Lời nói đầu
Thực tế đường lối đổi mới của Đảng trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp nước ta liên tiếp thu được nhiều thành tựu to lớn. Thành tựu lớn nhất là trong một thời gian không dài từ một nền nông nghiệp tự cung, tự cấp lạc hậu vươn lên trở thành một nền nông nghiệp hàng hoá ngày càng lớn có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Nước ta đã trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu 4 mặt hàng nông sản: gạo, cà phê, điều, hạt tiêu.
Trong quá trình công nghiệp h
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thống kê cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1990-2000 và dự báo đến năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oá, hiện đại hoá và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nền nông nghiệp Việt Nam phải tiếp tục giải quyết nhiều vấn đề vừa cơ bản vừa bức xúc nhằm đáp ứng nguyện vọng của nông dân và lợi ích của đất nước. Trong đó đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nền kinh tế quốc dân nói chung và cơ cấu ngành nông nghiệp nói riêng là một biện pháp đã và đang được chú trọng. Xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ đó, trong thời gian thực tập tại vụ Tổng hơp và Thông tin- Tổng cục thống kê em đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu thống kê cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1990-2000 và dự báo đến năm 2005. ”và chọn vấn đề này làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Luận văn tốt nghiệp gồm các phần chính sau:
Chương I- Hệ thống chỉ tiêu thống kê về cơ cấu nông nghiệp
I. Lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam .
II. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê cơ cấu nông nghiệp.
Chương II- Phân tích thực trạng cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1990-2000
I. Các phương pháp phân tích.
II. Vận dụng phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1990-2000.
Chương III: Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp việt nam đến năm 2005. Một số kiến nghị.
I. Định hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
II. Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
III. - Một số kiến nghị.
Nghiên cứu cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là một vấn
đề lớn và phức tạp. Do còn hạn chế về kiến thức và thời gian nghiên cứu chuyên đề khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô , các cán bộ chuyên viên vụ Tổng hợp- Tổng cục thống kê và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của các thầy cô khoa
thống kê đặc biệt là thầy giáo Phan Công Nghĩa – người trực tiếp hướng dẫn
em trong đợt thực tập cùng chú Nguyễn Động cán bộ chuyên viên VụTổng hợp-Tổng cục thống kê đã tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành tốt chuyên đề này.
Chương I
Hệ thống chỉ tiêu thống kê về cơ cấu nông nghiệp.
I. Lý luận chung về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
I. 1. Vai trò của nông nghiệp trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Nông nghiệp là ngành sản xuất hiện chiếm trên 25% GDP trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân của Việt Nam. Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản cho công nghiệp hoá. Trong điều kiện nền kinh tế có điểm xuất phát thấp sản xuất công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển, 80% dân cư vẫn lấy nông nghiệp làm nghề chính và thu nhập chủ yếu thì xuất nhập khẩu nông sản chiếm vị trí cực kỳ quan trọng tạo ra nguồn ngoại tệ mạnh để nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trước hết được thể hiện ở sự thay đổi tỷ trọng ngành nông nghiệp trong hệ thống nền kinh tế quốc dân.
Bảng Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đơn vị: %
(nguồn thời báo kinh tế Việt Nam )
Cơ cấu ngành kinh tế
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
Nông nghiệp
27. 76
25. 77
25. 78
25. 43
24. 3
23
Công nghiệp
29. 73
32. 08
32. 49
35. 5
36. 61
37. 5
Dịch vụ
42. 51
42. 15
41. 73
40. 67
39. 09
39. 5
Hiện nay, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm xuống nhưng vị trí của nông nghiệp vẫn được củng cố. Nông nghiệp vẫn có tác động tích cực đến các mặt kinh tế chính trị, xã hội.
Nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiêp.
Phát triển sản xuất nông nghiệp góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nguồn lao động dồi dào của Việt Nam .
Đối với Việt Nam nền kinh tế nông nghiệp giữ vị trí cực kỳ quan trọng, thúc đẩy tiến trình phát triển và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
I. 2. Cơ cấu kinh tế :
Cơ cấu kinh tế được hiểu là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các bộ phận hợp thành một tổng thể kinh tế nhất định trong một thời gian nhất định. Khái niệm về cơ cấu kinh tế không chỉ giới hạn ở quan hệ giữa các ngành mang tính cố đinh mà luôn luôn ở trạng thái động và nhất là không có khuôn mẫu nhất định.
Nội dung nghiên cứu cơ cấu kinh tế là xác định các bộ phận hợp thành và quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận đó, đồng thời đề ra xu hướng phát triển giữa các bộ phận. Thể hiện 3 nội dung: Cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế .
Một cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu kinh tế thích ứng nhất với các điều kiện cụ thể và đem lại hiệu quả nhất định, tức là tạo sự ổn định , tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Cơ cấu kinh tế hợp lý phải làm sao tạo được khả năng phát triển thuận lợi cho tổng thể và từng bộ phận trong tổng thể. Khai thác tối đa những ưu thế và thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên. Cơ cấu hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển với số lượng và chủng loại sản phẩm đa dạng và phong phú đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, đảm bảo và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của mỗi ngành, mỗi vùng và mỗi thành phần kinh tế, tạo tích luỹ nhiều nhất cho nền kinh tế quỗc dân.
1. 3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi có mục đích có định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ những căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chỉ xảy ra sau một khoảng thời gian nhất định ( vì nó là một quá trình ) và sự phát triển của các ngành phải dẫn đến mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của chúng ( ở thời điểm trước đó). Trên thực tế, sự thay đổi này được biểu hiện ở những mặt sau:
Sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế.
Sự tăng trưởng về quy mô và nhịp độ khác nhau giữa các ngành
Sự thay đổi trong quan hệ tác động qua lại giữa các ngành.
1. 4. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ CNH-HĐH:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu khách quan. Qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với quá trình phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế mang tính quy luật.
Cơ cấu ngành nông nghiệp của một nền kinh tế là tập hợp tất cả các nhóm ngành nông nghiệp và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng. Sự thay đổi của cơ cấu ngành nông nghiệp từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được gọi là sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. Xét chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo nghĩa hẹp là sự thay đổi tỷ trọng và xu hướng chuyển dịch của các ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ.
Những năm gần đây tỷ suất hàng hoá trong nông nghiệp của nước ta có xu hướng ngày càng cao. Nông nghiệp Việt Nam ngày càng có nhiều mặt hàng tham gia vào thị trường thế giới, có thể thấy tăng trưởng của nông nghiệp nước ta ngày càng tuỳ thuộc vào kinh tế và thị trường thế giới.
