lời Mở đầu
Các doanh nghiệp muốn tồn tại trong thị trường phải luôn vận động, biến đổi để tạo cho mình một vị trí và chiếm lĩnh những phần thị trường nhất định. Sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi họ phải xây dựng cho được một chiến lược cạnh tranh có hiệu quả để đứng vững, và cạnh tranh không chỉ với công ty trong nước mà cả với các hãng tư bản nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh mẽ. Trong nền kinh tế thị trưòng của một quốc gia nói riêng và trên toàn thề giới nói chung, vấn đề cạnh tranh không ph
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thực trạng cạnh tranh ở Công ty dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải là vấn đề mới nhưng nó luôn là vấn đề mang tính thời sự, cạnh tranh khiến thương trường ngày càng trở nên nóng bỏng.
Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế vì những lợi ích mang lại từ hoạt động kinh tế này, nhưng mức độ tham gia còn hạn chế. Ngành may mặc của Việt Nam tuy được coi là một trong những ngành mũi nhọn trong chiến lược hướng về xuất khẩu, nhưng lại chưa thực sự khẳng định mình trên thị trường thế giới. Lượng hàng xuất khẩu trực tiếp còn thấp, chủ yếu là thực hiện theo đơn đặt hàng gia công của nước ngoài. Do vậy, tính cạnh tranh của sản phẩm may mặc chưa được quan tâm đầy đủ.
Là một doanh nghiệp Nhà nước công ty dệt may Hà Nội (trực thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam) từ khi thành lập đến nay, trải qua nhiều gian nan vất vả nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cùng với sự phát triển của đất nước, công ty dệt may Hà Nội đã dần hoàn thiện mình và đang cố gắng góp phần khẳng định khả năng phát triển của ngành dệt may xuất khẩu. Sản phẩm của công ty may Hà Nội gồm nhiều chủng loại gồm các sản phẩm về sợi, vải, mũ, khăn, nhưng chất luợng mẫu mã, giá cả...của sản phẩm cùng cách tổ chức điều hành, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty còn nhiều bất cập. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, từ đó nâng khả năng thu lợi nhuận, công ty dệt may Hà Nội phải thực sự quan tâm tới việc lập và thực hiện hiệu quả chiến lược kinh doanh, trong đó phải đặc biệt chú trọng tới chiến lược cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của công ty treen thị trường quốc tế.
Trong chuyên đề, với mong muốn vận dụng những kiến thức đã học trong trường vào thực tế chuyên đề sẽ làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh. Nghiên cứu thực trạng cạnh tranh ở công ty dệt may Hà Nội để thấy được mức độ ảnh hưởng của cạnh tranh tới sự tồn tại và phát triển của công ty. Qua đó đưa ra một số phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh ở công ty trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ngoài phần mở đầu, kết luận . Nội dung và kết cấu chuyên đề gồm 3 chương
Chương I : Lý luận cơ bản về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Chương II : Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty
Chương III : Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty dệt may Hà Nội
Do những hạn chế về kiến thức, thời gian, hơn nữa đây cũng là một vấn đề mới và phức tạp luôn biến động nên chuyên đề không thể tránh được những thiếu sót nhất định.Vì vậy em mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô. Em cũng xin chân thành cảm ơn Th.s Tạ Lợi đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2003.
Chương I
Lý luận chung về cạnh tranh
và sức cạnh tranh của hàng hoá
I. Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá.
1.Khái niệm về cạnh tranh và sức cạnh tranh.
Cạnh tranh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển nền kinh tế xã hội. Trong mọi phương diện của cuộc sống ý thức vươn lên luôn là yếu tố chủ đạo hướng suy nghĩ và hành động của con người. Họat động sản xuất kinh doanh là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội, trong đó ý thức vươn lên không đơn thuần là mong muốn đạt được một mục tiêu nào đó mà còn là tham vọng trở thành người đứng đầu. Suy nghĩ và hành động trong sản xuất kinh doanh bị chi phối rất nhiều bởi tính kinh tế khắc nghiệt. Trong giai đoạn hiện nay, yếu tố được coi là khắc nghiệt nhất là cạnh tranh. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp ngày nay đầy biến động và cạnh tranh hiện nay là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường nhằm giành giật nhiều các lợi ích kinh tế hơn về mình.
1.1Khái niệm về cạnh tranh.
ở mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội khái niệm về cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới những góc độ khác nhau. Dưới thời kỳ Chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển vượt bậc Mác đã quan niệm: “ Cạnh tranh chủ nghĩa tư bản là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa (TBCN) và cạnh tranh TBCN, Mác đã phát hiện ra quy luật cạnh tranh cơ bản là: quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành. Nếu ngành nào, lĩnh vực nào có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ có nhiều người để ý và tham gia. Ngược lại, những ngành, lĩnh vực mà có tỷ suất lợi nhuận thấp sẽ có sự thu hẹp về quy mô hoặc là sự rút lui của các nhà đầu tư. Tuy nhiên sự tham gia hay rút lui của các nhà đầu tư không dễ dàng một sớm, một chiều thực hiện được mà là cả một chiến lược lâu dài đòi hỏi phải có sự tính toán kỹ lưỡng.
CNTB phát triển đến đỉnh điểm chuyển sang chủ nghĩa đế quốc rồi suy vong và cho đến ngày nay nền kinh tế thế giới đã dần đi vào qũy đạo của sự ổn định và xu hướng chính là hội nhập, hoà đồng giữa các nền kinh tế, cơ chế hoạt động là cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước thì khái niệm cạnh tranh mất hẳn tính giai cấp, tính chính trị nhưng về bản chất thì vẫn không thay đổi. Cạnh tranh vẫn là sự đấu tranh gay gắt, sự ganh đua giữa các tổ chức, các doanh nghiệp nhằm đạt được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để đạt được những mục tiêu của tổ chức, doanh nghiệp đó.
Theo lý thuyết tổ chức doanh nghiệp công nghiệp thì một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh và đánh giá nó có thể đứng vững cùng với các nhà sản xuất khác, với các sản phẩm thay thế, hoặc bằng cách đưa ra các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn cho sản phẩm cùng loại, hoặc bằng cách cung cấp các sản phẩm có cùng đặc tính nhưng với dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Một định nghĩa khác về cạnh tranh như sau: “Cạnh tranh có thể định nghĩa như là một khả năng của doanh nghiệp nhằm đáp ứng và chống lại các đối thủ cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ một cách lâu dài và có lợi nhuận”.
Thực chất cạnh tranh là sự tranh giành lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia vào thị trường với tham vọng “mua rẻ-bán đắt”. Cạnh tranh là một phương thức vận động của thị trường và quy luật cạnh tranh là một trong những quy luật quan trọng nhất chi phối sự hoạt động của thị trường. Sở dĩ như vậy vì đối tượng tham gia vào thị trường là bên mua và bên bán; Đối với bên mua mục đích là tối đa hoá lợi ích của những hàng hoá mà họ mua được còn với bên bán thì ngược lại phải làm sao để tối đa hoá lợi nhuận trong những tình huống cụ thể của thị trường. Như vậy trong cơ chế thị trường tối đa hoá lợi nhuận đối với các doanh nghiệp là mục tiêu quan trọng và điển hình nhất.
Như vậy dù có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh nhưng tựu chung lại đều thống nhất ở các điểm:
Mục tiêu cạnh tranh: Tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thương trường đồng thời làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Phương pháp thực hiện: Tạo và vận dụng những lợi thế so sánh trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác.
Thời gian: Trong bất kỳ tuyến thị trường hay sản phẩm nào, vũ khí cạnh tranh thích hợp hay đổi theo thời gian. Chính vì thế cạnh tranh được hiểu là sự liên tục trong cả quá trình.
Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh, coi cạnh tranh là một tất yếu khách quan. ở Việt Nam, cùng với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, cạnh tranh đã từng bước được tiếp nhận như một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức quản lý và điều khiển nền kinh tế quốc dân nói chung, trong tổ chức và điều hành kinh doanh trong các doanh nghiệp nói riêng. Cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là một yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Do đó quan điểm đầy đủ về cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau dựa trên những chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Cạnh tranh trong kinh tế là cuộc chạy đua “Marathon kinh tế” nhưng không có đích cuối cùng, ai cảm nhận thấy thì người đó sẽ trở thành nhịp cầu cho các đối thủ khác vươn lên phía trước.
Khái niệm sức cạnh tranh.
Một sản phẩm muốn có vị trí vững chắc trên thị trường và muốn thị trường của nó ngày càng mở rộng thì nó điểm mạnh và có khả năng để nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường đó. Sức cạnh tranh của hàng hoá được hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm đó có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thương trường cạnh tranh một các lâu dài và có ý nghĩa.
Để đánh giá được một sản phẩm có sức cạnh tranh mạnh hay không thì cần dựa vào các nhân tố sau:
Giá thành sản phẩm và lợi thế về chi phí (khả năng giảm chi phí đến mức tối đa).
Chất lượng sản phẩm và khả năng đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Các dịch vụ đi kèm sản phẩm.
Vai trò của cạnh tranh.
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cạnh tranh luôn diễn ra liên tục và được hiểu như cuộc chạy đua không ngừng giữa các đối thủ. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang từng bước khẳng định những ưu thế của mình, môi trường cạnh tranh ngày càng hoàn chỉnh hơn đặt ra cho các doanh nghiệp những cơ hội và thách thức. Doanh nghiệp nào hiểu biết đối thủ, biết thoả mãn tốt hơn các nhu cầu và thị hiếu khách hàng so với đối thủ cạnh tranh, biết giành thế chủ động với người cung cấp các nguồn hàng và tận dụng được lợi thế cạnh tranh doanh nghiệp đó sẽ tồn tại, ngược lại doanh nghiệp không có tiềm lực cạnh tranh hoặc không “nuôi dưỡng” tiềm lực cạnh tranh tất yếu sẽ thất bại.
Vì thế các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng các công cụ cạnh tranh hữu hiệu của mình. Điều này nhận thấy rõ nhất ở vai trò của cạnh tranh .
Cạnh tranh cho phép sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu.
Khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
Thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
Hơn nữa cạnh tranh còn làm cho giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm xuống nhưng chất lượng lại được nâng cao, kích thích sức mua, làm tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Phân loại cạnh tranh.
Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi có một số lớn doanh nghiệp nhỏ sản xuất và bán ra một loại hàng hoá, dịch vụ giống hệt nhau và với số lượng của từng doanh nghiệp qúa nhỏ so với tổng số hàng hoá có trên thị trường.
Thị trường này có một số đặc điểm :
Có rất nhiều người sản xuất và bán hàng hoá giống hệt nhau, song không ai có ưu thế trong việc cung ứng và mua sản phẩm để có thể làm thay đổi giá cả
Người bán có thể bán toàn bộ hàng hoá của mình với giá thị trường. Như vậy họ phải chấp nhận giá thị trường có sẵn và dù họ có tăng giảm lượng hàng hoá bán ra thì cũng không có tác động gì đến giá cả thị trường.
Không có trở lực gì quan trọng ảnh hưởng đến việc gia nhập vào một thị trường hàng hoá, nói cách khác là không có sự cấm đoán do luật lệ quy định hoặc do tính chất của sản phẩm đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật cao, mức đầu tư quá lớn.
Theo thị trường này mỗi doanh nghiệp chỉ là một phần tử trong tổng thể vì vậy các quyết định của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến thị trường. Mặt khác việc định giá của doanh nghiệp không cách nào khác hơn là phải tự thích ứng với giá cả hiên cả hiện có trên thị trường. Muốn có lãi doanh nghiệp phải giảm thấp chi phí sản xuất.
