Tài liệu Nghiên cứu thống kê quy mô, cơ cấu, tình hình sử dụng & hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Công ty đúc Tân Long thời kỳ 1999 - 2005: ... Ebook Nghiên cứu thống kê quy mô, cơ cấu, tình hình sử dụng & hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Công ty đúc Tân Long thời kỳ 1999 - 2005
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thống kê quy mô, cơ cấu, tình hình sử dụng & hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Công ty đúc Tân Long thời kỳ 1999 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước chúng ta đang trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng nền công nghiệp vững mạnh là một tiền đề quan trọng để đất nước phát triển. Đi lên cùng đất nước, công ty đúc Tân Long luôn luôn không ngừng phấn đấu sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, hoàn thành tốt các công việc mà Đảng và nhà nước giao phó đồng thời mang lại cuộc sống ổn định cho cán bộ công nhân viên.
Một doanh nghiệp để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao cần bao gồm nhiều yếu tố trong đó có yếu tố tài sản cố định. Là một doanh nghiệp công nghiệp, hoạt động sản xuất của công ty đúc Tân Long phụ thuộc rất nhiều vào tài sản cố định. Vì vậy em lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu thống kê quy mô, cơ cấu, tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty đúc Tân Long thời kỳ 1999-2005 ”. Trong khuôn khổ của chuyên đề, em xin trình bày một số vấn đề cơ bản sau:
Chương I. Những vấn đề chung về tài sản cố định của doanh nghiệp
Chương II: Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu và các phương pháp thống kê vận dụng để nghiên cứu quy mô, cơ cấu, tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp
Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích quy mô, cơ cấu, tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty đúc Tân Long thời kỳ 1999-2005
Trong chuyên đề này, em phân tích quy mô, cơ cấu, tình hình sử dụng và đưa ra một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong công ty trong thời gian tới.
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP:
I. KHÁI NIỆM TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến tài sản cố định, bởi vì nó là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong quá trình sản xuất. Để sản xuất kinh doanh, bên cạnh lao động, đối tượng lao động, doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao động và tài sản cố định là một bộ phận của tư liệu lao động.
Tài sản cố định là bộ phận quan trọng trong quá trình sản xuấtT, thường có giá trị lớn và được sử dụng lâu dài. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không thay đổi đồng thời đóng góp dần giá trị của mình vào kết quả sản xuất kinh doanh.
II. PHÂN LOẠI TÀI SẢN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP
Trong mỗi doanh nghiệp có nhiều loại tài sản cố định tuỳ theo tính chất, chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Và các TSCĐ có chức năng, đặc điểm kỹ thuật, công dụng, đơn vị đo lường, năng suất… khác nhau do đó doanh nghiệp phải tiến hành phân loại chúng. Việc phân loại TSCĐ còn để thuận tiện cho công tác quản lý, hạch toán và nghiên cứu về tài sản cố định trong doanh nghiệp. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, có thể phân loại TSCĐ căn cứ theo các tiêu thức chủ yếu sau:
1. Theo công dụng kinh tế:
Phân loại tài sản cố định theo công dụng kinh tế giúp ta thấy được vai trò của từng loại TSCĐ đối với hoạt động sản xuất. Theo cách phân loại này, tài sản cố định gồm TSCĐ dùng cho sản xuất và TSCĐ dùng cho không sản xuất. Sự khác biệt giữa hai loại tài sản cố định này là ở phương thức chu chuyển giá trị.
Giá trị tài sản cố định dùng cho sản xuất sẽ giảm và chuyển dần giá trị của mình vào giá trị sản phẩm sản xuất ra và được thu hồi dần qua khấu hao, được tích luỹ lại hình thành quỹ hay vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định .
Giá trị tài sản cố định dùng cho không sản xuất giảm và nguồn vốn để tái sản xuất chúng là tiết kiệm (để dành®) thuần.
2. Theo đặc tính hay hình thái biểu hiện:
Mỗi tài sản cố định có hình thái biểu hiện khác nhau do đó có phương thức sử dụng, lưu trữ, bảo dưỡng… khác nhau. Việc phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện sẽ giúp doanh nghiệp có thể sử dụng, lưu trữ, bảo dưỡng từng loại TSCĐ một cách tốt nhất.
2.1/ Tài sản cố định hữu hình:
Là những tài sản tồn tại dưới các hình thức vật chất cụ thể. Tài sản cố định hữu hình có thể được phân thành các loại như sau:
- Nhà cửa, vật kiến trúc: gồm nhà làm việc, nhà kho, xưởng sản xuất, cửa hàng, tháp nước, bể chứa, sân phơi, đường xá, cầu cống, hàng rào…phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Máy móc, thiết bị: gồm các loại máy móc, thiết bị dùng trong sản xuất, kinh doanh.
