có thể được giải quyết nếu như người dân có ý thức hơn, đổ rác đúng nơi, đúng thời gian quy định.
Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội thu gom được khoảng 1300 tấn/ngày(chiếm khoảng 80% lượng rác thải phát sinh), khoảng 12% được thu gom bởi những người thu mua đồng nát nhằm tái chế, 8% còn lại là người dân tự đổ ra sông, mương, ao, hồ và được thu gom qua các kỳ tổng vệ sinh. (Nguồn: Xí nghiệp Môi trường Đô thị số 1)
Sơ đồ 4: Quá trình thu gom vận chuyển chất thải
Rác đường phố
Rác hợp đồng
Rác bệnh viện (sinh hoạt)
Xe đẩy tay do công nhân đi thu gom đưa đến điểm tập kết rác
Tập trung ra điểm cẩu quy định
Ô tô vận chuyển rác
Rác các hộ gia đình
Bãi chôn lấp rác thành phố
(Nguồn: Xí nghiệp Môi trường Đô thị số 1)
Công tác thu gom của lực lượng tư nhân bao gồm những người thu mua phế liệu và những người nhặt rác, những người thu gom thức ăn thừa. Những lực lượng này đã góp phần quan trọng trong việc làm giảm lượng rác thải đến khu xử lý, làm tăng lượng rác thải được tái chế, tái sử dụng. Đây là hoạt động mang lại lợi ích cho cả người thu gom và xã hội. Tuy nhiên những lực lượng này được hình thành một cách tự phát và chưa có một quy định nào để quản lý chặt chẽ.
Theo điều tra của một số cơ quan trong nước và nước ngoài thì hiện nay ở Hà Nội có khoảng 6000 người thu mua phế liệu và nhặt rác, phần lớn là người dân ở các tỉnh khác đến. Mỗi ngày những người này thu gom được khoảng 20 – 30 tấn phế thải, chiếm khoảng 5% - 10% tổng lượng rác phát sinh.
3.3.2. Công tác vận chuyển
Công tác vận chuyển là một khâu trong quá trình quản lý chất thải. Chất thải sau khi thu gom phải được vận chuyển ngay đến nơi xử lý.
Công ty Môi trường Đô thị đều sử dụng các xe ô tô chuyên dùng để vận chuyển rác có dung tích từ 6 – 10 tấn/xe, các xe này đều có hệ thống thuỷ lực để nâng các xe gom rác đẩy tay hoặc các thùng rác nhỏ và trong đó có khoảng hơn 80 xe có bộ phận nén rác. Phần lớn các xe đã qua sử dụng từ 8-10 năm. Chủng loại các xe vận chuyển rác bao gồm: Xe MTR 92, MTR 97 đã cũ có hệ số sử dụng còn 72%. Xe Hino, IVECO, Mercedes 7 tấn, Mercedes 8 tấn, Conteiner, Nissan 2,5 – 5 tấn, các xe này có hệ số sử dụng còn 75%. Đầu năm 2003, Nhật Bản đã viện trợ cho Công ty Môi trường Đô thị 70 xe chuyên dùng hiện đại. Các xe này được bàn giao cho các xí nghiệp môi trường tự quản lý và sử dụng. Các xí nghiệp tuỳ theo địa bàn mình quản lý mà bố trí các loại xe cho thích hợp.
Nguyên tắc bố trí các loại xe:
Phân theo tuyến, theo địa bàn tổ thu gom ( quản lý theo địa bàn phường), bố trí xe sao cho các điểm cẩu gần nhau.
Theo khối lượng vận chuyển từng chuyến cho phù hợp với tải trọng của từng loại xe.
