Lời nói đầu
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai không thành vấn đề bàn cãi nếu nguồn tài nguyên không hạn chế. Người ta có thể sản xuất vô tận hàng hoá, sử dụng kết quả máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, lao động một cách không khôn ngoan cũng chẳng sao nếu nguồn tài nguyên là vô tận. Nhưng thực tế, mọi nguồn tài nguyên trên trái đất như đất đai, khoáng sản, hải sản… là một phạm trù hữu hạn và ngày càng khan hiếm, ngày càng cạn kiệt do con người khai thác và sử dụng chúng. Kh
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1255 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thống kê hiệu quả Sản xuất kinh doanh tại Công ty Cổ phần vận tải & dịch vụ hàng hoá Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an hiếm đòi hỏi và bắt buộc con người phải nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế, khan hiếm tăng nên dẫn đến vấn đề lựa chọn kinh tế tối ưu ngày càng phải đặt ra nghiêm túc.
Trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Môi trường cạnh tranh này khá gay gắt, trong cuộc cạnh tranh đó nhiều doanh nghiệp trụ vững phát triển, nhưng cũng không ít doanh nghiệp bị thua lỗ, giải thể, phá sản. Để có thể trụ lại trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín … nhằm tới mục tiêu tối đa lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải có được lợi nhuận và đạt được lợi nhuận càng cao càng tốt. Do vậy đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề được quan tâm của các doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ để các nhà quản trị thực hiện chức năng quản trị của mình. Việc xem xét và tính toán hệu quả kinh doanh không những cho biết việc sản xuất kinh doanh đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép nhà quản trị phân tích tìm ra các nguyên nhân để đưa ra các biện pháp thích pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh, nhằm nâng cao hiệu quả.
Tuy vậy, không ít người vẫn nhầm lẫn giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và kết quả sản xuất kinh doanh. Như vậy sẽ dẫn đến những sai lầm trong việc đưa ra những giải pháp nhằm phát triển doanh nghiệp.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nghiên cứu thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội qua hai năm 2001 – 2002” để viết luận văn tốt nghiệp.
Kết cấu luận văn, ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về hiệu quả kinh tế, hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân tích thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
ChươngII: Phân tích thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội
ChươngIII: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội
Chương I
Những vấn đề chung về hiệu quả kinh tế, hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân tích thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
I.Những vấn đề chung về hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh
Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên các quan điểm khác nhau để để xem xét:
- Xét theo phạm vi từng doanh nghiệp ta có quan điểm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Xét theo phạm vi toàn xã hội (nền Kinh tế Quốc dân) ta có quan điểm hiệu quả kinh tế - xã hội.
Cả hai quan điểm hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để thấy được rõ tầm quan trọng của hai quan điểm về hiệu quả (hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội) cần nắm được khái niệm, bản chất, biểu hiện của hai loại hiệu quả.
1. Hiệu quả kinh tế - xã hội
1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế - xã hội
Hiệu quả kinh tế - xã hội là phạm trù kinh tế quan trọng biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế mà xã hội đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Kết quả được đem ra so sánh, có thể là kết quả ban đầu, trung gian hoặc kết quả cuối cùng. Tương ứng có các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau, có tác dụng khác nhau. Kết quả được nói ở đây có thể là kết quả trực tiếp, kết quả gián tiếp với các mức độ khác nhau.
Chi phí được chọn ra so sánh cũng bao gồm nhiều loại khác nhau: Chi phí thường xuyên, chi phí một lần (nguồn lực sản xuất xã hội). Tương ứng cũng có các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau, có tác dụng khác nhau.
1.2. Bản chất hiệu quả kinh tế - xã hội
Bản chất của hiệu quả kinh tế - xã hội là nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội, có ý nghĩa quan trọng đối với yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội nói riêng và sự phát triển của loài người nói chung. Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội là cơ sở vật chất để không ngừng nâng cao mức sống dân cư. Như vậy tăng hiệu quả kinh tế - xã hội là một trong những yêu cầu khách quan trong tất cả hình thái kinh tế - xã hội.
1.3. Biểu hiện hiệu quả kinh tế - xã hội
Là đảm bảo được sự tồn tại hữu cơ của ba loại lợi ích:
+Lợi ích cá nhân
+Lợi ích tập thể
+Lợi ích xã hội
Xã hội quan tâm đến tăng GO và GDP. Vì vậy tăng GO và GDP là cơ sở để xác định hiệu quả theo quan điểm xã hội. Ngoài ra các chỉ tiêu sau cũng dùng để phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội:
+ Tăng thu ngân sách
Mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp cho ngân sách Nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế doanh thu, thuế đất , thuế lợi tức, thuế tiêu thụ đặc biệt… Nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này để cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và ở các lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân.
+ Tạo công ăn việc làm cho người lao động
Nước ta cũng giống như các nước đang phát triển, tình trạng yếu kém về kỹ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi đưa ra các biện pháp nâng cao hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
+ Nâng cao mức sống của người lao động
Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sóng người lao động.
Xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như gia tăng thu nhập quốc dân bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư sản xuất, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội…
+ Tái phân phối phúc lợi xã hội
Sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế xã hội giữa các vùng lãnh thổ trong một quốc gia được xem là hiện tượng khá phổ biến ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Để từng bước xoá bỏ sự cách biệt về mặt kinh tế xã hội, góp phần tái phân phối lợi tức xã hội giữa các vùng.
1.4. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội
Tiêu chuẩn là tiêu thức đặc biệt để đánh giá một tiêu thức khác phù hợp với những điều kiện nhất định. Hiện nay, còn tồn tại nhiều quan điểm ( cách hiểu) khác nhau về tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội. Có thể phân thành 3 loại quan điểm:
Quan điểm thứ nhất coi tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội là một mức nào đó về hiệu quả ( H0 ) để dựa vào đó có thể kết luận là có hiệu quả hay không.
Quan điểm thứ hai cho tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế - xã hội là mức hiệu quả tối đa có thể đạt được trong những điều kiện nhất định. Theo quan điểm này H thường < H0 và như vậy H càng gần H0, sản xuất càng hiệu quả.
Quan điểm thứ ba được đại diện bởi một số nhà kinh tế (A. Xecfeev, M. Bo...) cho rằng tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội là do quy luật kinh tế cơ bản quyết định.
Ngoài ra, có một số nhà kinh tế khác ( A. Proxto...) cho rằng tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội là tăng năng suất lao động. Quan điểm này đã đồng nhất hiệu quả kinh tế - xã hội với các biểu hiện cụ thể của nó.
2. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
2.1. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Vấn đề hiệu quả kinh tế được các nhà kinh tế học trên thế giới đi sâu nghiên cứu từ những năm 1930, đặc biệt nó được tập trung nghiên cứu trong những năm 1960. Thế nào là quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế? Những biểu hiện của hiệu quả kinh tế là gì?… Đó là những nội dung được đặt ra cho các nhà khoa học, nhà quản lý và điều hành sản xuất quan tâm nghiên cứu.
Từ trước tới nay các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
- Quan điểm thứ nhất coi hiệu quả sản xuất kinh doanh là biểu hiện của kết quả sản xuất trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của vốn sản xuất kinh doanh. Quản điểm này muốn quy hiệu quả về một chỉ tiêu cụ thể nào đó. Quan điểm này là chưa hợp lý. Kết quả sản xuất có thể tăng lên do tăng chi phí hoặc mở rộng việc sử dụng các nguồn dự trữ.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó(hoặc là doanh thu và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh) chứ không phải giá trị”. Quan điểm này lẫn lộn giữa hiệu quả với mục tiêu kinh doanh.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí sản xuất bỏ ra”. Ưu điểm của quan diểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí. Tuy nhiên quan điểm này vẫn còn tồn tại một số nhược điểm. ở đây họ chỉ đề cập đến chi phí thực tế mà bỏ qua nguồn lực của chi phí đó. Quan điểm này chỉ muốn nói vè cách xác lập các chỉ tiêu, chứ không toát lên ý niệm của vấn đề.
