Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam (1995 - 2002) & dự đoán đến năm 2005

Lời nói đầu Cùng với sự phát triển của xã hội, du lịch ngày càng trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến, là nhu cầu không thể thiếu của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển. Khi xã hội phát triển đời sống vật chất tăng lên thì nhu cầu du lịch cũng tăng lên. Du lịch được coi là một trong những tiêu chí đánh giá mức sống của dân cư mỗi nước. Du lịch là chiếc cầu nối của tình hữu nghị, tạo sự đoàn kết cảm thông giữa các dân tộc, tạo nên thế giới hoà

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam (1995 - 2002) & dự đoán đến năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bình tôn trọng lẫn nhau. ở nước ta có tiềm năng du lịch dồi dào phong phú và đa dạng đã thu hút nhiều khách đến thăm con người và đất nước Việt Nam. Nhận thức được thế mạnh và vị trí của du lịch trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang dành cho du lịch một vị trí xứng đáng, coi phát triển du lịch là một định hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nhắm góp phần CNH- HĐH đất nước. Nghị quyết Trung ương IX xem “hoạt động du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn”. Ngày 22/7/2002.Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 97/2002/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001-2010 với mục tiêu “phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần thực hiện CNH- HĐH đất nước, từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ khu vực, phấn đấu năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển”. Khi hoạt động du lịch phát triển sẽ kéo theo sự tăng trưởng của các ngành kinh tế khác như vận tải, khách sạn, nhà hàng, bưu điện, các dịch vụ du lịch khác... Trong những năm qua, được Đảng và Nhà nước quan tâm, các ngành các cấp phối hợp, giúp đỡ hoạt động du lịch Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đạt được nhiều kết quả tiến bộ. Về số lượng khách, doanh thu du lịch, thu nhập xã hội về du lịch, giá trị sản xuất... thực tế cho thấy, từ năm 1991 đến năm 2002 lượng khách du lịch quốc tế tăng từ 300 nghìn lượt lên 2,63 triệu lượt người, khách nội địa tăng từ hơn 1,5 triệu lượt người lên gần 12 triệu lượt người, tăng khoảng 8 lần, thu nhập xã hội từ du lịch tăng nhanh, năm 2002 đạt 23500 tỷ đồng. Doanh thu du lịch bình quân hàng năm tăng khoảng 9%. Đây là các chỉ tiêu quan trọng phản ánh khối lượng kinh doanh và chất lượng phục vụ trong lĩnh vực du lịch, được dùng để đánh giá hoạt động du lịch ở Việt Nam. Vì vậy để nghiên cứu sâu hoạt động du lịch ở Việt Nam cần thiết phân tích, đánh giá về khối lượng hoạt động kinh doanh du lịch và chất lượng phục vụ của các đơn vị kinh doanh du lịch thông qua các chỉ tiêu và phương pháp thích hợp. Xuất phát từ những vấn đề trên, trong thời gian thực tập ở Tổng cục Du lịch Việt Nam, tôi đi sâu nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995 – 2002 và dự đoán đến năm 2005”. Dưới góc độ nghiên cứu thống kê, trong phạm vi bài viết này nhằm hai mục đích: Thứ nhất: về phương pháp luận, hệ thống hoá phương pháp thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch. Thứ hai: về mặt thực tiễn, nhằm vận dụng phương pháp thống kê phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995-2002. Về phương pháp nghiên cứu, tiến hành nghiên cứu lý luận chung về du lịch, ngành du lịch, nêu được hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch đồng thời đưa ra một số phương pháp thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch. Từ đó vận dụng để phân tích và đánh giá kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam, làm cơ sở để đưa ra, đề xuất, kiến nghị đối với việc hoàn thiện công tác thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam đồng thời đề xuất giải pháp định hướng phát triển du lịch ở Việt Nam. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài này đề cập đến ba nội dung chính sau đây: ChươngI: Những vấn đề lý luận chung về kết quả hoạt động du lịch và hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch. Chương II: Một số phương pháp thống kê phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch. Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam thời kỳ 1995-2002. Trong phạm vi bài viết này đã trình bày được một số nội dung chủ yếu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tuy nhiên còn một số vấn đề tôi chưa có điều kiện nghiên cứu sâu hơn.Vì vậy bài viết sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến phê bình, đóng góp, bổ sung của các thầy cô, bạn đọc cho bài viết để bài viết có thể hoàn thiện hơn. Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thầy giáo - Th.s Nguyễn Hữu Chí, PGS.TS Phan Công Nghĩa - giảng viên Khoa Thống kê - Trường ĐHKTQD đã trực tiếp hướng dẫn, các thầy cô giáo trong khoa, cùng các cô các chú ở Vụ Kế hoạch và Đầu tư thuộc Tổng cục Du lịch Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành tốt bài viết này. Chương I: Những vấn đề lý luận chung về KếT QUả HOạT Động du lịch và hệ thống chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch I. Khái niệm về du lịch và ngành du lịch 1. Khái niệm và phân loại về du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển. Trong đó có Việt Nam. Hoạt động du lịch liên quan trực tiếp đến cuộc sống con người, nó đáp ứng được các nhu cầu của cong người, của xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay nhận thức về du lịch vẫn chưa thống nhất. Hiện nay, có rất nhiều tác giả nghiên cứu về du lịch do đó có rất nhiều khái niệm về du lịch, trong các khái niệm này có những điểm khác biệt do các cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung có một số cách tiếp cận phổ biến nhất về du lịch như sau: *Một là, coi du lịch là một hiện tượng xã hội.Với cách tiếp cận này, du lịch được hiểu là: Theo ausher: du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá nhân. Theo Nguyễn Khắc Viện: du lịch lịch là mở rộng không gian văn hoá con người, nghĩa là đi chơi cho biết xứ người. Theo Glusman: “ du lịch là sự khắc phục về mặt không gian văn hoá của con người hướng tới một điểm nhất định nhưng không phải là nơi ở thường xuyên của họ”. Theo Guer Freuler: “du lịch là một hiện tượng của thời đại, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục sức khoẻ và sự đổi thay của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên”. *Hai là, coi du lịch là quá trình hoạt động của con người trong xã hội. Theo cách tiếp cận này có một số khái niệm như sau: Theo Phó tiến sĩ Trần Nhạn: “du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê hương không nhằm mục đích sinh lời được tính bằng đồng tiền”. Theo Hunziker và Kraf: “du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời cuả các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ”. *Ba là, coi du lịch là một ngành kinh tế. Theo cách tiếp cận này có các khái niệm sau: Theo nhà kinh tế học Kalfiotis: “du lịch là sự di chuyển tạm thời của các cá nhân hay tập thể từ nơi ở đến một nơi khác nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức do đó tạo nên các mối quan hệ kinh tế ”. Năm 1963, Hội nghị Liên hợp Quốc cho rằng: “du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình”. Còn các học giả Việt Nam cho rằng du lịch phải được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất: “du lịch là một đợt nghỉ dương sức tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích nghỉ ngơi, giải trí xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá, nghệ thuật, … Nghĩa thứ hai: “du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước, đối với người nước ngoài là tình hữu nghị đối với dân tộc mình, về mặt kinh tế du lịch có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ”. Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu thống kê, du lịch cần được hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất nhằm phục vụ cho quá trình thống kê du lịch. Vì vậy, Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa – Canada ngày 24-28/6/1991 đã thống nhất khái niệm về du lịch như sau: “Du lịch là các hoạt động của con người đi tới một môi trường thường xuyên trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi của vùng tới thăm”. Khái niệm trên là cơ sở định tính và lượng hoá trong việc thống kê du lịch nói chung và thống kê kết quả hoạt động du lịch nói riêng. Mặt khác, khái niệm này được áp dụng cho mọi phạm vi nghiên cứu. Nó cho biết du lịch bao gồm cả các chuyến đi ra khỏi môi trường thường xuyên của con người trong một ngày không nghỉ qua đêm hoặc nhiều ngày đêm nhưng ít hơn 12 tháng. Qua khái niệm có thể thấy hoạt động du lịch bao gồm ba nội dung sau: * Về mặt không gian: Du lịch bao gồm các chuyến đi của con người ra khỏi môi trường thường xuyên của mình. Môi trường thường xuyên được hiểu là phạm vi không gian của nơi cư trú hoặc những chuyến đi có tính chất thường xuyên như: đi làm việc ở cơ quan, đi chợ hàng ngày, … * Về mặt thời gian: Được tính vào hoạt động du lịch khi về mặt thời gian không quá dài vượt ra phạm vi được qui định. Thời gian này ít nhất là một ngày đêm, nhiều nhất không quá 6 tháng nếu đi du lịch trong nước và không quá một năm nếu đi du lịch nước ngoài. Tuy nhiên việc quy định thời gian là khó khăn, mỗi nước có một cách quy định khác nhau. * Về mục đích chuyến đi: Đi du lịch “không nhằm mục đích kiếm tiền tại địa phương đến thăm”, có nghĩa tại đó họ tiêu dùng sản phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu ngắm cảnh, nghỉ ngơi, giải trí,… thì được gọi là khách du lịch. Những trường hợp di cư để làm việc tạm thờitại địa phương đến sẽ không được coi là đi du lịch và khi đó, mục đích của họ là để kiếm tiền. Từ khái niệm ta thấy, khách du lịch bao gồm cả khách tham quan trong ngày không ngủ qua đêm miễn là mục đích của chuyến đi không phải để kiếm tiền ở nơi đến và khách nghỉ qua đêm với các mục đích khác. Như vậy, những chuyến đi không được thống kê là khách du lịch bao gồm: * Những người đi lại trong môi trường thường xuyên của mình. - Người đi làm việc hàng ngày bằng vé ôtô tháng. - Người lao động sống ở các vùng biên giới hàng ngày phải qua biên giới làm việc. - Người đi lại nơi cư trú thường xuyên của mình. Chẳng hạn những người ở một nơi nhưng lại làm việc một nơi khác, phải đi lại hàng ngày, hàng tháng, … * Những người di cư với mục đích thay đổi nơi cư trú: di cư trong thời gian dài, chuyển đến nơi ở khác… * Những người không có nơi cư trú cố định: những người dân du mục, những người dân lang thang không có nơi cư trú, những người tị nạn, sơ tán… * Những người đi với mục đích kiếm tiền: di cư trong thời gian ngắn, những người đi làm theo thời vụ, các giảng viên đi giảng bài ở nơi khác, hoạ sĩ đi thực tế để vẽ… * Những người đi lại khác: những hành khách quá cảnh, lực lượng vũ trang đi hành quân, đại diện các cơ quan tư vấn đi làm nhiệm vụ… Nhưng trong thực tế, các đối tượng nêu trên nếu có tiêu dùng sản phẩm của ngành du lịch thì vẫn được tính vào khách du lịch. Vì vậy, quy định nói trên vẫn mang tính chất tương đối. Nền kinh tế càng phát triển, đời sống dân cư càng được nâng cao thì nhu cầu của khách du lịch ngày càng đa dạng và phát triển không ngừng. Du lịch của khách có rất nhiều mục đích khác nhau, vì vậy việc phân loại khách du lịch là hết sức quan trọng và cần thiết. Hoạt động du lịch có thể được phân chia thành các nhóm khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, quan điểm khác nhau. Một số cách tiếp cận phổ biến