- Phương tiện, vận tải truyền dẫn: gồm ôtô, máy kéo, tàu thuyền, toa xe, hệ thống thiết bị truyền dẫn như băng tải, hệ thống đường ống dẫn nước, dẫn nhiên liệu, hệ thống đường dây điện, truyền thanh thông tin …
- Thiết bị, dụng cụ quản lý: gồm các thiết bị, dụng cụ phục vụ cho việc quản lý kinh doanh, quản lý hành chính như các thiết bị điện tử, dụng cụ đo lường, máy vi tính, máy fax…
- Cây lâu năm, súc vật làm việc: gồm các loại cây lâu năm (chè, cao su, cà phê…) và xúc vật làm việc (trâu, bò, ngựa, voi cày kéo).
- Tài sản cố định hữu hình khác: gồm các loại tài sản cố định chưa được xếp vào các loại trên như tác phẩm nghệ thuật, sách chuyên môn kỹ thuật.
Tài sản cố định hữu hình nói chung có các đặc điểm sau: Thứ nhất tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu cho đến khi hư hỏng phải loại bỏ. Thứ hai, trong quá trình sử dụng, nó bị hao mòn dần và đóng góp từng phần giá trị của mình vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
2.2/ Tài sản cố định vô hình:
Là các tài sản không tồn tại dưới các hình thái vật chất cụ thể, nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm vững, sử dụng trong sản xuất kinh doanh hoặc cho các đơn vị khác thuê.
- Quyền sử dụng đất có thời hạn: bao gồm số tiền doanh nghiệp đã chi ra để có quyền sử dụng đất trong một thời gian nhất định, chi phí cho đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng, lệ phí trước bạ…không bao gồm các chi phí chi ra để xây dựng các công trình trên đất.
- Nhãn hiệu hàng hoá: là các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hoá.
- Quyền phát hành: là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành.
- Phần mềm máy vi tính: là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy vi tính.
- Giấy phép và giấy phép nhượng quyền: là các khoản chi ra để doanh nghiệp có được giấy phép và giấy phép nhượng quyền thực hiện công việc đó như giấy phép khai thác, giấy phép sản xuất loại sản phẩm mới…
- Bản quyền, bằng sáng chế: là các chi phí thực tế chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế.
- Công thức và cách pha chế, kiểu mẫu, thiết kế và vật mẫu: là các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có công thức và cách thức pha chế, kiểu mẫu, thiết kế và vật mẫu.
- Tài sản cố định vô hình đang triển khai: các tài sản vô hình tạo ra trong giai đoạn triển khai.
3. Theo quyền sở hữu:
Theo quyền sở hữu, tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành tài sản cố định tự có và tài sản cố định thuê ngoài. Việc phân loại TSCĐ theo tiêu thức này giúp doanh nghiệp có kế hoạch sử dụng TSCĐ một cách hợp lý.
3.1/ Tài sản cố định tự có:
Là tài sản được mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn tự bổ xung, nguồn vốn liên doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các tài sản cố định đựơc biếu tặng…có nghĩa đây là những tài sản cố định thuộc sở hữu của doanh nghiệp.
3.2/ Tài sản cố định thuê ngoài:
Là tài sản đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo hợp đồng thuê tài sản. Căn cứ vào các điều khoản trong hợp đồng thuê tài sản mà tài sản cố định đi thuê được chia thành:
a, Tài sản cố định thuê tài chính:
Hợp đồng thuê tài sản được coi là hợp đồng thuê tài chính khi thoả mãn ít nhất một trong các trường hợp sau:
- Nếu bên thuê huỷ bỏ hợp đồng và đền bù tổn thất phát sinh liên quan đến việc huỷ hợp đồng cho bên thuê.
- Thu nhập tổn thất do sự thay đổi giá trị hợp lý của giá trị còn lại của tài sản thuê gắn với bên thuê.
- Bên thuê có khả năng tiếp tục thuê lại tài sau khi hết hạn hợp đồng thuê với tiền thuê thấp hơn giá thuê thị trường.
Tài sản cố định thuê tài chính cũng được coi là tài sản cố định của doanh nghiệp nên doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và trích khấu hao như tài sản cố định tự có của mình.
b, Tài sản cố định thuê hoạt động: là tài sản cố định thuê nhưng không thoả mãn một điều khoản nào của hợp đồng thuê tài chính. Bên đi thuê chỉ được quản lý, sử dụng tài sản trong thời hạn của hợp đồng thuê và phải hoàn trả cho bên cho thuê khi kết thúc hợp đồng.