- Quan điểm thứ tư cho rằng: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh là thước đo sự tăng trưởng kinh tế, phản ánh quá trình sử dụng các loại chi phí sản xuất để tạo ra những sản phẩm vật chất nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định”. Cách hiểu này là phiến diện, chỉ đứng trên góc độ biến động theo thời gian.
Qua những quan điểm và phân tích ở trên ta đưa ra khái niệm bao quát về hiệu quả sản xuất kinh doanh: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở lên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ".
2.2. Bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng xuất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối liên hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Vì vậy yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt hiệu quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định vơí chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất bị bỏ qua, hay là giá trị của việc hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện công việc kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ xung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy được lợi ích thực sự. Cách tính toán như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn.
2.3. Biểu hiện của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Biểu hiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là lợi ích mà thước đo cơ bản của lợi ích là "tiền". Đây là mục tiêu số một chi phối toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh.
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trường hiện nay quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra trong môi tường kinh doanh khắc nghiệt. Các doanh nghiệp luôn có sự cạnh tranh khốc liệt cho sự tồn tại và phát triển của mình. Sự thành bại đó phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh doanh.
Môi tường kinh doanh của doanh nghiệp là một tập hợp bao gồm tất cả các yếu tố, các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của doanh nghiệp, do đó môi trường kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nói đến các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì có rất nhiều nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng có thể được chia thành hai nhóm nhân tố chính, đó là nhóm nhân tố thuộc về bên trong doanh nghiệp và nhóm nhân tố thuộc về bên ngoài doanh nghiệp. Từ đó xem sự ảnh hưởng của chúng để biến các cơ hội môi trường thành các lợi thế của mình và hạn chế các bất lợi do môi trường gây ra để đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển bền vững.
2.4.1. Những nhân tố thuộc về bên trong doanh nghiệp:
* Lao động:
Lao động trong doanh nghiệp là toàn bộ đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ tay nghề đã ký kết hợp đồng lao động với doanh nghiệp, được ghi tên vào danh sách lao động của doanh nghiệp, được quản lý, sử dụng sức lao động và được trả mọi thù lao động theo kết quả hoàn thành công việc được giao.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh lao động tác động vào hiệu quả sản xuất kinh doanh theo ba góc độ:
- Số lượng lao động, chất lượng, tiền lương và năng suất lao động tác động trực tiếp vào đầu ra.
- Thông qua 3 hoạt động: Trực tiếp điều khiển máy móc, thiết bị để tạo ra sản phẩm; sáng tạo ra những gải pháp kỹ thuật công nghệ; hoạt động chấp hành nội quy làm việc.
- Lao động tác động vào quá trình tổ chức sản xuất thong qua sự tác động quản lý, không ngừng nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ công nhân viên, giúp họ có phong cách khoa học và có tính kỷ luật cao.
Như vậy quản lý lao động trong sản xuất kinh doanh phải đảm bảo các yêu cầu như: nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động... Muốn vậy doanh nghiệp phải đưa ra kế hoạch tuyển dụng hợp lý, có sự quan tâm đúng mức đến người lao động, tạo cơ hội thăng tiến, tạo bầu không khí làm việc thoả mái góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Vốn kinh doanh:
Theo nghĩa rộng "vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính, được chính các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích " (Giáo trình kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp - trang172).
Về bản chất, vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là điều kiện đầu tiên, điều kiện tiên quyết, quyết định cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Yêu cầu của yếu tố vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp là không ngừng nâng cao hiệu quả đồng vốn được sử dụng trong quá trình sản xuất, tức là làm thế nào để đồng vốn luân chuyển nhanh tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh được hình thành từ hai loại vốn cơ bản là vốn cố định và vốn lưu động.
+Vốn cố định: "Là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng" (Giáo trình kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp - PGS.TS Phạm Hữu Huy).
Như vậy đặc điểm cơ bản nhất của vốn cố định là sự hao mòn hữu hình và vô hình. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức sử dụng vốn cố định và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến độ bền lâu dài như chất lượng chế độ quản lý, sử dụng, bảo dưỡng, khi đó hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ của khoa học công nghệ và năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định.
Vốn cố định có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh vì vậy doanh nghiệp cần phải có biện pháp phù hợp để quản lý nguồn vốn này.
+ Vốn lưu động: "Là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu động nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên và liên tục" (Giáo trình kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp - PGS.TS Phạm Hữu Huy).
Như vậy vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động được sử dụng vào quá trình tái sản xuất. Vốn lưu động của doanh nghiệp sản xuất bao gồm nguyên vật liệu, nhiên liệu, vốn tiền tệ...
Tài sản lưu động khác với tài sản cố định ở tính chất tái sản xuất và mức độ chuyển dịch giá trị sản phẩm của chúng vào sản phẩm. TSLĐ không tham gia nhiều lần như TSCĐ mà chỉ tham gia một lần vào quá trình sản xuất, do đó toàn bộ giá trị của nó được chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm. Một đặc điểm khác là TSLĐ phải trải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn ở nhiều bộ phận quản lý khác nhau nên việc đảm bảo đầy đủ và cân đối bộ phận rất có ý nghĩa đối với yêu cầu thường xyên, liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh.
* Công nghệ:
Theo tổ chức phát triển của LHQ - UNIDO công nghệ " là việc áp dụng khoa học vào công nghệ, bằng việc sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lí nó một cách có hệ thống và có phương pháp "
Công nghệ có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hoạt động của sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ hay không là phụ thuộc không nhỏ vào yếu tố công nghệ.
* Quản lý doanh nghiệp:
Trình độ và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh được coi là yếu tố quyết định đến sự thành đạt của doanh nghiệp. Cho dù nguồn lực có dồi dào đến bao nhiêu đi chăng nữa mà việc quản lý điều hành doanh nghiệp yếu kém thì các nguồn lực sẽ không được sử dụng một cách có hiệu quả.
Thước đo hiệu quả quản lý là việc đưa ra quyết định đúng đắn cụ thể, là xác định đúng quy mô sản xuất phù hợp với đường lối, mục tiêu của doanh nghiệp. Do vậy trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh không ngừng nâng cao chất lượng các nhà quản lý để giúp doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
2.4.2 Những nhân tố thuộc về bên ngoài doanh nghiệp:
Bên cạnh những nhân tố chủ quan bên trong của doanh nghiệp thì nhóm nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì những nhân tố này không chịu sự quản lý, kiểm soát của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có thể dự báo để từ đó điều chỉnh các hoạt động của mình theo xu hướng tác động có lợi giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu qủa cao.
Để có thể có những tác động điều chinh đúng đắn để hoạt động kinh doanh luôn được duy trì tính hiệu quả đích thực của nó thì nhà quản lý phải năm được các nhân tố ảnh hưởng sau:
* Yếu tố pháp lí:
Yếu tố pháp lí đóng vai trò không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh do đó đòi hỏi nhà quản lý phải nắm chắc pháp luật để hoạt động sản xuất kinh doanh không vi phạm pháp luật.