Cạnh tranh không hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là tình trạng cạnh tranh bình thường vì nó phổ biến trong điều kiện hiện nay. Đây là thị trường mà phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất. Cùng sản phẩm có thể chia làm nhiều thứ loại, nhiều chất lượng...Sản phẩm tương tự có thể được bán với nhiều nhãn hiệu khác nhau, mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau. Mặc dù, sự khác biệt giữa các sản phẩm không đáng kể (sự khác biệt mang ý nghĩa quan niệm, tâm lý là chính): các điều kiện mua bán hàng hoá cũng là khác nhau. Người bán có thể có uy tín độc đáo riêng biệt đối với người mua do nhiều lý do khác nhau: khách hàng quen, gây được lòng tin...hay các cách thức quảng cáo cũng có thể ảnh hưởng tới người mua, làm người mua thích mua của một nhà cung ứng này hơn của một nhà cung ứng khác.
Đường cầu của thị trường là đường không co dãn. Việc mua và bán sản phẩm được thực hiện trong bầu không khí có tính chất giao thương rất lớn, điều này khác hẳn với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Người bán có thể thu hút khách hàng bởi nhiều cách: quảng cáo, khuyến mại, phương thức bán hàng, cung cấp dịch vụ, tín dụng, hoặc có nhiều điều khoản ưu đãi...Do đó, trong giá có sự phân biệt, xuất hiện hiện tượng nhiều giá. Có thể nói giá cả nên xuấng thất thường tuỳ khu vực, tuỳ nguồn cung ứng, tùy người mua.
Cạnh tranh độc quyền.
Thị trường độc quyền.
Là thị trường mà ở đó chỉ có duy nhất một người mua (Độc quyền mua) hoặc một người bán (Độc quyền bán). Chính sách của thị trường này là định giá cao và sản lượng hàng hoá ít. Tuy nhiên điều đó không đồng nghĩa với việc nhà độc quyền định giá bao nhiêu cũng được. Tuỳ theo đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm và cơ chế quản lý giá của Nhà nước mà nhà độc quyền định giá cao hay thấp để thu được lợi nhuận tối đa. Các nhà độc quyền cũng dùng hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo để thu hút thêm khách hàng.
Nói chung độc quyền trong sản xuất kinh doanh là lợi thế lớn nhất đối vơi nhà độc quyền, song về mặt xã hội thì nó kìm hãm sự phát triển sản xuất, làm thiệt hại lợi ích người tiêu dùng.
Cạnh tranh độc quyền.
Trong thị trường cạnh tranh độc quyền, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán sản phẩm phân biệt, các sản phẩm có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Nghĩa là độ co dãn của cầu là cao chứ không phải là vô cùng.Vì những lý do khác nhau (chất lượng, hình dáng, danh tiếng...) người tiêu dùng coi mặt hàng của mỗi doanh nghiệp khác với của các doanh nghiệp khác. Do đó một số khách hàng sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm mình thích, trong ngắn hạn khó ra nhập thị trường nhưng dài hạn thì có thể . Nhà sản xuất định giá nhưng không thể tăng giá một cách bất hợp lý, về dài hạn thì không thể trở thành thị trường độc quyền được. Cạnh tranh độc quyền sử dụng các hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo, phân biệt sản phẩm .
Độc quyền tập đoàn.
Trong thị trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống nhau hoặc khác nhau và chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết toàn bộ tổng sản lượng.Tính phụ thuộc giữa các doanh nghiệp là lớn, hành vi của doanh nghiệp này ảnh hưởng tới doanh nghiệp khác. Nếu một doanh nghiệp giảm giá sẽ dẫn đến tình trạng phá giá do các doanh nghiệp dễ kết cấu với nhau. Nhưng vì cạnh tranh bằng giá không có lợi do vậy người ta chuyển sang cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm. Trong thị trường độc quyền tập đoàn, một số hoặc tất cả các doanh nghiệp đều thu hút được lợi nhuận đáng kể trong dài hạn thì có các hàng rào ra nhập làm cho các doanh nghiệp mới không thể hoặc khó mà ra nhập thị trường. Trong độc quyền tập đoàn, các nhà sản xuất cũng sử dụng nhiều hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo hoặc phân biệt sản phẩm giống như trong cạnh tranh độc quyền.
Căn cứ vào các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường.
Cạnh tranh giữa người bán và người mua.
Là cuộc cạnh tranh giữa người bán và người mua diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt trên thị trường. Người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, ngược lại người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cuối cùng là giá thống nhất giữa người mua và người bán sau một quá trình mặc cả với nhau mà theo đó hoạt động mua bán được thực hiện.
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau.
Là cuộc cạnh tranh xảy ra khi cung nhỏ hơn cầu. Khi lượng cung một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó quá thấp so với nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua sẽ trở nên quyết liệt. Lúc đó giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng vọt nhưng do hàng hoá khan hiếm nên người mua vẫn sẵn sàng trả giá cao cho hàng hoá mình cần. Kết qủa là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua thì bị thiệt. Đây là cuộc cạnh tranh mà theo đó những người mua sẽ bị thiệt còn những người bán được lợi .
Cạnh tranh giữa những người bán với nhau.
Đây là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất, chiếm đa số trên thị trường.Thực tế cho thấy khi sản xuất hàng hoá càng phát triển càng có nhiều người bán dẫn đến cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên nhiều phương diện và nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật một mặt tác động đến các nhà sản xuất, một mặt làm thay đổi nhu cầu của người mua, do đó nó dần làm biến đổi vị trí của các yếu tố cạnh tranh. Một cách chung nhất cạnh tranh là sự ganh đua ở các giác độ : chât lượng, giá cả, nghệ thuật tổ chức tiêu thụ và thời gian. Giá là yếu tố thứ nhất của cạnh tranh, đây là hình thức cạnh tranh được sử dụng nhiều nhất. Khi nhu cầu con người phát triển cao hơn thì yếu tố chất lượng sản phẩm chiếm vị trí chính yếu. Đến nay vào những năm cuối của thế kỷ 20 thì với các doanh nghiệp lớn họ có với nhau sự cân bằng về giá cả thì yếu tố thời gian và tổ chức tiêu thụ sản phẩm là quan trọng nhất.
3.3 Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế.
Cạnh tranh giữa các ngành.
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu được lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đầu tư bỏ ra đầu tư vào ngành khác. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp chuyển sang kinh doanh ở ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau, doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường, doanh nghiệp thua sẽ sẽ thu hẹp phạm vi kinh daonh thậm chí phá sản.
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hành hoá và các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá.
Các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hành hoá.
1.1 Các nhân tố bên ngoài.
Michael.E.Porter (1982) đã đưa ra khái niệm cạnh tranh mở rộng, theo đó cạnh tranh trong một ngành phụ thuộc vào năm thế lực.
Sơ đồ 1: Các thế lực điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành
Các đối thủ
tiềm năng
Người mua
Doanh nghiệp và các đối thủ hiện tại
Người
cung ứng
Sản phẩm dịch
vụ thay thế
Năm thế lực cạnh tranh này kết hợp với nhau xác định cường độ cạnh tranh và mức lợi nhuận của ngành. Thế lực nào mạnh nhất sẽ thống trị và trở thành trọng yếu theo quan điểm xây dựng chiến lược. Mỗi lực lượng trong số 5 lực lượng trên càng mạnh thì càng hạn chế khả năng cho các doanh nghiệp tăng giá cả và kiếm lợi nhuận; Ngược lại, khi một lực lượng nào đó mà yếu thì cơ hội để doanh nghiệp có được lợi nhuận sẽ càng khả thi. Để làm rõ điều này chung ta hãy cùng tìm hiểu các lực lượng đó.
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại.
Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng vì các đối thủ cạnh tranh sẽ quyết định tính chất và mức độ tranh đua. Nếu các đối thủ này yếu doanh nghiệp có cơ hội để tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại,khi các đối thủ cạnh tranh hiện tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá là không đáng kể, mọi cuộc cạnh tranh về giá cả đều dẫn tới tổn thương.
Bàn về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất ta thường nói tới những nội dung chủ yếu như: cơ cấu cạnh tranh ngành, thực trạng cầu của ngành và các hàng rào lối ra.
Cơ cấu cạnh tranh của ngành dựa vào số liệu và khả năng phân phối sản phẩm của doanh nghiệp trong ngành sản xuất. Cơ cấu cạnh tranh thay đổi từ ngành sản xuất phân tán tới ngành sản xuất tập trung. Bản chất và mức độ cạnh tranh đối với các ngành tập trung là rất khó phân tích và dự đoán.
Tình trạng cầu của một ngành là một yếu tố quyết định khác về tính mãnh liệt trong cạnh tranh nội bộ ngành. Thông thường, cầu tăng tạo cho doanh nghiệp một cơ hội lớn để mở rộng hoạt động. Ngược lại, cầu giảm dẫn đến cạnh tranh khốc liệt để các doanh nghiệp giữ được phần thị trường đã chiếm lĩnh.
Hàng rào lối ra là mối đe doạ cạnh tranh nghiêm trọng khi cầu của ngành giảm mạnh. Đó là kinh tế, chiến lược và là quan hệ tình cảm giữ doanh nghiệp trụ lại. Nếu hàng rào lối ra cao, các doanh nghiệp có thể bị khoá chặt trong một ngành sản xuất không ưa thích. Hàng rào lối ra thường bao gồm: Đầu tư nhà xưởng và thiết bị, chi phí trực tiếp cho việc rời bỏ ngành là cao, quan hệ chiến lược giữa các đơn vị chiến lược kinh doanh, hay đó là chi phí xã hội khi thay đổi như khó khăn về sự sa thải nhân công, chi phí đào tạo lại ...
Do vậy nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là những đối thủ chính để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung.
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là đe dọa cho các doanh nghiệp hiện tại. Các doanh nghiệp hiện tại cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn ra nhập ngành vì càng nhiều doanh nghiệp có trong một ngành sản xuất thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Với sự mong muốn chiếm lĩnh một thị phần nào đó các đối thủ mới có thể làm giá bán bị kéo xuống hoặc chi phí của các công ty đi trước có thể bị tăng lên và kết quả làm giảm mức lợi nhuận. Sự xâm nhập vào một ngành, với dự định xây dựng một vị trí trên thị trường kiểu đó có lẽ cần được coi như một sự nhập cuộc của đối thủ mới. Việc tạo ra hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài hoặc sự phản ứng khôn khéo của các doanh nghiệp đang cạnh tranh sẽ làm giảm bớt mối hiểm hoạ hoặc do doanh nghiệp mới xâm nhập gây ra. Những rào cản chủ yếu được xác định là:
Những ưu thế tuyệt đối về chi phí: Có thể đó là ưu thế về các sáng chế, việc làm chủ một công nghệ riêng đặc thù hoặc có một nguồn nhân lực chuyên tinh, làm chủ được nguồn nguyên vật liệu cũng như kinh nghiệm cho phép có được các chi phí thấp hơn. Hoặc đó có thể là lợi thế về chi phí cố định vì các đối thủ cạnh tranh hiện tại thường có những lợi thế chi phí mà các đối thủ mới không thể nào có được, lợi thế này không phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp như: Bản quyền về công nghệ và sản phẩm, lợi thế về nguồn cung cấp nguyên vật liệu, lợi thế về vị trí địa lý, hay kinh nghiệm và kĩ năng trong sản xuất.
Ngoài ra có thể kể đến những loại chi phí khác như chi phí đặt cọc, tiền cược. Đây là một khoản tiền lúc đầu buộc khách hàng mua sản phẩm của một doanh nghiệp lúc đầu phải trả nếu họ không mua sản phẩm của ngành đó nữa và chuyển sang mua sản phẩm của một doanh nghiệp khác hay là chi phí phạt do thay đổi hãng hợp đồng tiêu thụ hoặc cung cấp vật tư. Hầu hết các khách hàng đều phải thực hiện việc bồi thường trừ phi các nhà cung cấp mới những cải tiến có lợi về chi phí và thực hiện.
Sự khác biệt hoá của sản phẩm khiến cho khách hàng trung thành với nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp có vị thế uy tín vững vàng hoặc đã đứng vững.Thường các doanh nghiệp này có ưu thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về dịch vụ hậu mãi hoặc về khả năng chuyên biệt hoá sản phẩm... Sự trung thành với nhãn hiệu là nguồn rào cản khiến cho các doanh nghiệp mới tham gia khó lòng giành giật thị phần trên thương trường. Các doanh nghiệp có tiềm năng hẳn phải tốn kém rất nhiều để bẻ gãy lòng ưu ái đã được củng cố của khách hàng với các nhãn hiệu đã có uy tín trước đó.