Bên cạnh các tiêu thức phân loại trên, tài sản cố định còn được phân chia theo một số tiêu thức khác:
- Theo nguồn hình thành: tài sản cố định được chia ra tài sản cố định mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn pháp định; bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản; bằng nguồn vốn tín dụng; bằng nguồn vốn cổ phần, liên doanh, liên kết.
- Theo vai trò trong quá trình sản xuất: tài sản cố định chia ra tài sản cố định tích cực và tài sản cố định thụ động.
III. Nghiên cứu số lượng và giá trị tài sản cố định:
1. Nghiên cứu số lượng tài sản cố định:
Số lượng tài sản cố định được xác định dưới hình thái hiện vật và dưới hình thái này tài sản cố định được chia ra thành các loại khác nhau căn cứ theo công dụng, chức năng kỹ thuật, đơn vị đo lường, thời gian sử dụng…Vì vậy muốn thống kê số lượng tài sản cố định thì ta phải tiến hành phân loại chúng. Chỉ tiêu số lượng tài sản cố định là chỉ tiêu tuyệt đối thời điểm.
Xác định số lượng tài sản cố định theo hình thái hiện vật có tác dụng rất lớn trong việc nghiên cứu quy mô của từng loại tài sản cố địnhX, là cơ sở để lập kế hoạch mua sắm, sửa chữa, hiện đại hoá và tái sản xuất tài sản cố định trong từng doanh nghiệp, từng ngành cũng như trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên việc nghiên cứu tài sản cố định dưới hình thái hiện vật không cho phép tổng hợp toàn bộ tài sản cố định của từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó chúng ta cần có một cách đánh giá khác về quy mô tài sản cố định - nghiên cứu thống kê giá trị tài sản cố định.
2. Nghiên cứu thống kê giá trị của tài sản cố định:
Thống kê giá trị tài sản cố định thực chất là nghiên cứu tài sản cố định dưới hình thái giá trị (tiền) từ đó cho phép đánh giá tổng hợp toàn bộ tài sản cố định của từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chỉ tiêu giá trị tài sản cố định là chỉ tiêu tuyệt đối thời điểm. Nghiên cứu thống kê giá trị tài sản cố định cho phép ta xác định tổng giá trị tài sản cố định đã đầu tư ban đầu, tổng giá trị tài sản cố định đã hao mòn và tổng giá trị tài sản cố định còn lại. Muốn vậy ta phải đánh giá tài sản cố định theo các loại giá khác nhau: Giá ban đầu hoàn toàn, giá khôi phục hoàn toàn, giá ban đầu còn lại, giá khôi phục còn lại.
* Giá ban đầu hoàn toàn:
Giá ban đầu hoàn toàn tài sản cố định là toàn bộ các chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra để có được tài sản cố định tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng (TSCĐ hữu hình) hay thời điểm đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính (TSCĐ vô hình) hay nói cách khác là toàn bộ chi phí để mua sắm hoặc xây dựng mới, chuyên chở, lắp đặt và chạy thử (nếu có) tài sản cố định đó vào thời kỳ hình thành nó.
Đánh giá tài sản cố định theo giá ban đầu hoàn toàn phản ánh đúng quy mô nguồn vốn thực tế bỏ ra để có tài sản cố định, là cơ sở để tính khấu hao TSCĐ và lập bảng cân đối TSCĐ. Tuy nhiên do thời kỳ mua sắm hoặc xây dựng khác nhau nên cùng một loại tài sản cố định trong doanh nghiệp lại có nhiều giá ban đầu khác nhau gây khó khăn cho việc so sánh và nghiên cứu các chỉ tiêu về sử dụng tài sản cố định. Bên cạnh đó, đánh giá TSCĐ định theo giá ban đầu hoàn toàn không xác định được trạng thái và giá trị còn lại của TSCĐ, không cho phép nghiên cứu biến động thuần tuý về mặt khối lượng của TSCĐ.
*Giá trị khôi phục hoàn toàn:
Giá khôi phục của TSCĐ là giá trị ban đầu hoàn toàn của tài sản cố định cùng loại được tái sản xuất trong điều kiện hiện tại của nền sản xuất xã hội vào thời điểm nghiên cứu, là tổng số tiền cần thiết để mua sắm, xây dựng, chuyên chở, lắp đặt và chạy thử (nếu có) TSCĐ trong điều kiện hiện tại.