Hơn nữa môi trường pháp lý ngày càng phải hoàn thiện hơn tạo môi trường tốt cho hoạt động của các đơn vị kinh tế. Chẳng hạn việc ban hành và đi vào áp dụng luật doanh nghiệp ngày 01/01/2001 đã tạo động lực lớn cho phát triển kinh tế xét về vĩ mô và cho từng doanh nghiệp xét về vi mô.
* Yếu tố chính trị:
Đây là cơ sở để tạo ra nèn kinh tế ổn định, nó là cơ sở để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào phát triển doanh nghiệp theo chiều rộng lẫn chiều sâu, tìm cách nâng cao sứccạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng được nâng cao.
* Môi trường kinh tế:
Bao gồm lạm phát, biến động tài chính tiền tệ thông qua việc xác định cung cầu, quy mô sản xuất, tốc đọ tiêu thụ sản phẩm, khả năng chu chuyển vốn kinh doanh... Nó tạo ra cơ hội, nguy cơ tiềm tàng cho doanh nghiệp, do đó nhân tố này tác động không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2.5. Những biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Bản chất của hiệu quả là chỉ tiêu xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí, ta có:
H =
Kết quả đầu ra
Chi phí đầu vào
Để nâng cao hiệu quả ta có 5 biện pháp sau:
* Thứ nhất: Giảm đầu vào - Đầu ra không thay đổi
* Thứ hai: Tăng đầu ra - Đầu vào không đổi
* Thứ ba: Tăng đầu ra - Giảm đầu vào
* Thứ tư: Tăng đầu ra - Tăng đầu vào nhưng tốc độ tăng đầu ra nhanh hơn tốc độ tăng đầu vào.
* Thứ năm: Giảm đầu ra - Giảm đầu vào nhưng tốc độ giảm đầu vào nhanh hơn tốc độ giảm đầu ra.
Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt nên việc giảm đầu vào mà tăng tăng đầu ra hoặc giữ nguyên đầu ra là rất khó, do vậy chỉ có biện pháp thứ hai và biện pháp thứ tư là có khả thi hơn, và đặc biệt là biện pháp thứ tư, tức là doanh nghiệp phải đầu tư công nghệ, trình độ tay nghề công nhân… nhằm nâng cao chất lượng, số lượng đầu ra do đó sẽ giảm được hao phí nguyên vật liệu, hao phí lao động cho từng loại đơn vị sản phẩm có thể hạ giá thành chút ít so với thị trường nhằm chiếm lĩnh thị trường, nâng cao thị phần trên thị trường.
Để đạt được mục tiêu trên cần chú ý các vấn đề sau:
Thứ nhất: nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường để cho chiến lược sản xuất kinh doanh tối ưu.
Thứ hai: chuẩn bị tốt các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất để qúa trình sản xuất dược diễn ra liên tục.
Thứ ba: cần có đội ngũ quản lý doanh nghiệp sáng suốt.
Thứ tư: đào tạo nâng cao tay nghề người lao động, có chính sách nhằm khuyến khích sự cống hiến cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Thứ năm: đẩy mạnh đầu tư chiều sâu tức đưa thành tựu khoa học công nghệvào sản xuất nhằm tăng nhanh vòng quay vốn lưu động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên liệu từ đó có thể hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức mạnh cạnh tranh.
Thứ sáu: nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bằng cách sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, quản lý cho gọn nhẹ, tránh cồng kềnh.
2.6. Các điểm cần chú ý khi phân tích, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong thực tiễn không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh và chính điêù này đã làm triệt tiêu những cố gắng, nỗ lực của họ mặc dù ai cũng muốn làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, khi đề cập đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Cụ thể khi phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh cần chú ý các điểm sau:
- Bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước thể hiện ở chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước giao cho doanh nghiệp, vì nó là nhu cầu, là điều kiện bảo đảm sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân.
- Bảo đảm nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế: Cách thức và phương pháp phân tích tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh phải dựa trên cơ sở các số liệu thông tin thực tế đơn giản dễ hiểu, không nên sử dụng các phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ thông tin cần thiết hoặc những nguồn thông tin không đảm bảo độ chính xác.
- Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích: Lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích của người lao động. Quan điểm này đòi hỏi nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh phải xuất phát và thoả mãn các mối quan hệ của các lợi ích trên, trong đó lợi ích của người lao động là nhân tố quyết định việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh một cách trực tiếp.
- Đảm bảo tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi đánh giá vầ xác định mục tiêu, biện pháp và nâng cao hiệu quả kinh doanh, phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, địa phương và của các doah nghiệp trong từng thời kỳ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện cả về thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung trong nền kinh tế:
+ Về mặt thời gian: Sự toàn diện của hiệu quả đạt được trong từng gai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xét trong thời kỳ dài, hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả của chu kỳ sau. Trong thực tế không ít các trường hợp chỉ thấy lợi ích trước mắt, thiếu xem xét toàn diện và lâu dài, những vi phạm này dễ xảy ra trong việc nhập về một số máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu… Việc thiếu cân nhắc toàn diện và lâu dài các chi phí bảo dưỡng, hiện đại hoá và đổi mới tài sản cố định, nâng cao toàn diện trình độ chất lượng người lao động… nhờ đó làm mối tương quan thu chi giảm đi, cho rằng như thế là có “hiệu quả”, không thể được coi là hiệu quả chính đáng và toàn diện dược.
+ Về không gian: Có hiệu quả kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào chỗ hiệu quả của hoạt động kinh doanh cụ thể nào đó, có ảnh hưởng tăng giảm như thế nào đến hiệu quả sản xuấtkinh doanh của cả hệ thống mà nó liên quan, tức là giữa ngành kinh tế này với ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống. Như vậy, với nỗ lực tính từ giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật nào đó dự định áp dụng vào thực tiễn đều phải được đặt vào sự xem xét toàn diện. Khi hiệu quả ấy không làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân thì nó mới được coi là hiệu quả sản xuất kinh doanh.
+ Về định lượng: Hiệu quả sản xuất kinh doanh phải dược thể hiện qua mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng thu giảm chi. Điều đó có nghĩa là tiết kiệm tới mức tối đa chi phí sản xuất kinh doanh mà thực chất là hao phí lao động(lao động sống vâ lao động vật hoá) để tạo ra một sản phẩm có ích nhất.
+ Về mặt định tính: Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả của toàn xã hội. Giành được hiệu quả cao cho doanh nghiệp chưa phải là đủ mà còn đòi hỏi mang lại hiệu quả cho xã hội. Trong nhiều trường hợp, hiệu quả toàn xã hội lại là mặt quyết định khi lựa chọn một giải pháp kinh tế, dù xét về mặt kinh tế nó chưa hoàn toàn được thoả mãn.
II. Phân tích thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1. Sự cần thiết của việc phân tích thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả sẽ tạo ra lợi thế rất lớn là tăng sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường đầy thách thức, lợi thế này giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển . Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đa dạng; trên nhiều lĩnh vực , do đó việc phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hết sức cần thiết để tìm hiểu đánh giá xem hoạt động (lĩnh vực) nào có hiệu quả cao thì tiếp tục kinh doanh còn lĩnh vực nào hoạt động kém hiệu quả thì phân tích nguyên nhân để đưa ra các biện pháp khắc phụcMặt khác để đánh giá được hiệu quả sản xuất kinh doanh ta không thể chỉ đơn giản nhìn vào kết quả thu được mà phải sử dụng các công cụ thống kê phân tích . Như vậy có thể khẳng định rằng phân tích thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hết sức cần thiết .