Kinh tế quy mô hay còn gọi là kinh tế bậc thang: Các chi phí về sản xuất, phân phối, bán, quảng cáo, dịch vụ nghiên cưú sẽ giảm bớt với sự gia tăng của số lượng bán. Hay nói cách khác số lượng sản xuất và bán tăng lên thì chi phí cho một đơn vị sản phẩm càng giảm đi.
Kênh phân phối chủ yếu đã được thiết lập của các doanh nghiệp hiện tại cũng là một vật cản đối với các doanh nghiệp muốn nhảy vào chia sẻ thị trường. Để tham gia vào mạng lưới phân phối đã được thiết lập các doanh nghiệp mới thông thường phải chia sẻ các chi phí quảng cáo hoặc hỗ trợ bán hàng. Mọi chi phí này sẽ làm giảm lợi nhuận của các đối thủ mới; Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh hiện tại có thể giữ chặt các các kênh phân phối dựa trên cơ sở các mối quan hệ lâu dài, chất lượng phục vụ cao ... Như vậy buộc doanh nghiệp mới phải tạo ra một mạng lưới phân phối mới và đó là một cản trở đáng kể.
Phản ứng lại của các doanh nghiệp hiện tại trong lĩnh vực kinh doanh. Nếu việc phản ứng lại tích cực và khôn khéo một lối vào trong lĩnh vực đó là có thể được. Nhưng nếu phản ứng lại bằng một cuộc chiến tranh giá cả thì cái giá phải trả là quá đắt để nhập ngành bởi các đối thủ cạnh tranh hiện tại phản ứng quyết liệt, liên kết lại với nhau để đối phó.
Khách hàng (Người mua).
Khách hàng hay người mua hàng là một bộ phận không thể tách rời trong môi trường cạnh tranh. Khách hàng tác động đến doanh nghiệp thể hiện mối tương quan về thế lực nếu nghiêng về phía nào thì phía đó có lợi. Các doanh nghiệp cần phải làm chủ mối tương quan này, thiết lập được mối quan hệ với khách hàng để giữ khách hàng (thông qua số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao nhận và dịch vụ sau bán hàng). Khách hàng có ưu thế là có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải làm nhiều công việc dịch vụ hơn.
Khách hàng có thể được xem như một sự đe dọa cạnh tranh khi họ buộc doanh nghiệp phải giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn. Ngược lại khi người mua (khách hàng) yếu sẽ mang đến cho doanh nghiệp cơ hội để tăng giá kiếm được lợi nhuận nhiều hơn. Người mua gồm: Người tiêu dùng cuối cùng, các nhà phân phối (bán buôn, bán lẻ) và các nhà mua công nghiệp. áp lực của họ thường được thể hiện trong những trường hợp sau:
Nhiều nhà cung ứng có quy mô vừa và nhỏ trong ngành cung cấp. Trong khi đó người mua là số ít và có quy mô lớn, nó cho phép người mua chi phối các công ty cung cấp.
Khách hàng mua một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp và sử dụng đó làm lợi thế để mặc cả cho sự giảm giá không hợp lý.
Khách hàng có thể vận dụng chiến lược liên kết dọc, tức là họ có xu hướng khép kín sản xuất, tự sản xuất, gia công các bộ phận chi tiết, bán sản phẩm cho mình.
Khách hàng có đầy đủ các thông tin về thị trường như nhu cầu, giá cả của các nhà cung cấp thì áp lực mặc cả của họ càng lớn.
Để nâng cao khả năng cao khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp phải giảm tối đa sức ép trên và tạo môi trường với các khách hàng qua các chính sách giá, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, biến họ trở thành người cộng tác tốt.
Người cung ứng.
Đó là những nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, tiền vốn,lao động đôi khi gây đe doạ khi họ có khả năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất lượng các sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp. Qua đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Họ thường gây sức ép trong những tình huống như:
Họ độc quyền cung cấp vật tư.
Khi các vật tư được cung cấp không có khả năng thay thế
Không có điều khoản ràng buộc hoặc bảo đảm trong các hợp đồng kinh tế đã kí kết.
Khi vật tư đó quan trọng, quyết định trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Khi họ có khả năng khép kín sản xuất.
Vì vậy doanh nghiệp cần thiết lập quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp và đưa ra các biện pháp ràng buộc với nhà vật tư để giảm bớt các ràng buộc họ có thể gây nên với mình.
Sản phẩm thay thế.
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến động của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú và cao cấp hơn, và chính nó lại làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế.
Một doanh nghiệp có thể hoạt động thu được nhiều lợi nhuận khi trong ngành kinh doanh đó có các các cản trở xâm nhập cao, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có là thấp, không có sản phẩm thay thế, thế lực khách hàng yếu và thế lực nhà cung cấp cũng yếu. Ngược lại, một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh trong một ngành hàng có các cản trở xâm nhập thấp, cạnh tranh mạnh mẽ, có một số sản phẩm thay thế, thế lực và của khách hàng và nhà cung cấp mạnh thì kinh doanh của doanh nghiệp sẽ chật vật và lợi nhuận thấp. Các nhà quản lý cần phải phân tích và hiểu rõ được các thế lực trong môi trường cạnh tranh, từ đó tận dụng cơ hội và tìm vị trí có lợi nhất cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các nhân tố bên trong.
Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực được coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn với mọi tổ chức trong tương lai. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia làm 3 cấp:
+ Quản trị viên cấp cao: Gồm ban giám đốc và các trưởng phó phòng ban. Đây là đội ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh. Nếu họ có trình độ quản lý cao, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, có khả năng đánh giá và quan hệ đối ngoại tốt thì doanh nghiệp đó sẽ có sức cạnh tranh cao và ngược lại.
+ Quản trị viên cấp trung gian: Đây là đội ngũ trực tiếp quản lý phân xưởng sản xuất sản phẩm đòi hỏi phải có có kinh nghiệm công tác, khả năng ra quyết định và diều hành công tác.
+ Đội ngũ quản trị viên cấp cơ sở: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phần nào cũng chịu sự chi phối của đội ngũ này thông qua các yếu tố như: năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo của họ... bởi vì các yếu tố này chi phối việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm cũng như tạo thêm tính ưu việt, độc đáo mới lạ của sản phẩm.
Nguồn lực về tài chính.
Khả năng tài chính có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài chính của doanh nghiệp và tình hình hoạt động, các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ thu hồi vốn, khả năng thanh toán...Nếu một doanh nghiệp có tình trạng tài chính tốt, khả năng huy động vốn là lớn sẽ ._.cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị, đồng thời tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh liên kết.Tình hình sử dụng vốn cũng sẽ quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
Nguồn lực về vật chất kỹ thuật:
Thông thường nguồn lực vật chất kỹ thuật thể hiện ở:
- Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có được các công nghệ tiên tiến.
- Quy mô và năng lực sản xuất: Quy mô và năng lực sản xuất lớn giúp doanh nghiệp tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn, nhờ đó hạ được giá thành sản phẩm, hơn nữa nó tạo ra nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng hơn,giúp doanh nghiệp hiểu rõ khách hàng từ đó có thể chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tránh sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên để đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải có quy mô sản xuất và mức sử dụng công suất ít nhất phải gần bằng công suất thiết kế. Nếu sử dụng công suất thấp sẽ gây lãng phí và lúc đó chi phí cố định vào giá thành sản phẩm cao làm cho khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm.
Trình độ tổ chức quản lý
Trình độ tổ chức quản lý được thể hiện thông qua cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí và đặc biệt là nề nếp hoạt động của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các thành viên và biến thành sức mạnh tổng hợp thông qua tổ chức doanh nghiệp đó sẽ tận dụng được những lợi thế tiềm ẩn của tổ chức mình. Đây là một đòi hỏi đối vớic các nhà quản trị cấp cao. Không thể nói doanh nghiệp có được một cấu trúc tốt nếu không có một sự nhất quán trong cách nhìn nhận về cơ cấu doanh nghiệp.
Một cơ cấu tốt đồng nghĩa với việc có được một cơ cấu phòng ban hợp lý, quyền hạn và trách nhiệm được xác định rõ ràng. Bên cạnh đó ở mỗi phòng ban việc thực hiện tốt nề nếp tổ chức cũng ảnh hưởng rất lớn tới phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện môi trường của doanh nghiệp. Một nề nếp tốt có thể dẫn dắt mọi người tích cực hơn trong công việc và lôi cuốn họ vào quá trình đạt tới những mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Hoạt động Marketing.
Ngày nay Marketing là một hoạt động không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. ở đây nhiệm vụ chính là phân tích các nhu cầu thị hiếu, nhu cầu thị trường và hoạch định các chiến lược hữu hiệu về sản phẩm, giá cả, giao tiếp và phân phối phù hợp với thị trường mà doanh nghiệp đang vươn tới từ đó xây dựng mạng lưới phân phối với số lượng, phạm vi và mức độ kiểm soát phù hợp đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhất. Có thể nói để tạo ra sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường hoạt động Marketing là một yếu tố không thể thiếu.
Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá.
Sản phẩm.
Đây cũng là một chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp. Một doanh nghiệp khi thâm nhập vào một thị trường có thể với một sản phẩm hoặc nhiều sản phẩm. Nếu sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu thị trường thì sẽ làm tăng sức cạnh tranh các mặt hàng của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần phải luôn hoàn thiện sản phẩm bằng cách đưa ra sự thay đổi lớn những sản phẩm sẵn có, mở rộng chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp, rập mẫu, bắt chước những sản phẩm đã có trên thị trường của doanh nghiệp khác, cải tiến mẫu mã, đồng thời doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá sản phẩm không chỉ là để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà còn là biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh khi cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt.
Do vậy, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, đồng thời cũng quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
Giá thành và giá cả.
Giá thành của sản phẩm là giá trị của tất cả các yếu tố đầu vào hình thành nên sản phẩm như: nguyên vật liệu, nhân công, công nghệ sản xuất...Từ giá thành của sản phẩm sẽ xác định được giá bán trên thị trường. Do vậy, muốn có giá bán sản phẩm thấp thì doanh nghiệp phải tìm các hạ giá thành tức là phải tận dụng hợp lý các nguồn lực sẵn có như tài nguyên phong phú nguồn nhân lực dồi dào, đồng thời đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý...có như vậy mới hạ được giá thành sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá.
Giá của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu tức là thông qua sự thoả thuận giữa người mua và người bán để đi tới mức giá mà cả hai bên đều thấy có lợi và chấp nhận được. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của các doanh ngghiệp thì khách hàng có quyền lựa chọn cho mình sản phẩm tốt nhất và cùng một loại sản phẩm thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn sản phẩm có giá bán thấp hơn. Vì vậy giá cả là công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường. Doanh nghiệp có thể định giá bán thấp, bằng hoặc cao hơn giá thị trường. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sụ lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm từng giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
Chất lượng sản phẩm.
Ngày nay, do đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao nên người tiêu dùng yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn cho những sản phẩm cùng loại có chất lượng tốt hơn hẳn. Vì vậy, chất lượng sản phẩm là chỉ tiêu quan trọng nhất biểu hiện khả năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng các thông số kỹ thuật có thể được đo lường hoặc so sánh được nhằm thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế đến khâu sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố: máy móc thiết bị, nguyên vật liêu, trình độ tay nghề của người lao động, trình độ quản lý, hệ thống dịch vụ khách hàng...
Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định khả năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp ở chỗ:
Chất lượng sản phẩm tăng sẽ làm tăng giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm.
Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng sản phẩm bán ra và kéo dài chu kỳ sống cuỉa sản phẩm, từ đó làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Sản phẩm có chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp từ đó thị phần của doanh nghiệp sẽ được mở rộng.