Tuy nhiên kinh tế thế giới và khu vực trong những năm qua đang nằm trong chu kỳ suy thoái, thậm chí dường như nằm ở đáy của chu kỳ này. Do đó những nổ lực gia tăng sản lượng đã không đủ bù đắp lại thiệt hại về giá cả trên thị trường thế giới. Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng như cà phê, gạo . . . phải thực hiện bù lỗ xuất khẩu dưới nhiều hình thức. Không ít hộ nông dân lâm vào tình trạng điêu đứng.
Vì vậy cần phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH cho thích ứng với đòi hỏi của thị trường. Tổ chức lại nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và nắm bắt thông tin thị trường trong nước cũng như trên thế giới.
1. 5. Nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
- Trong điều kiện kinh tế mở và xu hướng toàn cầu hoá kinh tế bắt kịp trào lưu phát triển khoa học kỹ thuật và phương pháp quản lý tiên tiến của thế giới tạo điều kiện cho kinh tế Việt Nam nhanh chóng hội nhập thế giới.
-Phải xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước về kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, môi trường tức là phải dựa trên quan điểm toàn diện và hiệu quả kể cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
- Đảm bảo tính khả thi
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là đòi hỏi bức xúc của nông dân ta, của nhà nước ta. Đây cũng là điều kiện cần và đủ cho sự phát triển bền vững vì theo lý thuyết phát triển kinh tế, phát triển bao gồm tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu.
Yêu cầu cụ thể:
Một là nâng giá trị sản xuất trên 1 ha đất, tăng thu nhập cho nông dân.
Hai là đảm bảo phát triển môi trường bền vững.
Nước ta hiện nay vẫn là một trong những nước nghèo trên thế giới. Mặc dù những năm qua chúng ta đã đạt được thành tựu về mặt kinh tế cũng như về mặt xã hội. Nhưng chúng ta cũng còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Nông nghiệp mặc dù đã được đầu tư khá nhiều, song kết quả đạt được chưa đáp ứng được yêu cầu và chưa tận dụng được ưu thế. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để nền kinh tế đó có thể phát triển phù hợp với tình hình mới chúng ta nhất thiết phải tiến hành điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá
I. 6. Thực trạng nền nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam thời kỳ 1990-2000
a. Thành tựu:
Nghị quyết Đại hôị Đảng toàn quốc lần thứ VI,VII và VIII đã đề ra phương hướng phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Trong 10 năm 1991-2000 nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật so với các thời kỳ trước. Nhìn chung nông nghiệp nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá phát triển tương đối toàn diện, tăng trưởng khá, bình quân tăng 4,2 %/ năm. Nhiều thành tựu khoa học công nghệ mới được ứng dụng rộng rãi trong nông nghiệp. Công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn bước đầu được phục hồi và phát triển. Đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt. Quan hệ sản xuất được đổi mới theo hướng xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn, hệ thống chính trị ở cơ sở được tăng cường dân chủ ở nông thôn được phát huy tốt hơn , an ninh chính trị , trật tự,an toàn xã hội được đảm bảo , môi trường sinh thái được cải thiện.
Trong ngành nông nghiệp tỷ trọng ngành trồng trọt, tỷ trọng cây lương thực có xu hướng giảm, tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả tăng từ 18,4% năm 1995 lên 20,65 năm 2000 và 21,8% năm 2000. Diện tích gieo trồng các loại cây công nghiệp cây ăn quả đã hình thành và phát triển vùng hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp chế biến như các vùng cà phê, cao su, điều, tiêu, chè, mía, bông, vùng cây ăn quả. Diện tích cây công nghiệp dài ngày năm 2000 đạt gần 1,8 triệu ha, tăng gần 500 ngàn ha so với năm 1995, một số cây công nghiệp có diện tích lớn như: cà phê 517 ngàn ha, gấp hơn 2,7 lần; cao su 407 ngàn ha tăng 465; mía 303 ngàn ha tăng 35%, bông 19 ngàn ha tăng 8%; so với năm 1995.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng nâng cao chất lượng giống cây, giống con, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập nông dân. Cho đến nay đã có tới 90% diện tích gieo trồng lúa, 60% diện tích gieo trồng ngô, trên 80% diện tích mía được áp dụng các giống mới. Nhờ nâng cao chất lượng giá xuất khẩu nhiều loại gạo của việt nam đã ngang bằng Thái Lan. Năng suất cây trồng 5 năm 1996-2000 tăng khá: lúa tăng 15,2% chè tăng 17,6%.
Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 5%, thu nhập và mức sống dân cư không ngừng cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo đói giảm, hàng triệu nông dân đã trở thành giàu có.
b. Những tồn tại:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong 10 năm 1990-2000 sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta cũng xuất hiện nhiều vấn đề nổi cộm và thách thức trên bước đường phát triển. Trong những năm đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có những chuyển biến tiến bộ góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên thực tế gần đây cho thấy cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn những tồn tại chủ yếu sau đây:
- Sản lượng nông sản hàng hoá xuất khẩu tăng nhưng kim ngạch xuất khẩu giảm. Sản lượng cà phê xuất khẩu tăng 51%, kim ngạch giảm 15,2% sản lượng hạt tiêu tăng 40,2% kim ngạch giảm 40,2%; gạo tăng 34,5% nhưng kim ngạch chỉ tăng 6,3%. Nhìn chung, việc tiêu thụ nông sản gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là giá thấp chất lượng nông sản phảm thấp và giá thành nông sản cao thiếu khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Một số nông sản có khả năng phát triển được trong nước lại phải bỏ ngoại tệ ra để nhập. Nguyên nhân quan trọng là trong bố trí cơ cấu kinh tế nông nghiệp chúng ta đã không điều tra và quy hoạch các vùng để phát triển tích cực các loại nông sản phẩm.
- Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiêp và nông thôn chậm chạp thiếu đồng bộ và thiếu toàn diện. Chúng ta mới chú ý phát triển lương thực. Lương thực còn chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong diện tích trồng trọt còn các loại cây khác có giá trị cao như cây công nghiệp, rau quả, cây đặc sản còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ bé. Gía trị trồng trọt còn chiếm hơn 70% còn chăn nuôi qua nhiều năm chỉ khoảng 25% trong giá trị sản lượng nông nghiệp. Công nghiệp và dịch vụ đặc biệt công nghiệp chế biến nông sản phẩm không đáp ứng yêu cầu của phát triển nông nghiệp. Tỷ lệ chế biến công nghiệp của chè chỉ có 50%, mía đường52%, rau quả 5%, thịt 1% ( số liệu năm 1999). Lao động nông thôn không có việc làm, lao động nhàn rỗi chiếm khoảng 25% số ngày lao động, lao động nông nghiệp chủ yếu là lao động thủ công.