2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
2.1. Yêu cầu và nguyên tắc xác định hệ thống chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh của doanh nghiệp
Để có thể xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách khoa học và hợp lý, cần phải đảm bảo những yêu cầu và nguyên tắc sau:
Phản ánh mặt lượng trong sự thống nhất với mặt chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi vì hiệu quả sản xuất kinh doanh nghiệp được tạo nên bởi các yếu tố về số lượng của kết quả và chi phí, cả hai mặt có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sự tăng giảm các yếu tố này đều dẫn đến sự tăng hay giảm của hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đảm bảo thống nhất về nội dung và phạm vi tính toán của các chỉ tiêu cùng loại.
Phản ánh mặt lượng trong sự thống nhất với mặt chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi vì hiệu quả sản xuất kinh doanh nghiệp được tạo nên bởi các yếu tố về số lượng của kết quả và chi phí, cả hai mặt có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sự tăng giảm các yếu tố này đều dẫn đến sự tăng hay giảm của hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Xác định mục đích nghiên cứu (Xác định đúng bản chất, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh). Chỉ có dựa trên nguyên tắc này, hệ thống chỉ tiêu được xây dựng mới có ý nghĩa nghiên cứu sát hợp và có tác dụng thiết thực trong công tác quản lý.
Hệ thống chỉ tiêu hình thành phải là hệ thống cho phép giải quyết tốt mâu thuẫn giữa nghiên cứu thông tin với khả năng về mọi mặt để thu thập và tính toán các chỉ tiêu nêu ra. Điều đó có nghĩa là cần có sự kết hợp giữa tính lý thuyết, kỳ vọng với tính khả thi, thực tiễn của hệ thống.
Đảm bảo tính hệ thống, nghĩa là các chỉ tiêu bao gồm trong hệ thống phải có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Phải có các chỉ tiêu mang tính chất chung, các chỉ tiêu mang tính chất bộ phận và các chỉ tiêu nhân tố nhằm phản ánh đầy đủ tổng thể nghiên cứu.
2.2. Các chỉ tiêu cụ thể nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, có quan hệ đến toàn bộ các yếu tố của quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt dược hiệu quả cao khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả .
Để đánh giá có cơ sở khoa học hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp, bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp(khái quát) và các chỉ tiêu chi tiết (cụ thể). Các chỉ tiêu đó phải phản ánh được sức sản xuất, xuất hao phí cũng như sức sinh lời của từng yếu tố, từng loại vốn. Các chỉ tiêu cụ thể phải phù hợp, phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung.
Công thức tổng quát tính hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
H=
KQ
(1) - Chỉ tiêu hiệu quả thuận
CP
H’=
CP
(2) - Chỉ tiêu hiệu quả nghịch
KQ
Công thức tính hiệu quả sản xuất kinh doanh tính riêng cho phần đầu tư tăng thêm:
(3) - Chỉ tiêu hiệu quả đầu tư tăng thêm dạng thuận
(4) - Chỉ tiêu hiệu quả đầu tư tăng thêm dạng nghịch
Trong đó:
KQ - Kết quả sản xuất kinh doanh
CP - Chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh đó
1 - Kỳ nghiên cứu
0 - Kỳ gốc
DKQ = KQ1 - KQ0 :Sự gia tăng kết quả
DCP = CP1 - CP0 :Sự gia tăng chi phí sản xuất
Về kết quả sản xuất kinh doanh có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
Số lượng sản phẩm sản xuất được trong kỳ
Doanh thu
GO
VA
NVA
Lợi nhuận ...
Về chi phí sản xuất sử dụng các chỉ tiêu:
Chi phí nhân công trong kỳ
Chi phí nguyên, nhiên liệu, vật liệu trong kỳ (vốn lưu động)
...
Công thức (1) phản ánh sức sản._. xuất (hay sức sinh lời), nó cho biết cứ một đơn vị tiền tệ chi phí chi ra trong kỳ sẽ đem lại bao nhiêu đơn vị tiền tệ kết quả. H càng lớn hiệu quả càng cao.
Công thức (2) phản ánh sức hao phí của các chỉ tiêu chi phí chi ra, nghĩa là để có được một đơn vị tiền kết quả thu được thì hao phí hết mấy đơn vị tiền chi phí .
Như vậy về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so sánh với một chỉ tiêu chi phí nào đó sẽ tạo thành một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tính theo chiều thuận và một chỉ tiêu tính theo chiều nghịch. Nếu có n chỉ tiêu kết quả và m chỉ tiêu chi phí thì số lượng các chỉ tiêu hiệu quả sẽ là 2*m*n . Tuy vậy không phải tất cả các chỉ tiêu trong số đó đều có ý nghĩa vì thế sau khi tính toán ta cần xem xét lại, nếu chỉ tiêu nào không có ý nghĩa hoặc kém ý nghĩa thì ta có thể loại bớt .
Công thức (3) cho biết cứ đầu tư thêm một đơn vị tiền tệ chi phí thì tạo ra được mấy đơn vị tiền tệ kết quả tăng thêm.
Công thức (4) cho biết để tạo ra một đơn vị tiền tệ kết quả tăng thêm thì phải đầu tư thêm mấy đơn vị tiền tệ chi phí .
Dựa trên nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu bằng cách so sánh giữa kết quả sản xuất kinh doanh và chi phí bỏ ra ta lựa chọn những chỉ tiêu cơ bản nhất sao cho số lượng các chỉ tiêu là ít nhất, tổng hợp nhất, thuận lợi cho việc tính toán và phân tích .
a) Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động
- Chỉ tiêu năng suất lao động (W)
Trong đó:
KQ - kết quả : - Nếu xét theo quan điểm xã hội dùng GO
- áp dụng cho doanh nghiệp dùng các chỉ tiêu như: doanh thu, lợi nhuận.
Chỉ tiều này phản ánh mỗi lao động của doanh nghiệp làm ra bao nhiêu đơn vị tiền tệ trong kỳ kinh doanh .
Chỉ tiêu năng suất lao động gồm:
+Năng suất lao động sống : Là năng suất lao động tính theo GO
W =
+Năng suất lao động xã hội : Là năng suất lao động tính theo GDP (VA)
W =
+Năng suất lao động vật hoá : Phản ánh tiết kiệm chi phí trung gian (IC), biểu hiện việc so sánh tỷ trọng IC/GO kỳ nghiên cứu so kỳ gốc
* Nếu chênh lệch dương, phản ánh sự lãng phí chi phí trong sản xuất kinh doanh.
* Nếu chênh lệch âm, phản ánh sự tiết kiệm chi phí trung gian trong quá trình sản xuất (có hiệu quả).
hoặc
- Chỉ tiêu kết quả sản xuất trên một đơn vị chi phí tiền lương
Trong đó :
KQ: Kết quả sản xuất kinh doanh
F : Tổng quỹ lương
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ cứ một đơn vị tiền chi phí tiền lương chi ra thì thu được bao nhiêu đơn vị tiền kết quả .
b) Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
- Hiệu năng vốn cố định (Hvc )
Hvc =
Trong đó:
là vốn cố định bình quân trong kỳ (tính theo số còn lại sau khi đã trừ vốn khấu hao).
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ cứ một đơn vị tiền vốn cố định đầu tư vào tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đơn vị tiền kết quả sản xuất (hay doanh thu).
- Mức doanh lợi (hay tỷ suất lợi nhuận ) vốn cố định (Rvc )
Rvc =
Trong đó :
LN - Chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận (hay lãi ) kinh doanh của doanh nghiệp (thường dùng tổng lãi thuần trước thuế hoặc tổng lãi thuần sau thuế ).