Tuy nhiên có một vấn đề khó khăn cho công tác quản lý thu gom, vận chuyển chất thải là việc tìm các điểm thu thập rác từ các xe thu gom lên xe chở rác. Do vẫn còn một số phương tiện vận chuyển còn lạc hậu nên trong quá trình cẩu rác thường có tiếng ồn lớn của động cơ xe, các mùi khó chịu từ rác bốc ra và việc rơi vãi rác, chảy nước rác ra đường trong quá trình nâng cẩu. Do đó người dân thường phản đối việc đặt các điểm cẩu rác gần nhà họ. Điều này khiến cho việc lựa chọn các điểm cẩu rác thường không tuân thủ các nguyên tắc đặt ra mà thường được tiến hành ở bất cư nơi nào có thể được, thậm chí ngay tại các vườn hoa hoặc các điểm nhạy cảm với môi trường.
Nhiều năm trước đây, rác thải của thành phố hàng ngày được thu gom và vận chuyển tới các bãi chôn lấp như Thụy Phương, Tây Mỗ. Hiện nay do bãi chôn lấp Tây Mỗ đã đóng bãi nên rác của thành phố Hà Nội sẽ vận chuyển lên bãi Nam Sơn.
Vận chuyển lên bãi Nam Sơn được chia làm 2 phương án:
*Phương án 1: Toàn bộ chất thải được chuyển thẳng lên khu liên hợp xử lý chất thải rắn Nam Sơn. Theo phương án này, tất cả rác thu gom được đi thẳng từ nội thành đi Nam Sơn, theo đường Cầu Thăng Long – Nam Sơn khoảng 61 km.
*Phương án 2 : Vận chuyển 85% rác thải thẳng lên khu liên hiệp xử lý chất thải rắn Nam Sơn, còn 15% chuyển qua trạm trung chuyển Tây Mỗ để phân loại chế biến thành phân hữu cơ. Phương án này được tiến hành thực hiện từ giữa năm 2001, tuy nhiên lượng rác thải chuyển qua trạm Tây Mỗ chỉ chiếm khoảng 1% và chủ yếu là lượng rác được thu gom từ các chợ.
Quá trình thu và vận chuyển được thực hiện theo từng chuyến, mỗi chuyến thu gom và vận chuyển năng lực đạt khoảng 5 tấn/xe, trung bình được 10 tấn rác thải sinh hoạt. Do đặc thù công việc thời gian thu vận chuyển thường diễn ra vào chiều tối và ban đêm. Tất cả các xe trong quá trình vận chuyển đều phải phủ bạt để tránh làm rơi vãi trong quá trình vận chuyển và chỉ tháo bạt khi đổ rác vào bãi thải.
Trung bình, mỗi ngày Công ty Môi trường Đô thị vận chuyển được khoảng 1000 tấn rác thải lên bãi xử lý rác Nam Sơn, góp phần giữ gìn cho môi trường thủ đô được trong sạch.
3.3.3. Công tác xử lý
Đối với chất thải tuỳ từng mục đích và điều kiện mà có các cách xử lý bằng nhiều phương pháp khác nhau. Hiện nay ở Hà Nội mới chỉ có Nhà máy xử lý chế biến rác thành phân hữu cơ, nhưng chủ yếu mới chỉ là tái chế và xử lý được các loại rác hữu cơ có nguồn gốc từ rau, quả, củ còn đối với chất thải rắn như chất thải xây dựng thì vẫn xử dụng phương pháp chôn lấp là chính. Chi phí cùa phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh thấp hơn rất nhiều so với các phương pháp khác nên phù hợp với điều kiện kinh tế của Thành phố. Tuy nhiên việc vận hành bãi chôn lấp phải được kiểm tra, xử lý thường xuyên độ nguy hại đối với rác thải, khí và nước rác được tạo ra trong quá trình xử lý để tránh nguy hại cho môi trường và con người.
Rác được chở đến bãi thải phải được san ủi đầm nén trong ngày. Trung bình mỗi ngày bãi tiếp nhận 1300 tấn rác, tương đương với diện tích đổ 800m2. Sau đó phải phun hoá chất diệt ruồi muỗi toàn bộ khu vực xung quanh nơi đổ rác, đường ra vào bãi rác. Khu vực dân cư xung quanh đấy trong phạm vi 1000m phải được thường xuyên kiểm tra phun thuốc 1 tuần/lần.