Đánh giá TSCĐ theo giá trị khôi phục hoàn toàn thực chất là đánh giá lại giá trị của những tài sản cố định cùng loại đã được sản xuất ở các thời kỳ khác nhau theo một giá thống nhất trong điều kiện hiện tại. Cách đánh giá này giúp ta nắm được tổng nguồn vốn để trang bị lại tài sản cố định ở tình trạnh mới nguyên từ đó xác định được mức độ hao mòn vô hình của TSCĐ và lập bảng cân đối TSCĐ.
Tuy nhiên dùng loại giá này cũng không cho phép xác định được trạng thái và giá trị còn lại của TSCĐ đồng thời để đánh giá tài sản cố định thao giá khôi phục hoàn toàn cần phải tổ chức tổng kiểm kê TSCĐ - là một công việc phức tạp và tốn nhiều công sức.
* Giá còn lại:
Giá còn lại của TSCĐ là hiệu số giữa giá ban đầu hay giá khôi phục hoàn toàn với tổng hao mòn của TSCĐ:
Giá trị còn lại = Giá ban đầu (giá khôi phục) - Tổng hao mòn
của TSCĐ hoàn toàn của TSCĐ của TSCĐ
Đánh giá TSCĐ theo giá còn lại phản ánh tương đối chính xác trạng thái, năng lực sản xuất của TSCĐ, phản ánh số tiền còn lại cần phải tiếp tục thu hồi dưới hình thức khấu hao. Trong đó đánh giá TSCĐ theo giá khôi phục còn lại phản ánh đúng đắn nhất hiện trạng của tài sản cố định vì nó đã loại trừ cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
IV. VAI TRÒ CỦA TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh mỗi doanh nghiệp cần phải đảm bảo nhiều yếu tố sản xuất khác nhau, ngoài sức lao động và đối tượng lao động, doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao động và tài sản cố định là một loại tư liệu lao động quan trọng. Tài sản cố định là một bộ phận của của cải quốc dân và nó giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ nhất, trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, cùng với sức lao động, tài sản cố định đã góp phần biến những tư liệu đầu vào thành sản phẩm đầu ra mang lại doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây là một chức năng quan trọng hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Như vậy, tài sản cố định là một loại tư liệu quan trọng góp phần thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, việc mở rộng và đổi mới tài sản cố định tức là nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho sản xuất, từ đó giảm sự lao động nặng nhọc cho công nhân ở các doanh nghiệp đồng thời mang lại năng suất cao, tạo ra nhiều sản phẩm, mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, việc sử dụng nhiều loại tài sản cố định kỹ thuật cao vào sản xuất đòi hỏi người lao động cần có tay nghề, trình độ nhất định.
Thứ ba, tài sản cố định là một bộ phận của của cải quốc dân, do đó việc mở rộng tài sản cố định cũng là mở rộng quy mô của cải quốc dân từ đó phát huy khả năng khai thác, sử dụng cho hoạt động kinh tế xã hội.
Tóm lại, tài sản cố định có vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà còn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
CHƯƠNG II: LỰA CHỌN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ VẬN DỤNG ĐỂ NGHIÊN CỨU QUY MÔ, CƠ CẤU, TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP:
I. LỰA CHỌN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP:
1. Sự cần thiết phải lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê tài sản cố định của doanh nghiệp:
Mỗi doanh nghiệp khác nhau thì tính toán, so sánh, sử dụng các chỉ tiêu khác nhau khi nghiên cứu thống kê về tài sản cố định. Khi nghiên cứu về tài sản cố định, công ty đúc Tân Long đang tính toán một số chỉ tiêu như sau:
- Số lượng tài sản cố định đầu kỳ, cuối kỳ ,
- Số lượng tài sản cố định bình quân trong kỳ
- Mức khấu hao năm
- Mức trang bị TSCĐ cho lao động
Việc phân tích các chỉ tiêu này tuy đã phản ánh đúng đắn song chưa toàn diện về tình hình sử dụng TSCĐ ở công ty. Do đó phải tiến hành lựa chọn và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê TSCĐ ở công ty.
2. Nguyên tắc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê tài sản cố định của doanh nghiệp:
Hệ thống chỉ tiêu thống kê TSCĐ của doanh nghiệp cần phải đảm bảo một số nguyên tắc sau:
- Đảm bảo tính hướng đích: mỗi chỉ tiêu thống kê về TSCĐ phải đảm bảo phục vụ cho một mục đích nghiên cứu nhất định. Tránh việc tính toán, sử dụng các chỉ tiêu ngoài mục đích gây tốn thời gian, công sức tính toán.