Rvc cho biết trong kỳ cứ một đơn vị tiền tệ vốn cố định đầu tư vào tài sản trong kỳ tạo ra được mấy đơn vị tiền tệ lợi nhuận.
-Suất tiêu hao vốn cố định ( )
= =
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đơn vị tiền tệ kết quả sản xuất kinh doanh (hay doanh thu ) trong kỳ cần phải tiêu hao mấy đơn vị tiền tệ vốn cố định.
Nếu kết quả so sánh số chênh lệch của Hvc và Rvc > 0, tốc độ phát triển của Hvc và Rvc > 1 ; còn số chênh lệch và tốc độ phát triển của tương ứng < 0 và < 1, phản ánh hiệu quả vốn cố định của doanh nghiệp kỳ nghiên cứu cao hơn so với kỳ gốc và ngược lại.
c) Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- Hiệu năng (hay năng suất ) sử dụng vốn lưu động (HVL )
HVL =
Trong đó :
- vốn lưu động bình quân trong kỳ
KQ - thường tính kết quả tiêu thụ ( tổng doanh thu bán hàng hay tổng doanh thu thuần )
HVL cho biết cứ một đơn vị tiền tệ vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được mấy đơn vị tiền tệ doanh thu.
- Mức doanh lợi ( hay tỷ suất lợi nhuận ) vốn lưu động (RVL )
RVL =
Chỉ tiêu cho biết cứ một đơn vị tiền tệ vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được mấy đơn vị tiền tệ lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ vốn lưu động hoạt động càng có hiệu quả. Nó được dùng để so sánh giữa các thời kỳ của một doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp có cùng quy mô sản xuất trong một thời kỳ.
- Mức đảm nhiệm vốn lưu động ()
= =
Chỉ tiêu cho biết để tạo ra một đơn vị tiền tệ kết quả sản xuất ( hay doanh thu ) cần phải tiêu hao mấy đơn vị vốn lưu động.
Nếu kết quả so sánh chênh lệch của HVL và RVL > 0, tốc độ phát triển của HVL và RVL > 1; còn số chênh lệch và tốc độ phát triển của tương ứng < 0 và < 1, phản ánh hiệu quả chung của vốn lưu động của doanh nghiệp kỳ nghiên cứu cao hơn so với kỳ gốc và ngược lại.
d) Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp hoạt động sản xuất kinh doanh
- Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng chi phí (Hc )
Hc =
Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị tiền tệ chi phí chi ra trong kỳ sản xuất kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đơn vị tiền tệ doanh thu.
- Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng vốn sản xuất (HTV )
HTV =
Trong đó:
- tổng vốn kinh doanh bình quân kỳ
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị tiền tệ tổng vốn sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đơn vị tiền tệ doanh thu.
- Mức doanh lợi (hay tỷ suất lợi nhuận) tổng vốn (RTV )
RTV =
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị tiền tệ tổng vốn sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đơn vị tiền tệ lợi nhuận.
3. Các phương pháp thống kê dùng phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh .
Phân tích là nêu lên một cách tổng hợp của bản chất cụ thể và tính quy luật của các hiện tượng, của quá trình kinh tế xã hội trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể, qua biểu hiện về số lượng và tính toán các mức độ của hiện tượng trong tương lai, nhằm đưa ra những căn cứ cho quyết định, cho quản lý.
Phân tích thống kê sử dụng các phương pháp để tính toán hàng loạt các chỉ tiêu, phân tích và rút ra kết luận về bản chất của hiện tượng. Phân tích thống kê phải lấy con số thống kê làm tư liệu, lấy phương pháp thống kê làm công cụ nghiên cứu. Phân tích thống kê có quan hệ mật thiết với các giai đoạn điều tra thống kê và tổng hợp thống kê. Tài liệu điều tra phải phong phú, chính xác, kết quả tổng hợp phải thực sự khoa học thì phân tích thống kê mới có khả năng rút ra những kết luận đúng đắn. Phân tích thống kê nói chung sử dụng rất nhiều các phương pháp như: Phân tổ, dãy số thời gian, hồi quy tương quan, chỉ số, phương pháp đồ thị... Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh có nhiệm vụ xác định mức độ biến động của các hiện tượng, vai trò, ảnh hưởng của các nhân tố thông qua các chỉ tiêu hiệu quả. Do vậy trong phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh người ta thường sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp dãy số thời gian
+ Phương pháp chỉ số
+ Phương pháp đồ thị
+ Phương pháp hồi quy tương quan
Phân tích thống kê có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý, do đó, để lựa chọn được phương pháp thống kê nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với mục đích nghiên cứu phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Đảm bảo tính định hướng: Đối tượng nghiên cứu của thống kê là những hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp. Vì thế, nghiên cứu thống kê phải sử dụng các phương pháp một cách có khoa học và hiệu quả. Tức là phương pháp đưa ra phải nêu lên một cách tổng hợp về bản chất và tính quy luật của hiện tượng trong điều kiện thời gian và không gian cụ thể.
- Đảm bảo tính hiệu quả: Nêu được nội dung và đặc điểm của phương pháp thống kê phù hợp với mục đích nghiên cứu. Mỗi phương pháp đều bộc lộ những mặt ưu và nhược điểm khác nhau, cho nên khi sử dụng các phương pháp phải quan tâm đến thông tin thu thập được, đến thời gian nghiên cứu và đặc biệt phải phụ thuộc vào nhiệm vụ phân tích của hiện tượng.
- Đảm bảo tính khả thi: Phương pháp đưa ra để vận dụng phải phổ biến và phù hợp với điều kiện nghiên cứu (nhân lực, tài lực và vật lực của doanh nghiệp). Đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu trong công tác nghiên cứu.
- Đảm bảo tính hệ thống: Giữa phương pháp sử dụng với hiện tượng nghiên cứu phải có mối quan hệ lẫn nhau. Phải phân tích thông tin trên cơ sở mối liên hệ đó. Căn cứ vào đặc điểm của từng hiện tượng và đặc điểm của từng phương pháp để có thể kết hợp các phương pháp lại với nhau tạo thành một hệ thống các phương pháp cho phép phân tích đánh giá đúng bản chất của hiện tượng.
Thực tập tại công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội, có đặc điểm là sản xuất kinh doanh rất nhiều ngành nghề. Ngoài kinh doanh vận tải (là một ngành sản xuất ra sản phẩm dịch vụ, bao gồm các hoạt động vận tải hành khách và hàng hoá bằng các loại phương tiện khác nhau và bao gồm cả hoạt động phụ như bốc dỡ hàng hoá, hoạt động kho bãi, cho thuê phương tiện vận tải kèm người điều khiển) công ty còn hoạt động kinh doanh nhiều ngành nghề khác như xuất nhập khẩu và kinh doanh vật tư thiết bị, phương tiện; xây dựng dân dụng; kinh doanh bất động sản; lắp ráp ôtô, xe máy… Từ đặc điểm này, kết hợp với số liệu thu thập được thì hai phương pháp dãy số thời gian và phương pháp chỉ số là hai phương pháp thích hợp nhất để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội.
3.1. Phương pháp dãy số thời gian
Phương pháp này cho phép nghiên cứu sự biến động của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua đối tượng và mức độ biến động của nó(được đánh giá thông qua lượng tăng giảm tuyệt đối, tốc độ phát triển và tốc độ tăng) đồng thời nêu ra được xu hướng và tính quy luật của sự phát triển. Qua đó có thể dự đoán các mức độ của hiệu quả SXKD qua thời gian của doanh nghiệp trong tương lai.