Mặt bằng bãi đổ rác được phân thành từng ô rác, mỗi ô vận hành trong thời gian nhất định. Giữa các ô chôn lấp có đập ngăn cách (được tạo thành trong giai đoạn xây dựng bãi theo thiết kế trước khi vận hành). Sau khi ô rác đã đạt độ cao ngừng vận hành phải tiến hành đóng bãi theo trình tự: Phủ đất – San gạt tạo mặt bằng - Đầm nén bằng xe ủi bánh xích, bánh lốp - Trải lớp vải nhựa chống thấm bề mặt - Phủ đất, đầm mặt – Khoan lỗ đặt ống thoát khí gas - Trồng cây cỏ (điền thanh hoặc bạch đàn).
Vấn đề xử lý triệt để nước rác luôn là vấn đề nan giải đối với hầu hết các thành phố của Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Nước rỉ rác, còn gọi là nước rác, là nước bẩn thấm qua lớp rác của các ô chôn lấp, kéo theo các chất gây ô nhiễm từ rác thải chảy vào tầng đất ở dưới bãi chôn lấp, ngấm vào mạch nước ngầm gây ô nhiễm nguồn nước ngầm. Thành phần của nước rác thay đổi theo các giai đoạn khác nhau của quá trình phân huỷ sinh học. Như vậy, sự hình thành nước rác và khí trong quá trình chôn lấp là những mối quan tâm lớn trong công tác vận hành và quản lý bãi chôn lấp ở các đô thị. Hệ thống thu gom và xử lý nước rác phải theo đúng thiết kế được duyệt và phải thường xuyên hoạt động. Các hồ lắng phải được vét bùn và đưa đến khu xử lý mỗi tháng 2 lần.
Quá trình chôn lấp phát sinh ra một lượng khí ga sinh ra từ chất thải chôn lấp, các khí thải này chủ yếu là Mêtan được phát tán ra ngoài nhờ hệ thống ống thu và phát tán được đặt trên ô chôn lấp.
Cây xanh được trồng xung quanh bãi tạo vành đai cách ly nhằm giữ gìn vệ sinh môi trường, hạn chế mùi và các ảnh hưởng bất lợi từ bãi rác.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI XÂY DỰNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN QUA
Tình hình hoạt động trật tự xây dựng ở Hà Nội hiện nay
Các công trình xây dựng chủ yếu ở Hà Nội là nhà ở, các công trình hạ tầng xã hội, các công trình phục vụ sản xuất. Phần lớn các vi phạm về hoạt động xây dựng xảy ra đều từ các công trình xây dựng nhà ở. Diện tích nhà ở do Nhà nước tổ chức xây dựng chỉ chiếm tỷ lệ là 20 - 25% , còn lại do dân tự xây dựng để giải quyết nhu cầu nhà ở. Hoạt động xây dựng tại Hà Nội trong thời gian qua, bình quân 1 tháng trên địa bàn thành phố có khoảng trên 1000 vụ vi phạm, trong đó hầu hết là xây dựng không phép, nhưng số vụ cưỡng chế chỉ thực hiện được 10%, số vụ phạt tiền là 30%, còn lại là những công trình đã được kiểm tra lập biên bản nhưng lại không được xử lý triệt để. Xây dựng không phép, trái phép, sai phép dẫn đến phá vỡ quy hoạch, kiến trúc, cảnh quan môi trường, gây ô nhiễm không khí, nguồn nước, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của người dân, gây khó khăn cho công tác quản lý và trật tự an toàn xã hội.
Theo số liệu thống kê của Sở Xây Dựng Hà Nội thì hàng tháng trên toàn Thành p._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0160.doc