bao gồm: * Căn cứ theo môi trường tài nguyên: Gồm du lịch văn hoá và du lịch thiên nhiên. Du lịch văn hoá là du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm: các di tích lịch sử, các công trình đương đại lễ hội, phong tục tập quán, viện bảo tàng, … Du lịch thiên nhiên là loại hình du lịch đưa du khách về những nơi có điều kiện, môi trường tự nhiên trong lành, cảnh quan tự nhiên hấp dẫn… nhằm thoả mãn nhu cầu đặc trưng của họ. * Căn cứ vào mục đích chuyến đi, gồm hai loại: du lịch thuần tuý và du lịch kết hợp. Du lịch thuần tuý là loại hình hoạt động du lịch nhằm nghỉ ngơi, giải trí, tham quan nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Du lịch thuần tuý bao gồm: Du lịch tham quan, du lịch giải trí, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch khám phá, du lịch thể thao, du lịch lễ hội Du lịch kết hợp là loại hình hoạt động du lịch thuần tuý kết hợp với các mục đích khác như học tập, công tác, nghỉ ngơi, tôn giáo, nghiên cứu… bao gồm: du lịch kết hợp mục đích tôn giáo, du lịch kết hợp học tập, nghiên cứu, du lịch kết hợp, du lịch kết hợp hội nghị, du lịch kết hợp thể thao, du lịch kết hợp chữa bệnh, du lịch kết hợp thăm thân, du lịch kết hợp với mục đích kinh doanh. * Căn cứ vào lãnh thổ hoạt động gồm ba loại: du lịch quốc tế, du lịch nội địa và du lịch quốc gia. Du lịch quốc tế gồm du lịch quốc tế đến và du lịch ra nước ngoài. Du lịch quốc tế đến là chuyến đi của người nước ngoài đến tham quan du lịch, còn du lịch ra nước ngoài là chuyến đi của người trong nước đến tham quan du lịch ở nước ngoài. Du lịch quốc tế làm biến đổi cán cân thu chi của quốc gia tham gia hoạt động du lịch quốc tế. ở Việt Nam, du lịch quốc tế được chia thành du lịch đón khách và du lịch gửi khách. Du lịch đón khách là loại hình du lịch quốc tế phục vụ đón tiếp khách nước ngoài đi du lịch, nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch trong đất nước. Du lịch gửi khách là loại hình du lịch quốc tế phục vụ và tổ chức đưa khách trong nước đi du lịch ở nước ngoài. Du lịch nội địa: là hoạt động tổ chức, phục vụ người trong nước đi du lịch, nghỉ ngơi và tham quan các đối tượng du lịch trong lãnh thổ quốc gia, về cơ bản không có giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ. Du lịch quốc gia: là hoạt động du lịch của một quốc gia, từ việc gởi khách ra nước ngoài đến việc phục vụ khách trong và ngoài nước tham quan, du lịch trong phạm vi nước mình. * Căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm du lịch bao gồm: du lịch miền biển du lịch núi, du lịch đô thị, du lịch thôn quê. * Căn cứ vào phương tiện đến bao gồm: - Du lịch xe đạp: loại hình này rất được ưa chuộng ở Châu Âu đặc biệt là ở Hà lan, Đan Mạch. Phương tiện này làm cho du khách dễ dàng tiếp cận được cuộc sống dân cư ở nước đến. ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có tổ chức một số chuyến đi du lịch vòng quanh đất nước bằng xe đạp. - Du lịch ôtô: hiện nay có tới 80% người Châu Âu đi du lịch bằng ôtô, loại phương tiện này nhà cung ứng được chủ động hơn, - Du lịch bằng tàu hoả: phương tiện này rất thuận lợi, nhanh chóng, an toàn và giá cả thấp, do đó hình thức du lịch này cũng khá phổ biến song kém linh động. - Du lịch bằng tàu thuỷ: hiện nay, nhờ tiến bộ của khoa học công nghệ, nhiều tàu du lịch ra đời với đầy đủ tiện nghi như phòng ăn, phòng ngủ, bar, phòng khiêu vũ, hoà nhạc, sân thể thao … Loại hình này đang là thời thượng. - Du lịch máy bay: đây là phương tiện ưa dùng nhất trong du lịch vì nó cho phép du khách đi đến nhiều nơi xa xôi trong thời gian nhất định. Song chủ yếu là với khách quốc tế. Bảng 1.1: Cơ cấu du khách quốc tế đến Việt Nam theo phương tiện (Đơn vị: %) Phương tiện 1993 1994 1995 1996 1997 Đường không 89,8 92,4 98,3 58,5 60,3 Đường bộ 5,0 4,6 9,1 31,5 32,1 Đường thuỷ 5,2 3,0 1,6 10,0 7,6 Nguồn: Bộ Công An, Tổng cục Du lịch Việt Nam * Căn cứ vào loại hình lưu trú: Lưu trú là một trong những nhu cầu chính của du khách trong chuyến đi du lịch. Bao gồm: - Khách sạn: là cơ sở lưu trú có đầy đủ tiện nghi phục vụ việc ăn, ngủ, vui chơi giải trí … ở Việt Nam, khách sạn đước xếp hạng từ một đến năm sao, đây là hình thức xếp hạng phổ biến nhất. - Motel: là một dạng cơ sở lưu trú được xây dựng gần đường giao thông - Nhà trọ thanh niên: là dạng cơ sở lưu trú phục vụ chủ yếu cho sinh viên, thanh niên và những người không có khả năng thanh toán cao. - Camping. - Bungalow: là một dạng nhà trọ làm bằng gỗ hay bằng các vật liệu nhẹ, thường xuất hiện ở các vùng ven biển hay vùng núi. Làng du lịch: là một quần thể biệt thự tạo ra một không gian du lịch cho phép du khách vừa có điều kiện giao tiếp vừa có không gian biệt lập khi họ muốn. * Căn cứ vào lứa tuổi du khách, bao gồm: du lịch thiếu niên, du lịch thanh niên, du lịch trung niên, du lịch người cao tuổi * Căn cứ vào độ dài chuyến đi gồm: du lịch ngắn ngày và du lịch dài ngày. Song du lịch ngắn ngày thường chiếm tỉ lệ cao hơn so với du lịch dài ngày. * Căn cứ vào hình thức tổ chức: du lịch tập thể, du lịch cá thể, du lịch gia đình * Căn cứ vào phương thức hợp đồng gồm: du lịch trọn gói, du lịch thành phần. 2. Khái niệm và đặc điểm ngành du lịch 2.1. Khái niệm về kinh doanh du lịch Kinh doanh du lịch là quá trình tổ chức lưu thông, mua, bán hàng hoá du lịch trên thị trường nhằm đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội. Kinh doanh du lịch, cũng như các loại hình kinh doanh khác, nó diễn ra theo một chu trình như sau: - Tiếp thị- tổ chức sản xuất hàng hoá du lịch. - Tiếp thị- ký kết các hợp đồng du lịch - Tổ chức thực hiện hợp đồng - Thanh quyết toán hợp đồng và rút kinh nghiệm Các hoạt động kinh doanh này diễn ra ở nhiều hình thức kinh doanh khác nhau, về cơ bản có 4 loại hình chủ yếu sau: - Kinh doanh lữ hành - Kinh doanh khách sạn du lịch - Kinh doanh vận chuyển du lịch - Kinh doanh các dịch vụ khác * Về kinh doanh lữ hành: Kinh doanh lữ hành là ngành kinh doanh các chương trình du lịch, là hoạt động đặc trưng trong kinh doanh du lịch bao gồm sản xuất, đại lý, môi giới, nhằm cung ứng một cách thuận lợi các sản phẩm dịch vụ du lịch. Hiện nay, loại hình này rất phát triển trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. ở nước ta hiện nay có gần 80 hãng lữ hành quốc tế. Kinh doanh du lịch lữ hành được tổ chức thành các hãng lữ hành bao gồm: hãng lữ hành quốc tế, hãng lữ hành nội địa và đại lý lữ hành. - Hãng lữ hành quốc tế bao gồm lữ hành quốc tế chủ động, kinh doanh các chương trình du lịch đón khách và lữ hành quốc tế bị động, kinh doanh các chương trình gửi khách ra nước ngoài. - Hãng lữ hành nội địa là kinh doanh các chương trình đưa khách du lịch trong nước đi du lịch ở các vùng thuộc lãnh thổ nước đó. - Đại lý lữ hành là những hãng kinh doanh thực hiện một hoặc nhiều công đoạn do các hãng du lịch quốc tế hay du lịch nội địa uỷ thác. Ngành kinh doanh lữ hành có vai trò quyết định đối với sự phát triển du lịch thế giới. Thực tế cho thấy trên 80% khách du lịch sử dụng dịch vụ của ngành du lịch lữ hành. Kinh doanh du lịch lữ hành phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các loại hình kinh doanh du lịch khác. * Về kinh doanh khách sạn-du lịch. Nếu xét trong tổng thể kinh doanh du lịch, kinh doanh khách sạn là công đoạn phục vụ khách du lịch để họ hoàn thành chương trình du lịch đã chọn, bao gồm các dịch vụ cho khách thuê phòng, bán hàng ăn uống, hàng lưu niêm, các hàng hoá khác, các dịch vụ phục vụ vui chơi giải trí, dịch vụ phục vụ sinh hoạt các nhân… Sản phẩm của hoạt động du lịch khách sạn là sản phẩm dịch vụ trực tiếp phục vụ người tiêu dùng hay xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, ngành này mang tính độc lập tương đối. Hiện nay, kinh doanh khách sạn du lịch rất đa dạng, bao gồm: Hotel, Motel, Camping, biệt thự, toa xe lửa có giường nằm (Rotel), toa xe có giường do ôtô kéo (Caravan), tàu du lịch trên sông, trên biển được thiết kế phòng ăn, phòng ngủ như khách sạn. Tất cả các khách sạn đều được phân hạng, cấp quốc tế từ một đến năm sao, tuỳ thuộc vào từng đặc điểm khách sạn. Kinh doanh khách sạn có hai chức năng chính là kinh doanh lưu trú và kinh doanh ăn uống, ngoài ra còn có dịch vụ bổ sung. Trong đó: - Kinh doanh lưu trú bao gồm kinh doanh các loại buồng ngủ, nghỉ… loại này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu khách sạn. Thực tế cho thấy, du khách thường chi cho lưu trú trong tổng chi tiêu cho du lịch là: Trung Quốc 22,5%, Austraylia 46%; Indonesia 30,8%. - Kinh doanh ăn uống là kinh doanh các mặt hàng ăn uống và chủ yếu phục vụ cho khách lưu trú theo tuyến khép kín. Kinh doanh ăn uống đóng vai trò quan trọng trong tổng doanh thu của khách sạn, đây là phương thức xuất khẩu tại chỗ tối ưu. Thực tế cho thấy, đối với khách quốc tế, phương thức này mang lại hiệu quả gấp 10 lần so với xuất khẩu ngoại thương. ở một số nước, chi cho ăn uống của khách chiếm trong tổng chi tiêu là: Trung Quốc 9,5%; Hồng Kông 10,98%; Indonesia: 17,4%; Thái Lan 15,1%. - Kinh doanh các dịch vụ bổ sung bao gồm: dịch vụ giặt là quần áo, sửa chữa giày dép, đồng hồ …; dịch vụ mua vé xem phim, đặt vé máy bay, đặt chỗ khách sạn, dịch vụ vui chơi giải trí, biểu diễn ca nhạc …; dịch vụ trông coi các phương tiện, cho thuê xe đạp, xe máy, ôtô, bán hàng lưu niệm, chữa bệnh… Loại hình kinh doanh này rất khó thống kê đầy đủ do luôn thay đổi theo nhu cầu của khách. Tuy nhiên, hiện nay kinh doanh khách sạn trên thế giới diễn ra theo ba xu hướng rõ rệt, đó là: tập trung, mini hoá và tăng văn minh khách sạn. * Về kinh doanh vận chuyển khách du lịch. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là loại hinh kinh doanh bao gồm vận chuyển bằng máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ, ôtô, xe đạp, cáp vận chuyển … và các phương tiện vận chuyển thông tin theo nhu cầu của khách như điện thoại, fax, … Loại hình kinh doanh này đòi hỏi phải đáp ứng các nhu cầu đa dạng của khách và đạt hiệu quả cao. * Về kinh doanh các dịch vụ khác. Đây là loại hình kinh doanh thông tin trong du lịch bao gồm nhiều dạng khác nhau: dịch vụ môi giới, tìm địa chỉ, thông tin về giá cả, tư vấn về pháp lý, thông tin nguồn khách, tổ chức tuyên truyền quảng cáo, xúc tiến hội chự du lịch, … Tuy nhiên, để kinh doanh thông tin đòi hỏi các doanh nghiệp du lịch phải có nguồn dự trữ thông tin, xử lý chọn các thông tin đáng tin cậy, trừ các thông tin thuộc bí mật quốc gia không được cung cấp. 2.2. Đặc điểm ngành du lịch Du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp. Hoạt động của ngành du lịch vừa mang tính kinh tế vừa mang tính chất văn hoá xã hội. Vì vậy, hoạt động sản xuất cũng rất phong phú và đa dạng. Nó bao gồm nhiều hoạt động có tính chất kinh tế rất rõ rệt, đồng thời cũng có những hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả đối với con người. Nhìn chung có ba hoạt động chính: - Hoạt động sản xuất bao gồm chế biến các món ăn uống của các cửa hàng phục vụ ăn uống, hoặc sản xuất vật liệu phục vụ du lịch, sản xuất hàng du lịch, hàng thông thường, … - Hoạt động thương nghiệp bao gồm các hoạt động mua bán các món hàng ăn, các hàng hoá khác đối với khách du lịch. - Hoạt động dịch vụ bao gồm hoạt động lữ hành, dịch vụ lưu trú, hướng dẫn khách, vận chuyển hành khách, vui chơi giải trí và các dịch vụ bổ sung khác … Ngành du lịch là một ngành kinh doanh đặc biệt, do đó nó có nhiều đặc điểm khác biệt với các ngành kinh doanh khác. - Thứ nhất, du lịch là ngành phụ thuộc vào tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch là cơ sở khách quan, là