Phân tích hiệu quả SXKD bằng phương pháp dãy số thời gian, tức là đi phân tích các dãy số tuyệt đối và các dãy số tương đối thời kỳ. Trong đó dãy số tuyệt đối thời kỳ của hiệu quả SXKD là dãy số giá trị gia tăng, dãy số về lợi nhuận và dãy số tương đối thời kì gồm có dãy số tương đối kết cấu của giá trị gia tăng, lợi nhuận. Dãy số tương đối cường độ của năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn…. Dãy số tốc độ.
Đặc điểm vận dụng dãy số tuyệt đối:
Cho phép xác định mức độ biến động của dãy số VA, LN qua các năm, qua từng năm và bình quân của các năm. Để phân tích nhiệm vụ này cần tính các chỉ số sau:
- Lượng tăng(giảm) tuyệt đối: Chỉ tiêu này gồm có lượng tăng(giảm) tuyệt đối liên hoàn, lượng tăng(giảm) tuyệt đối dịnh gốc, lượng tăng (giảm) tuyệt đối bình quân. Các chỉ tiêu này dùng để so sánh các mức độ của giá trị gia tăng, lợi nhuận của năm sau so với năm trước hay nghiên cứu nó trong một khoảng thời gian dài để xem các mức độ của dãy số đó tăng hay giảm một lượng là bao nhiêu và ảnh hưởng của nó đến hiệu quả chung như thế nào.
- Tốc độ phát triển: gồm có tốc độ phát triển liên hoàn, tốc độ phát triển định gốc, tốc độ phát triển bình quân. Chỉ tiêu này để so sánh tốc độ tăng (giảm) của lợi nhuận năm sau so sánh với năm trước hay tốc độ trong một thời gian dài là lần hay %
Ngoài ra mức độ biến động của dãy số về VA, LN còn được xác định bằng các chỉ tiêu tốc độ tăng ( giảm) hay giá trị tăng (giảm) 1%, để biết 1% tăng (giảm) của VA,LN là bao nhiêu.
Đặc điểm vận dụng dãy số tương đối:
Dãy số tương đối là dãy số mà trong đó các mức độ của dãy số là số tương đối. Dãy số này được xây dựng trên cơ sở của dãy số tuyệt đối thời kỳ VA, LN. Do đó, dãy số tương đối cho phép các quan hệ tỷ lệ, quan hệ so sánh và cơ cấu của dãy số tương đối kết cấu, dãy số tương đối cường độ, dãy số tốc độ.
Dãy số tương đối kết cấu: Dãy số tương đối kết cấu thời kì là các dãy số kết cấu giá trị VA, LN. Các mức độ trong dãy số tương đối kết cấu của VA, LN được xác nhận trên cơ sở so sánh giá trị VA, LN của từng bộ phận với VA LN của toàn công ty. Với dãy số này của các bộ phận cấu thành trong tổng thể. Do đó, nó cho phép:
* Cho phép tìm ra quy luật về xu thế phát triển của dãy số tương đối kết cấu. Với nhiệm vụ này, có thể vận dụng phương pháp mở rộng phương pháp thời gian, phương pháp trung bình trượt và hàm xu thế.
* Cho phép xác định mức độ biến động của dãy số tương đối kết cấu vủa VA, LN qua các năm qua từng năm và bình quân của các năm thông qua các chỉ tiêu lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn, định gốc, bình quân; tốc độ phát triển liên hoàn, định gốc, bình quân;Tốc độ tăng giảm và giá trị 1% tăng giảm.
Dãy số tương đối cường độ: Là dãy số mà trong đó các mức độ của dãy số là kết quả so sánh chỉ tiêu thời kì (chỉ tiêu kết quả) với chỉ tiêu bình quân (chỉ tiêu chi phí sản xuất). Dãy số này cho phép:
* Tìm quy luật của xu thế phát triển của dãy số
* Cho phép xác định mức độ biến động của dãy số tương đối cường độ qua các năm, qua từng năm và bình quân của các năm.
3.2. Phương pháp chỉ số
Là một phương pháp, không những có khả năng nêu lên biến động tổng hợp của hiện tượng phức tạp mà còn có thể phân tích sự biến động này như phân tích biến động của năng suất lao động bình quân chịu ảnh hưởng của năng suất lao động cá biệt và kết cấu lao động. Thực chất đây cũng là việc phân tích mối quan hệ, nhằm nêu lên các nguyên nhân quyết định sự biến động của hiện tượng phức tạp, tính toán cụ thể ảnh hưởng của những nguyên nhân này.
Khi vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích hiệu quả SXKD có nhiều nhân tố tham gia vào phân tích phải giả định chỉ có một nhân tố thay đổi, các nhân tố còn lại là không đổi. Khi đó, mới tạo ra khả năng loại trừ sự biến động của các nhân tố lên kết quả so sánh.
Đặc điểm vận dụng phương pháp chỉ số:
Dùng chỉ số thống kê để phân tích các chỉ tiêu tuyệt đối thời kì như VA, LN và các chỉ tiêu tương đối cường độnăng xuất lao động, hiệu quả sử dụng vốn….của hiệu quả SXKD qua hai kì nghiên cứu.
Dùng chỉ số để nêu lên sự biến động qua không gian của các chỉ tiêu tuyệt dối thời kì (VA, LN) và các chỉ tiêu tương đối cường độ năng suất lao động, hiệu quả SXKD.
Dùng chỉ số để nêu lên nhiệm vụ kế hoạch hay tình hình thực hiện kế hoạch của các chỉ tiêu ảnh hưởng.
Chương II
Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội
I.Khái quát chung về công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội
1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội là công ty được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước. Được thành lập từ năm 1966 với tên gọi là công ty vận tải hàng hoá Hà Nội (trên cơ sở sáp nhập công ty vận tải số 1 và số 3). Quá trình phát triển ban đầu gồm một số phương tiện vận tải nhỏ của các nước Pháp, Mỹ... Sau này được trang bị các loại xe của Liên Xô, Trung Quốc. Lúc cao điểm công ty có khoảng 400 phương tiện vận tải và 1200 lao động. Biên chế thành 8 đội xe ( mỗi đội 50 xe) và một bộ máy quản lý gồm 200 cán bộ công nhân viên với 11 phòng ban. Có chức năng nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá (chủ yếu là lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng) cho nhân dân thủ đô và vận chuyển hàng hoá tiếp tế cho cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Từ năm 1990 nhà nước xoá bỏ chế độ bao cấp chuyển dần sang nền kinh tế thị trường, Công ty tự hạch toán thu chi. Công việc sản xuất kinh doanh giảm do không còn độc quyền vận chuyển hàng hoá.Mặt khác các phương tiện vận tải ngày càng cũ nát, lạc hậu, kinh doanh không còn có hiệu quả nên công ty giảm bộ máy quản lý từ 11 phòng ban với 200 lao động thành 06 phòng ban nghiệp vụ với trên 100 lao động.
Năm 1992 để tổ chức lại sản xuất, công ty một lần nữa tổ chức lại khối quản lý gồm 05 phòng nghiệp vụ và giảm bộ máy xuống còn gần 40 lao động.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, việc kinh doanh đơn thuần vận tải kém hiệu quả nên công ty chuyển dần sang kinh doanh vận tải đa dạng
- Kinh doanh kho bãi, xếp dỡ hàng hoá
- Khai thác đại lý vận tải hàng hoá, phục vụ vận chuyển Bắc Nam
- Phục vụ nhu cầu sửa chữa, ăn, nghỉ...
Kiểu kinh doanh này đã được UBND thành phố Hà Nội phê duyệt với quyết định số 2942/QĐ-UB ra ngày 07/09/1996.