- Đảm bảo tính hệ thống: các chỉ tiêu thống kê phải có mối liên hệ mật thiết với nhau, việc tính toán chỉ tiêu này cũng là tiền đề, cơ sở để tính toán, so sánh các chỉ tiêu khác. Và các chỉ tiêu này phải đảm bảo tính so sánh được. Ví dụ khi có chỉ tiêu về giá trị TSCĐ bình quân và lao động bình quân ta có thể tính toán chỉ tiêu mức trang bị TSCĐ cho lao động…
- Đảm bảo tính khả thi: mỗi chỉ tiêu phải đảm bảo khả năng tính toán, so sánh thành công, nghĩa là chỉ tiêu này phải đảm bảo có nguồn số liệu tương ứng để tính toán nó.
- Đảm bảo tính hiệu quả: việc tính toán, so sánh các chỉ tiêu phải mang lại một kết quả nhất định, phục vụ cho một mục đích nhất định, tránh gây lãng phí công sức, thời gian, tiền của khi tính toán chúng.
- Đảm bảo tính linh hoạt: mỗi chỉ tiêu thống kê có thể tính toán bằng nhiều cách khác nhau để phù hợp với điều kiện về số liệu.
3. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê tài sản cố định của doanh nghiệp:
3.1/ Nhóm chỉ tiêu thống kê quy mô tài sản cố định:
Khi thống kê quy mô hay số lượng tài sản cố định tức là thống kê số lượng TSCĐ hiện có của doanh nghiệp. Số lượng TSCĐ hiện có là số lượng TSCĐ doanh nghiệp đã đầu tư mua sắm, xây dựng, đã làm xong thủ tục bàn giao đưa vào sử dụng, đã được ghi vào sổ TSCĐ của doanh nghiệp. Số lượng TSCĐ hiện có của doanh nghiệp được thống kê theo hai chỉ tiêu: Số lượng TSCĐ có đầu kỳ, cuối kỳ và số lượng TSCĐ có bình quân trong kỳ.
a, Số lượng tài sản cố định có đầu kỳ và cuối kỳ:
Ta có thể nghiên cứu số lượng tài sản cố định có đầu kỳ hay cuối kỳ theo hình thái hiện vật hoặc giá trị. Theo hình thái hiện vật, ta chỉ có thể xác định số lượng hay quy mô của từng loại TSCĐ tại thời điểm đầu kỳ hay cuối kỳ. Theo hình thái giá trị (tiền), ta có thể xác định được quy mô của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp.
Tuy nhiên xét theo hình thái nào thì số lượng tài sản cố định có đầu kỳ hay cuối kỳ đều phản ánh quy mô, số lượng tài sản cố định hiện có của doanh nghiệp tại hai thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối thời điểm. Hai chỉ tiêu này cho ta biết tiềm năng về tài sản cố định của doanh nghiệp ở các thời điểm từ đó có kế hoạch sử dụng trong thời kỳ tới. Muốn có đựơc các chỉ tiêu này ta cần có nguồn số liệu về từng loại (nếu xét theo hình thái hiện vật) cũng như giá trị của toàn bộ tài sản cố định (nếu xét theo hình thái giá trị).
b, Số lượng tài sản cố định bình quân trong kỳ:
Số lượng tài sản cố định bình quân trong kỳ () cũng có thể tính theo hình thái hiện vật hoặc giá trị do đó cũng có thể xác định cho từng loại hay toàn bộ tài sản cố định. Số lượng tài sản cố định bình quân trong kỳ phản ánh quy mô của từng loại hay toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp trong thời kỳ nghiên cứu. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối thời kỳ, có thể được xác định theo nhiều cách khác nhau:
* Tính từ dãy số thời kỳ:
hoặc
: Số lượng TSCĐ i có trong ngày j của kỳ tính toán (những ngày nghỉ lễ, nghỉ thứ bảy và chủ nhật thì lấy số lượng TSCĐ có ở ngày liền trước đó);
n : Số ngày theo lịch của ngày tính toán;
: Tần số xuất hiện trong kỳ tính toán;
: Tổng các tần số ( = n )
* Tính từ dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau:
, ,…, : Số lượng TSCĐ i có ở thời điểm thứ 1, thứ 2,…., thứ n trong kỳ tính toán;
n : Số thời điểm thống kê được số lượng TSCĐ i trong kỳ tính toán
* Tài sản cố định có bình quân trong kỳ được tính chung cho các loại tài sản cố định khác nhau:
Giá trị TSCĐ có Giá ban đầu hoàn toàn + Giá ban đầu hoàn toàn
bình quân trong kỳ = TSCĐ có ở đầu kỳ TSCĐ có ở cuối kỳ
(theo giá ban đầu hoàn toàn) 2
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tài sản cố định của doanh nghiệp đã đầu
tư cho sản xuất, kinh doanh trong kỳ tính theo giá ban đầu hoàn toàn.