điều kiện ban đầu để phát triển ngành du lịch, bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Đó là những nơi, những khu vực do tạo hoá của thiên nhiên, cũng có thể là do bàn tay của con người xây dựng nên. Đó cũng là nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ, kiến trúc … làm cho du khách có thể đến và chiêm ngưỡng, hưởng thụ và được sống một cách thoải mái với những cảnh vật xung quanh mình. Hơn nữa, những kỳ quan, thắng cảnh đó còn được các nhà du khách ghi chép lại theo năm tháng. Đó mới là cái đáng trân trọng và ó giá trị to lớn của ngành du lịch. Tài nguyên du lịch càng phong phú và đa dạng thì càng hấp dẫn khách du lịch, càng thu hút được nhiều du khách đến tham quan. - Thứ hai, du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp phuc vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng chung và cao cấp của du khách. Mức sống dân cư không ngừng nâng cao, đời sống không ngừng cải thiện, nhu cầu con ngời ngày cang đa dạng theo hướng tiêu dùng ngày càng cao cấp. Vì vậy, nhu cầu du lịch cũng ngày càng đa dạng và nhiều dần và du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp có thể đáp ứng được những nhu cầu đó, kể cả đối với du khách nội địa hay du khách ngoại quốc. Du lịch sẽ đáp ứng theo chương trình các nhu cầu khác nhau một cách hiệu quả nhất. - Thứ ba, kinh doanh du lịch mang tính thời vụ cao. Thời vụ trong du lịch là một quy luật phổ biến, nó tồn tại ở tất cả các nước và các vùng có hoạt động du lịch. Tính thời vụ du lịch chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có nhân tố mang tính chất thiên nhiên, có nhân tố mang tính chất kinh tế-xã hội, có nhân tố mang tính tâm lý, … chẳng hạn như khí hậu, thời gian nhàn rỗi, quần chúng hoá, phong tục tập quán, điều kiện tài nguyên du lịch, sự sẵn sàng đón tiếp khách, … Thời gian mùa vụ chính là lúc ngành du lịch được mùa kinh doanh, vì thế thời gian này càng kéo dài càng tốt, nếu sử dụng tốt nguồn lực du lịch thì sẽ làm tăng chất lượng phục vụ du lịch, tăng thu nhập từ du lịch. Ngược lại tính thời vụ gây ra khá nhiều khó khăn trong việc tổ chức kinh doanh du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, …. Thời vụ ngắn sẽ làm cho việc sử dụng tài nguyên, sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật không hết công suất, lãng phí tài nguyên, làm giảm khả năng áp dụng chính sách giá linh hoạt. Mặt khác, tính thời vụ làm hạn chế khả năng tìm chỗ nghỉ thích hợp hợp cho du khách tập trung quá đông tại một thời điểm nào đó trong một thời điểm nhất định, gây tắc nghẽn giao thông, do đó làm giảm chất lượng phục vụ khách du lịch. Tính thời vụ trong du lịch không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của bản thân ngành du lịch mà còn ảnh hưởng đến các ngành kinh tế và dịch vụ có liên quan. -Thứ tư, hoạt động du lịch cần phải bảo đảm những nhu cầu về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cho du khách, cho địa phương đến nhận khách Du lịch không chỉ là ngành kinh tế mà còn là một ngành văn hoá xã hội. Vì vậy, ngoài kinh doanh, dịch vụ du lịch còn phải đảm bảo cho du khách được tiếp cận với những nét thuộc đặc trưng về văn hoá- xã hội riêng của nước mình, cho du khách tiếp cận với tinh hoa, bản sắc dân tộc của quốc gia, nhằm thu hút và gây ấn tượng ban đầu đối với du khách. Khách tham quan cũng rất đa dạng, với nhiều mục đích khác nhau, kể cả những mục đích không lành mạnh. Người dân ở nước đến bao gồm nhiều thành phần xã hội kể cả thành phần xã hội đen, có thể gây hại đến khách du lịch. Vì vậy để bảo đảm an toàn cho du khách, các cơ quan, tổ chức du lịch cần phối hợp với Đảng, Nhà nước có những biện pháp tạo môi trường lành mạnh đối với các hoạt động tham quan của du khách. 3. Vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển của nền kinh tế Du lịch là hiện tượng của một xã hội có trình độ cao, là ngành dịch vụ mà sản phẩm của nó dựa trên sản phẩm có chất lượng cao của nhiều ngành kinh tế khác nhau. Tuy du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt nhưng nó phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế tác động trực tiếp và nhiều mặt đến hoạt động du lịch. Khi nền kinh tế phát triển thì người dân có cuộc sống ổn định, mức sống được cải thiện và nâng cao, thời gian nhàn rỗi của họ nhiều hơn, khi đó, nhu cầu cho việc vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, … càng cao. Mặt khác kinh tế phát triển sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc phục vụ nhu cầu đa dạng của khách, các ngành kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch. Nông nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm đã cung cấp một khối lượng lớn lương thực và thực phẩm cho ngành du lịch. Bên cạnh đó, ngành xây dựng, giao thông vận tải cũng có vai trò quan trọng đối với ngành du lịch, đó là những ngôi nhà đẹp, những công trình kiến trúc kỳ công, … những tuyến đường giao thông tạo thuận lợi cho việc vận chuyển khách… Ngoài ra, thông tin liên lạc cũng ảnh hưởng sâu sắc đến du lịch. Các phương tiện truyền tin nhanh sẽ tạo điều kiện trong việc quảng bá du lịch một cách có hiệu quả, sẽ thông tin đến cho hàng triệu khách hàng trên thế giới,… Ngược lại, du lịch cũng tác động trở lại đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Du lịch có vai trò lớn đối với nền kinh tế và đối với văn hoá xã hội, chính trị địa phương. Dưới góc độ kinh tế, du lịch là một ngành kinh doanh đạt hiệu quả cao, có vốn đầu tư lớn, … So với ngoại thương, du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội, hoạt động du lịch làm biến đổi cán cân thu chi của khu vực và đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước, làm tăng ngoại tệ cho đất nước đến. Ngược lại, phần chi ngoại tệ tăng lên đối với quốc gia có người đi du lịch nước ngoài. Trong phạm vi của một quốc gia, hoạt động du lịch làm xáo động luân chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi này đối với các vùng có trình độ kinh tế khác nhau và có tác dụng điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kinh tế kém phát triển, kích thích sự tăng trưởng các vùng sâu, vùng xa. Một khu vực đã là điểm du lịch, thì ở đó phải có khối lượng vật tư, hàng hoá các loại… điều này đã kích thích được các ngành khác phát triển như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng, giao thông vận tải, …. Mặt khác, hàng hoá du lịch đòi hỏi chất lượng cao, đa dạng, phong phú và có tính hấp dẫn. Điều này có nghĩa hàng hoá phải được sản xuất với công nghệ cao, buộc các doanh nghiệp sản xuất này phải có các trang thiết bị hiện đại, công nhân có tay nghề cao, … nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Mặt khác, du lịch quốc tế là một hình thức xuất khẩu tại chỗ rất nhiều mặt hàng khác ngoài chương trình du lịch, mà không cần nhiều lao động, chênh lệch giữa người tiêu dùng và người cung ứng không quá cao. Nhiều mặt hàng xuất khẩu tại chỗ đôi khi không cần thiết phải đóng góp và bảo quản phức tạp…. Như vậy, du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế khu vực. Nhiều nước trên thế giới coi du lịch là cứu cánh để mong muốn vực dậy nền kinh tế ốm yếu của mình. Du lịch là ngành công nghiệp không có khói, là “ con gà đẻ trứng vàng”. Du lịch không chỉ tác động đến kinh tế khu vực mà còn có ý nghĩa rất quan trọng trong lĩnh vực văn hoá, xã hội. Trên bình diện là ngành văn hoá-xã hội, du lịch mang lại hiệu quả về mặt xã hội đối với con người. Du lịch không chỉ tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên mà còn khám phá tài nguyên nhân văn. Điều đó có nghĩa du lịch nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, nâng cao sự hiểu biết, mở mang quan hệ của các du khách,…. Tạo điều kiện bảo tồn di sản văn hoá dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc quốc gia,._. tăng cường các mối quan hệ dân tộc, xã hội, tình hữu nghị và sự hiểu biết về con người với nhau giữa các quốc gia. Như vậy, du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp, có tác dụng góp phần tích cực thực hiện chính sách mở cửa, thúc đẩy sự đổi mới và phát triển nhiều ngành kinh tế, tạo công ăn vệic làm, mở rộng giao lưu văn hoá- xã hội giữa các vùng và giữa các quốc gia với nhau. Thực tế cho thấy, trong mấy thập kỷ gần đây, du lịch ở nhiều nước rất phát triển. Số lượng tham gia vào các chuyến du lịch quốc tế ngày càng tăng: năm 1950 mới có 25,3 triệu lượt người đi du lịch thì đến năm 1996 đã có 592 triệu lượt người. Năm 1950, thu nhập ngoại tệ từ du lịch toàn thế giới mới là 2,1 tỷ USD thì năm 1996 là 423 tỷ USD, bằng 8% kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới. Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước. Hoạt động du lịch đã tạo ra 180 triệu chỗ làm việc, thu hút khoảng 11% lực lượng lao động toàn cầu. Nhìn chung, nền kinh tế nước ta thường nhập siêu cao. Trong khi đó, hoạt động du lịch lại là hoạt động xuất khẩu tại chỗ (chỉ đứng sau ngành công nghiệp khai thác và trồng trọt) nên đã có đóng góp to lớn nhằm giảm mức nhập siêu cả nước. Bên cạnh du lịch quốc tế, du lịch trong nước cũng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Trong những năm gần đây, đời sống nhân dân được nâng cao, từ năm 1993 đến năm 1998 khách du lịch nội địa tăng từ 2,5 triệu lên 9,6 triệu lượt người. Nhận thức được vai trò của ngành du lịch, nhiều nước đã chú trọng và có những chiến lược phát triển du lịch, coi là ngành kinh tế quan trọng đạt hiệu quả cao. ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến sự phát triển ngành du lịch, xác định du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, phát triển du lịch là phương hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế, xã hội góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Hiện nay, ngành du lịch đã và đang phát huy vai trò đó trong nền kinh tế và đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết qủa khả quan về lượng khách đến, về doanh thu, về lợi nhuận, về kết quả sản xuất, về thu nhập xã hội từ du lịch, … II. Những vấn đề lý luận chung về kết quả hoạt động du lịch. 1. Quan diểm về kết quả hoạt động du lịch. Sản xuất là hoạt động của con người để tạo ra những sản phẩm hữu ích, sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ, nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho xã hội cho sản xuất, cho đời sống, cho tích luỹ cho xuất khẩu. Song không phải mọi hoạt động nói trên đều được coi là sản xuất. Kết quả của quá trình sản xuất xã hội là sản phẩm xã hội. Sản phẩm xã hội là toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ, hữu ích, trực tiếp do lao động sản xuất sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Kết quả của sản xuất bao gồm cả sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những sản phẩm mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội được thể hiện là sản phẩm vật chất hoặc sản phẩm dịch vụ, mà những sản phẩm này phải phù hợp với lợi ích kinh tế và trình độ văn hoá của người tiêu dùng, phải được xã hội chấp nhận. Đối với du lịch, hoạt động sản xuất kinh doanh du lịch tạo ra các sản phẩm dịch vụ đặc biệt như: kinh doanh dịch vụ lữ hành, kinh doanh dịch vụ khách san, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận tải hành khách và một số dịch vụ khác liên quan. Những sản phẩm này phải phù hợp với tiêu chuẩn quy định, phục vụ được mọi nhu cầu đa dạng của khách đi du lịch Kết quả hoạt động du lịch được đánh giá qua các chỉ tiêu như: Số khách, số ngày khách, doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, thu nhập xã hội từ du lịch, số