Căn cứ quyết định số 2480/QĐ-UB ngày 16/06/1999 của UBND thành phố Hà Nội về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước công ty vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội thành công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội . Kể từ ngày 01/11/2000 công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội chính thức đi vào hoạt động theo điều lệ công ty cổ phần, luật doanh nghiệp.
+ Tên giao dịch quốc tế: Ha noi goods servies and transport joint stock company
+ Trụ sở chính: Ngã ba đuôi cá, phường Giáp Bát, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
+ Vốn điều lệ: 7.200.000.000
+ Chủ tịch hội đồng quản trị, kiêm giám đốc công ty: Kỹ sư Nguyễn Đức Bình
2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty
Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội có chức năng nhiệm vụ: Cung ứng vận chuyển và đại lý vận chuyển hàng hoá, vận tải hành khách liên tỉnh và du lịch, taxi tải và taxi chở khách san lấp mặt bằng, sửa chữa, cải tiến, nâng cấp phương tiện vận tải. Xuất nhập khẩu và kinh doanh vật tư thiết bị, phương tiện, nhiên liệu, phụ tùng, kinh doanh kho bãi, xếp dỡ hàng hoá , khai thác bến đỗ và trông giữ xe, hàng hoá. Dịch vụ ăn uống, nhà nghỉ, karaoke, sát hạch xe cơ giới đường bộ, thể dục thể thao vui chơi giải trí. Xây dựng dân dụng, kinh doanh bất động sản, lắp ráp ôtô, xe máy và các phương tiện vận tải khác. Đầu tư xây dựng bến xe ôtô khách.
3. Cơ cấu tổ chức quản lý
3.1. Cơ cấu tổ chức quản lý
Hội đồng quản trị
Ban giám đốc
Phòng
KhĐt
Phòng
kttk
Phòng
TCHC
Phòng
BV
Tồ kiểm tra
Quy chế
Các đơn vị
Sản xuất kinh doanh
Sơ đồ bộ máy quản lý công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội
Mối quan hệ chỉ huy
Mối quan hệ làm việc
- Với sơ đồ trên bộ máy quản lý gồm 03 phòng nghiệp vụ
+ Phòng kế hoạch đầu tư
+ Phòng kế toán thống kê
+ Phòng tổ chức hành chính
01 phòng chức năng: Phòng bảo vệ
01 tổ kiểm tra thực hiện quy chế công ty
Các đơn vị sản xuất kinh doanh gồm có:
+ 02 bến xe vận tải
*Bến 1: Ngã ba đuôi cá, phường Giáp Bát, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
*Bến 2: 292 Bạch Đằng, Hà Nội
+ 02 đoàn xe: Xe khách
Xe taxi
+ 02 trung tâm môi giới vận chuyển hàng hoá
+ 01 trung tâm kinh doanh vận tải
+ 02 đơn vị độc lập: Xưởng sửa chữa ôtô
Trung tâm kinh doanh kho xưởng
3.2. Chức năng nhiệm vụ các phòng ban
3.2.1. Phòng kế hoạch đầu tư
a) Chức năng
Là phòng tham mưu tổng hợp giúp lãnh đạo công ty trong công tác lập kế hoạch, đôn đốc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh toàn công ty. Đề xuất các phương án sản xuất kinh doanh và theo dõi, quản lý các trang thiết bị, hệ thống điện và các phương tiện có trong toàn công ty.
b) Nhiệm vụ
Lập kế hoạch và đôn đốc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh theo từng thời kỳ kế hoạch (dài hạn, trung hạn, ngắn hạn). Cuối kỳ có báo cáo tổng kết rút kinh nghiệm.
Chủ động phối hợp giữa các phòng nghiệp vụ và các đơn vị sản xuất kinh doanh để xây dựng, hoàn thiện các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, áp dụng cho các mô hình sản xuất kinh doanh công ty hiện có.
Tham mưu cho lãnh đạo công ty giao kế hoạch sản xuất kinh doanh cho các đơn vị. Theo dõi, đôn đốc và quyết toán trong từng kỳ kế hoạch.
Tham mưu cho lãnh đạo công ty ký kết các hợp đồng kinh tế với tổ chức cá nhân có nhu cầu. Theo dõi việc thực hiện và quyết toán các hợp đồng đã ký, phù hợp với pháp lệnh hợp đồng kinh tế nhà nước đã ban hành.
Nghiên cứu xây dựng và trình lãnh đạo công ty các phương án mở rộng sản xuất cho phù hợp trong từng thời kỳ kế hoạch, đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Quản lý theo dõi tình trạng kỹ thuật của thiết bị và phương tiện công ty có. Lập kế hoạch và chỉ đạo thực hiện đối với công tác bảo dưỡng, sửa chữa các thiết bị và phương tiện này.
Xây dựng và hướng dẫn các quy trình, quy phạm về sử dụng và an toàn thiết bị. Tuyên truyền lái xe chấp hành tốt kỷ luật, luật giao thông đường bộ và các quy định khác của nhà nước có liên quan đến an toàn giao thông đường bộ. Phối kết hợp với đơn vị quản lý phương tiện để giải quyết tai nạn giao thông nếu có.
Thực hiện hướng dẫn, bồi dưỡng kỹ thuật và kiểm tra đánh giá kết quả nâng cao trình độ kỹ thuật của công nhân trực tiếp sản xuất, trình độ tay nghề của công nhân có nguyện vọng vào làm việc tại công ty khi có yêu cầu.
3.2.2. Phòng tổ chức hành chính
a) Chức năng
Là phòng tham mưu cho lãnh đạo công ty và tổ chức triển khai thực hiện các công tác về tổ chức sản xuất, nhân sự, hành chính và thực hiện chính sách đối với người lao động.
b) Nhiệm vụ
Tham mưu cho lãnh đạo công ty về công tác sắp xếp tổ chức bộ máy sản xuất, công tác cán bộ, công tác quản lý lao động.
Tổ chức thực hiện các chế độ về tiền lương, nâng bậc nương hàng năm công ty người lao động.
Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch nâng cao trình độ nghiệp vụ, tay nghề cho người lao động.
Tổ chức thực hiện các chế độ BHXH, BHYT, BHLĐ và các chế độ liên quan khác.
Lập hồ sơ và trình hội đồng kỷ luật công ty xét xử với những trường hợp vi phạm nội quy, quy chế công ty đã ban hành.
Quản lý lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị và công tác thăm hỏi các gia đình chính sách.
Tham mưu cho lãnh đạo công ty xây dựng và theo dõi thực hiện thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế khác khi có yêu cầu.
Làm công tác hành chính quản trị, văn thư lưu trữ, kiến thiết cơ bản nhỏ trong công ty.
Quản lý môi trường, tổ chức chăm sóc cho người lao động.
3.2.3. Phòng Kế toán thống kê
a) Chức năng
Là phòng tham mưu giúp lãnh đạo công ty trong công tác quản lý tài chính, tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác thống kê kế toán, thông tin kinh tế và hạch toán sản xuất trong công ty trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển nguồn vốn được giao.
b) Nhiệm vụ
Lập và đôn đốc kiểm tra thực hiện kế hoạch tài chính trong từng kỳ kế hoạch, cuối kỳ có quyết toán.
Tổ chức và hướng dẫn nghiệp vụ liên quan đến các quy định về tài chính. Ghi chép các chứng từ, sổ sách theo quy định hiện hành. Luôn phản ánh đầy đủ và kịp thời hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Hướng dẫn và kiểm tra nghiệp vụ tài chính cho các đơn vị hạch toán nội bộ trong công ty, tiến hành phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh và đề xuất phương án sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
Căn cư vào các quy định hiện hành về tài chính giúp các phòng ban xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật áp dụng với các loại hình sản xuất,công ty có đảm bảo nguyên tắc kinh doanh có tích luỹ .