Dưới đây là một số tồn tại chủ yếu:
- Tác động của công nghiệp vào nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn hạn chế
- Ruộng đất ở nông thôn phân tán không phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá tập trung, lao động dư thừa nhiều.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm và giá cả chưa ổn định
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp vẫn mất cân đối
Chất lượng hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản nhìn chung còn thấp không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Vốn đầu tư trong nước và nước ngoài chưa đáp ứng được yêu cầu
Mô hình tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp chưa rõ ràng, không ổn định .
Với cơ cấu kinh tế nông nghiệp như trên, thu nhập và đời sống của nông thôn tuy được cải thiện nhưng vẫn còn thấp.
I. 7. Một số mô hình CNH,HĐH nông nghiệp Việt Nam trong những năm đổi mới .
-Mô hình liên kết kinh tế giữa nhà nước với hộ nông dân trên địa bàn nông thôn.
Tiêu biểu cho mô hình CNH, HĐH nông nghiệp dựa trên mối liên hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp nông nghiệp với hộ nông dân gắn với sản xuất công nghiệp chế biến và dịch vụ trên địa bàn nông thôn tạo thành vùng kinh tế công nông nghiệp có tỷ suất hàng hoá cao cơ cấu hợp lý là vùng mía đường Lam Sơn.
- Mô hình đa dạng hoá nông nghiệp và công nghiệp hoá nông thôn .
khắc phục nguy cơ tụt hậu từng bước làm giàu cho nông dân và xây dựng nông thôn mới văn minh hiện đại. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ tiến tiến vào sản xuất, ưu đãi cho vay vốn tìm kiếm thị trường và cụ thể hoá chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với điều kiện của từng địa phương
-Mô hình đa dạng hoá nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp gắn với CNH, và dịch vụ.
- Mô hình phát triển ngành nghề truyền thống (tiêu biểu ĐBSCL)
- Mô hình CNH, HĐH gắn với hợp tác hoá nông nghiệp ở miền trung.
I. 8. Kinh nghiệm nước ngoài về đầu tư phát triển nông nghiệp, xu hướng chuyển dịch nông nghiệp.
Một nền kinh tế phát triển luôn phải gắn mình với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp và kinh tế thé giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào chính sách kinh tế của mỗi quốc gia mà mức độ ảnh hưởng khác nhau. Dưới đây là kinh nghiệm điển hình của một số nước trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp mà nước ta có thể khai thác ứng dụng:
Các nước NICS : Hàn Quốc và Đài Loan có khu vực nông thôn rộng lớn.
Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và dịch vụ đã tạo ra sự khác biệt về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn. Do đó, trên cơ sở phát triển kinh tế, các nước này đã chú trọng các chính sách hỗ trợ nông nghiệp và nông thôn, trong đó có chính sách giá cả, bảo hộ sản xuất nông nghiệp.
Liên quan đến chính sách nông thôn là việc điểu tiết quá trình đô thị hoá và
quản lý lường di dân. Việc có chính sách xã hội đúng đắn cũng góp phần quan
trọng trong việc thu hẹp khoảng cách trong mức sống dân cư.
Chính sách phát triển nông nghiệp ỏ các nước ASIAN : ở các nước
ASIAN, do điều kiện đặc thù là những nước nhiệt đới vì vậy sự can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách là yếu tố có tính quyết đinh dến sự phát triển nông nghiệp. Nhà nước can thiệp chủ yếu một cách gián tiép vào quá rình sản xuất sản phẩm bằng các chính sách như chính sách gía cả. chẳng hạn như Thái Lan, chính sách bảo hộ lúa gạo được coi là biện pháp mạnh mẽ để tác động vào giá cả lúa gạo trong nước nhằm ổn định giá gạo. Chính sách tín dụng nông nghiệp là một công cụ quan trọng dể khuyến khích phát triển sản xuất và phân phối lại thu nhập. Chính sác đầu tư cho nông nghiệp, Đầu tư là chìa khoá trong chiến lược và kế hoạch phát triển đã được cụ thể hoá trong mối tương quan giữa tăng trưởng vốn đầu tư và tăng trưởng GNP và GDP trong kinh tế nông nghiệp quan hệ tỷ lệ đó vẫn là chuẩn mực. Thể hiện ở các nước châu á cơ cấu kinh tế thay đổi từ nông công nghiệp sang công nghiệp dịch vụ nông nghiệp đến năm 9 GNP hoặc GDP bình quân đầu người tằng nhanh.
ở hầu hết các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới đều thực hiện các chính sách:
- CNH HĐH nông nghiệp nông thôn,
- Xây dựng cơ sở hạ tầng làm tiền đề cho phát triển nông nghiệp, áp dụng những thành tựu khoa học của thế giới vào nông nghiệp
Đầu tư cho thuỷ lợi
Phát triển xuất nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp trọng điểm
Thay đổi cơ cấu nghành trong nông nghiệp theo xu hướng tăng tỷ trọng nghành dịch vụ
I. 9. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xác định cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.
Trước đây hiện nay và trong tương lai của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước ta kiên trì chủ trương xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh phát triền bền vững, vì xét lâu dài, nước ta có tài nguyên và có nhiều lợi thế to lớn về nông nghiệp. Tại Đại hội VIII của Đảng 6-1996 đã xác định rõ mục tiêu của nông, lâm, thuỷ sản trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 là “ phát triển nông nghiệp toàn diện hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả cải thiện chất lượng bữa ăn, giảm suy dinh dưỡng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả trên cơ sở bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực chủ yếu là lúa mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển, đảo, kinh tế rừng, khai thác có hiệu qủa tiềm năng của nền nông nghiêp sinh thái”.
Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam phải xác định 3 nội dung: Điều chỉnh ngành sản xuất nông nghiệp, điều chỉnh sản phẩm của từng ngành hàng nông nghiệp, điều chỉnh lại quy mô hàng hoá của sản phẩm nông nghiệp. Phải có định hướng chuyển dịch về cả 3 mặt đó để các ngành sản xuất các sản phẩm hàng hoá có lợi thế cạnh tranh, có qui mô hàng hoá ăn khớp với sự biến động của quan hệ cung–cầu trên thị trường. Bài toán điều chỉnh cả 3 mặt đó là bài toán khó ở tầm vi mô và vĩ mô đòi hỏi sự nỗ lực nghiên cứu của các ngành, các cấp, các cơ quan nghiên cứu khoa học của các doanh nghiệp, trong đó có việc đòi hỏi phải nâng cao trình độ tin cậy về dự báo ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của ta, để chủ động đối phó với mọi biến động diễn ra gay gắt của nền kinh tế thế giới.
Phát huy lợi thế to lớn của nền nông nghiệp nước ta về tiềm năng thiên nhiên, về truyền thống làm nông nghiệp từ lâu đơì về tính cần cù năng động sáng tạo của nông dân nhằm mục tiêu xây dựng công nghệ cao công nghệ mới từng bước được hiện đại hoá, vươn lên trở thành một nền nông nghiệp với những ngành sản xuất hàng hoá lớn, có sức cạnh tranh ngày càng cao trong quá trình hội nhập quốc tế, có năng suất và thu nhập cao trên một đơn vị diện tích, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần nâng cao đời sống nông dân ổn định kinh tế và xã hội đất nước.
Việc lựa chọn cơ cấu quy mô và chủng loại sản phẩm các ngành hàng sản xuất nông nghiệp phải khai thác được lợi thế của cả nước và từng vùng, bám sát nhu cầu thị trường trong nước và thế giới, phải có khả năng tiêu thụ được hàng hoá, có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, sinh thái.
II. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê cơ cấu nông nghiệp.
II.1. Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê cơ cấu nông nghiệp.
- Đảm bảo tính hệ thống: Hệ thống chỉ tiêu sử dụng phải tối thiểu cần thiết , từng chỉ tiêu phải có nội dung, phạm vi, phương pháp tính tóan và nguồn số liệu đảm bảo có độ tin cậy cao. Các chỉ tiêu được bao gồm trong hệ thống phải có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Phải định rõ các chỉ tiêu chủ yếu và các chỉ tiêu thứ yếu.
- Đảm bảo tính hướng đích: Phải xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước về kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, môi trường tức là phải dựa trên quan điểm toàn diện và hiệu quả kể cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
- Đảm bảo tính khả thi: tức là phù hợp với khả năng, điều kiện về nhân lực vật lực.
- Đảm bảo tính hiệu quả: Hệ thống chỉ tiêu cần được xây dựng phù hợp với mục đích nghiên cứu, với nhu cầu thông tin cho quản lý vĩ mô và quản trị kinh doanh. Không đưa vào thông tin thừa không cần thiết.
II.2. Phân tích hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện hành về cơ cấu nông nghiệp.
II.2. 1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện hành:
II.2. 1. 1. Phân theo tiêu thức ngành kinh tế gồm các chỉ tiêu.
a. Theo chỉ tiêu về giá trị sản xuất: hoạt động nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Tổng giá trị sản xuất nông nghiêp được tính theo phương pháp chu chuyển nghĩa là cho phép tính trùng giữa trồng trọt và chăn nuôi cũng như trong nội bộ từng nghành.
- Chỉ tiêu GO là số tuyệt đối :
+ GO nông nghiệp= GO trồng trọt + GO chăn nuôi + giá trị sản xuất dịch vụ nông nghiệp.
+ GO trồng trọt = Giá trị sản phẩm chính của các loại cây trồng + giá trị sản phẩm phụ của các loại cây trồng có thu hoạch + chênh lệch giá trị sản phẩm dở dang của trồng trọt.
+ GO chăn nuôi = tổng GO của các loại con
+ GO dịch vụ nông nghiệp là giá trị các hoạt động cày bừa, tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh, bảo hiểm cây trồng , vật nuôi…
- Chỉ tiêu GO là số tương đối:
+ Tỷ trọng GO chăn nuôi trong Tổng GO
+ Tỷ trọng GO trồng trọt trong tổng GO
+ Tỷ trọng GO dịch vụ nông nghiệp trong tổng GO
Theo chỉ tiêu lao động
- Theo số tuyệt đối:
+ Tổng số lao động trong nông nghiệp
+ Tổng số lao động hoạt động trong trồng trọt
+ Tổng số lao động hoạt động trong chăn nuôi
+ Tổng số lao động hoạt động trong dịch vụ nông nghiệp
- Theo số tương đối:
+ Tỷ trọng lao động hoạt động trong ngành trồng trọt trong tổng số lao động nông nghiệp
+ Tỷ trọng lao động hoạt động trong ngành chăn nuôi trong tổng số lao động nông nghiệp
+ Tỷ trọng lao động hoạt động trong ngành dịch vụ nông nghiệp trong tổng số lao động nông nghiệp.
Theo chỉ tiêu về sử dụng đất nông nghiệp:
Theo chỉ tiêu tuyệt đối:
+ Diện tích đất nông nghiệp sử dụng cho trồng trọt
+ Diện tích đất nông nghiệp sử dụng cho chăn nuôi
+ Diện tích đất nông nghiệp sử dụng cho hoạt động dịch vụ nông nghiệp.
Theo chỉ tiêu tương đối:
+ Tỷ trọng đất nông nghiệp sử dụng cho trồng trọt trong tổng đất nông nghiệp sử dụng
+ Tỷ trọng đất nông nghiệp sử dụng cho chăn nuôi trong tổng đất nông nghiệp sử dụng
+ Tỷ trọng đất nông nghiệp sử dụng cho hoạt động dịch vụ nông nghiệp trong tổng diện tích đất nông nghiệp sử dụng.
II.2. 1. 2. Phân theo tiêu thức ngành sản phẩm
GO:
- Theo số tuyệt đối:
+ GO trồng trọt = GO lương thực +GO rau, đậu +GO cây công nghiệp+ GO cây ăn quả.