cơ sở lưu trú,… Kết quả hoạt động du lịch bao gồm những nội dung sau: Kết quả hoạt động du lịch phải do lao động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực du lịch tạo ra có đủ tiêu chuẩn chất lượng mà Nhà nước quy định theo yêu cầu sử dụng và hưởng thụ. Kết quả hoạt động du lịch đáp ứng được mọi yêu cầu tiêu dùng đa dạng của cá nhân, của cộng đồng có nhu cầu đi du lịch. Do đó sản phẩm của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tạo ra phải có giá trị sử dụng và giá trị hưởng thụ. Nếu sản phẩm dịch vụ này không được tiêu dùng thì sẽ không có giá trị, nếu tiêu dùng càng nhiều càng có giá trị. Song giá trị sử dụng của những sản phẩm này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, nền văn minh xã hội… Kết quả hoạt động du lịch đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng và doanh nghiệp. Do vậy chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch không vượt quá giới hạn lợi ích kinh tế của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Lợi nhuận của doanh nghiệp thể hiện ở chi phí sản xuất không vượt quá giá bán các sản phẩm dịch vụ du lịch cho khách và lợi ích của người tiêu dùng thể hiện ở khả năng thanh toán khi mua hàng và mức tiết kiệm trong quá trình sử dụng sản phẩm. Kết quả hoạt động du lịch mang lại lợi ích kinh tế chung cho tiêu dùng xã hội, được biểu hiện bằng kết quả tiếp nhận, tiết kiệm chi phí, tiền của, thời gian sử dụng sản phẩm và giảm thiệt hại cho môi trường xã hội. 2. ý nghĩa, nhiệm vụ nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch. Nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch là quá trình nghiên cứu, đánh giá toàn bộ quá trình hoạt động và kết quả của hoạt động đó, bao gồm toàn bộ kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch, các dịch vụ liên quan…Đó là toàn bộ kết quả sản xuất của các hoạt động như lữ hành, khách sạn, ăn uống, lưu trú, bán hàng hoá lưu niệm, dịch vụ vận chuyển khách, dịch vụ giải trí, nghỉ ngơi, dưỡng bệnh… Thống kê kết quả hoạt động du lịch nhằm phản ánh được chất lượng của sản phẩm du lịch, chất lượng của hoạt động kinh doanh và các nguồn tiềm năng cần được khai thác, trên cơ sở đó để đề ra các phương án giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch. Trong phạm vi một quốc gia, nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch có ý nghĩa: Kết quả hoạt động du lịch là cơ sở để phát hiện những khả năng tiềm tàng từ đó cho phép đưa ra phương hướng nhằm cải tiến cơ chế quản lý trong lĩnh vực du lịch. Nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch một quốc gia là cơ sở để đánh giá sự phát triển của toàn ngành trong từng giai đoạn phát triển, từ đó xác định được vị thế của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Đó là tiền đề để các nhà quản lý trong lĩnh vực du lịch đưa ra các chính sách, các chiến lược phát triển ngành phù hợp. Các chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch bao gồm: - Chỉ tiêu về khách du lịch Là chỉ tiêu cơ bản cho phép đánh giá khối lượng hoạt động của từng đơn vị kinh doanh và toàn ngành trong từng thời kỳ nhất định. Bao gồm các chỉ tiêu như: Tổng số khách, số ngày khách, kết cấu khách,…Các chỉ tiêu này dùng để tính ra nhiều chỉ tiêu chất lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch. Mặt khác, chỉ tiêu về khách là cơ sở để lập kế hoạch cho nhiều chỉ tiêu kết quả quan trọng khác. - Chỉ tiêu về doanh thu du lịch: Không chỉ phản ánh khối lượng hoạt động mà còn phản ánh chất lượng phục vụ, sự thay đổi trình độ hiện đại của các sơ sở vật chất kỹ thuật và mức độ phục vụ. Đó là cơ sở để tính ra nhiều chỉ tiêu khác như cơ cấu doanh thu, … - Chỉ tiêu giá trị sản xuất, lợi nhuận, giá trị tăng thêm, doanh thu xã hội từ du lịch…: Là các chỉ tiêu kết quả quan trọng chho phép đánh giá khối lượng kinh doanh đồng thời phản ánh hiệu quả hoạt động du lịch. Từ đó có thể lập kế hoạch và dự báo cho tương lai. Thống kê kết quả hoạt động du lịch là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng trong thống kê kinh tế nói chung và thống kê về du lịch nói riêng, bao gồm các nhiệm vụ sau: - Xác định đúng kết quả hoạt động của các đơn vị kinh doanh du lịch và của toàn ngành qua các chỉ tiêu: Số lượng khách, số ngày lưu trú của khách, kết cấu khách, tổng doanh thu, kết cấu doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, thu nhập xã hội từ du lịch…nhưng tránh việc tính trùng các kết quả. -Từ cơ sở số liệu thu thập được có thể lựa chọn các phương pháp thống kê vận dụng phân tích kết quả hoạt động du lịch bao gồm: phân tích theo thời gian, phân tích theo không gian, phân tích mối liên hệảnh hưởng của các yếu tố tác động đến biến động kết quả hoạt động du lịch. - Đưa ra nhận xét, đánh giá xu hướng của sự biến động đồng thời dự báo kết quả trong tương lai. Từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với từng doanh nghiệp cũng như toàn ngành. III. Hệ thống chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch. 1. Khái niệm hệ thống chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch. Hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch là tập hợp các chỉ tiêu phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng nhất, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt của kết quả sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực du lịch và mối liên hệ của nó với các đối tượng có liên quan. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch hoàn chỉnh có ý nghĩa trong việc lượng hoá các mặt, các biểu hiện quan trọng nhất, lượng hoá cơ cấu và các mối liên hệ cơ bản của hiện tượng. Đó là cơ sở để có thể nhận thức được bản chất và tính quy luật về sự phát triển của hoạt động du lịch. Bao gồm tính quy luật về sự phát triển của kết quả hoạt động du lịch, tính quy luật về mối liên hệ phụ thuộc giữa các nhân tố liên quan với kết quả hoạt động, tính quy luật về sự tác động mang tính chất thời vụ. Hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch bao gồm các chỉ tiêu: các chỉ tiêu về khách, các chỉ tiêu về doanh thu, chỉ tiêu lợi nhuận, chỉ tiêu giá trị sản xuất, chỉ tiêu giá trị tăng thêm, chỉ tiêu thu nhập xã hội từ du lịch. 2. Yêu cầu và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch. Hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch phải nêu lên được mối liên hệ giữa các mặt của hiện tượng du lịch và các hiện tượng kinh tế liên quan tuỳ theo phạm vi và mục đích nghiên cứu. Du lịch là một ngành dịch vụ đặc biệt vì vậy việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê về kết quả phải đảm bảo yêu cầu mang tính chất chung đồng thời mang tính chất từng mặt của từng bộ phận, từng loại hình kinh doanh, từng loại hình du lịch và phải phản ánh được đầy đủ đặc điểm và bản chất của hiện tượng. Các chỉ tiêu phải được tính toán theo phương pháp, phạm vi và nội dung nhất định. Kết quả hoạt động du lịch của một đơn vị, một doanh nghiệp, một địa phương hay của một quốc gia đều có cách tính toán, cách thu thập số liệu, cách đánh gía khác nhau nhưng ở bất kỳ phạm vi nào thì việc xâu dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phản ánh kết quả hoạt động du lịch cũng theo các nguyên tắc sau: Thứ nhất, hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính hướng đích có nghĩa các chỉ tiêu này phải đáp ứng được nhu cầu thông tin phục vụ cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh ở tầm vi mô và vĩ mô. Thứ hai, hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính hệ thống nghĩa là các chỉ tiêu phải nêu lên được mối liên hệ giữa các mặt của hiện tượng sao cho phù hợp với mục đích nghiên cứu. Các chỉ tiêu này vừa mang tính chất chung của tổng thể vừa mang tính chất bộ phận, phản ánh được đặc điểm phát triển của ngành. Thứ ba, hệ thồng chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính khả thi nghĩa là ở từng doanh nghiệp, từng địa phương, từng quốc gia khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch trước hết phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của ngành ở đó và đặc điểm kinh tế chung ở từng phạm vi. Các chỉ tiêu này không được tính trùng hoặc tránh trường hợp xây dựng quá nhiều chỉ tiêu. Thứ tư, hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính hiệu quả nghĩa là hệ thống chỉ tiêu được xây dựng phải mang đầy đủ thông tin phản ánh được kết quả hoạt động du lịch. Những thông tin này phải đạt được tiêu chuẩn và chất lượng nhất định. Mặt khác khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu cần phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu, căn cứ vào nhu cầu thông tin quản lý vĩ mô. Tính hiệu quả ở đây được hiểu là hiệu quả về mặt lý luận cũng như hiệu quả về mặt thực tiễn. 3. Các chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch. 3.1. Nhóm chỉ tiêu khách du lịch. Khách du lịch được nhận thức theo 3 tiêu chí sau: - Về không gian: Khách du lịch phải là người đi khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ. - Về thời gian: Khách du lịch phải là người đi khỏi nơi cư trú thường xuyên từ 24 giờ trở lên. - Về mục đích chuyến đi: Khách đi du lịch không vì mục đích kinh tế, không nhằm mục đích kiếm tiền nơi mà mình đến du lịch. Việc phân biệt theo các điều kiện trên được cụ thể theo sơ đồ sau (trang bên). Các chỉ tiêu thống kê khách du lịch được xây dựng trên cơ sở: phân biệt giữa khách du lịch quốc tế và khách du lịch trong nước. Khách du lịch quốc tế là một khách đi du lịch tới một đất nước không phải là đất nước mà họ cư trú thường xuyên trong khoảng thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không vượt quá một năm và mục đích chính của chuyến đi không phải là để thực hiện việc kiếm tiền từ đất nước đến thăm. Khách du lịch trong nước là một khách cư trú ở một đất nước đi du lịch tới một địa phuơng trong phạm vi lãnh thổ của đất nước đó nhưng ngoài môi trường thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không quá 6 tháng và mục đích chính của chuyến đi không phải để thực hiện hoạt động kiếm tiền từ địa phương đến thăm. Phân biệt khách thăm quan và du khách. Khách thăm quan là một loại khách đến với mục đích nâng cao nhận thức tại chỗ có kèm theo việc tiêu thụ những giá trị tinh thần, vật chất, dịch vụ nhưng không lưu lại qua đêm tại một cơ sở lưu trú của ngành du lịch. Còn du khách là người khách cũng với mục đích thẩm nhận tại chỗ những giá trị tinh thần, vật chất, dịch vụ nhưng có lưu lại qua đêm tại một cơ sở lưu trú và có sử dụng các sản phẩm dịch vụ khác của các doanh nghiệp như lữ hành, khách sạn, ăn uống… Chỉ tiêu về khách du lịch là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá khối lượng hoạt động của từng đơn vị cũng như của toàn ngành bao gồm các nhóm chỉ tiêu sau: nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô khách du lịch, nhóm chỉ tiêu nghiên cứu cơ cấu khách du lịch, nhóm chỉ tiêu phản ánh đặc trưng tiêu dùng của khách. 3.1.