Vì thế, vấn đề chất lượng sản phẩm là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với một doanh nghiệp bởi vì chất lượng sản phẩm thấp cũng đồng nghĩa với việc giảm uy tín, mất khách hàng và nhanh chóng phá sản. Điều này càng quan trọng hơn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì họ phải đương đầu với các công ty đa quốc gia có vốn lớn, có tiềm lực về công nghệ, kinh nghiệm và uy tín từ rất lâu.
Dịch vụ.
Dịch vụ cũng là một chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm này so với sản phẩm khác. Dịch vụ là một công cụ cạnh tranh hết sức phổ biến trên thị trường quốc tế, đó có thể là dịch vụ trước khi bán, dịch vụ bán hàng tận nơi cho khách hàng, dịch vụ sau bán hàng... Cạnh tranh bằng dịch vụ ngày càng được sử dụng phổ biến hơn và đa dạng hơn, nhất là khi lĩnh vực dịch vụ đang tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Cạnh tranh bằng dịch vụ có hiệu quả rất cao vì khi đó khách hàng thấy mình được tôn trọng hơn và do đó họ sẽ cảm tình với sản phẩm và doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp được hình thành dựa trên chất lượng, giá trị sử dụng của sản phẩm các dịch vụ sau bán hàng, thời gian giao hàng, quy mô của doanh nghiệp...Một doanh nghiệp có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với việc có được lợi thế trong cạnh tranh. Khách hàng khi đó tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao, dịch vụ sau bán hàng tốt...Do đó sản phẩm của doanh nghiệp khi đưa ra thị trường có thể nhanh chóng thu hút được người tiêu dùng. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm một phần chi phí cho việc thu hút khách hàng, khách hàng sẽ trung thành với doanh nghiệp hơn.
III. Các công cụ và phương thức để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Các công cụ cạnh tranh phổ biến.
Chất lượng hàng hoá.
Đây là một công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Người tiêu dùng thường quan tâm đến chất lượng khi lựa chọn một sản phẩm nào đó, họ sẵn sàng trả giá cao hơn để có được một sản phẩm chất lượng tốt hơn. Thông thường cạnh tranh về sản phẩm thể hiện chủ yếu qua những mặt sau:
Cạnh tranh về trình độ sản phẩm: Chất lượng sản phẩm, tính hữu dụng của sản phẩm, bao bì. Tuỳ theo những sản phẩm khác nhau mà ta lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau có tính chất quyết định trình đọ của sản phẩm.
Cạnh tranh về chất lượng: Tuỳ theo từng sản phẩm khác nhau với các đặc điểm khác nhau để ta lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm khác nhau, càng tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi trên thị trường.
Cạnh tranh về bao bì: Cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm cho phù hợp. Cơ cấu thường thay đổi theo sự thay đổi của thị trường, đặc biệt là những cơ cấu có xu hướng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
Cạnh tranh về nhãn mác, uy tín sản phẩm: Đây là công cụ mà doanh nghiệp sử dụng để đánh vào trực giác của người tiêu dùng.
Cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kì sống của sản phẩm: Sử dụng biện pháp này doanh nghiệp cần phải có những quyết định sáng suốt để đưa ra một sản phẩm mới hoặc dừng việc cung cấp một sản phẩm đã lỗi thời.
Giá cả hàng hoá.
Giá là một công cụ quan trọng trong cạnh tranh thường được sử dụng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bước vào một thị trường mới. Cạnh tranh về giá thường được thể hiện qua các biện pháp sau:
Kinh doanh với chi phí thấp
Bán với mức giá hạ và mức giá thấp.
Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như chênh lệch giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh thì lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Vì lẽ đó sản phẩm của doanh nghiệp sẽ ngày càng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng, điều đó sẽ đưa doanh nghiệp lên vị trí cạnh tranh ngày càng cao.
Để đạt được mức giá thấp doanh nghiệp cần xem xét khả năng hạ giá sản phẩm của doanh nghiệp mình, khả năng đó phụ thuộc vào:
Chí phí về kinh tế thấp.
Khả năng bán hàng tốt, do có khối lượng bán lớn.
Khả năng về tài chính tốt
Như đã trình bày ở trên, hạ giá thành là phương pháp cuối cùng mà doanh nghiệp sẽ thực hiện trong cạnh tranh bởi hạ giá thành ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp.Vì vậy doanh nghiệp cần phải lựa chọn thời điểm để tiến hành sử dụng giá cả làm vũ khí cạnh tranh. Như thế doanh nghiệp phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa giá cả và các bộ phận về chiết khấu với những phương pháp bán mà doanh nghiêp đang sử dụng, với những phương pháp thanh toán, với xu thế, trào lưu của người tiêu dùng.
Đồng thời, do đặc điểm ở từng vùng thị trường khác nhau là khác nhau nên doanh nghiệp cũng cần phải có những chính sách giá hợp lý ở từng vùng thị trường.
Một điểm nữa doanh nghiệp cần phải quan tâm là phải kết hợp giữa giá cả của sản phẩm với chu kỳ sản phẩm đó, việc kết hợp này cho phép doanh nghiệp khai thác được tối đa khả năng tiêu thụ của sản phẩm, cũng như không bị mắc vào những lỗi lầm trong việc khai thác chu kì sống, đặc biệt là các sản phẩm đang đứng trước sự suy thoái.
Cạnh tranh về phân phối và bán hàng.
Cạnh tranh về phân phối và bán hàng được thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:
Khả năng đa dạng hoá các kênh và chọn được các kênh chủ lực. Ngày nay các doanh nghiệp thường có cơ cấu sản phẩm rất đa dạng, với mỗi sản phẩm có một kênh phân phối khác nhau.Việc phân định đâu là kênh phân phối chủ lực có ý nghĩa quyết định trong việc tối thiểu hóa chi phí dành cho tiêu thụ sản phẩm.
Tìm được những người điều khiển đủ mạnh. Đối với các doanh nghiệp sử dụng các đại lý độc quyền thì phải xem xét đến sức mạnh của các doanh nghiệp thương mại làm đại lý cho doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, có vốn lớn và đủ sức chi phối được lực lượng bán hàng trong kênh trên thị trường
Có hệ thống bán hàng phong phú. Đặc biệt là hệ thống các kho, các trung tâm bán hàng. Các trung tâm này phải có được cơ sở vật chất hiện đại.
Có nhiều biện pháp để kết dính các kênh lại với nhau. Đặc biệt là những biện pháp quản lý và điều khiển người bán.
Có khả năng hợp tác giữa người bán trên thị trường nhất là trên các thị trường lớn.
Có các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hợp lý.Kết hợp hợp lý giữa phương thức bán hàng và phương thức thanh toán.
Các dịch vụ bán và sau khi bán chủ yếu là:
Tạo ra các điều kiện thuận lợi nhất trong khi thanh toán.
Có chính sách tài chính và tiền tệ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán với khách hàng.
Có hệ thống thanh toán nhanh, hợp lý vừa tạo điều kiện thanh toán nhanh vừa đảm bảo công tác quản lý của doanh nghiệp.
Có phương tiện bán văn minh, các phương tiện tạo ưu thế cho khách hàng, tạo điều kiện để có công nghệ bán hàng đơn giản hợp lý. Nắm được phản hồi của khách hàng nhanh nhất và hợp lý nhất.
Bảo đảm lợi ích của người bán và người mua, người tiêu dùng tốt nhất và công bằng nhất. Thường xuyên cung cấp những dịch vụ sau khi bán cho người sử dụng, đặc biệt là những sản phẩm có bảo hành hoặc hết thời gian bảo hành. Hình thành mạng lưới dịch vụ rộng khắp ở những địa bàn dân cư.
Hình ảnh nhãn hiệu sản phẩm và công ty.
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm giành giật khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng, thanh toán như: quy ước về giá cả, số lượng, kích cỡ, mẫu mã bằng văn bản hoặc bằng miệng hay thanh toán với các hình thức như bán trả góp, bán chịu, bán gối đầu... Những hành vi này sẽ thực hiện được tốt hơn khi giữa doanh nghiệp và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy chữ tín trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh, nó tạo ra cơ hội cho những người ít vốn có điều kiện tham gia kinh doanh, do đó mở rộng được thị phàn hàng hoá, tạo ra sức mạnh cho doanh nghiệp.
Các phương thức để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Chính sách về sản phẩm.
Sản phẩm – hàng hoá là tất cả những các những yếu tố có thể làm thoả mãn nhu cầu hay ước muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và có khả năng đưa ra chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sụ chú ý mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng.
Căn cứ vào điều kiện tình hình của công ty công ty có thể đưa ra các chính sách về sản phẩm. Công ty có thể sử dụng một số chính sách sau
Tìm kiếm những công dụng mới cho sản phẩm.
Việc tìm kiếm các công dụng mới cho sản phẩm có thể được căn cứ sau:
Những ứng dụng liên quan của sản phẩm tức là những tính năng công dụng mới của sản phẩm trên thị trường
Những các thức sử dụng sản phẩm khác nhau khi kết hợp với một sản phẩm khác.
Khả năng áp dụng các sản phẩm tiêu dùng đại trà cho thị trường công nghiệp và ngược lại
Liệt kê những thuộc tính tối thiểu của sản phẩm hay các thành phần có gợi ý những công dụng mới.
Tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm.
Tiêu chuẩn hoá kỹ thuật của sản phẩm có ảnh hưởng sống còn tới khả năng thâm nhập thị trường của một doanh nghiệp. Dù doanh nghiệp có thể đã cố gắng rất nhiều để đảm bảo về mặt giá cả thời hạn giao hàng nhưng nêú sản phẩm ấy không đáp úng tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường thì sản phẩm đó cũng không được chấp nhận. Nhận thức được điều này, các doanh nghiệp luôn có gắng phấn đấu sản xuất các sản phẩm đạt được tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn kỹ thuận của từng thị trường
Đa dạng hoá chủng loại hàng hoá.
Cùng với việc tiến hành tìm kiếm những công dụng mới cho sản phẩm, công ty tiến hành nghiên cứu tạo ra các loại sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường tìm kiếm đoạn thị trường mới, khách hàng mới
Giá cả.
Mặc dù nhìn chung trên thị trường thế giới cạnh tranh giá đã từng bước chuyển sang cạnh tranh về chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng nhưng nhiều lúc nhiều nơi và nhiều lĩnh vực cạnh tranh giá cả vẫn diễn ra rất gay gắt. Giá cả là lĩnh vực thể hiện sự cạnh tranh giành lợi ích kinh tế và vị trí độc quyền của các doanh nghiệp. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm các công ty sử dụng một số phương thức sau:
Chiết giá và bớt giá.
Để khuyến khích khách hàng mua và thanh toán, các công ty có thể điều chỉnh mức giá cơ bản của mình và được gọi là hình thức chiết giá và bớt giá.
Chiết giá vì mua số lượng lớn đó là việc giảm giá cho những người mua, những khối lượng lớn trong một lần mua hoặc trong một thời gian nhất định. Loại chiết khấu này khuyến khích người mua gia tăng khối lượng của một hợp đồng và mua tập trung nhiều lần ở một người bán.
Chiết khấu chức năng (chiết khấu thương mại) là loại chiết giá người sản xuất áp dụng cho các thành viên trong kênh phân phối. Phần chiết giá này phải bao gồm 2 bộ phận: chi phí mà các thành viên trong kênh phân phối phải bỏ ra để tiến hành các hoạt động phân phối hàng hoá theo chức năng của họ và lãi thoả đáng cho những nỗ lực và gánh chịu rủi ro của những thành viên trong kênh phân phối.
Chiết khấu thời vụ là việc giảm giá cho những khách hàng mua hàng hoặc dịch vụ trái vụ.
Chiết giá khuyến khích việc thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán nhanh.
Bớt giá là việc giảm giá bán so với biểu gia đã quy định.
Định giá khuyến mại là hình thức điều chỉnh giá bán tạm thời nhằm mục đích hỗ trợ cho các hoạt đông súc tiến bán hàng bao gồm một số hình thức sau:
Định giá để nôi kéo khách hàng.
Định giá cho những đợt bán hàng đặc biệt.