+ GO chăn nuôi = GO gia súc+GO gia cầm+ GO sản phẩm không qua giết thịt
- Theo số tương đối:
+ Tỷ trọng GO trồng trọt trong tổng GO nông nghiệp
+ Tỷ trọng GO chăn nuôi trong tổng GO nông nghiệp
b. Theo chỉ tiêu diện tích đất nông nghiệp theo cơ cấu kỹ thuật
+ Diện tích đất canh tác hàng năm
+ Diện tích đất sử dụng cho trồng cây lương thực
+ Diện tích đất sử dụng cho trồng rau, đậu
+ Diện tích đất sử dụng cho trồng cây công nghiệp
+ Diện tích đất sử dụng cho trồng cây ăn quả
+ Diện tích đất sử dụng cho nuôi trồng thủy sản
+ Mức tăng giảm tuyệt đối và tương đối của tổng số đất nông nghiệp và
cơ cấu của từng loại
II.2. 2. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê về cơ cấu nông nghiệp.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê về cơ cấu nông nghiệp hiện hành đang sử dụng đã nêu ở trên chưa thật hoàn chỉnh. Em xin đề xuất một số chỉ tiêu thống kê có thể sử dụng để phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp một cách đầy đủ, chính xác hơn.
Ngoài những chỉ tiêu thống kê theo tiêu thức ngành kinh tế nông nghiệp cấp II và chỉ tiêu theo tiêu thức ngành sản phẩm cần bổ sung một số chỉ tiêu về vốn và tài sản bao gồm
a. Hệ thống chỉ tiêu về qui mô, cơ cấu vốn và tài sản phân theo ngành kinh tế nông nghiệp cấp II.
- Theo số tuyệt đối
+ Quy mô vốn đầu tư
+ Đầu tư cho chăn nuôi
+ Đầu tư cho trồng trọt
+ Đầu tư cho dịch vụ nông nghiệp
Theo số tương đối
+ Cơ cấu từng loại vốn đầu tư trong tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp
b. Hệ thống chỉ tiêu về qui mô, cơ cấu vốn và tài sản phân theo ngành sản phẩm.
+ Đầu tư vốn, tài sản cho các loại sản phẩm nông nghiệp (các sản phẩm về giống, cây, con…)
II.2.2.1Theo tiêu thức vùng lãnh thổ:
Theo chỉ tiêu về giá trị sản xuất nông nghiệp phân theo địa phương
- Theo số tuyệt đối:
+ GO nông nghiệp = nông nghiệp của các địa phương
Các chỉ tiêu về nguồn lao động trong nông nghiệp phân theo địa phương
Theo số tương đối
+ Đóng góp vào GO nông nghiệp của các địa phương.
Theo chỉ tiêu lao động
- Theo số tuyệt đối
+ Quy mô nguồn lao động
+ Cơ cấu nguồn lao động
Các chỉ tiêu về diện tích các loại cây trồng phân theo địa phương
+ Tổng diện tích đất sử dụng cho nông nghiệp ở các địa phương
+ Cơ cấu đất nông nghiệp ở các địa phương
d. Các chỉ tiêu về quy mô, cơ cấu vốn và tài sản phân theo địa phương
II.2.2.2 Phân theo tiêu thức thành phần kinh tế
Gồm các chỉ tiêu :
Hệ thống chỉ tiêu về giá trị sản xuất của các thành phần kinh tế
Lao động nông nghiệp của các thành phần kinh tế
II.2.2.3Phân theo tiêu thức hình thức tổ chức sản xuất
Gồm các chỉ tiêu:
Hệ thống chỉ tiêu về sản xuất của các hình thức tổ chức sản xuất (hợp tác xã, doanh nghiệp quốc doanh, trang trại, nông trường, hộ gia đình,…)
Lao động nông nghiệp theo các hình thức tổ chức sản xuất.
Chương II
Phân tích thực trạng cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1990-2000.
i. các phương pháp phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Để phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần tính toán một số chỉ tiêu như gía trị sản xuất nông nghiệp, cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp, chỉ tiêu về đầu tư phát triển các ngành nông nghiệp, chỉ tiêu về lao động và cơ cấu lao động trong nông nghiệp vv, việc tính toán dựa trên số liệu thống kê thu thập được qua các năm do đó nhất thiết phải sử dụng các phương pháp thống kê.
I. 1. Nguyên tắc chọn các phương pháp phân tích.
- Đảm bảo tính thống nhất: Cơ cấu nông nghiệp là một bộ phận của cơ cấu kinh tế, có quan hệ tác động với các bộ phận khác trong đó phải kể đến cơ cấu đầu tư và cơ cấu lao động…vì vậy khi xem xét cơ cấu nông nghiệp phải đặt trong điều kiện các mối quan hệ đó. Các phương pháp lựa chọn phân tích phải làm rõ sự ảnh hưởng tương đối của các nhân tố đến sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.
- Đảm bảo tính khả thi: Các phương pháp sử dụng phải dễ hiểu, dễ tính toán và cho kết quả với sai số thấp nhất, phù hợp với khả năng, điều kiện về tài lực, nhân lực cũng như có thể sử dụng nguồn số liệu sẵn có để tính toán.
- Đảm bảo tính hệ thống: các phương pháp sử dụng phải có mối liên hệ với nhau, có thể sử dụng kết hợp giữa phương pháp này với phương pháp khác, phù hợp với nội dung, phạm vi, phương pháp tính qui định trong các tổ chức quốc tế và các nước khác trên thế giới.
- Đảm bảo tính hiệu quả: Cơ cấu ngành nông nghiệp luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế do đó phương pháp lựa chọn để phân tích phải làm sao phản ánh được sự thay đổi về mặt lượng cũng như mật chất, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự chuyển đổi đó. Phục vụ kịp thời cho điều hành và quản lý, đồng thời để hoạch định chính sách phát triển kinh tế – xã hội trong tương lai, phù hợp với khả năng của đất nước, thoả mãn nhu cầu liên kết trong quan hệ “ mở” với bên ngoài.
I.2. Lựa chọn các phương pháp phân tích
Phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần sử dụng các phương pháp thống kê làm công cụ để giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tìm quy luật của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Mức độ biến động
- ảnh hưởng của các nhân tố làm ảnh hưởng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
- ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung.
- Vai trò của các nhân tố đến sự chuyển dịch nền kinh tế nông nghiệp.
- Dự báo xu hướng chuyển dịch trong thời gian tới.
I.2.1. Phương pháp dãy số thời gian :
Cơ cấu ngành nông nghiệp luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Tốc độ tăng, giảm, sự thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu ngành nông nghiệp dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. Vấn đề quan tâm là sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra theo chiều hướng nào? và tốc độ chuyển dịch nhanh chậm ra sao?, có những quy luật nào? để nghiên cứu sự biến động này ta dựa vào dãy số thời gian. Do đó phương pháp dãy số thời gian là một trong những phương pháp qua._.n trọng được sử dụng trong phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam. Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng ,vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển, đồng thời dễ dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai. Tức là đã giải quyết một số nhiệm vụ đã nêu ở trên. Mặt khác phương pháp cũng đảm bảo được các nguyên tắc như đảm bảo tính khả, đảm bảo tính hiệu quả và đảm bảo tính thống nhất.