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô khách du lịch. * Chỉ tiêu số khách du lịch Số khách du lịch là tổng số lượt người đến và tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ du lịch trong kỳ nghiên cứu. Đơn vị tính: Lượt người (lượt khách) - Đối với từng đơn vị kinh doanh du lịch: số khách du lịch quốc tế là số lượt khách mà đơn vị phục vụ trong kỳ nghiên cứu. - Đối với toàn ngành: Số khách du lịch quốc tế là tổng số khách được thu thập ở các cửa khẩu, đường hàng không, đường bộ, đường biển. Còn số khách du lịch trong nước được thu thập theo 2 cách như sau: + Theo thống kê kinh nghiệm: Số khách du lịch trong nước là tổng số khách của các đơn vị kinh doanh nhân hệ số điều chỉnh quy định trước. + Qua điều tra: Điều tra từng hộ gia đình hoặc điều tra chọn mẫu. Ngoài ra tổng số khách du lịch bao gồm số khách của 3 bộ phận: Số lượng khách du lịch quốc tế Số lượng khách du lịch trong nước Số lượng khách du lịch trong nước đi ra nước ngoài. * Chỉ tiêu số ngày khách: Số ngày khách là tổng số ngày khách được thu thập từ các báo cáo thống kê định kỳ của các tổ chức kinh doanh du lịch Đơn vị tính: ngày khách (ngày người) - Đối với từng đơn vị kinh doanh: tổng số ngày khách bằng tổng số khách cộng dồn trong kỳ nghiên cứu. - Đối với toàn ngành: tổng số ngày khách bằng tổng số khách cộng dồn của các đơn vị kinh doanh du lịch trong kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu về số ngày khách phản ánh cụ thể hơn về quy mô khách du lịch so với chỉ tiêu số khách. 3.1.2. Nhóm chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết cấu khách du lịch. * Kết cấu theo nguồn khách. Khách du lịch quốc tế phân theo khu vực và quốc tịch. Khách du lịch trong nước chia theo vùng và địa phương * Kết cấu theo mục đích chuyến đi. Nhóm khách vui chơi giải trí, du lịch Nhóm khách du lịch kết hợp với công việc. Nhóm khách với mục đích thăm thân và bạn bè. Nhóm khách với mục đích khác. * Kết cấu theo phương tiện đến. Khách đến bằng đường không Khách đến bằng đường bộ Khách đến bằng đường biển * Kết cấu theo thời gian lưu trú. * Kết cấu theo độ tuổi *Kết cấu theo nghề nghiệp *Kết cấu theo đặc tính tinh thần của khách. * Kết cấu theo phương thức hợp đồng Khách đi trọn gói Khách đi từng phần * Kết cấu theo loại hình lưu trú. Khách đến ở khách sạn Khách đến ở Motel Khách đến ở nhà nghỉ Khách đến ở nhà trọ Khách ở bằng Campping… * Kết cấu theo tháng, theo quý, theo năm. 3.1.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh đặc trưng tiêu dùng của khách. Thu nhập bình quân của khách Chi tiêu bình quân của khách cho du lịch Cơ cấu tiêu dùng của khách Số ngày lưu trú bình quân của khách 3.2. Nhóm chỉ tiêu thống kê doanh thu du lịch. Doanh thu du lịch là toàn bộ số tiền thu được từ khách du lịch trong kỳ nghiên cứu do hoạt động phục vụ các loại bao gồm các chi phí của khách về du lịch, doanh thu bán hàng hoá (trừ chi phí cho vận tải hành khách quốc tế) Chỉ tiêu doanh thu du lịch cho phép phản ánh khối lượng hoạt động và chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch 3.2.1. Chỉ tiêu tổng doanh thu du lịch. Doanh thu lữ hành Doanh thu khách sạn Doanh thu vận chuyển khách Doanh thu khác: doanh thu bán hàng, doanh thu dịch vụ vui chơi giải trí… 3.2.2. Nhóm chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết cấu doanh thu du lịch * Theo từng loại khách Doanh thu khách quốc tế Doanh thu khách du lịch trong nước Khách trong nước ra nước ngoài * Theo loại hình sản phẩm du lịch Doanh thu cho thuê phòng Doanh thu lữ hành Doanh thu bán hàng hoá Doanh thu vận chuyển khách Doanh thu bánông nghiệp hàng ăn uống Doanh thu dịch vụ vui chơi giải trí Doanh thu khác 3.2.3. Chỉ tiêu doanh thu bình quân 1 khách, doanh thu bình quân 1 ngày khách. 3.3. Chỉ tiêu lợi nhuận du lịch. Tổng lợi nhuận của tổ chức du lịch là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí (hoặc giá thành toàn bộ) của tổ chức du lịch đó. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động du lịch trong kỳ nghiên cứu vì mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. 3.4. Chỉ tiêu giá trị sản xuất ngành du lịch. Giá trị sản xuất là toàn bộ của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định của doanh nghiệp, thường là 1 năm. Đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của hoạt động du lịch. Nghiên cứu chỉ tiêu này cho phép phản ánh một cách tổng hợp thành quả đạt được của đơn vị. Giá trị sản xuất du lịch toàn ngành bao gồm: Giá trị sản xuất của hoạt động lữ hành Giá trị sản xuất của hoạt động khách sạn Giá trị sản xuất của hoạt động vận chuyển khách Giá trị sản xuất của các dịch vụ khác 3.5. Chỉ tiêu giá trị tăng thêm ngành du lịch. Giá trị tăng thêm là giá trị sản xuất sau khi trừ chi phí trung gian ngành du lịch. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả thuần cuối cùng của hoạt động du lịch, là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động du lịch của từng đơn vị hoặc của toàn ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Giá trị tăng thêm toàn ngành bao gồm: Giá trị tăng thêm hoạt động lữ hành Giá trị tăng thêm hoạt động khách sạn Giá trị tăng thêm hoạt động vận chuyển khách Giá trị tăng thêm của các dịch vụ khác. Chỉ tiêu này là cơ sở để tính thuế giá trị gia tăng. Chương II: Một số phương pháp thống kê phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch I. Khái niệm và nhiệm vụ phân tích và dự đoán thống kê kết quả hoạt động du lịch. Phân tích và dự đoán thống kê là nêu lên một cách tổng hợp bản chất cụ thể, tính quy luật của các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội trong điều kiện thời gian và không gian xác định thông qua biểu hiện bằng số lượng, tính toán mức độ tương lai của hiện tượng nhằm đưa ra những căn cứ cho quyết định quản lý. Nói cách khác, phân tích thống kê là xác định các mức độ biểu hiện tính chất của hiện tượng, phân tích các quy luật của mối liên hệ tương tác giữa các hiện tượng, của sự phát triển hiện tượng qua thời gian và sự tác động của các nhân tố cấu thành nên hiện tượng chung. Trên cơ sở nhận thức bản chất và tính quy luật để tiến hành dự đoán hiện tượng trong tương lai, từ đó rút ra những kết luận thực tế phục vụ cho quyết định quản lý. Nhiệm vụ chung của phân tích và dự đoán thống kê kết quả hoạt động du lịch là phải nêu lên bản chất cụ thể, tính quy luật và sự phát triển của kết quả trong tương lai. Từ nhiệm vụ đó ta thấy rằng, nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch có ý nghĩa quan trọng đối với ngành du lịch nói riêng và của nền kinh tế quốc dân nói chung. Để đảm bảo kết quả phân tích và dự đoán chính xác khách quan đòi hỏi trong quá trình phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch phải tuân thủ theo các yêu cầu sau: Phải trên cơ sở phân tích lý luận kinh tế-xã hội: nghĩa là phân tích tình hình thực trạng, sự phát triển của du lịch, từ đó hiểu được xu hướng biến động của hiện tượng. Trên cơ sở số liệu có thể nhận định một cách tổng quát tính chất cụ thể của hiện tượng. Phải căn cứ vào toàn bộ sự kiện và đặt chúng trong mối liên hệ lẫn nhau. Khi tiến hành phân tích và dự đoán thống kê, tuỳ theo đặc điểm của số liệu, điều kiện tài liệu và phạm vi nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch mà lựa chọn các phương pháp thống kê phù hợp. II. Một số phương pháp phân tích thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch. Phương pháp thống kê là công cụ phân tích các con số của các hiện tượng số lớn nhằm tìm ra bản chất và tính quy luật vốn có của nó. Trong hoạt động du lịch, kết quả của hoạt động này được thể hiện qua các con số cụ thể, thông qua các con số này chúng ta có thể đánh giá được tình hình hoạt động của từng đơn vị, từng doanh nghiệp kinh doanh du lịch và của toàn ngành. Các con số khôngbiết nói trở thành biết nói nhờ công cụ thống kê số liệu về số khách, số ngày khách, doanh thu du lịch, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, thu nhập xã hội từ du lịch,…đều được điều tra, thu thập, xử lý và phân tích cụ thể và toàn diện. Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu thống kê phân tích kết quả hoạt động du lịch. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày 4 phương pháp phân tích phổ biến nhất, đó là: Phương pháp phân tổ Phương pháp hồi quy tương quan Phương pháp dãy số thời gian Phương pháp chỉ số. Mỗi phương pháp này được tiếp cận phân tích theo các cách khác nhau nhưng đều đem lại kết quả đánh giá nhất định. Mỗi phương pháp đều có ý nghĩa tác dụng riêng tuỳ theo mục đích nghiên cứu từng chỉ tiêu, từng đặc điểm của hiện tượng. 1. Phương pháp phân tổ Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hoặc một số tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia các đơn vị thuộc hiẹn tượng nghiên cứu thành các tổ và các tiểu tổ có các tính chất khác nhau. Cơ sở quan trọng khi tiến hành phân tổ thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch là việc lựa chọn tiêu thức phân tổ. Tiêu thức phân tổ là tiêu thức thống kê được chọn làm căn cứ để tiến hành phân tổ. Các căn cứ này phải dựa trên cơ sở phân tích lý luận một cách sâu sắc và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của hiện tượng nghiên cứu để lựa chọn tiêu thức bản chất phù hợp với mục đích nghiên cứu. Tuỳ theo từng mục đích nghiên cứu hiện tượng mà phân tổ theo tiêu thức số lượng hay tiêu thức thuộc tính. Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch có thể lựa chọn áp dụng phân tổ giản đơn, phân tổ kết hợp hoặc phân tổ nhiều chiều. Phân tổ giản đơn là hình thức phân tổ theo một tiêu thức, là việc căn cứ vào một tiêu thức nào đó (có thể là tiêu thức số lượng hay tiêu thức thuộc tính) để phân phối các lượng biến vào từng tổ. Vận dụng phương pháp phân tổ theo một tiêu thức trong thống kê kết quả hoạt động du lịch cho phép nghiên cứu kết cấu và phân tích kết cấu số khách, số ngày khách, doanh thu du lịch, lợi nhuận du lịch, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm. doanh thu xã hội từ du lịch, … + ở tầm vi mô, phạm vi doanh nghiệp, phương pháp này cho phép nghiên cứu kết cấu khách theo nguồn khách, theo nơi đến, theo mục đích chuyển đi, theo phương tiện đến, theo tháng. Nghiên cứu kết cấu số ngày khách theo nguồn khách, theo từng loại thị trường khách, theo mục đích chuyến đi,..; Nghiên cứu doanh thu theo từng loại khách là chủ yếu,…ở phạm vi này, nghiên cứu thống kê kết cấu các chỉ tiêu kết quả theo nơi đến và mục đích chuyến đi là quan trọng vì nó là cơ sở để doanh nghiệp đánh giá được khả năng thu hút khách ở mức nào, doanh nghiệp phù hợp với phục vụ đối tượng khách nào,…nhằm đưa ra các chiến lược phát triển. + ở tầm vĩ mô, phạm vi toàn ngành, phương pháp này cho phép nghiên cứu kết cấu khách theo từng loại khách, mục đích chuyến đi, theo phương tiện đến, theo tháng, theo từng loại hình doanh nghiệp… + Kết cấu theo từng loại khách cho phép đánh giá khả năng thu hút của từng thị trường khách, xem loại khách nào đến Việt Nam nhiều nhất từ đó phát huy từng nguồn khách, tạo điều kiện môi trường thu hút khách phù hợp. + Kết cấu theo mục đích chuyến đi cho phép xác định được nhu cầu đa dạng của khách và biết được xu hướng thị hiếu của khách du lịch từ đó có chiến lược phục vụ phù hợp. + Kết cấu theo phương tiện đến cho phép xác định được nhu cầu vận chuyển của khách theo từng loại phương tiện, xu hướng tiêu dùng phương tiện đi lại của khách từ đó có thể đáp ứng được nhu cầu của khách có hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện phát triển cho ngành giao thông vận tải, hàng không…, có kế hoạch đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như đường sá, phương tiện … phục vụ nhu cầu đi lại của khách du lịch. + Kết cấu theo từng loại cơ sở cư trú, từng loại hình doanh nghiệp …cho phép xác định được vai trò của từng loại cơ sở, từng loại doanh nghiệp nhằm phát huy thế mạnh đó đồng thời có chiến lược xây dựng các cơ sở phù hợp hoặc đầu tư vào từng loại hình doanh nghiệp sao cho có hiệu quả nhất. + Kết cấu khách theo tháng là cơ sở để xác định xem thời gian nào trong năm là mùa vụ du lịch, và đặc điểm của mùa vụ trong năm. Từ đó cho phép xác định được xu