Giá trả góp bán hàng theo phiếu mua hàng
Chiết giá về tâm lý
Định giá phân biệt Các công ty có thể điều chỉnh mức giá cơ bản để phù hợp với những điều kiện khác biệt của khách hàng, của sản phẩm hoặc của những yếu tố khác chứ không phải vì chi phí.
Chính sách khuyếch trương sản phẩm
Khuyếch trương bao gồm nhiềm hoạt động khác nhau nhằm mục đích cung cấp và truyền thông tin về sản phẩm, về lợi ích của nó đến người cung cấp, khách hàng và người sử dụng cuối cùng để tạo ra và phát triển nhận thức, sự hiểu biết và lòng ham muốn mua hàng của người mua và người tiêu thụ. Hoạt động khuyếch trương sản phẩm gồm các phương thức sau:
Quảng cáo là một kiều truyền thông có tính đại chúng, mang tính xã hội cao. Nó yêu cầu hàng hoá phải hợp pháp và được mọi người chấp nhận. Quảng cáo là một phương tiện có khả năng thuyết phục, tạo cơ hội cho người nhận tin so sánh thông tin với các đối thủ cạnh tranh làm tăng tính thuyết phục với khách hàng mục tiêu.
Với ngôn ngữ quảng cáo phong phú đa dạng, phương tiện quảng cáo phổ cập và tiện lợi, quảng cáo mở ra khả năng giới thiệu hàng hoá của công ty, dịch vụ bán ra cũng như uy tín thế lực của công ty một cách hiệu quả và trực diện. Các phương tiện quảng cáo các công ty thường sử dụng là báo, tạp chí, ti vi, rađio, ngoài ra các công ty còn quảng cáo qua panô áp phích, qua catalog, qua thư bao bì, qua sản phẩm khác và qua truyền miệng, telemarketing, computer marketing v.v. Mỗi loại phương tiện đều có những lợi thế và tác dụng nhất định.
Xúc tiến bán hàng là nhóm công cụ truyền thông sử dụng hỗn hợp các công cụ cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhanh nhu cầu về sản phẩm tại chỗ tức thì. Thực chất đây là các công cụ kích thích để thúc đẩy các khâu: cung ứng, phân phối và tiêu dùng đối với một hoặc một nhóm các sản phẩm của công ty.Các hình thức chủ yếu của xúc tiến bán hànglà:
Thay đổi hình thức sản phẩm: những thay đổi về bao gói, cách đóng mở, thay đổi nhãn hiệu hay các biện pháp khác làm cho sản phẩm hấp dẫn hơn đối với người mua.
Khuyến khích mua hàng: đó là các biện pháp khuyến khích thông qua các hình thức thanh toán bằng tiền mặt, hàng hoá hoặc bằng bất cứ thứ gì khác để tạm thời tăng giá trị sản phẩm đối với người phân phối hoặc người tiêu thụ. Phương pháp nay bao gồm bớt tiền cho người mua nhiều, hạ giá tạm thời, bán trả góp, thưởng cho người mua nhiều bằng một sản phẩm khác.
Trưng bày các tài liệu về sản phẩm tại điểm bán.
Các mẫu hàng.
Các hoạt động yểm trợ sản phẩm đây là những hoạt động liên quan đến các dịch vụ sản phẩm và thông tin mà nhà sản xuất cung cấp thêm cho người sử dụng sản phẩm của họ. Những dịch vụ chủ yếu là:
Catalog
Xuất bản phẩm về doanh nghiệp
Phim ảnh.
Xây dựng các mối liên hệ với công chúng đây là những hoạt động yểm trợ quan trọng, bao gồm nhiềm hoạt động phong phú và đa dạng chủ yếu là:
Quan hệ báo chí.
Triển lãm hội chợ và phòng trưng bày.
Tính tất yếu của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
ở nước ta trước đây với cơ chế tập trung bao cấp, nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tất cả mọi vấn đề, từ cấp vốn, nguyên vật liệu cho tới phân phối và tiêu thụ. Như vậy các doanh nghiệp Nhà nước không phải lo cạnh tranh với một đối thủ nào bởi khi đó các thành phần kinh tế khác chưa được phát triển rộng raĩ. Vì các nguyên nhân trên mà trong thời kỳ bao cấp cạnh tranh hầu như không có, các doanh nghiệp Nhà nước thì rất thụ động. Chuyển sang nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển sản xuất kinh doanh, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau trước pháp luật thì phần lớn các doanh nghiệp này đều không thích nghi nổi với môi trường mới, không cạnh tranh nổi với các thành phần kinh tế, làm ăn thua lỗ và đi vào phá sản. Điều này cho thấy khi bước sang một cơ chế mới: cơ chế thị trường thì các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đều phải tìm mọi cách để cạnh tranh nhằm tồn tại. Có thể nói cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường, là áp lực buộc các doanh nghiệp phải tìm giải pháp để nâng cao năng suất lao động, đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng và giá cả hợp lý. Do đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ ngày càng mạnh mẽ và khốc liệt hơn.
2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Như ta đã biết trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường cần phải chấp nhận cạnh tranh, tuân theo quy luật cạnh tranh cho dù đôi khi cạnh tranh cũng trở thành con dao hai lưỡi. Một mặt nó đào thải không thương tiếc các doanh nghiệp có chi phí cao, chất lượng sản phẩm tồi, tổ chức tiêu thụ kém, mặt khác nó buộc các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu giảm chi phí để giảm giá bán sản phẩm, hoàn thiện giá trị sử dụng của sản phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ sản phẩm.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển, kinh tế phát triển trên nhu cầu tiêu dùng nâng lên ở mức cao hơn rất nhiều, để đáp ứng kịp thời nhu cầu này các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như giá cả, chất lượng, uy tín ... Hay các yếu tố gián tiếp như hoạt động quảng cáo, hội chợ, các dịch vụ sau bán... Hơn nữa trong một nền kinh tế mở như hiện nay các đối thủ cạnh tranh không chỉ là các doanh nghiệp trong nước mà còn là các doanh nghiệp, công ty nước ngoài có vốn đầu tư cũng như trình độ công nghệ cao hơn hẳn thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam là một tất yếu khách quan cho sự tồn tại và phát triển.
Chương II
Thực trạng hoạt động nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu công ty dệt may Hà Nội.
I. Tổng quan về công ty
1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty.
Công ty dệt may Hà Nội là một công ty lớn thuộc Tổng Công ty dệt may Việt Nam, hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, có con dấu riêng và hoạt động theo luật doanh nghiệp.
Tên Tiếng Việt : Công ty dệt may hà nội
Tên Tiếng Anh : Hà nội Textile and Garment Company
Tên Viết Tắt : Hanosimex
Địa Điểm : Số 1 – Mai Động, Quận Hai Bà Trưng, TP.Hà Nội
Số điện thoại : 84-04-8621024 ; 8621470; 8624611.
Số Fax : 84-04-8622334.
Website : www.hanosimex.com.vn.
Tên gọi trước đây của công ty dệt may Hà Nội là nhà máy sợi Hà Nội hoặc xí nghiệp liên hiệp sợi dệt kim Hà Nội, công ty dệt Hà Nội.
Ngày 7 tháng 4 năm 1978 tổng công ty nhập khẩu thiết bị Việt Nam và hãng Unionmatex (Cộng Hoà Liên Bang Đức) chính thức ký hợp đồng xây dựng nhà máy sợi Hà Nội .
Tháng 2 năm 1979 khởi công xây dựng nhà máy .
Tháng 1-1982: lắp đặt thiết bị.
Ngày 21 tháng 11 năm 1984 chính thức bàn giao công trình cho nhà máy quản lý điều hành (gọi tên là nhà máy sợi Hà Nội).
Tháng 12 năm 1989 đầu tư xây dựng dây chuyền Dệt Kim số I. Tháng 6 năm 1990 đưa vào sản xuất.
Tháng 4 năm 1990 Bộ Kinh Tế Đối Ngoại cho phép nhà máy được kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp (tên giao dịch viết tắt là HANOSIMEX).
Tháng 4 năm 1991 Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định chuyển tổ chức và hoạt động nhà máy Sợi Hà Nội thành Xí Nghiệp Liên Hiệp Sợi –Dệt Kim Hà Nội
Tháng 6 năm 1993 xây dựng dây chuyền dệt kim số II, tháng 3 năm 1994 đưa vào sản xuất .
Ngày 19 tháng 5 năm 1994 khánh thành Nhà máy Dệt Kim (cả hai dây chuyền I và II).
Tháng 10 năm 1993 Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định sáp nhập nhà máy sợi Vinh (tỉnh Nghệ An) và Xí Nghiệp Liên Hợp .
Tháng 1 năm 1995 khởi công xây dựng nhà máy may thêu Đông Mỹ .
Tháng 3 năm 1995 Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định sáp nhập công ty dệt Hà Đông và Xí Nghiệp Liên Hợp .
Tháng 6 năm 1995 Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định đổi Xí Nghiệp Liên Hợp thành Công ty dệt Hà Nội .
Ngày 2 tháng 9 năm 1995 khánh thành nhà máy may thêu Đông Mỹ .
Trong năm 2000 một lần nữa công ty dệt Hà Nội được Bộ Công Nghiệp nhẹ đổi tên thành công ty dệt may Hà Nội (theo quyết định số 103/QĐ/HĐQT ngày 28/2/2000 của chủ tịch hội đồng quản trị tổng công ty dệt may Việt Nam).
Công ty sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực: sợi, dệt, nhuộm, in, trao đổi và buôn bán hàng dệt, may. Bao gồm các loại sản phẩm có chất lượng cao:
Sợi Cotton, Sợi Peco, Sợi PE.
Các loại vải dệt kim : Rib, Interlok, Single.
Các sản phẩm may mặc lót, mặc ngoài bằng vải dệt kim.
Các loại vải dệt thoi, các sản phẩm may mặc bằng vải dệt thoi.
Các loại khăn bông.
Mũ và lều vải.
Công ty chuyên nhập các loại bông, xơ, phụ tùng thiết bị chuyên ngành, hoá chất, thuốc nhuộm.
Các hoạt động thương mại - dịch vụ .
Sản phẩm của công ty được xuất khẩu sang các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, úc, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Thụy Điển, Tiệp Khắc, Nam Phi, khu vực EU. Trong đó nhiều nhất là Nhật Bản chiếm 50% doanh thu xuất khẩu. Đại lý bán buôn bán lẻ của công ty có mặt khắp cả nước đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng.
Công ty dệt may Hà Nội coi chất lượng là mục tiêu hàng đầu trong quá trình sản xuất kinh doanh, luôn đặt ra cho mình có nhiệm vụ thoả mãn mọi yêu cầu của khách hàng. Duy trì nâng cao chất lượng đã đặt ra. Công ty áp dụng tiêu chuẩn ISO- 9002 tại nhà máy sợi, nhà máy dệt nhuộm, nhà máy may I, nhà máy may II và các phòng ban chức năng của công ty.
Công ty luôn duy trì và sản xuất, đạt hiệu quả kinh tế cao. Luôn mở rộng các hình thức kinh doanh mua bán, gia công, trao đổi hàng hoá, sẵn sàng hợp tác cùng các bạn hàng trong nước và ngoài nước để đầu tư thiết bị hiện đại, khoa học công nghệ mới nhằm nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm .
Với thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến trình độ quản lý giỏi, đội ngũ cán bộ có năng lực cao, đội ngũ công nhân lành nghề, sản phẩm của công ty luôn đạt chất lượng cao, được tặng nhiều huy chương vàng và bằng khen tại các hội chợ triển lãm kinh tế .
Qua hơn 10 năm sản xuất kinh doanh, công ty đã đạt được công xuất thiết kế 10.000 tấn sợi/ năm, 7 triệu sản phẩm may/ năm, 6,5 triệu khăn bông/ năm. Chất lượng sản phẩm được nâng cao và duy trì được tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002.
2.Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty; chức năng nhiệm vụ của công ty và các phòng ban .
Sơ đồ cơ cấu bộ máy quản lý của công ty.