Làm nhiệm vụ kiểm tra việc chấp hành chế độ bảo vệ tài sản,vật tư, tiền vốn của công ty, việc thực hiện chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế và các chế độ tài chính tín dụng v v...
3.2.4. Phòng bảo vệ
a) Chức năng
Là phòng chuyên trách công tác tuần tra canh gác bảo vệ tài sản, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng chống cháy nổ trong phạm vi toàn công ty.
b) Nhiệm vụ
Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tuần tra canh gác bảo vệ tài sản, đảm bảo an ninh chính trị trật tự xã hội trong phạm vi toàn công ty .
Xây dựng kế hoạch và đôn đốc thực hiện công tác phòng chống cháy nổ trong phạm vi toàn công ty. Có đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm trong từng kỳ kế hoạch.
3.2.5.Tổ kiểm tra thực hiện quy chế công ty
a)Chức năng
Giúp việc ban lãnh đạo công ty trong việc thực hiện các nội quy , quy chế, các quy định khác công ty đã ban hành.
b)Nhiệm vụ
Căn cứ nội quy, quy chế và các quy định khác công ty đã ban hành để tiến hành kiểm tra việc thực hiện tại các đơn vị trong toàn công ty.
Khi phát hiện vi phạm nội quy, quy chế các quy dịnh và pháp luật Nhà nước phải thông báo ngay cho đơn vị đó biết đồng thời kiến nghị với giám đốc công ty biện pháp khắc phục, xử lý.
4. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần vận tải và dịch vụ hàng hoá Hà Nội
Do đặc thù của công ty là có địa thế đặt ở phía Nam Thủ Đô, rộng. Thêm vào đó công ty lại thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh, nơi ăn, nghỉ, có hệ thống nhà xưởng sửa chữa phương tiện tốt, có hệ thống nhà kho rộng rãi, an toàn. Tất cả những điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ vận tải, tạo nên đặc điểm sản xuất của công ty là chủ yếu kinh doanh dịch vụ vận tải, một loại hình kinh doanh cần ít vốn nhưng an toàn và đem lại hiệu quả cao.
II.Hướng phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh
Thực chất hiệu quả sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu và vốn) để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp – mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng cần phải phân biệt danh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh. Có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả đạt được bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là những đại lượng có thể cân đo đong đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận, thị phần... và cũng có thể chỉ là các đại lượng phản ánh mặt chất hoàn toàn không có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm... như thế, kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó hiệu quả sản xuất kinh doanh người ta có thể sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả kinh tế sẽ vất phải khó khăn là giữa "đầu vào" và "đầu ra" không có cùng một đơn vị đo lường còn việc sử dụng các đơn vị giá trị luôn đưa được các đại lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo lường (tiền tệ). Vấn đề đặt ra là: hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trong thực tế, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận biết "khả năng" tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
Mặt khác, khi nghiên cứu hiệu quả phải nói tới mức chuẩn hiệu quả. Đã từ lâu khi bàn tới hiệu quả kinh doanh, nhiều nhà khoa học kinh tế đã đề cập tới mức chuẩn hiệu quả (hay còn gọi là tiêu chuẩn hiệu quả). Từ công thức và định nghĩa về hiệu quả kinh tế, chúng ta thấy khi thiết lập mối quan hệ tỷ lệ giữa "đầu ra" và "đầu vào" sẽ có thể cho một dãy các giá trị khác nhau. Vấn đề đạt ra là tổng các giá trị đạt được thì giá trị nào phản ánh tính có hiệu quả (nằm trong miền có hiệu quả), các giá trị nào phản ánh tính hiệu quả cao, cũng như giá trị nào nằm trong miền không đạt hiệu quả (phi hiệu quả). Chúng ta có thể hiểu mức chuẩn hiệu quả là giới hạn, là thước đo, là căn cứ, là một cái "mốc" xác định ranh giới có hiệu quả hay không hiệu quả về một chỉ tiêu hiệu quả đang xét.
Xét trên phương diện lý thuyết, mặc dù các giả thiết đều thừa nhận về bản chất khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố sản xuất, song trong công thức khái niệm hiệu quả kinh tế cũng chưa phải là công thức mà các nhà kinh tế thống nhất thừa nhận. Vì vậy, cũng không có tiêu chuẩn chung cho mọi công thức hiệu quả sản xuất kinh doanh, mà tiêu chuẩn hiệu quả sản xuất kinh doanh còn phụ thuộc vào mỗi công thức xác định hiệu quả cụ thể. ở các doanh nghiệp, tiêu chuẩn hiệu quả tuỳ thuộc vào từng chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cụ thể. Chẳng hạn với các chỉ tiêu hiệu quả liên quan đến các quyết định lựa chọn kinh tế sử dụng phương pháp cận biên, nguời ta so sánh các chỉ tiêu như doanh thu biên bằng và chi phí biên với nhau và tiêu chuẩn hiệu quả là doanh thu biên bằng với chi phí biên (tổng hợp cũng như cho từng yếu tố sản xuất). Trong phân tích kinh tế với việc sử dụng các chỉ tiêu tính toán trung bình, có khi lấy mức trung bình của ngành hoặc của kỳ trước làm mức hiệu quả so sánh và kết luận tính hiệu quả của doanh nghiệp.
Từ những lý do trên, kết hợp với đặc điểm sản xuất của công ty ta đưa ra hướng phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ Phần Vận Tải và Dịch Vụ Hàng Hoá Hà Nội. Nghiên cứu quy mô, cơ cấu từ đó ta xác định xu hướng hoạt động của công ty đồng thời phân tích và tìm nguyên nhân ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tính các chỉ tiêu hiệu quả so sánh với kỳ trước để đưa ra kết luận tính hiệu quả.
III.Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty Cổ Phần Vận Tải và Dịch Vụ Hàng Hoá Hà Nội:
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau xunh quanh vấn đề mục tiêu của doanh nghiệp, song có thể nói trong cơ chế thị trường nước ta hiện nay, mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần...) đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt mục tiêu này trước hết mỗi doanh nghiệp phải đạt cho mình một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp thích ứng với những biến động của thị trường, phải tiến hành có hiệu quả các hoạt động quản trị nhằm đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào và trong quá trình đó phải luôn kiểm tra xem liệu phương án kinh doanh đang tiến hành là có hiệu quả? Muốn kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như của từng lĩnh vực, từng bộ phận công tác nói riêng, doanh nghiệp không thể không chú ý tới việc tính toán hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, ở phần này ta phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty Cổ Phần Vận Tải và Dịch Vụ Hàng Hoá Hà Nội.
Các kí hiệu được sử dụng trong chương này
DT : Doanh thu (đv: nghìn đồng)
LN : Lợi nhuận (đv: nghìn đồng)
Vcđ : Vốn cố định bình quân năm (đv: nghìn đồng)
Vlđ : Vốn lưu động bình quân năm (đv: nghìn đồng)
V : Tổng vốn bình quân năm (đv: nghìn đồng)
F : Tổng quỹ lương (đv: nghìn đồng)
T : Số lao động bình quân năm (đv: người)
N : Số ngày theo lịch năm nghiên cứu (đv: ngày)
C : Tổng chi phí (đv: nghìn đồng)
d : Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn
t : Tốc độ phát triển liên hoàn
a : Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn
0 : Kì gốc (Năm 2001)
1 : Kì n.c (năm 2002)
Các ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- S0022.doc