hướng biến động khách theo mùa vụ, là cơ sở để các nhà quản lý lập kế hoạch kinh doanh du lịch theo đúng mùa vụ. Ngoài việc vận dụng phân tổ giản đơn, thống kê kết quả hoạt động du lịch thường vận dụng phương pháp phân tổ kết hợp để phân tích mối liên hệ. Phân tổ kết hợp là phân tổ theo nhiều tiêu thức, nhằm để sắp xếp thứ tự các thiêu thức, xác định số tổ theo từng tiêu thức từ đó xác định được mối liên hệ giữa các tiêu thức với nhau. Vận dụng phương pháp phân tổ kết hợp trong phân tích thống kê kết quả hoạt động du lịch để nghiên cứu mối liên hệ: - Nguồn khách theo khu vực, theo quốc tịch với độ dài lưu trú, đặc trưng tiêu dùng sản phẩm du lịch. -Đặc điểm nhóm khách theo mục đích chuyến đi với độ dài lưu trú, mức chi tiêu cho các loại sản phẩm khác nhau …. Các mối liên hệ này là cơ sở để xác định sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các tiêu thức từ đó có thể phân tích được kết cấu các thị trường khách nhằm xác định tính hiện thực của từng thị trường khách, phân tích đặc trưng tiêu dùng của từng loại khách, đồng thời phân tích được các nguyên nhân ảnh hưởng đến các kết quả của từng thị trường khách từ đó có những biện pháp khai thác thị trường phù hợp Khi vận dụng phương pháp phân tổ kết hợp thì việc lập bảng phân tổ phải dựa trên các nguyên tắc sau: Bảng phân tổ được xây dựng trên quan điểm hệ thống và theo góc độ nghiên cứu các kết quả hoạt động du lịch. Bảng phân tổ không quá lớn hoặc quá dài Bảng phân tổ phải thể hiện được tài liệu thống kê 1 cách cụ thể, rõ ràng, chính xác và có tính chất tổng hợp Bảng phân tổ phải dựa trên các tiêu thức có mối liên hệ nhau Khi kiểm định mối liên hệ giữa các tiêu thức trong phân tổ kết hợp bằng kiểm định khi bình phương (c2) ta dùng chương trình phần mềm thống kê máy để kiểm định sự phụ thuộc đó: Giả thiết kiểm định: Ho: Không có mối liên hệ H1: Có mối liên hệ phụ thuộc Như vậy, phân tổ thống kê có vai trò rất quan trọng trong quá trình phân tích, đánh giá kết quả hoạt động du lịch. Để có được sản phẩm phân tổ có hiệu quả thì phân tổ thống kê cần phải xác định đúng tiêu thức phân tổ phù hợp mục đích nghiên cứu đồng thời phải đảm bảo tính chính xác. 2. Phương pháp hồi quy tương quan 2.1. Khái niệm, nhiệm vụ và ý nghĩa của phương pháp hồi quy tương quan trong nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch Hiện tượng kinh tế xã hội luôn tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, đa dạng, nhiều vẻ và rất phức tạp. Sự biến động của hiện tượng luôn chịu tác động của nhiều yếu tố liên quan, trong đó có những yếu tố tác động chủ yếu, có những yếu tố chỉ ảnh hưởng chút ít. Trong mối liên hệ đó chúng ta thường quan tâm đến mối liên hệ nhân quả. Hồi quy tương quan là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến nhất khi nghiên cứu mối liên hệ này. Hiện tượng du lịch cũng vậy, sự biến động của kết quả hoạt động du lịch do nhiều yếu tố tác động bao gồm: yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội, yếu tố chính trị, yếu tố đầu vào, yếu tố tâm lý,…Trong đó có những yếu tố chúng ta có thể lượng hoá được và ngược lại có nhiều yếu tố khó có thể lượng hoá như yếu tố tâm lý, yếu tố chính trị xã hội,…Mối liên hệ này thực chất là mối liên hệ tương quan. Vì vậy khi nghiên cứu mối liên hệ tương quan giữa kết quả hoạt động du lịch với các tiêu thức nguyên nhân bằng phương pháp hồi quy tương quan người ta căn cứ vào mức độ tác động của từng nhân tố tác động, nhân tố này phải có vai trò ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động du lịch. Thực chất nghiên cứu mối quan hệ tương quan là ta nghiên cứu mối liên hệ hoàn toàn chặt chẽ và có ý nghĩa, còn các yếu tố có tác động ít đến biến động của kết quả hoạt động du lịch thì thường rất ít khi được chọn làm biến nguyên nhân. Có thể biểu hiện mối liên hệ này theo hàm y = f(x). Trong đó y là tiêu thức kết quả, phản ánh kết quả hoạt động du lịch có thể là số lượng khách du lịch, số ngày khách du lịch, doanh thu du lịch, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, thu nhập xã hội từ du lịch…Và x là tiêu thức nguyên nhân, biểu hiện của các nhân tố tác động đến sự biến động của kết quả hoạt động du lịch, x có thể là mức tăng trưởng nền kinh tế (GDPKTQD) hoặc vốn đầu tư nước ngoài vào ngành du lịch, thu nhập của khách, chi phí quảng cáo, giá theo tour,…Các yếu tố này tác động đến kết quả hoạt động du lịch theo từng mức độ tác động của yếu tố đó. Khi vận dụng phương pháp hồi quy tương quan để phân tích mối liên hệ tương quan trong thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du ._.ột qui luật nhất định. Thời vụ thể hiện ở số lượng khách, lượng khách quốc tế là một minh hoạ cho thời vụ du lịch Việt Nam: Bảng 3.20 : Lượng khách quốc tế đến Việt Nam thời kỳ 1995 – 2002 chia theo tháng. (Đơn vị: lượt khách) Tháng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 84137 115387 157688 147002 148559 156073 213945 198870 131825 172834 189291 152966 159807 200330 207245 223891 111219 138062 126775 127277 155703 172341 182272 216488 123802 136837 163895 133747 149391 187874 193534 222299 100930 151069 130102 121908 142975 187093 183414 217169 99392 148974 158826 123700 140959 185616 176924 219887 111790 101743 125033 107183 140188 177287 216748 225726 123112 121133 153757 123664 157228 190207 209916 238488 109542 127734 114050 112990 133408 155205 194061 238462 106613 110737 113206 115809 139758 163627 176445 199471 128616 124202 140240 117460 159299 179101 184528 223062 120318 158443 142774 136425 154479 185346 191018 233175 Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam. Qua bảng ta thấy lượng khách du lịch không đồng đều trong các tháng của năm nhưng hiện tượng này cũng theo một quy luật nhất định.Tính qui luật này do tác động của biến động thời vụ và của biến động xu thế nếu không xét đến thành phần ngẫu nhiên. Nghiên cứu biến động xu thế lượng khách quốc tế Lượng khách quốc tế ( lượt người) Đồ thị 2: Đồ thị quan sát lượng khách quốc tế theo tháng Quan sát đồ thị cho thấy, lượng khách quốc tế biến động theo xu thế và theo thời vụ. Trong đó, xu thế biến động xảy ra 2 trường hợp sau: hàm xu thế tuyến tính và hàm bậc hai Bảng 3.21: Xu thế biến động lượng khách quốc tế theo tháng giai đoạn 1995 - 2002 Chỉ tiêu Tuyến tính Hàm bậc hai Tỷ số tương quan 0.74597 0.78904 Sai số chuẩn của mô hình 2878.629 26661.746 Kiểm định hệ số hồi quy (sig) - bo - b1 - b2 0.0000 0.0000 0.0000 0.3141 0.0001 Dạng mô hình Yt = 98544.425 + 1149.880t Yt =123883.275 – 401.478t + 15.993t2 Qua phân tích các tiêu chuẩn lựa chọn cho thấy lượng khách quốc tế biến động theo xu thế hàm tuyến tính. Hàm này là sơ sở để tính chỉ số thời vụ từng tháng các năm. *Nghiên cứu biến động thời vụ du lịch: Đồ thị 3: Biểu diễn tính thời vụ du lịch giai đoạn 1995 - 2002 Lượng khách quốc tế ( lượt khách) Quan sát đồ thị trên cho thấy lượng khách quốc tế có biến động thời vụ rõ rệt. *Phương pháp chỉ số thời vụ: Từ cơ sở xây dựng hàm xu thế theo tháng lượng khách quốc tế, chỉ số thời vụ từng tháng được tính theo công thức sau: Ii Bảng3.22: Chỉ số thời vụ các tháng về lượng khách quốc tế giai đoạn 1995 - 2002 Tháng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Chỉ số thời vụ (%) 84137 115387 157688 147002 148559 156073 213945 198870 102.64 131825 172834 189291 152966 159807 200330 207245 223891 122.88 111219 138062 126775 127277 155703 172341 182272 216488 102.8 123802 136837 163895 133747 149391 187874 193534 222299 109.23 100930 151069 130102 121908 142975 187093 183414 217169 101.35 99392 148974 158826 123700 140959 185616 176924 219887 102.48 111790 101743 125033 107183 140188 177287 216748 225726 96.02 123112 121133 153757 123664 157228 190207 209916 238488 105.18 109542 127734 114050 112990 133408 155205 194061 238462 93.66 106613 110737 113206 115809 139758 163627 176445 199471 88.63 128616 124202 140240 117460 159299 179101 184528 223062 98.84 120318 158443 142774 136425 154479 185346 191018 233175 103.42 Qua phân tích chỉ số thời vụ, cho thấy chỉ số thời vụ vào các tháng1, 2, 3, 4, 5, 6, 8, 12 đều lớn hơn 100%, có nghĩa vào các tháng này du lịch được mở rộng, lượng khách đến nhiều hơn mức bình thường. Còn vào các tháng còn lại như tháng 7, 9, 10, 11 không phải là mùa vụ du lịch, vào thời gian này thì lượng khách quốc tế đền ít hơn, hoạt động du lịch bị thu hẹp. ( Xem chi tết thêm Phụ lục 03) Bảng 3.23: Dự đoán lượng khách quốc tế theo mô hình tuyến tính có điều chỉnh theo chỉ số thời vụ các tháng giai đoạn 1995 - 2002 Tháng Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1 2801095 3056835 3335924 2 3353420 3659587 3993708 3 2805359 3061488 3341003 4 2980837 3252987 3549985 5 2765822 3018341 3293916 6 2796592 3051921 3330561 7 2620398 2859640 3120726 8 2870481 3132556 3418559 9 2556060 2789429 3044104 10 2418687 2639513 2880501 11 2697255 2943514 3212257 12 2822484 3080176 3361397 Tổng 33488489 36545987 39882641 * Phương pháp kết hợp thành phần xu thế với biến động thời vụ: Có 2 mô hình kết hợp với thành phần thời vụ: kết hợp nhân xu thế tuyến tính với biến động thời vụ và kết hợp cộng xu thế tuyến tính với biến động thời vụ. Có thể tham khảo chi tiết kết quả hai mô hình kết hợp này ở Phụ lục 01, và Phụ lục 02. Trên cơ sở đó phân tích xu hướng biến động thời vụ để dự đoán số khách du lịch quốc tế trong các năm 2003 – 2005 có thể lựa chọn vận dụng các mô hình san bằng mũ sau: Thứ nhất: mô hình san bằng mũ trong trường hợp số khách quốc tế không theo xu thế mà cũng không theo thời vụ (mô hình Simple). Thứ hai: mô hình san bằng mũ trong trường hợp số khách quốc tế biến động theo xu thế nhưng không có tính thời vụ (mô hình Holt) Thứ ba: mô hình san bằng mũ kết hợp nhân biến động xu thế và biến động thời vụ (mô hình Winter). Thứ tư: mô hình san bằng mũ kết hợp cộng biến động xu thế với biến động thời vụ (mô hình Custom) Bảng 3.24: Kết quả xây dựng bốn mô hình san bằng mũ về lượng khách quốc tế giai đoạn 1995 - 2002 Chỉ tiêu Simple Holt Winter Custom Tổng bình phương các sai số (SSEmin) 35771634988 31384658290 3926993943598 22965271578 Tham số(a) 0.5 0.4 0.5 0.2 Tham số (g) 0.0 0.0 0.0 Tham số (d) 1.0 0.4 Dựa trên kết quả tính toán các mô hình, so sánh giữa SSE của các mô hình cho thấy mô hình kết hợp cộng Custom có tổng bình phương các sai số là nhỏ nhất, vì vậy mô hình này dùng để phân tích các thành phần và để dự đoán cho các tháng sẽ chính xác và có độ tin cậy. Trong mô hình này, các tham số lần lượt như sau: 0.2, 0.0, 0.4, khi đó kết quả dự đoán như sau: Bảng 3.25: Dự đoán lượng khách quốc tế theo tháng theo mô hình san bằng mũ Custom (Đơn vị: lượt khách) Tháng Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 237929.72 253128.435 268327.149 256682.011 271880.725 187079.440 238005.798 253204.512 268403.227 245451.935 260650.649 275849.363 237664.587 252863.302 268062.016 237297.418 252446.132 267694.846 242342.125 257540.840 272739.554 249464.728 264663.442 279862.157 224916.267 240114.182 255313.696 219456.288 234655.002 249853.716 236601.006 251799.720 266998.434 244561.054 259759.768 274958.482 Tổng 2870373 3052707 3135142 Qua kết quả dự đoán lượng khách quốc tế ở trên, cho thấy lượng khách theo các tháng không đồng đều, nhưng so sánh hai mô hình ta thấy kết quả giữa hai mô hình này có sai lệch đáng kể. Thực tế so sánh sai số chuẩn của ha mô hình thì thấy sai số chuẩn của mô hình Custom nhỏ hơn. Vì vậy trong thực tế nên chọn mô hình Custom dự đoán sẽ chính xác hơn. 2.2. Phân tích thống kê doanh thu du lịch toàn ngành du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2002. Doanh thu du lịch là chỉ tiêu kết quả quan trong phản ánh tình hình kinh doanh của ngành, đánh giá kết quả hoạt động du lịch bằng chỉ têu doanh thu rất cần thiết. Doanh thu vừa phản ánh khối lượng hoạt động vừa phản ánh chất lượng phục vụ của các đơn vị kinh doanh. Thực tế trong giai đoạn này doanh thu du lịch Việt Nam có nhiều biến động. Có thể tham khảo số liệu tính toán sau: Bảng 3.26: Bảng tính toán các chỉ tiêu phân tích biến động doanh thu du lịch Việt nam thời kỳ 1995 – 2002. Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Doanhthu (tỷ đồng) 6144 6400 7000 6400 7888 9567 10720 12000 2.Lượng tăng giảm tuyệt đối (tỷ đồng) -liên hoàn(di) -định gốc(Di) - - 256 256 600 856 -600 256 1488 1744 1679 3423 1153 4576 1280 5856 3.Tốc độ phát triển (%) -liên hoàn(ti) -định gốc(Ti) (%) - - 104.2 104.2 109.4 113.9 91.4 104.2 123.3 128.4 121.3 155.7 112.1 174.5 111.9 195.3 4.Tốc độ tăng giảm(%) -liên hoàn(ai) -định gốc(Ai) - - 4.2 4.2 9.4 13.9 -8.57 4.2 23.3 28.4 21.3 55.7 12.1 74.5 11.9 95.3 Từ kết quả tính toán cho thấy tổng doanh thu du lịch trong 8 năm qua là 66119 tỷ đồng, bình quân hàng năm là 8264.875 tỷ đồng, tốc độ phát triển trung bình là 110.04% tức là tăng 10.04% tương ứng với tăng 836.57 tỷ đồng. Năm 2002 doanh thu du lịch gấp gấn 2 lần so với năm 1995 và gấp 1.12lần so với năm 2001, tức là tăng 1280 tỷ đồng. Giai đoạn này doanh thu tăng lên đần do lượng khách nội địa và khách quốc tế đến Việt nam tăng dần, chi tiêu của họ cho các dịch vụ du lịch tăng lên như chi cho thuê phòng, chi cho lữ hành, chi cho ăn uống, … nhiều hơn so với các năm trước đó. Mặt khác do du lịch Việt Nam có nhiều điều kiẹn thuận lợi cho việc thu hút khách tiêu dùng những sản phẩm cao cấp. Song sự biến động của tổng doanh thu tuân theo một quy luật nhất định, quan sát đồ thị biểu diễn doanh thu theo thời gian cho thấy doanh thu có thể biến động theo một trong các quy luật sau: hàm tuyến tính, hàm bậc hai, hàm bậc ba, hàm mũ. Kết quả hồi quy các mô hình trên như sau: Đồ thị biểu diễn doanh thu theo các mô hình như sau: Đồ thị 4: Doanh thu du lịch Việt Nam qua các năm Bảng 3.27: Kết quả hồi quy tổng doanh thu theo thời gian Chỉ tiêu Tuyến tính Hàm bậc hai Hàm mũ 1. Hệ số tương quan(R) 0.93784 0.98476 0.94729 2. Sai số chuẩn của mô hình (SE) 836.678 459.333 670.516 3. Kiểm định hệ số hôi qui bo b1 b2 0.0005 0.0006 0.0002 0.3008 0.0119 0.0000 0.0004 Dạng mô hình Yt =4419.464 + 854.536t Yt =6471.875 – 376.9111t + 136.827t2 Yt = 5110.128 *1.1053t Qua phân tích các tiêu chuẩn, cho thấy doanh thu biến động theo quy luật hàm mũ. Như vậy, doanh thu tăng qua các năm theo quy luật nhất định. Mối lên hệ này tương đối chặt chẽ, các hệ số hồi quy tồn tại có ý nghĩa. Từ mô hình này chúng ta có thể dự báo được doanh thu trong giai đoạn tiếp theo. Kết quả dự đoán như sau: Bảng 3.27.1: Kết quả dự đoán doanh thu du lịch giai đoạn 2003-2005 Đơn vị: tỷ đồng Năm Gía trị dự đoán 2003 12582.105 2004 13907 2005 15371.408 Như vậy năm 2002 doanh thu mới chỉ là 12000 tỷ đồng nhưng dự báo cho đến năm 2003 là 12582.105 tỷ đồng, và đến năm 2004 là 13907 tỷ đồng, tăng 1907 so với năm 2002, năm 2005 dự báo là 15371.408 tỷ đồng tăng 3371.408 tỷ đồng. Đây là một bước tiến khả quan trong hoạt động kinh doanh du lịch. Từ đó đưa ra các chính sách phát triển phù hợp với mục tiêu kế hoạch đặt ra. 2.3. Phân tích thống kê thu nhập xã hội từ du lịch của ngành du lịch Việt nam giai đoạn 1995 – 2002. Chỉ tiêu thu nhập xã hội từ du lịch là chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá kết quả hoạt động du lịch ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay, vì chỉ tiêu này mới thực sự đánh giá đúng khối lượng và chất lượng phục vụ của toàn ngành du lịch, còn chỉ tiêu doanh thu chỉ phản ánh đơn thuần khối lượng hoạt động của các doanh nghiệp. Khi lượng khách đến Việt Nam càng nhiều thì doanh thu về du lịch càng tăng, thu nhập xã hội từ du lịch càng tăng lên, do đó lợi nhuận cũng tăng, …Thực tế cho thấy trong nhiều năm gần đây thu nhập xã hội về du lịch ngày càng lớn dần, hay tổng chi tiêu của khách ngày càng tăng cho nhu cầu du lịch. Có thể phân tích qua số liệu sau đây: Bảng 3.28: Bảng tính toán các chỉ tiêu phân tích biến động thu nhập xã hội về du lịch thời kỳ 1995 – 2002. Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 TNXHTDL (triệu đồng) 7000 9500 10670 14000 14670 17460 20560 23500 Lượng tăng giảm tuyệt đối(triệuđồng) -liên hoàn(di ) -định gốc(Di) 2500 2500 1170 3670 3330 7000 670 7670 2790 10460 3100 13560 2940 16500 Tốc độ phát triển(%) -liên hoàn(ti) -định gốc(Ti ) 135.7 135.7 112.3 152.4 131.2 200 104.8 209.6 119 219.4 117.8 293.7 114.3 335.7 Tốc độ tăng giảm(%) - liênhoàn(ai) -định gốc(Ai) 35.7 35.7 12.3 52.4 31.2 100 4.8 109.6 19 149.4 17.8 193.7 14.3 235.7 gi(triệu đồng) 70 95 106.7 140 146.7 174.6 205.6 Qua đó ta thấy TNXHTDL trong vòng 8 năm thu được 117360 triệu đông, bình quân hàng năm thu 16765.7 triệu đồng, ốc độ phát triển bình quân là 118.89% tức là tăng 18.89%. So với năm 2001, năm 2002 đạt kỷ lục, gấp 1.143 lần, tức là tăng 14.3% tương ứng tăng 2940 triệu đồng. Năm 2001 là năm mà ngành du lịch Việt nam thất thu về kinh doanh, do sự kiện ngày 11/9/2001 ở Mỹ làm cho khách quốc tế giảm do đó làm cho TNXHTDL cũng giảm xuống. Nhưng ngành đã phục hồi vào năm 2002. 2.4. Phân tích thống kê giá trị sản xuất (GTSX) ngành du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2002. GTSX ngành du lịch Việt Nam được tính theo hệ thống tài khoản quốc gia, từ đó đã tổng hợp được chỉ tiêu này cho toàn ngành như sau: Bảng 3.29: Bảng tính toán các chỉ tiêu phân tích biến động của GTSX ngành du lịch Việt nam giai đoạn 1995 – 2002. Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 GTSX (tỷđồng) 4223 4503 4785 4733 6137 7701 8757 Lượng tăng giảm tuyệt đối(tỷ đồng) -liênhoàn(di) -định gốc(Di) 280 280 282 562 -52 510 1404 1914 1564 3478 1056 4534 Tốc độ phát triển(%) -liên hoàn(ti) -định gốc(Ti) 106.6 106.6 106.3 113.3 98.9 112.1 129.7 145.3 125.5 182.4 113.7 207.4 Tốc độ tăng giảm (%) -liên hoàn(ai) -định gốc(Ai) 6.6 6.6 6.3 13.3 -1.09 12.1 29.7 45.3 25.5 82.4 13.7 107.4 gi(tỷ đồng) 42.23 45.03 47.85 47.33 61.37 77.01 Nguồn: Tổng cục du lịch Việt nam. Qua kết quả tính toán cho thấy GTSX trung bình hàng năm là 6806.5 tỷ đồng, tốc độ phát triển trung bình hàng năm là 112.9%, tức là tăng 12.9%. Năm 2002 so với năm 2002 tăng lên 13.7% tức là tăng 1056 tỷ đồng. So với năm 1995, tăng 107.4% tức là tăng lên 4534 tỷ đồng. Nhìn chung trong giai đoạn này tổng sản phẩm được tạo ra có xu hướng tăng qua từng năm. Đây là một dấu hiệu khả quan, cho thấy tình hình kinh doanh du lịch Việt Nam có nhiều tiến bộ, phát triển mạnh. Và tương đối đồng đều, dự báo một tiềm năng dồi dào về kết quả ngành trong tương lai. Tuy nhiên xu hướng phát triển của GTSX trong thời gian qua tuân theo quy luật nhất định với các khả năng như sau: hàm tuyến tính, hàm bậc hai, hàm mũ. Bảng 3.30: Xu tthế biến động GTSX Chỉ tiêu Tuyến tính Hàm bậc hai Hàm mũ Hstq (R) 0.93053 0.98805 0.94776 Sai số chuẩn (SSE) 710.146 334.149 568.787 Kiểm định hệ số hồi qui - bo b1 b2 0.0056 0.0024 0.0009 0.1726 0.0125 0.0001 0.0012 Dạng mô hình Yt =2784.143 + 762.5t Yt =4670.143 – 494.833t + 157.143t2 Yt = 3407.031 *1.1336t Qua phân tích các tiêu chuẩn lựa chọn mô hình, cho thấy GTSX biến động theo quy luật hàm mũ. Hàm này có hệ số tương quan phản ánh mối quan hệ chặt chẽ, các hệ số hồi quy tồn tại có ý nghĩa mặc dù sai số chuẩn của mô hình không lớn nhất trong các mô hình. Từ mô hình này chúng ta có thể dự đoán được GTSX trong các năm tiếp theo đó. Kết quả dự đoán bằn mô hình hàm mũ là: Bảng 3.30.1: Kết quả dự đoán GTSX giai đoạn 2003-2005 Đơn vị : tỷ đồng Năm Gía trị dự đoán 2003 10532.091 2004 11939.179 2005 13534.253 2.5. Phân tích thống kê giá trị tăng thêm (GTTT) ngành du lịch Việt nam thời kỳ 1995 – 2002. Bảng 3.31: Tính toán các chỉ tiêu phân tích biến động GTTT du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2002. Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 GTTT (tỷ đồng) 2246 2296 2163 1985 2482 3149 3552 Lượng tăng giảm tuyệt đối(tỷ đồng) -liên hoàn(di) -định gốc (Di) 50 50 -133 -83 -178 -261 497 236 667 903 403 1306 Tốc độ phát triển(%) -liên hoàn (ti) -định gốc(Ti) 102.2 102.2 94.2 96.3 91.8 88.4 125 110.5 126.9 140.2 112.8 158.2 Tốc độ tăng giảm(%) -liên hoàn (ai) -định gốc(Ai) 2.23 2.23 -5.79 -3.7 -8.23 -11.6 25.04 10.51 26.87 40.2 12.8 58.15 gi(tỷ đồng ) 22.46 22.96 21.63 19.85 24.82 31.49 Vào những năm cuối thế kỷ 20 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới, thị trường tiêu thụ hàng hoá ở Việt nam bị thu hẹp lại. Kinh tế phát triển chậm lại, tốc độ phát triển từ 8.1% năm 1993 còn 4.8% vào năm 1999, 6.8% năm 2000, 6.84% năm 2001 So với GDP năm 1993 GTTT ngành du lịch chiếm 1.04% năm 1994 là 1.38% thì đến năm 1998 chỉ còn 0.81% Từ năm 1999 đến nay do đầu tư trong sản xuất kinh doanh được mở rộng, ngành du lịch Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi và đạt kết quả cao. Cụ thể tỷ trọng GTTT trong GDP tăng từ 0.95% năm 1999 lên 1.08% năm 2000 và tăng 1.12% năm 2001. Năm 1997, 1998 GTTT giảm so với 1996, từ 2296 tỷ đồng năm 1996 xuống 2163 tỷ năm 1997,năm 1998 giảm 178 tỷ đồng so 1997, giảm 311 tỷ đồng so năm 1996. Nhưng đến năm 1999 hoạt động du lịch đã đi vào ổn định. Thục tế cho thấy, GTTT năm 1996 so 1995 là 102.23%, năm 1997 so 1996 là 94.21%, năm 1998 so năm 1997 còn 91.77%, năm 1999 so năm1998 là 125.04% năm 2000 so năm 1999 là 126.87%, năm 2001 so năm 2000 là 112.8%. Xu thế biến động của GTTT ngành du lịch Việt Nam phụ thuộc vào thời gian, hay đó chính là xu hướng biến động theo thời gian. Bảng 3.32: Xu thế biến động GTTT giai đoạn 1995 - 2002 Chỉ tiêu Tuyến tính Hàmbậc hai Hàm mũ Hệ số tương quan(R) 0.93626 0.99281 0.95292 Sai số cuẩn của mô hình (SSE). 443.133 168.826 334.498 Kiểm định hệ số hồi qui bo b1 b2 0.0090 0.0019 0.0005 0.1057 0.0053 0.0001 0.0009 Dạng mô hình Yt =1549.429 +499.071t Yt =2769.143 – 314.071t +101.643t2 Yt =1978.175*1.145t Qua kết quả tính toán, căn cứ vào tiêu chuẩn lựa chọn cho thấy mô hình hàm bậc hai là tốt nhất. Kết quả dự đoán từ mô hình trên: Bảng 3.32.1: Kết quả dự đoán GTTT giai đoạn 2003-2005 Đơn vị: tỷ đồng Năm Gía trị dự đoán 2003 8175.571 2004 9792.714 2005 11613.143 3. Vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích sự biến động kết quả hoạt động du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2002. Vận dụng phương pháp này cho phép nghiên cúu sự biến động kết quả hoạt động du lịch Việt Nam do các nhân tố ảnh hưởng. Nó cho phép xác được mức độ của sự biến động, mức độ tác động của từng nhân tố ảnh hưởng, cụ thể cho phép xác định mức độ biến động tuyệt đối, tương đối về sự biến động của lượng khách, doanh thu, …. Từ đó có thể xác định được vai trò của từng nhân tố đối với sự biến động của kết quả hoạt động. Trong phạm vi bài này, với điều kiện tài liệu hạn chế, tác giả chỉ trình bày hệ thống chỉ số phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tổng doanh thu du lịch Việt Nam của năm 2002 so với năm 2001. Còn tài liệu khác chưa đủ để phân tích đối với lượng khách, giá trị tăng thêm, giá trị sản xuất., thu nhập xã hội từ du lịch …. Xuất phát từ mối quan hệ: Tổng doanh thu = doanh thu bình quân* tổng số khách chung 1 khách Số liệu cần phân tích như sau: Bảng 3.33: Số liệu cần phân tích Tổng số khách (lượt người) Doanh thu(Tỷ đồng) Năm2001 (Ko) Năm 2002 (K1) Năm 2001 (Do) Năm 2002 (D1) 2330050 2627988 10720 12000 Gọi D là doanh thu du lịch từng loại khách. K là số khách của từng loại khách. tk là doanh thu bình quân chung 1 khách. Khi đó ta có: Doanh thu bình quân chung một khách là: Ta có hệ thống chỉ số: Thay số: 1.1194 = 0.9935 . 