Công ty có tổng số nhân viên 4988 người hoạt động tại các trụ sở, các nhà máy, các đại lý bán hàng, chủ yếu tập trung tại Hà Nội, Hà Tây và Vinh với tổng diện tích mặt bằng là 24ha.
Văn phòng chi nhánh ở Thành Phố Hồ Chí Minh mới được thành lập ngày 3 tháng 12 năm 2001
Đứng đầu là tổng giám đốc công ty, là người chịu trách nhiệm trước Nhà Nước, trước cấp trên, cơ quan chủ quản của mình về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, tổ chức đời sống và mọi hoạt động của công ty theo luật doanh nghiệp Nhà nước.
Tổng giám đốc điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty theo các nội quy, quy chế thể chế, nghị quyết được ban hành trong công ty, các quy định thể chế của Bộ Công Nghiệp nhẹ và các chế độ chính sách của Nhà Nước.
Dưới tổng giám đốc có 4 phó tổng giám đốc, có nhiệm vụ tham mưu chính cho tổng giám đốc, giúp tổng giám đốc trong việc điều hành sản xuất kinh doanh của công ty theo sự phân công uỷ quyền, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc, trước pháp luật về những công việc được phân công. Căn cứ vào quy chế của công ty thường xuyên hướng dẫn đôn đốc, kiểm tra các đơn vị thực hiện nghiêm túc và báo cáo tổng giám đốc công ty về những phần việc được phân công phụ trách.
Để giúp tổng giám đốc trong công tác quản lý điều hành công ty, ngoài các phó tổng giám đốc còn có các phòng ban tham mưu nghiệp vụ, các nhà máy phân xưởng được giao nhiệm vụ cụ thể và phải chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc công ty về những nhiệm vụ đã được giao.
Cơ cấu tổ chức của công ty theo kiểu trực tuyến đã giúp cho công ty sử dụng khá tốt khả năng chuyên môn của các thành viên. Đồng thời điều đó giúp cho công ty nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi trên thị trường cũng như trong kinh doanh qua đó có thể thực hiện được các hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn.
Cơ cấu tổ chức của công ty theo mô hình trực tuyến.
Chức năng, nhiệm vụ
Chức năng, nhiệm vụ của Công ty
Công ty dệt may Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn như các doanh nghiệp Nhà nước khác là định hướng phát triển cho các thành phần kinh tế khác nhau. Ngoài ra, Công ty còn có nhiệm vụ chủ yếu như cung cấp hàng tiêu dùng, may mặc trong nước, tạo công ăn việc làm, góp phần t._.rường trong nước thì giá cả lại cao hơn giá mặt hàng cùng loại của đối thủ cạnh tranh rất nhiều trong khi chất lượng lại không cao hơn là mấy và mẫu mã lại tương tự thì khi người tiêu dùng trong nước lựa chọn với một số tiền có hạn thì rõ ràng họ sẽ không chọn hàng của doanh nghiệp.
Vì vậy, doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh thị trường trong nước cũng như xuất khẩu thì doanh nghiệp phải lựa chọn sản xuất các mặt hàng có thể có chất lượng thấp hơn, bán với giá rẻ hơn theo hình thức giá thấm dần hoặc là sản xuất các sản phẩm cao cấp hơn hẳn với các nhãn hiệu nổi tiếng, có uy tín trên thế giới và bán với mức gia cao hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh khác theo chính sách hớt váng sữa.
Đối với các khách hàng quen thuộc, doanh nghiệp nên giảm giá để giữ được lượng khách hàng ngày một ổn định. Doanh nghiệp cũng có thể đưa ra các chính sách khuyến khích khách hàng tuỳ thuộc vào từng thời điểm, mục tiêu và khả năng của mình. Đồng thời công ty nên tiến hành đổi mới máy móc thiết bị nâng cao năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm.
Làm được điều này, doanh nghiệp có thể tăng dần được tỷ trọng xuất khẩu trong doanh thu của mình, thu được nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Vấn đề hình ảnh uy tín của sản phẩm.
ở công ty dệt may Hà Nội hiện nay, sản phẩm chỉ được biết là được sản xuất tại Việt Nam thông qua vài dòng chữ ghi trên conteiner, mà đặc biệt không có chút thông tin nào về sản phẩm. Nhưng trong tương lai, để làm cho hình ảnh của sản phẩm (bán FOB) và công ty có trong tiềm thức của quảng đại người tiêu dùng, sản phẩm của công ty phải mang nhãn hiệu, tên hoạc biểu tuợng của công ty. Việc ghi nhãn và bao bì giúp nguời tiêu dùng có đủ thông tin trung thực về chất lượng và nguồn gốc của sản phẩm. Trong thực tiễn, nhãn hiệu hàng hóa là một công cụ cạnh tranh đảm bảo lợi thế trên thị trường nước ngoài. Việc gắn tên mác vào sản phẩm không chỉ đơn thuần để xác nhận sản phẩm của công ty và để phân biệt với sản phẩm của công ty khác, mà còn để duy trì một danh tiếng.
Đối với công ty, việc sản xuất gia công và gắn tên, mác nuớc ngoài có thể có thuận lợi cho công ty không phải lo lắng trong khâu tiêu thụ trực tiếp với ngưòi tiêu dùng, nhưng có bất lợi là về lâu dài công ty không khẳng định được mình trên thị trường. Tuy nhiên, điểm bất lợi này có thể được khắc phục trong ngày một ngày hai. Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nhất là thị trường các nước công nghiệp phát triển, việc tạo uy tín qua nhãn hiệu hàng hoá sẽ gặp phải những khó khăn nhất định và công ty cần phải khắc phục những khó khăn đó trong phạm vi cố thể.
Kỹ thuật: hàng hoá đã đăng ký nhãn hiệu phải đảm bảo chất lượng ổn định, công ty không nên để tính chất lao động thủ công ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm.
Tài chính: chi phí cho các hoạt động quảng cáo, xúc tiến ...là rất cao, do đó công ty cần sử dụng và kết hợp chi tiêu một cách hợp lý và có hiệu quả.
Cung cấp: sản phẩm đã có nhãn hiệu phải đảm bảo lúc nào cũng cung cấp đủ nhu cầu thị trường, nếu chỉ vắng bóng trên thị trường một thời gian vì một lý do nào đó sẽ bị lu mờ và bị sản phẩm khác thế chỗ.
Vị trí của những người đến sau thường thấp và không có được thị phần lớn. Nhưng khi đã có đủ điều kiện, công ty cần mạnh dạn gắn nhãn mác riêng của mình lên sản phẩm, bước đầu có thể gặp khó khăn do chưa được người mua tin tưởng, song nếu không có bước đầu đó công ty sẽ không bao giờ đến được với khách hàng bằng chính tên tuổi của mình .
Nâng cao hiệu quả của hoạt động Marketing.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt thì hoạt động Marketing góp phần không nhỏ vào việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Trong thời gian qua việc thực hiện các hoạt đông Marketing của công ty chưa tốt do vậy mà hàng hoá chưa tạo được chỗ đứng vững chắc trên các thị trường xuất khẩu, bạn hàng chưa ổn định. Do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra cho công ty là phải nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing, muốn vậy công ty cần làm tốt các mặt sau:
Quảng cáo.
Quảng cáo cho sản phẩm và cho công ty tại các thị trường mục tiêu như EU, Nhật Bản, Mỹ. Ngoài quảng cáo giới thiẹu chung về công ty, cần phải có nội dung quảng cáo chi tiết về sản phẩm mũi nhọn. Tuỳ vào yêu cầu khuyếch trương sản phẩm và khả năng tài chính có thể có các phương thức quảng cáo thích hợp từ các ấn phẩm, các của hàng đại lý đến các phương tiện phát thanh truyền hình...
Về hoạt động yểm trợ sản phẩm.
Đây là những hoạt động có liên quan đến các dịch vụ sản phẩm và các thông tin mà công ty cung cấp thêm cho khách hàng. Các dịch vụ sản phẩm chủ yếu là catalogue, xuất bản phẩm về công ty, phim ảnh (cung cấp thông tin bằng những hình ảnh sống cho khách hàng nước ngoài).
Các công tác xúc tiến bán hàng.
Công ty cần duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng thông qua các hội chợ thời trang tiêu dùng trong nước và quốc tế bằng những mẫu mã luôn thay đổi, phong phú nhưng thích hợp với thị hiếu tiêu dùng từng thời kỳ. Hoạt động này thực sự có ý nghĩa đối với công ty trong việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, vì thị trường dệt may đang có sức cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất, các sản phẩm tương đối giống nhau về chất lượng giá cả, khối lượng hàng bán lại phụ thuộc vào mức độ quen biết giữa công ty với khách hàng. Các hình thức chủ yếu của xúc tiến bán hàng là thay đổi hình thức mẫu mã sản phẩm, khuyến khích mua hàng (giảm giá, tạng quà, bán trả góp...), trưng bày catalogue tại điểm bán hàng. Ngoài ra các của hàng bán lẻ của công ty phải được trang hoàng đẹp, đầy đủ về mẫu mã, việc thử hoặc đổi hàng phải được tạo điều kiện thuận lợi nhất. Khi đã có đủ tiềm lực về tài chính, ngoài việc tham gia trình diễn thời trang hay các cuộc giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ, công ty có thể tự tổ chức địng kỳ các buổi trình diễn thời trang trong nước và tại các hội chợ trong và ngoài nước để tạo ra phong cách và ấn tượng riêng của công ty và sản phẩm.
Về các kênh phân phối sản phẩm.
Vấn đề tìm kênh tiêu thụ sản phẩm cũng là vấn đề hết sức quan trọng đối với công ty, bởi vì sau khi loại bỏ hình thức gia công theo đơn đặt hàng, công ty sẽ phải lỗ lực hoàn toàn từ khâu tìm nguyên liệu đến khâu sản xuất sản phẩm. Việc thâm nhập thị trường quốc tế lại rất khó khăn vì khả năng tiếp xúc trực tiếp bằng sản phẩm và con người của công ty với khách hàng mục tiêu sẽ gặp phải những hạn chế về tập quán giao dịch quốc tế, ngôn ngữ. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần phối hợp với các công ty dệt may trong nước và ngoài nước để tạo lập các kênh phân phối trên các thị trường chủ yếu bằng cách lập các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các nước EU, Nhật Bản, Mỹ, hoặc thông qua các hãng, các tập đoàn dệt may lớn đã có quan hệ làm ăn lâu dài để phân phối sản phẩm tiêu dùng của mình tới người tiêu dùng quốc tế, hoặc thông qua các thương nhân Việt Nam ở nước ngoài để tạo lập từng bước, quan hệ với từng khu vực thị trường - đặc biệt là các thị trường mới đầy tiềm năng như Bắc Mỹ.
Đa dạng hoá sản phẩm và xây dựng mặt hàng chiến lược.
Hiện nay, khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là tìm được đầu ra cho sản phẩm. Để giải quyết khó khăn đó, doanh nghiệp chỉ có con đường là đa dạng hoá sản phẩm.
Lý do khiến doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm là vì nhu cầu dệt may trên thế giới vô cùng đa dạng và phong phú, mỗi một dân tộc, một quốc gia, một tôn giáo, một giới tính, một mức thu nhập, một lứa tuổi... khác nhau lại có những nhu cầu ăn mặc rất khác nhau. Tại các quốc gia Châu Phi, những bộ quần áo có mầu sắc sặc sỡ rất được ưa thích nhưng ở Châu Âu lại đòi hỏi những bộ quần aó trang nhã lịch sự. Những trang phục thể thao, mạnh mẽ thu hút được sự quan tâm của tầng lớp thanh niên nhưng lại không được những người lớn tuổi chấp nhận. Cùng một bộ quần áo như nhau, nhưng chất liệu bình dân thích hợp với những người có thu nhập trung bình, thì với người có thu nhập cao phải là chất liệu cao cấp. Những ví dụ như vậy còn rất nhiều, do vậy, để tiêu thụ được nhiều sản phẩm nhất, các doanh nghiệp phải làm ra nhiều sản phẩm khác nhau để đáp ứng nhu cầu không giống nhau của thị trường.