3.2/ Nhóm chỉ tiêu thống kê cơ cấu tài sản cố định:
Việc nghiên cứu cơ cấu của tài sản cố định có ý nghĩa rất quan trọng, kết cấu TSCĐ phản ánh tỷ trọng của từng loại hay nhóm TSCĐ trong toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp:
: Kết cấu của loại hay nhóm TSCĐ i trong toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp;
: Giá trị của loại hay nhóm TSCĐ i
K : Tổng giá trị TSCĐ của doanh nghiệp
Từ công thức trên cho thấy kết cấu tài sản cố định có thể được tính cho từng thời điểm hoặc tính bình quân cho kỳ nghiên cứu trong đó và K được tính theo nguyên giá hoặc giá đánh giá lại. Việc nghiên cứu kết cấu tài sản cố định của doanh nghiệp cho thấy đặc điểm trang bị kỹ thật của đơn vị, từ đó có kế hoạch điều chỉnh, lựa chọn cơ cấu đầu tư tốt nhất.
3.3/ Nhóm chỉ tiêu thống kê tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp:
a, Thống kê khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp:
Trong quá trình sử dụng tài sản cố định bị hao mòn, giảm dần giá trị và cuối cùng bị thanh lý. Tài sản cố định dùng cho sản xuất sẽ chuyển dần giá trị của mình vào giá trị của sản phẩm theo mức độ hao mòn. Sau khi sản phẩm được tiêu thụ thì phần giá trị chuyển dịch đó được thu hồi lại dưới dạng trích khấu hao. Như vậy khấu hao là sự tính toán và phân bổ một cách có hệ thống giá ban đầu của TSCĐ vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong suốt thời gian sử dụng của tài sản đó (thời gian sử dụng là thời gian mà TSCĐ phát huy được tác dụng cho sản xuất, kinh doanh)
Một số chỉ tiêu thống kê khấu hao TSCĐ:
*Tổng mức khấu hao tài sản cố định (M):
Tổng mức khấu hao TSCĐ là toàn bộ giá trị của TSCĐ chuyển vào sản phẩm và sẽ được thu hồi trong suốt thời gian hoạt động của TSCĐ.
M : Tổng mức khấu hao
: Giá trị ban đầu (khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ
: Giá trị ban đầu loại bỏ
: Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ dự kiến trong suốt thời gian hoạt động của TSCĐ
: Chi phí hiện đại hoá TSCĐ dự kiến trong suốt thời gian hoạt động của TSCĐ
Tổng mức khấu hao TSCĐ gồm hai bộ phận quan trọng:
- Tổng mức khấu hao cơ bản ( )
- Tổng mức khấu hao sửa chữa lớn và hiện đại hoá ( ):
* Mức khấu hao tài sản cố định ( ):
Mức khấu hao hàng năm là số tiền trích khấu hao bình quân hàn năm. Có các phương pháp khấu hao khác nhau, tuỳ thuộc vào phương pháp khấu hao mà có công thức xác định mức khấu hao khác nhau:
- Phương pháp khấu hao đường thẳng (hay phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian): số khấu hao hàng năm không thay đổi trong suốt thời gian sử dụngTSCĐ.
: Mức khấu hao TSCĐ trích bình quân hàng năm
n : số năm dự kiến khấu hao TSCĐ
Trường hợp thời gian sử dụng hay nguyên giá của TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao trung bình của TSCĐ bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ chia cho thời gian sử dụng xác định lại hoặc thời gian sử dụng còn lại.
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh: số khấu hao hàng năm giảm dần trong suốt thời gian dự kiến sử dụng tài sản:
= Giá trị còn lại của TSCĐ x Tỷ lệ khấu hao
ở thời điểm đầu năm i nhanh
Tỷ lệ khấu hao nhanh = Tỷ lệ khấu hao bình quân x hệ số điều chỉnh
n = 4 năm à Hệ số điều chỉnh = 1,5
4 < n = 6 n ăm à Hệ số điều chỉnh = 2
n > 6 à Hệ số điều chỉnh = 2,5
Theo phương pháp này, những năm cuối khi mức khấu hao năm bằng
hoặc thấp hơn mức khấu hao tính bình quân giữa giá trị còn lại và số năm sử dụng còn lại của TSCĐ thì kể từ năm đó mức khấu hao được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ chia cho số năm sử dụng còn lại của TSCĐ. Và TSCĐ trích khấu hao theo phương pháp này phải thoả mãn điều kiện là TSCĐ đầu tư mới đồng thời là các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm.