I.2.2. Phương pháp chỉ số :
Khi phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp cần so sánh các mức độ qua thời gian, không gian, tình hình thực hiện kế hoạch, phân tích ảnh hưởng biến động từng nhân tố đến sự biến động của toàn bộ hiện tượng. Dùng phương pháp chỉ số tính được những chỉ tiêu xác thực để phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam và có thể thấy được sự chuyển đổi rõ nét giữa năm này qua năm khác nhau. Ví dụ khi vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích chỉ tiêu GO ta sẽ thấy được GO biến động tuyệt đối, tương đối như thế nào?; theo loại giá nào (hiện hành, giá so sánh hay giá cố định)? GO biến động do ảnh hưởng của nhân tố nào và vai trò của từng nhân tố?..
I.2.3. Phương pháp hồi quy tương quan:
Mỗi giai đoạn phát triển nông nghiệp đều chịu tác động của rất nhiều yếu tố, trong đó có nhân tố chủ quan do nhà nước tạo ra và những yếu tố khách quan của môi trường đã được hình thành và thay đổi theo thời gian. Việc nắm bắt các nhân tố sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu đưa ra các giải pháp nhằm tận dụng tối đa, hợp lý trong khai thác sử dụng và bảo vệ các nguồn lực phục vụ phát triển. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, xác định xu thế thay đổi, để định hướng cácchính sách một cách thiết chính là việc áp dụng phương pháp hồi quy tương quan một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, do số liệu thu thập chưa thực sự đầy đủ và việc vận dụng phương pháp gặp một số khó khăn nên trong luận văn này chỉ sử dụng kết hợp phương pháp hồi quy tương quan còn phương pháp chủ yếu vẫn là dãy số thời gian và phương pháp chỉ số. Ngoài ra có thể sử dụng kết hợp với phương pháp dự đoán ngắn hạn, số tương đối, số tuyệt đối…vv.
I.3. Đặc điểm vận dụng các phương pháp phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1990-2000.
I.3.1. Phương pháp dãy số thời gian :
Như đã nêu ở phần I.2.1 khi vận dụng phương pháp dãy số thời gian để phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1990-2002 thông qua các dãy số tuyệt đối, dãy số tương đối sẽ giúp ta tìm ra quy luật của sự chuyển dịch; sẽ tính được mức độ biến động tuyệt đối, mức độ biến động tương đối và dự báo xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong thời gian tới…
Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Mỗi dãy số thời gian được cấu tạo bởi 2 thành phần là thời gian và chỉ tiêu về hiện tượng được nghiên cứu có thể là số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân. Trị số của chỉ tiêu gọi là mức độ của dãy số.
Căn cứ vào đặc điểm tồn tại về quy mô của hiện tượng qua thời gian có thể phân biệt dãy số thời kỳ và dãy số thời điểm .
Dãy số thời kỳ là dãy số trong đó mỗi mức độ của nó phản ánh quy mô hoặc khối lượng của hiện tượng trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong dãy số thời kỳ các mức độ là những số tuyệt đối thời kỳ do đó độ dài của khoàng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài hơn.
Dãy số thời điểm :Biều hiện quy mô (khối lượng) của hiện tượng tại những thời điểm nhất định.
Mức độ của hiện tượng ở thời điểm sau thường bao gồm toàn bộ hoặc một bộ phận mức độ của hiện tượng ở thời điểm trước đó vì vậy việc cộng các trị số của chỉ tiêu không phản ánh quy mô của hiện tượng.
Yêu cầu khi xây dựng dãy số thời gian.
Để nêu lên sự phát triển khách quan của hiện tượng qua thời gian thì yêu cầu cơ bản trong việc xây dựng dãy số thời gian là phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số, phải đảm bảo các yêu cầu:
Nội dung, phương pháp tính qua thời gian phải thống nhất
Phạm vi của hiện tượng nghiên cứu phải thống nhất qua thời gian( phạm vi hành chính, số đơn vị thuộc một hệ thống quản lý. . . )
Trong thực tế do những điều kiện khác, các yêu cầu trên thường bị vi phạm khi đó phải có những phương pháp chỉnh lý phù hợp để đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số thời gian.
Các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian.
Để phản ánh đặc điểm biến động qua thời gian của hiện tượng được nghiên cứu, người ta thường tính các chỉ tiêu sau đây:
- Mức độ trung bình theo thời gian (): chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian.
- Lượng tăng (giảm )tuyệt đối :
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức độ tuyệt đối giữa hai thưòi gian nghiên cứu.
- Tốc độ phát triển :cho biết qua thời gian hiện tượng ta nghiên cứu phát triển với tốc độ như thế nào, có xu hướng tăng, giảm ra sao.
- Tốc độ tăng ( giảm ) cho ta biết qua thời gian hiện tượng ta nghiên cứu tăng ( hoặc giảm) bao nhiêu lần ( hoặc bao nhiêu %)
- Gía trị tuyệt đối của 1% tăng ( giảm) : chỉ tiêu cho biết cứ 1% tăng ( hoặc giảm) của tốc độ tăng ( giảm ) từng kỳ thì ứng với một lượng tuyệt đối là bao nhiêu.
Mỗi chỉ tiêu có đặc trưng riêng nhưng có quan hệ mật thiết với nhau về phương diện bản chất hiện tượng và phương diện tính toán
I.3.2. Phương pháp chỉ
Khái niệm về chỉ số :
Chỉ số hiểu theo nghĩa chung nhất là một số tương đối( được biểu hiện bằng lần, %) tính được bằng cách so sánh hai mức độ của hiện tượng ta được chỉ số.
Tác dụng:
- Dùng chỉ số để nêu lên sự biến động của hiện tượng qua thời gian gọi là chỉ số phát triển.
- Dùng chỉ số để nêu lên nhiệm vụ kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch gọi là chỉ số kế hoạch.
- Dùng chỉ số để nêu lên sự biến động của hiện tượng qua không gian được gọi là chỉ số không gian
- Dùng chỉ số để phân tích ảnh hưởng biến động từng nhân tố đơn vị sự biến động của toàn bộ hiện tượng.