Hiện nay, hàng dệt may của công ty xuất khẩu chủ yếu sang thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ, Đông Âu...Những yêu cầu về sản phẩm khác nhau của các thị trường này cũng là một yếu tố khách quan đòi hỏi doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm. Nhật bản và EU là những thị trường có đòi hỏi cao về chất lượng. Thị trường Nhật có yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm, chỉ một vết xước nhỏ trên mặt vải cũng đủ để coi sản phẩm là hỏng tại thị trường này, nên cần hết sức chú trọng đến chất lượng sản phẩm, tập trung xuất khẩu hàng cao cấp có giá trị lớn. Tại thị trường EU, do phải sản xuất theo hạn ngạch nên cũng cần thiết phải chú trọng đến chất lượng để nâng cao giá trị sản phẩm nhưng có thể đưa vào các sản phẩm bình dân phục vụ những người có thu nhập trung bình thấp. Hơn nữa, khi EU xoá bỏ chế độ hạn ngạch với Việt Nam 1/1/2005 thì việc đưa vào thị trường này những sản phẩm bình dân bên cạnh các sản phẩm cao cấp là hợp lý nhằm tận dụng khả năng sản xuất trong nước và khai thác ttriệt để thị trường. Với thị trường Mỹ, đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết vì đây là thị trường có nhu cầu hết sức đa dạng. Mỹ là một đất nước đa sắc tộc, người Mỹ có phong cách thoải mái, sống thực dụng nên thị trường này chấp nhận từ những trang phục sang trọng phục vụ các nhà tư bản giàu có đến những bộ quần áo bình dân phục vụ những người dân lao động. Do vậy, đây là thị trường rất lớn để doanh nghiệp khai thác với nhiều mặt hàng khác nhau, từ cao cấp đến bình dân.
Tuy nhiên, đa dạng hoá sản phẩm không phải là mỗi doanh nghiệp có thể sản xuất tất cả các mặt hàng. Tại mỗi doanh nghiệp, bên cạnh khả năng sản xuất đa dạng, cần phải xây dựng lấy một vài sản phẩm mũi nhọn để làm đầu tầu kéo các sản phẩm khác của doanh nghiệp phát triển theo. Sản phẩm mũi nhọn còn có tác dụng như một vũ khí mang tính chiến lược, đặc biệt là khi xâm nhập một thị trường mới. Trong xây dựng một sản phẩm mũi nhọn, cần chú trọng nghiên cứu, lựa chọn xây dựng các sản phẩm dựa trên truyền thống sản xuất, nhu cầu thị trường và lợi thế so sánh của doanh nghiệp, tạo dựng được nhãn hiệu hàng hoá, xây dựng được hình tượng của đơn vị. Ngoài ra, cần chú ý nghiên cứu các nguyên liệu mới, công nghệ sản xuất mới nhằm tìm ra được các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, có tính độc đáo. Trên cơ sở đó mà chiếm lĩnh được thị phần nhất định trên thị trường. Khi có sản phẩm mới ra, cần bắt tay ngay để nghiên cứu tiếp tục có những sản phẩm mới, làm hậu phương vững chắc trong tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường
Đẩy mạnh nghiên cứu thiết kế mẫu mốt, sản xuất thử mặt hàng mới.
Đối với hàng dệt may, ngoài tiêu chuẩn tốt, bền, giá rẻ thì tính thời trang, kiểu dáng của sản phẩm có vai trò rất quan trọng. Thực tế ở nhiều thị trường, cả trong nước và thế giới, người tiêu dùng rất coi trọng đến mẫu mã hàng dệt may, họ sẵn sàng bỏ nhiều tiền hơn để chi trả cho một sản phẩm có chất lượng như các sản phẩm khác nhuưng có kiểu dáng vượt trội.
Hiện nay, tại Việt Nam, nghiên cứu thiết kế mẫu thời trang còn mới mẻ, chưa có kinh nghiệm, giao lưu với các nhà tạo mẫu thời trang quốc tế còn hạn chế, tiếp cận với thị trường thế giới còn quá ít, chưa đáp ứng được yêu cầu trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm may mặc chủ yếu được làm theo mẫu do khách hàng nước ngoài đưa sẵn, hoặc làm theo kiểu sao chép- cắt dán từ những mẫu có sẵn của nước ngoài. Các cơ sở thiết kế mẫu trong nước là viện mẫu thời trang hay các nhà nghiên cứu tạo mẫu thời trang, các nhà may nổi tiếng ở Hà Nội, Tp HCM với cơ sở vật chất và đội ngũ nhân lực còn yếu, thiếu kiến thức về sáng tác, thiết kế mẫu thời trang, thiếu thông tin nên chỉ đáp ứng được khoảng 10-20% yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Để cải thiện khả năng thiết kế mẫu thời trang, doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với các cơ sở nghiên cứu thông qua đặt các đơn hàng, vừa tạo điều kiện để các cơ sở này nâng cao năng lực của mình, vừa đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp vì làm mẫu tại cơ sở chuyên nghiệp chắc chắn sẽ rẻ hơn tự doanh nghiệp xây dựng cho mình một đội ngũ thiết kế mẫu. Bởi lẽ các cơ sở này nắm bắt thường xuyên hơn nhu cầu, thị hiếu trên thị trường, có đội ngũ nhân lực lành nghề trong lĩnh vực tạo mốt, có những thiết bị chuyên dụng...Ngoài ra, khi có được mẫu mốt cần mạnh dạn tổ chức triển khai sản xuất thử và khi thành công thì nhanh chóng đưa ra để chiếm lĩnh thị trường. ở đây, cũng cần có sự hỗ trợ tích cực của chính phủ trong việc bảo hộ bản quyền, kiểu dáng công nghiệp, chống hàng giả... nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp phải bỏ ra nhiều kinh phí vào việc tìm ra một sản phẩm mới nhưng chỉ sau khi lô hàng đầu tiên được đưa ra thì đã bị làm giả, làm nhái, gây thiệt hại không nhỏ. Đây có lẽ cũng là một lý do khiến doanh nghiệp ngại không đầu tư vào thiết kế mẫu. Song trong tương lai, doanh nghiệp nên có kế hoạch xây dựng một phòng thiết kế mẫu cho riêng mình. Bởi lẽ, trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại bằng chính thực lực và sự am hiểu thị trường của chính mình, tránh những thông tin giả của đối thủ cạnh tranh tung ra.
2.2. Kiến nghị đối với nhà nước.
Để nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, bên cạnh những lỗ lực của doanh nghiệp cần có những sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
Chính sách về thị trường.
Để có được chính sách thị trường thích hợp, thúc đẩy sự phát triển để xuất khẩu của ngành dệt may trước hết cần thấy được các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường. Đó là:
Uy tín của sản phẩm. Việc tạo được uy tín cho một sản phẩm trên một thị trường là cực kỳ khó khăn. Nó bao gồm từ việc xây dựng mẫu mã chất lượng, chủng loại, kiểu cách sản phẩm đến các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng. Đối với công ty, có được uy tín với khách hàng không những nâng cao doanh số tiêu thụ mà còn có nghĩa là đã có khả năng chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp. Khi đó, bên cạnh sự phát triển của ngành dệt may và các ngành có liên quan, hiệu quả thu ngoại tệ cũng tăng nên đáng kể.
Quan hệ chính trị ảnh hưởng tới quan hệ thương mại. Quan hệ thương mại chỉ là một bộ phận trong quan hệ kinh tế đối ngoại nhưng lại là một bộ phận thu ngoại tệ trực tiếp cho đất nước. Sự tham gia phân công lao động quốc tế trên phạm vi toàn cầu và khu vực thông qua ngoại thương đã đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân và thu ngoaị tệ đáp ứng nhu cầu vốn ở giai đoạn đầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sự phát triển của ngoại thương không thoát khỏi ảnh hưởng của quan hệ chính trị. Quan hệ chính trị tốt tạo đà cho việc hợp tác, tương trợ về đầu tư, chuyển giao công nghệ, là tiền đề để ký kết các hiệp định về thương mại, về thông tin, về cấp phát hạn ngạch; là cơ sở pháp lý đảm bảo cho doanh nghiệp hai bên tiến hành làm ăn với nhau, tạo tiền đề thuận lợi trong thanh toán, giải quyết tranh chấp...
Từ sự phân tích về những yếu tố ảnh hưởng trên, để nâng cao hiệu quả cạnh tranh cho hàng dệt may Việt Nam, Nhà Nước cần có các chính sách về thị trường như:
Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương Mại cầng xây dựng được tiến trình gia nhập WTO có hiệu quả
Nhà nước tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên của WTO.
Quan hệ tốt với các thị trường lớn nhhư EU, Bắc Mỹ, tạo dựng được khuôn khổ pháp lý tốt đối với các thị trường này để sản xuất hàng tiêu dùng Việt Nam nói chung và hàng dệt may nối riêng được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn ngạch, tối huệ quốc... và có điều kiện để xuất khẩu với khối lượng lớn.
Tạo điều kiện cho ngành dệt may tham gia vào các hoạt động quốc tế, các diễn đàn chuyên ngành của khu vực để có điều kiện tham gia vào sự phân công lao động quốc tế.
Thực hiện nghiêm túc công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ công nghiệp để các sản phẩm dệt may có chất lượng cao mang nhãn hiệu " made in Việt Nam" giữ được uy tín ,trên thị trường.
Có quy chế phù hợp (bao gồm trách nhiệm và quyền lợi) về hoạt động của các nhân viên thương vụ của các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung, cấp thông tin, giúp ngành dệt may mở rộng thị trường.
Chính sách tài chính
Để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư, các chính sách tài chính cần có là:
Nhà nước đảm bảo cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước theo đúng luật định.
Cho phép ngành dệt may được sử dụng một phần quỹ bảo hiểm rủi ro của nhà nước ở những công trình trọng điểm
Kéo dài thời gian miễn thuế thu nhập cho các công trình đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng tạo tiền đề cho việc trả lãi vay.
Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu.
Nguyên liệu dành cho ngành công nghiệp dệt may được chia thành 2 loại: một loại có nguồn gốc từ thiên nhiên như bông, đay, tơ tằm...; một loại có nguồn gốc từ các quá trình hoá học như sợi tổng hợp, nhân tạo. Trên thế giới, nhiều nước đã biết phát huy lợi thế về từng chủng loại nguyên liệu để phát triển ngành công nghiệp dệt may của mình như Nhật, Trung quốc...là những nước phải nhập khẩu gần như toàn bộ số nguyên liệu thiên nhiên nhưng nhờ tự túc dược nguồn nguyên liệu hoá học nên công nghiệp dệt may cũng hết sức phát triển. Ngược lại, nhiều quốc gia trên thế giớ là các nước xuất khẩu bông nhưng công nghiệp dệt may lại kém phát triển như: Pakisttan, Uzbekistan...Do vậy, có thể thấy rằng có được nguồn nguyên liệu chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để phát triển ngành dệt may. Việt Nam thuận lợi về điều kiện tự nhiên để phát triển nguồn nguyên liệu thiên nhiên nhưng để phát triển ổn định và bền vững cần có những điều kiện sau:
Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng nguyên liệu các loại sơ thiên nhiên cho ngành dệt may bao gồm vùng trồng bông, vùng trồng dâu nuôi tằm, vùng trồng đay...Từ đó, có các chính sách hợp lý trong việc bảo đảm cung cấp lương thực và các nhu yếu phẩm khác cho nông dân các vùng này, đồng thời có cơ chế thích hợp trong việc khai thác, bảo toàn và phát triển vùng nguyên liệu lâu dài.
Cho phép trích tỷ lệ % trong doanh thu để lấy nguồn bù đắp cho quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu.
Giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu trong nước ( bông, đay, tơ tằm) để ngành dệt may dùng số tiền đó đầu tư cho các hộ cung cấp nguyên liệu.