- Phương pháp khấu hao theo sản lượng:
Theo phương pháp này mức khấu hao hàng năm được tính theo công thức:
: Mức khấu hao năm thứ i
: Khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ (sản lượng theo công suất thiết kế)
: Khối lượng sản phẩm TSCĐ sản xuất ra ở năm i
Trường hợp công suất thiết kế hoặc nguyên giá của TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao của TSCĐ.
Theo phương pháp này, TSCĐ được trích khấu hao phải trực tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm, phải xác định được tổng khối lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết kế của TSCĐ và công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm không thấp hơn 50% công suất thiết kế.
Mức khấu hao cũng bao gồm hai bộ phận:
- Mức khấu hao cơ bản năm ( )
- Mức khấu hao sửa chữa lớn và hiện đại hoá năm ( ):
* Tỷ suất khấu hao tài sản cố định (k):
Tỷ suất khấu hao tài sản cố định là tỷ lệ phần trăm giữa mức khấu hao năm với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ.
Tương tự tổng mức khấu hao và mức khấu hao, tỷ suất khấu hao cũng
bao gồm hai bộ phận:
-Tỷ suất khấu hao cơ bản:
- Tỷ suất khấu hao sửa chữa lớn và hiện đại hoá:
* Quỹ (vốn) khấu hao tài sản cố định (V):
Quỹ (vốn) khấu hao là giá trị tài sản cố định đã được khấu hao và được tích luỹ đén thời điểm nghiên cứu. Quỹ khấu hao được sử dụng để tái sản xuất giản đơn TSCĐ và để bù đắp những chi phí sửa chữa lớn, hiện đại hoá TSCĐ.
b, Thống kê hiện trạng của tài sản cố định:
Thống kê hiện trạng tài sản cố định có nhiệm vụ phản ánh đúng và kịp thời trạng thái hiện tại TSCĐ của từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhân tố cơ bản làm thay đổi trạng thái TSCĐ là do sự hao mòn. Có hai hình thức hao mòn TSCĐ:
- Hao mòn vô hình là hao mòn xuất hiện do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cho ra đời một tài sản cố định cùng loại với tài sản cố định mà doanh nghiệp đang sử dụng nhưng có giá rẻ hơn, có công suất và chất lượng sản phẩm sản xuất ra cao hơn. Loại hao mòn này phụ thuộc vào nhịp độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự tăng năng suất của những TSCĐ cùng loại.
- Hao mòn hữu hình là hao mòn vật chất do quá trình sử dụng TSCĐ hoặc do tác động của thiên nhiên làm cho năng lực sản xuất của TSCĐ bị giảm sút dần hoặc bị hư hỏng.
Thống kê trạng thái tài sản cố định có các chỉ tiêu sau:
* Hệ số hao mòn tài sản cố định đầu kỳ hay cuối kỳ ():
Hệ số hao mòn TSCĐ là tỷ số giữa tổng số hao mòn TSCĐ (giá trị TSCĐ đã bị hao mòn) đầu hay cuối kỳ với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có vào đầu hay cuối kỳ.
HM: Tổng số hao mòn
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ ở các thời điểm thường là đầu hay cuối kỳ nghiên cứu, nó biểu hiện tỷ lệ giá trị TSCĐ đã chuyển vào giá trị sản phẩm và đã được thu hồi, có quan hệ tỷ lệ nghịch với trạng thái TSCĐ.
* Hệ số còn sử dụng được (còn lại) của tài sản cố định đầu hay cuối kỳ ( ):
Hệ số còn sử dụng được (còn lại) là tỷ số giữa giá trị còn lại (đã trừ hao mòn) của TSCĐ đầu hay cuối kỳ với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có vào đầu hay cuối kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ còn sử dụng được của TSCĐ ở đầu hay cuối kỳ, biểu hiện tỷ lệ giá trị TSCĐ chưa chuyển vào giá trị sản phẩm, chưa thu hồi, cần tiếp tục thu hồi, là cơ sở để xác định năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, các ngành và nền kinh tế quốc dân. Hệ số còn lại tỷ lệ thuận với trạng thái TSCĐ.