Phân loại :
+ Theo nội dung :
- Chỉ số phát triển
- Chỉ số kế hoạch
- Chỉ số không gian.
+ Theo phạm vi tính toán :
- Chỉ số đơn: phản ánh sự biến động của từng đơn vị, từng hiện tượng cá biệt.
- Chỉ số tổng hợp : phản ánh sự biến động chung của nhiều đơn vị hoặc hiện tượng cá biệt.
+ Theo tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh:
- Chỉ số chỉ tiêu chất lượng: phản ánh sự biến động của chỉ tiêu chất lượng naò đó.
- Chỉ số chỉ tiêu khối lượng: phản ánh sự biến động của một chỉ tiêu khối lượng nào đó.
Khi phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ta dùng hệ thống chỉ số.
+ Mô hình tổng :
GO nông nghiệp = GO trồng trọt + GO chăn nuôi + GO dịch vụ nông nghiệp
GO trồng trọt = ồ GO các loại cây
GO chăn nuôi = ồGO các loại con
D I GO trồng trọt = ồDIGO các loại cây
DI GO chăn nuôi =ồDIGO các loại con
+ Mô hình tích
Q= W.S
I(Q) = I(W).I(dS).I(ồS)
Q = W.T
I(Q) = I(W).I(dT).I(T)
Ngoài hai phương pháp chính đã nêu ở trên còn sử dụng kết hợp với một số loại số tương đối :
- Số tương đối động thái : biều hiện sự biến động về mức độ của hiện tượng nghiên cứu qua một thời gian nào đó.
Cùng phạm vi , đơn vị, phương pháp thì mới so sánh.
- Số tương đối kế hoạch : dùng để lập và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch.
- Số tương đối kết cấu : xác định tỷ trọng của mỗi bộ phận cấu thành trong tổng thể
- Số tương đối cường độ biểu hiện trình độ phổ biến của hiện tượng trong điều kiện lịch sử nhất định hay kết quả so sánh của 2 hiện tượng khác loại nhưng có mối liên hệ với nhau.
- Số tương đối không gian : là kế quả so sánh giữa hai mức độ hiện tượng cùng loại nhưng khác nhau về không gian hoặc so sánh giữa các bộ phận trong tổng thể .
II. Vận dụng phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1990-2000.
Căn cứ vào tác dụng và nhiệm vụ đã nêu ở phần II- chương I khi phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp cần lựa chọn chỉ tiêu GO; chỉ tiêu về lao động; chỉ tiêu về diện tích đất nông nghiệp; chỉ tiêu về đầu tư…các chỉ tiêu này phản ánh khá đầy đủ chính xác cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Tuy nhiên nguồn số liệu về một số chỉ tiêu khó thu thập (ví dụ chỉ tiêu về diện tích đất sử dụng, trong trồng trọt có nhiều loại cây phục vụ cho chăn nuôi do đó diện tích có thể được tính cho cả diện tích sử dụng trồng trọt cả diện tích sử dụng chăn nuôi, …). Do đó khi lựa chọn chỉ tiêu để phân tích thường phải kết hợp các chỉ tiêu theo tiêu thức này với các chỉ tiêu theo tiêu thức khác không nhất thiết phải phân tích chỉ tiêu cụ thể theo từng tiêu thức cụ thể.
Về phương pháp phân tích như đã nêu ở phần I- Chương II phương pháp dãy số thời gian và phương pháp chỉ số là 2 phương pháp chủ yếu.
II. 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành nông nghiệp.
Biểu : giá trị sản xuất nông nghiệp (theo giá hiện hành)
Đơn vị : tỷ đồng
+ GO nông nghiệp= GO trồng trọt + GO chăn nuôi + giá trị sản xuất dịch vụ nông nghiệp.
Bảng số liệu cho thấy xét về số tuyệt đối giá trị sản xuất nông nghiệp có xu hướng ngày càng tăng cả về quy mô tổng thể và quy mô từng bộ phận, với tốc độ năm sau cao hơn năm trước năm 1995 tăng 64841,1tỷ đồng (tức là tăng313,75%) so với năm 1990, năm 2000 tăng 43632,9 tỷ đồng (tức là tăng 51% so với năm 1995. Tuy diễn ra chậm chạp nhưng trong cơ cấu nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm sản xuất trồng trọt tăng chăn nuôi, nhưng giá trị sản xuất của các ngành trong nông nghiệp vẫn không ngừng tăng lên, ngành dịch vụ nông nghiệp đóng góp vào giá trị sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều năm 2000 tăng 2564,6 tỷ đồng (tức tăng 448,4%) so với năm 1990. Hiện nay ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, là yếu tố xúc tiến phân phối đưa sản phẩm nông nghiệp đến với người tiêu dùng trong và ngoài nước góp phần nâng cao tính hàng hoá của nông sản. Ngoài ra, khu vực này còn cung cấp nhu cầu thông tin cho các doanh nghiệp trong việc hoạch định chiến lược trong sản xuất và kinh doanh.
Khu vực dịch vụ phát triển kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tăng tỷ suất hàng hoá trong sản phẩm nông nghiệp. Chất lượng của nông sản được quan tâm đảm bảo tính cạnh tranh khi vươn ra thị trường thế giới. Mặc dù có sự hạn chế so với các khu vực khác về áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhưng tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ luôn có xu hướng tăng lên.
Bảng biểu 1: Cơ cấu giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp phân theongành.
năm
Tổng
Trồng trọt
Chăn nuôi
dịch vụ
1990
100
79. 3
17. 9
2. 8
1991
100
79. 6
17. 9
2. 5
1992
100
76. 5
20. 7
2. 8
1993
100
75. 7
21. 4
2. 9
1994
100
77
20. 2
2. 8
1995
100
78. 1
18. 9
3
1996
100
77. 9
19. 3
2. 7
1997
100
77. 9
19. 4
2. 7
1998
100
79. 7
17. 8
2. 3
1999
100
79. 2
18. 5
2. 3
2000
100
78. 2
19. 3
2. 5
2001
100
77.8
19.3
2.5
(Nguồn số liệu từ niên giám thống kê 2001)
Xét về cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, ngành trồng trọt vẫn giữ vị trí chủ chốt, luôn chiếm tỷ trọng cao nhất ngành dịch vụ nông nghiệp tuy có tăng về lượng nhưng tỷ trọng đóng góp vào GO nông nghiệp vẵn thấp nhất và. chưa có biểu hiện tăng lên trong cả thời kỳ 1990-2002
II.2. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo ngành nông nghiệp
cấp II.