Đẩy nhanh qua trình xây dựng các khu công nghiệp hoá dầu, làm tiền đề cho việc sản xuất các loại sơ sợi tổng hợp, góp phần tạo thế chủ động về nguyên liệu cho ngành.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được quy bảo hiểm xuất khẩu cũng như quỹ hỗ trợ xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia hoạt động này, nhất là trong điều kiện thị trường thế giới đầy biến động. Các doanh nghiệp nhỏ, vốn ít vẫn không giám mạo hiểm bán hàng theo phương thức bán trả chậm, trả góp...mặc dù đủ điều kiện ký kết hợp đồng xuất khẩu. Vẫn chưa có hiệp hội ngành may mặc xuất khẩu để hỗ trợ trong việc nghiên cứu thị trường, hỗ trợ về giá cả...Tuy nhiên, đã có quỹ thưởng xuất khẩu. Vừa qua, bộ thương mại đã ban hành quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu nhằm khen thưởng, động viên và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có thành tích xuất sắc và đạt hiêụ quả cao trong hoạt động xuất khẩu. Để hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nnghiệp, nhà nước cần sớm thực hiện các giải pháp sau:
Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước và cho phép công ty doanh nghiệp Hà Nội thành lập quỹ hỗ trợ khi giá cả thị trường thế giới có nhiều biến động, gặp nhiều rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương, trong quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu.
Chính Phủ sớm ra quyết định thành lập hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm tập hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu. Đồng thời nhanh chóng xúc tiến việc thành lập cơ quan xúc tiến thương mại chuyên về thị trường xuất khẩu, trong đó có thị trường hàng dệt may
Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu như: hỗ trợ vốn, cho vay vốn với lãi xuất thấp đối voí các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất hoặc thực hiện hợp đồng khi đã có thị trường và đối tác để xuất khẩu hoặc doanh nghiệp mở rộng hoặc tham gia vào thị trường mới...
Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các vệ tinh cung ứng dịch vụ, nguyên phụ liệu cho hàng dệt may xuất khẩu: chính sách cho vay vốn, trợ giúp về mặt KHKT đối với nông dân vùng nguyên liệu, với các hộ gia đình sản xuất phụ liệu...
Đổi mới hoàn thiện chính sách thuế.
Hệ thống thuế Việt Nam trong những năm qua mặc dù đã được sửa đổi song còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Do đó, vấn đề đặt ra là phải bổ sung và sửa đổi một số luật thuế:
Thuế xuất khẩu:
Cũng như các ngành xuất khẩu khác, ngành dệt may xuất khẩu cũng phải chịu thuế xuất khẩu. Hiện nay, ngành dệt may xuất khẩu chịu thuế xuất khẩu là 0%. Như vậy trên thực tế, hàng dệt may xuất khẩu được miễn thuế xuất khẩu. Tuy có lợi thế là nguyên vật liệu nhập khẩu sau khi xuất khẩu được sản phẩm sẽ được hoàn thuế nhập khẩu nhưng thuế xuất nhập khẩu quá cao, thời gian hoàn thuế lâu làm cho giá thành sản xuất cao lên, dẫn tới không có lợi thế cạnh tranh về giá. Đối với các doanh nghiệp thì đây là một khó khăn lớn vì hầu hết nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may đều phải nhập khẩu. Thuế xuất của nhiều loại nguyên liệu nhập khẩu lên đến 40-60%, chỉ có một số ít nguyên liệu chính là có thuế suất thấp hoặc được miễn thuế.
Đối với ngành dệt may, quy định thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu cho sản xuất hàng xuất khẩu là 9 tháng cho hàng gia công may mặc là tương đối dài, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, việc hoàn thuế nhập, tái xuất và thuế nhập khẩu nguyên liệu lại quá chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục rườm rà, cơ quan thu thuế và cơ quan hoàn thuế không phối hợp với nhau gây thiệt hại và mất thời gian cho doanh nghiệp. Để khắc phục những vướng mắc và toạ điều kiện cho ngành dệt may phát triển hoạt động xuất khẩu, về thuế xuất nhập khẩu có một số kiến nghị sau:
áp dụng thuế suất 0% đối với các nguyên liệu chính như bông, các loại sợi, phụ kiện...
Phải hoàn thuế cho các doanh nghiệp tham gia cung ứng nguyên phụ kiện đầu vào
Đối với vải nhập khẩu thì thuế suất 40-60% là rất cao. Chính phủ nên xem xét vấn đề này
Việc hoàn thuế tái xuất cần tiến hành nhanh hơn.
Thuế GTGT: Từ 1/1/1999, hệ thống thuế doanh thu không được sử dụng mà thay vào đó là thuế GTGT nhăm tránh đánh thuế trùng lặp và chấn trỉnh công tác hạch toán kế toán.
Hàng dệt may xuất khẩu thuộc dạng khuyến khích xuất khẩu, chịu thuế GTGT ở mức 0%, đồng thời còn được thoái thuế GTGT các khâu sản xuất trước.
Chính sách về hạn ngạch và giấy phép xuất khẩu hàng dệt may.
Về hạn ngạch
Đối với hạn ngạch xuất khẩu nhằm đưa việc giao hạn ngạch hàng năm vào nề nếp và khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, Liên Bộ Công Nghiệp- Kế hoạch đầu tư-Thương mại đã ban hành thông tư số 29/1999/TTLB về việc giao hạn ngạch năm 2000. Chính sách này đã sự linh hoạt, mang nhiều tính ưu tiên cho những doanh nghiệp có khả năng sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước song vẫn có những kiến nghị cần giải quyết sau:
Cần phân bổ hạn ngạch sớm từ đầu năm để các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất kinh doanh chủ động
Việc phân bổ hạn ngạch phải căn cứ vào năng lực sản xuất kinh doanh thực sự của các doanh nghiệp, đảm bảo công bằng nghiêm minh không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp
Nâng tỷ lệ hạn ngạch phân bố theo hình thức thưởng lên 50% vào năm 2003 và tiến tới 100% hạn ngạch sẽ được phân bổ theo thành tích xuất khẩu vào thị trường phi hạn ngạch. Đồng thời đưa mặt hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường phi hạn ngạch vào danh sách các mặt hàng được trợ cấp nóng.
Theo dõi chặt chẽ thường xuyên việc thực hiện hạn ngạch ở các doanh nghiệp đảm bảo cho việc thực hiện hạn ngạch có hiệu quả.
Về việc cấp giấy phép.
Đây là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý và điều tiết hoạt động xuất khẩu. Trong những năm qua, nhờ cải cách trong thủ tục hành chính, cũng như điều kiện được cấp hạn ngạch song việc xin cấp giấy phép cho từng chuyến hàng làm các doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó là nạn quan liêu, cửa quyền trong khi làm thủ tục hải quan cũng làm cho doanh nghiệp tốn không ít thời gian chi phí tiền bạc.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần như hiện nay, mức độ cạnh tranh là rất quyết liệt. Sự tồn tại của cạnh tranh phải được chấp nhận nhưng không được lo sợ. Tôn trọng cạnh tranh không kể loại hình hay quy mô của nó là điều có lợi. Sự tôn trọng đó có thể tạo ra những suy nghĩ độc đáo, làm tăng hiệu quả sản xuất, tạo ra khả năng tiếp thị và nâng cao lợi nhuận. Có thể rút ra được những bài học từ cạnh tranh để phấn đấu và bảo đảm rằng sản phẩm và hoạt động của công ty mình tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Trong bối cảnh đó các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận cạnh tranh. Công ty dệt may Hà Nội không phải là một ngoại lệ. Trong thời gian qua, công ty đã tham gia canh tranh ở nhiều thị trường khác nhau. Công ty đã đạt được một số kết quả như KNXK không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước, mẫu mã chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, một số mặt hàng tạo được những vị trí nhất định trên những thị trường lớn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Tuy nhiên, so với hàng hoá các đối thủ trong và ngoài nước đang hoạt động trong lĩnh vực này thì sức cạnh tranh hàng hoá của công ty còn thấp. Điều này gây ra nhiều thiệt hại cho công ty.
Đề tài “Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở công ty HANOSIMEX” đựoc nghiên cứu với mong muốn làm rõ các giải pháp chủ yếu để giúp công ty HANOSIMEX nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung nâng cao sức cạnh trạnh của hàng hoá xuất khẩu.
Với khả năng của công ty và sự hỗ trợ từ phía nhà nước, chúng ta tin rằng, trong thời gian tới, sức cạnh tranh các mặt hàng chủ yếu của công ty sẽ tăng lên
Mục lục các hình tham khảo.
STT
Nội Dung
Trang
1
Mô hình 5 sức mạnh của M.Porter
9
2
Sơ đồ bộ máy quản lý của Hanosimex
33
3
Kim ngạch xuất khẩu theo các năm
47
4
Quy trình phân phối sản phẩm của công ty
66
Mục lục bảng số liệu tham khảo.
STT
Nội Dung
Trang
1
Cơ cấu lao động trong công ty qua các năm
39
2
Phân tích khái quát tình hình tài chính của công ty
42
3
Máy móc thiết bị tại nhà máy sợiI và nhà máy sợi II
44
4
Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường nội địa và xuất khẩu
46
5
Kết quả kinh doanh xuất khẩu theo thị trường của công ty
49
6
Doanh thu theo sản phẩm qua các năm
50
7
Cơ cấu sản phẩm mũ xuất khẩu
51
8
Các thông số so sánh khả năng cạnh tranh của một số công ty thuộc TCT dệt may Việt Nam
53
9
Thực trạng cung ứng nguyên vật liệu
60
10
Giá cả sản phẩm xuất khẩu của công ty tên thị trường Nhật Bản
61
11
Danh mục mặt hàng sợi của công ty
69
12
Danh sách nhà máy đã có chứng nhận ISO 9002
71
Tài liệu tham khảo.
Giáo trình kinh doanh quốc tế, TS. Nguyễn Thị Hường (chủ biên), NXB thống kê - 2001.
Giáo trình quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, GS. PTS. Tô Xuân Dân (chủ biên), NXB thống kê - 1998.
Chiến lược cạnh tranh, M.E. Porter, NXB khoa học kỹ thuật, 1996.
Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức mạnh cạnh tranh các doanh nghiệp Việt Nam, Trần Xuân Kiên, NXB thống kê, 1998.
Báo cáo xuất nhập khẩu của công ty dệt may Hà Nội các năm.
Báo cáo đại hội công nhân viên chức năm 2002 của công ty.
Báo cáo kết quả kinh doanh một số công ty thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam năm 2002.
Tạp chí công nghiệp Viêt Nam, tháng 4 năm 2002
Thời báo kinh tế Việt Nam, số 75 năm 2001.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I: Lý luận về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá 1
I. Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá 1
1. Khái niệm về cạnh tranh và sức cạnh tranh 1
2. Vai trò của việc nâng cao sức cạnh tranh 4
3. Phân loại cạnh tranh 4
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hoá và các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá 9
1. Các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hoá 9
2. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá 17
III. Các công cụ và phương thức nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 19
1. Các công cụ cạnh tranh phổ biến 19
2. Các phương thức nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 23
IV. Tính tất yếu của việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu 26
1. Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 26
2. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm 27
Chương II: Thực trạng hoạt động nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu Công ty dệt may Hà Nội 29
I. Tổng quan về công ty 29
1. Lịch sử hình thành và phát triển 29
2. Cơ cấu tổ chức của công ty, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban 31
3. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của công ty 36
3.1. Các nhân tố bên ngoài 36
3.2. Các nhân tố bên trong 39
II. Thực trạng hoạt động nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 45
1. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty qua các năm 46
2. Phân tích khả năng cạnh tranh của Công ty 52
3. Sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 58
4. Các biện pháp công ty đã áp dụng để nâng cao cạnh tranh 63
4.1. Hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty 63
4.2. Hoạt động phân phối 64
4.3. Chính sách giá cả 66
4.4. Chính sách sản phẩm 68
4.5. Chính sách chất lượng 70
III. Đánh giá sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu Công ty dệt may Hà Nội 72
1. Những thành tựu 72
2. Những tồn tại 73
3. Nguyên nhân 74
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Công ty dệt may Hà Nội 76
I. Định hướng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 76
II. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 77
1. Những giải pháp từ phía công ty 77
2. Kiến nghị với nhà nước 87
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9507.doc