* Hệ số đổi mới tài sản cố định ( ):
Hệ số đổi mới TSCĐ là tỷ số giữa giá trị ban đầu (hoặc khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ mới đưa vào hoạt động trong kỳ với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có vào cuối năm.
Hệ số = TSCĐ mới đưa vào hoạt động
đổi mới TSCĐ có cuối kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh phần TSCĐ hoàn toàn mới trong toàn bộ TSCĐ có vào cuối kỳ. Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với trạng thái TSCĐ.
* Hệ số loại bỏ tài sản cố định ( ):
Hệ số loại bỏ TSCĐ là tỷ số giữa TSCĐ bị loại bỏ do hao mòn, cũ ký trong kỳ theo giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có đầu kỳ.
Hệ số = TSCĐ bị loại bỏ do hao mòn, cũ kỹ
đổi mới TSCĐ có đầu kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh phần giá trị TSCĐ cũ, bị loại bỏ do hao mòn, cũ kỹ trong toàn bộ TSCĐ có vào đầu kỳ. Nó tỷ lệ nghịch với trạng thái TSCĐ.
c, Thống kê tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản cố định:
* Thống kê tình trang bị tài sản cố định cho lao động của doanh nghiệp:
Đánh giá tình hình trang bị TSCĐ cho lao động được thực hiện thông qua tính và so sánh chỉ tiêu mức trang bị TSCĐ cho công nhân sản xuất của doanh nghiệp ( ):
: Giá trị TSCĐ bình quân trong kỳ
: Số lao động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này càng lớn phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất, kinh doanh càng cao từ đó tạo điều kiện cho việc tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Thống kê tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp:
Việc đánh giá tình hình sử dụng TSCĐ được thực hiện thông qua tính và so sánh một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh hiệu quả sử dụng TSCĐ, gồm các chỉ tiêu hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp.
- Nhóm chỉ tiêu hiệu quả trực tiếp của TSCĐ:
+) Chỉ tiêu hiệu quả thuận: năng suất tài sản cố định ( ):
Q: chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất, kinh doanh. chỉ tiêu này được tính bằng sản phẩm hiện vật, sản phẩm quy chuẩn và tính bằng tiền tệ.
Q có thể là giá trị sản xuất GO, giá trị gia tăng VA, giá trị gia tăng thuần NVA, doanh thu DT, doanh thu thuần DT’…
+) Chỉ tiêu hiệu quả nghịch: suất tiêu hao TSCĐ ( ):
+) Tỷ suất lợi nhuận hay mức doanh lợi TSCĐ ( ):
M: Lợi nhuận hay lãi kinh doanh.
- Nhóm chỉ tiêu hiệu quả gián tiếp của tài sản cố định:
+) Hiệu năng hay năng suất mức khấu hao TSCĐ ( ):
: Tổng mức khấu hao TSCĐ trích trong kỳ.
+) Tỷ suất lợi nhuận hay mức doanh lợi tính trên mức khấu hao TSCĐ ():
Nếu kết quả so sánh tốc độ phát triển của ,, , và lớn hơn 100 phản ánh tình hình trang bị và sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp kỳ nghiên cứu được cải thiện hơn so với kỳ gốc, nguyên nhân là do tốc độ phát triển của Q và M lớn hơn tốc độ phát triển của , .
II. LỰA CHỌN MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ ĐỂ PHÂN TÍCH QUY MÔ, CƠ CẤU, tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp:
1. Tại sao phải lựa chọn một số phương pháp thống kê khi nghiên cứu về tài sản cố định của doanh nghiệp:
Có nhiều phương pháp thống kê được sử dụng để nghiên cứu về tài sản cố định và mỗi phương pháp này lại có những ưu, nhược điểm và điều kiện vận dụng khác nhau. Bên cạnh đó mục đích nghiên cứu cũng quyết định việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu. Do đó, tuỳ thuộc vào điều kiện của mỗi doanh nghiệp mà có sự lựa chọn các phương pháp thống kê khác nhau khi nghiên cứu về tài sản cố định.
Tại công ty đúc Tân Long hiện nay đang sử dụng phương pháp dãy số thời gian khi nghiên cứu về tài sản cố định. Tuy phương pháp này cho thấy được sự biến động của các chỉ tiêu thống kê theo thời gian song chưa cho thấy ảnh hưởng của các nhân tố tới sự biến động đó. chính vì vậy chúng ta phải tiến hành lựa chọn các phương pháp thống kê khi nghiên cứu về quy mô, cơ cấu, tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng TSCĐ ở._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- S0005.doc