1.1279 ID = 1.1194 – 1 = 0.1194 (11.94%) ID(t) = 0.9935 - 1 = - 0.0065 (0.65%) ID(k) = 1.1279 –1 = 0.1279 (12.79%) Biến động tuyệt đối: 12000 –10720 = (4.57 – 4.6)2327988 + (2627988- 2330050)4.6 1280 = - 78.84 + 1370.52 Biến động tương đối: 11.94% = - 0.74% + 12.78% Qua kết quả tính toán cho thấy, tổng doanh thu toàn ngành du lịch Việt nam năm 2002 so với năm 2001 tăng lên 11.94% hay tăng 1280 tỷ đồng là do ảnh hưởng của 2 nhân tố: Thứ nhất, do doanh thu bình quân chung 1 khách năm 2002 so năm 2001 giảm xuống 0.65% đẫ làm cho tổng doanh thu năm 2002 giảm 0.74% tức là giảm 78.84 tỷ đồng. Thứ hai, tổng số khách năm 2002 so năm 2001 tăng lên 12.79% làm cho tổng doanh thu năm 2002 tăng 12.78% tức là tăng 1370.52 tỷ đồng. Như vậy nhân tố chủ yếu làm tăng tổng doanh thu là tổng số khách du lịch tăng lên. Từ đó chúng ta cũng có thể thấy rằng, lượng khách du lịch là một nhân tố tác động mạnh đến tổng doanh thu toàn ngành, vì vậy Việt nam cần phải có những biện pháp tăng cường thu hút khách du lịch nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả kinh doanh du lịch. III- Kiến nghị- giải pháp. 1. Về công tác thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam *Cần có sự quan tâm đối với công tác thống kê kết quả hoạt động du lịch. Cần có sự thống nhất giữa hai ngành thống kê và du lịch về việc chuẩn hoá các ý niệm về thống kê du lịch cho phù hợp với quốc tế và phù hợp với thực tế. Cần thiết nhận thức được vai trò của công tác thống kê du lịch, từ đó giúp chúng ta có nhận thức và hành động đúng đắn về việc tăng cường đầu tư như thế nào để đưa ngành du lịch phát triển. * Cần tổ chức tốt việc thu thập thông tin về các chỉ tiêu thông kê kết quả hoạt động du lịch - Thứ nhất, ở chương ba mới chỉ vận dụng được ba phương pháp thống kê phân tích kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam còn phương pháp hồi quy tương quan chưa được vận dụng vào để phân tích kết quả hoạt động du lịch. Điều này do chưa đủ tài liệu về các thông tin phản ánh các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của kết quả hoạt động du lịch như nhân tố : tăng trưởng kinh tế (GDP), vốn đầu tư vào du lịch, giá bán theo chuyến, chi phí quảng cáo....Đây là một hạn chế của công tác thông kê du lịch Việt Nam. Vì vậy, ngành thống kê cần phải tổ chức tốt việc thu thập thông tin vè các chỉ tiêu có vai trò là nhân tố tác động đến sự biến động kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam, từ đó để biết được nhân tố nào có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động du lịch, trên cơ sở đó có các chiến lược hạn chế và phát huy phát triển từng nhân tố - Thứ hai, trong bài vận dụng phương pháp phân tổ thống kê mới chỉ phân tích được kết cấu kết quả hoạt động du lịch theo phương pháp giản đơn mà chưa vận dụng được phương pháp thống phân tổ kết hợp để phân tích các mối liên hệ giữa các tiêu thức, chẳng hạn mối liên hệ giữa số khách theo mục đích chuyến đi với độ dài thời gian lưu trú của khách ... Điều này do tài liệu còn bị hạn chế, chưa đủ số liệu để vận dụng..Vì vậy bộ phận thống kê ngành du lịch cầ phối hợp với bộ phận thống kê Nhà nước tổ chức việc thu thập thông tin chi tiết về số khách theo độ dài lưu trú,.. - Thứ ba, trong bài vận dụng phương pháp dãy số thời gian chỉ phân tích đwocj tính thời vụ du lịch Việt Nam thông qua chỉ tiêu khách quốc tế đến Việt Nam theo tháng mà chưa phân tích được tính thời vụ thông qua một số chỉ tiêu khác như chỉ tiêu doanh thu, chỉ tiêu thu nhập xã hội từ du lịch...Điều này là một hạn chế của thống kê du lịch Việt Nam . Vì vậy, bộ phận thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam cần thống kê chi tiết đầy đủ hơn về kết quả hoạt động du lịch. - Thứ tư, trong bài vận dụng phương pháp chỉ số chỉ phân tích được biến động của tổng doanh thu do ảnh hưởng của hai nhân tố : doanh thu bình quân chung 1 khách và tổng số khách (theo mô hình 1 trong chương II ), mà chưa phân tích được biến động của tổng doanh thu theo các mô hình khách ( Mô hình 2, 3, 4, 5, 6 trong chương II). Đây là một hạn chế làm cho bài viết kém phần phong phú. Vì vậy bộ phận thống kê du lịch thuộc Tổng cục Du lịch Việt Nam nói riêng và bộ phận thống kê du lịch ở Việt Nam nói chung cần có biện pháp tô chức thu thập các thông tin cụ thể hơn, chi tiết hơn về tổng doanh thu theo từng loại khách, số ngày lưu trú theo từng loại khách.. Xuất phát từ nhiều hạn chế trên của thống kê du lịch Việt Nam tôi xin đưa ra một số giải pháp cho những kiến nghị ở trên: + Một là, bộ phận thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam cần phải tổ chức nhiều cuộc điều tra hơn về kết quả hoạt động du lịch trong một năm. +Hai là, bộ phận thống kê của Tổng cục Du lịch càn phối hợp với bộ phaanj thống kê của Nhà nước ( TCTK) tổ chức tốt việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch, Báo cáo thống kê tổng hợp cho từng đơn vị kinh doanh du lịch. +Cần thống nhất phương pháp tính các chỉ tiêu thônga kê kết quả hoạt động du lịch về số khách, số ngày khách, doanh thu, TNXHTDL, GTSX, GTTT... +Cần dành một số kinh phí hàng năm để phục vụ cho việc thực hiện công tác thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam. 2. Về chiến lược phát triển ngành du lịch ở Việt Nam. * Từ việc phân tích kết cấu khách ở chương III cho thấy ngành du lịch Việt Nma nên mở rộngthị trường khách quốc tế trong đó chủ yếu tập trung khai thác thị trường kháhc Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan song đặc biệt là kahchs Trung Quốc và Nhật Bản vì hàng năm lượng khách ở các thị trường này đến Việt Nam chiếm chủ yếu, chi tiêu cho du lịch Việt Nam cũng cao hơn các thị trường khác. Ngoài ra ngành cần có chiến lược phát triển cơ sở lưu trú, ăn uống, nhằm phục vụ cho nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí do gần đây thì khách quốc tế đến Việt Nam chủ yếu nhằm mục đích nghỉ ngơi. Mặt khác, ngành du lịch Việt nam cần phối hợp với ngành giao thông vận tải phát triển về cơ sở hạ tầng như đường giao thông, sân bay,.. * Từ việc phân tích kết cấu doanh thu, GTSX, GTTT ở chưong ba cho thấy ngành du lịch cần tập trung phát huy thế mạnh ccs cơ sở lưu trú, buồng giường phục vụ khách, đa dạng hoá sản phẩm trong kinh doanh ăn uống. Bên cạnh đó nên tập trung đầu tư mở rộng kinh doanh ngành thương nghiệp. * Qua phân tích tính thời vụ du lịch qua chỉ tiêu khách quốc tế đến Việt Nam cho thấy ngành du lịch Việt Nam cần tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thật, đào tạo đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực du lịch như hướng dẫn viên, cán bộ nhân viên quản lý trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt trong mùa hè và mùa xuân trong năm vì trong các thời gian này thì lượng khách đi du lịch nhiều hơn ,làm cho ngành trong thời gian này hoạt động mạnh mẽ hơn. * Qua kết quả dự đoán trong chương ba về kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam cho thấy qui mô kết quả dự đoán tăng lên qua các năm, đây là chỉ tiêu kế hoạch đặt ra nhằm phát triển ngành, song tuy nhiên ngành cần có mục tiêu kết quả hoạt động kinh doanh lớn hơn trong các năm tiếp theo. đòng thời phải phòng trước những nhân tố làm ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt độn kinh doanh của ngành. Ngoài ra, ngành du lịch cần thực hiện một số việc sau: - Từ phía doanh nghiệp kinh doanh du lịch: cần quảng bá sản phẩm du lịch của chính doanh nghiệp, đa dạng hoá sản phẩm, chất lượng phục vụ khách tốt và có hiệu quả .... - Từ phía Tổng cục Du lịch: + Quảng bá các sản phẩm du lịch của các doanh nghiệp kinh doang du lịch thuộc lĩnh vực quản lý. + Hỗ trợ kinh phí cho các doang nghiệp, từng đơn vị kinh doanh du lịch. +Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về du lịch. Kết luận Qua nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995-2002 và dự đoán đến năm 2005” đề tài đã được một số kết quả sau: Chương I: ở chương này, tác giả đề cập đến lý luận về du lịch và ngành du lịch, chỉ ra vai trò của nghành du lịch đối với kinh tế xã hội đồng thời nêu lên lý luận chung về kết quả hoạt động du lịch, từ đó đưa ra hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch. Chương II: Trong chương này trên cơ sở lý luận chung ở chương 1, đưa ra một số phương pháp thống kê phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch. Chương III: Trong chương này trên cơ sở lý luận chung ở chương I và hệ thống hoá phương pháp luận ở chương II để vận dụng vào thực tiễn hoạt động du lịch ở Việt Nam. Chương này nêu lên thực trạng du lịch Việt Nam, thực trạng công tác thống kê kết quả hoạt động du lịch thông qua một số chỉ tiêu và vận dụng cụ thể phân tích, đánh giá kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995-2002. Từ đó đưa ra những nhận xét nhằm kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh du lịch Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo - Th.s. Nguyễn Hữu Chí, Thầy giáo – PGS.TS Phan Công Nghĩa và các cô chú ở Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng Cục Du lịch Việt Nam đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Danh mục Tài liệu tham khảo Bài giảng Thống kê du lịch. Tạp chí Du lịch Việt Nam. Báo Du lịch, báo Đầu tư, báo Thương mại, báo Ngoại thương. Sách: - Nhập môn Khoa học du lịch. (Vc32678/92) - Giáo trình hướng dẫn du lịch (Vc29266/92) - Du lịch và kinh doanh du lịch (Vc28245/92). - Tâm lý và nghệ thuật giao tiếp, ứng xử trong kinh doanh du lịch (Vc14778/92). Giáo trình Lý thuyết thống kê, Thống kê doanh nghiệp. Các tài liệu do Tổng cục Du lịch cung cấp. Một số tài liệu khác liên quan. Mục lục Trang Lao động vùng biên Di cư thường xuyên Lữ khách Không được thống kê Được thống kê Khách Du khách Khách tham quan Khách vãng lai hơn 1 ngày Khách trong ngày Phi hành đoàn và thuỷ thủ Động cơ Kiều bào Phi hành đoàn và thuỷ thủ Người nước ngoài Hội họp công tác kinh doanh. Nghỉ ngơi văn hoá thể thao khác Nghiên cứu sức khoẻ, quá cảnh khác Nghề nghiệp Giải trí Động cơ khác Lao động vùng biên Dân di cư Khách quá cảnh Dân tị nạn Lực lượng quân sự Đại diện lãnh sự Các nhà ngoại giao Di cư thường xuyên Di cư tạm thời Sơ đồ 1: Sơ đồ phân loại khách quốc tế Phụ lục 03: Chỉ số thời vụ các tháng giai đoạn 1995 - 2002 Tháng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng yị/yị^ Chỉ số thời vụ (%) 0.8439 1.0167 1.2388 1.0419 0.9591 0.9252 1.1724 1.0132 8.2112 102.64 1.3072 1.5076 1.4738 1.0754 1.0242 1.1795 1.1286 1.134 9.8303 122.88 1.0904 1.1923 0.9783 0.8876 0.9906 1.0079 0.9864 1.0902 8.2237 102.8 1.2003 1.1701 1.2536 0.9253 0.9435 1.0914 1.0409 1.113 8.7381 109.23 0.9677 1.2792 0.9864 0.8368 0.8965 1.0797 0.9804 1.0811 8.1078 101.35 0.9426 1.2493 1.1938 0.8424 0.8775 1.0641 0.9399 1.0884 8.198 102.48 1.0487 0.8451 0.9318 0.7243 0.8665 1.0097 1.1445 1.1109 7.6815 96.02 1.1426 0.9966 1.1361 0.8292 0.965 1.0762 1.1017 1.1672 8.4146 105.18 1.006 1.0411 0.8356 0.7518 0.813 0.8725 1.0124 1.1605 7.4929 93.66 0.9688 0.8942 0.8225 0.7647 0.8458 0.9139 0.915 0.9653 7.0902 88.63 1.1567 0.9937 1.0104 0.7698 0.9574 0.994 0.9513 1.0735 7.9068 98.84 1.071 1.2561 1.0203 0.8874 0.9221 1.0221 0.9789 1.116 8.2739 103.42 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docS0013.doc
Tài liệu liên quan