II.2.1. Cơ cấu và chuyển đổi cơ cấu ngành trồng trọt
+ GO trồng trọt = Giá trị sản phẩm chính của các loại cây trồng + giá trị sản phẩm phụ của các loại cây trồng có thu hoạch + chênh lệch giá trị sản phẩm dở dang của trồng trọt.
Bảng biểu 2 : Giá trị sản xuất ngành trồng trọt
đơn vị : tỷ đồng
năm
Tổng
Lương thực
rau, đậu
cây công nghiệp
cây ăn quả
1990
49604
33289. 6
3477
6692. 3
5028. 5
1991
51247. 5
33950. 3
3471. 4
7858. 4
4827. 8
1992
55132. 6
37364. 9
3556. 3
7918. 8
5025. 5
1993
58906. 2
39466. 3
3792. 6
8978. 3
5325. 4
1994
61660
40653. 3
3945. 5
10299. 3
5414. 6
1995
66183. 4
42110. 4
4983. 6
12149. 4
5577. 6
1996
70778. 8
44654. 1
5088. 2
13964. 7
5688. 3
1997
75745. 5
46952. 9
5440. 8
15803. 9
6132. 4
1998
80291. 7
49059. 6
5681. 8
18035. 1
6091. 2
1999
86380. 6
52719. 7
6179. 6
19906. 1
6131. 2
2000
90958. 2
55163. 1
6332. 4
21782
6105. 9
( Nguồn từ niên giám thống kê 2001)
Qua các năm 1991-2002 cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt có sự tăng lên về quy mô và tốc độ, phát triển lương thực vẵn giữ vai trò chủ đạo trong trồng trọt. Sản lượng lương thực quy ra thóc từ 22 triệu tấn năm 1991 tăng lên 35,6 triệu tấn năm 2000, bình quân mỗi năm tăng lên trên 1,36 triệu tấn với tốc độ tăng bình quân năm 4,95%. Nét nổi bật trong sản xuất lương thực 10 năm qua là sản lượng ổn định năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng sản lượng lương thực cao hơn tốc độ tăng dân số nên lương thực bình quân đầu người cũng tăng dần qua các năm: từ 327,5 kg năm 1990 tăng lên 458,2 kg năm 2000. Nếu tính theo quy định mới tức là chỉ tính sản lượng lương thực có hạt không kể khoai lang, sắn thì năm 2000 sản lượng lương thực có hạt đạt gần 34,5 triệu tấn và lương thực bình quân đầu người đạt 443,9 kg. Năm 2002 sản lượng lương thực có hạt là 35,7 triệu tấn.Trong sản xuất lương thực lúa là cây chủ lực. Trong hơn 10 năm, sản lượng lúa ở tất cả các vùng đều tăng nhanh và ổn định cả về diện tích và năng suất.
Về năng suất: cùng với mở rộng diện tích, trong 10 năm sản xuất lúa nước ta còn đạt được tiến bộ về thâm canh tăng năng suất và nâng cao chất lượng gạo. Trình độ thâm canh lúa của nông dân không ngừng tăng lên cùng với tác động tích cực của khoa học kỹ thuật, đưa năng suất lúa từ 31,1 tạ/ ha năm 1991 lên 42,5 tạ /ha năm 2000. Bình quân hàng năm tăng trên 1tạ /ha. Năng suất lúa của tất cả các vùng đều tăng nhưng đáng chú ý là do áp dụng giống lúa lai và hiệu quả của chương trình kiên cố hoá kênh mương nên năng suất lúa nước của các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên những năm gần đây đã không ngừng tăng lên.
Vùng chuyên canh lúa phục vụ xuất khẩu ở các tỉnh đồng băng sông Cửu Long đã được hình thành với các tỉnh : An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long,Long An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Tiền Giang, mỗi tỉnh có từ 10-20 vạn ha lúa chuyên canh với nhiều chủng loại khác nhau, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Xét về số tuyệt đối giá trị sản xuất, ngành trồng trọt có xu hướng ngày càng tăng, gía trị sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả đã tăng lên rõ rệt: năm 1995 tăng 5457,1 tỷ đồng, năm 2000 tăng 9132,9 tỷ đồng so với năm 1990.
Cùng với cây lúa trong hơn 10 năm sản xuất màu cũng phát triển khá ổn định góp phần bổ sung nguồn lương thực cho người và thức ăn cho gia súc. Sản lượng màu qui thóc bình quân mỗi năm đạt 3 triệu tấn trong đó tăng nhanh nhất là ngô. Năm 1991 diện tích ngô cả nước mới đạt 66,3 vạn tấn, năng suất 25 tạ / ha và sản lượng 1,6 triệu tấn. Năm 2000 diện tích ngô đạt 714 ngàn ha, năng suất đạt 27 tạ /ha, sản lượng 1,9 triệu tấn và năm 2002 năng suất ngô đã tăng hơn 28,6 tạ/ha với sản lượng gần 2,1 triệu tấn. Việc mở rộng diện tích áp dụng tiến bộ công nghệ sinh học đặc biệt là đưa các giống ngô lai năng suất cao chất lượng tốt vào sản xuất đại trà đã tạo ra sự đột biến về năng suất và sản lượng ngô. Một số vùng ngô tập trung qui mô lớn được hình thành như vùng Đông Nam Bộ với sản lượng 30 vạn tấn/năm, vùng Đông Bắc và Tây Bắc với sản lượng 50 vạn tấn/năm. Một số tỉnh đã có vùng ngô tập trung như Đông Nai đạt 22,9 vạn tấn năm năm 2000 gấp 3 lần năm 1991 (Niên giám thống kê 2000). Sản xuất ngô tăng liên tục trong nhiều năm không chỉ góp phần bổ sung nguồn lưong thực cho đồng bào miền núi cao, nơi diện tích lúa nước bình quân đầu người quá thấp mà còn cung cấp nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn cho gia súc, góp phần tăng nhanh sản lượng chăn nuôi, bình ổn giá thực phẩm. Ngô cũng đã và đang trở thành một mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng với sản lượng xuất khẩu trên 100 ngàn tấn/ năm và có khả năng tăng nhanh trong những năm tới.
Sắn và khoai lang tuy không tăng và không còn giữ vai trò là cây lương thực thiết yếu nhưng cũng đang chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường. Nhiều địa phương ở vùng Đông Nam Bộ đã đẩy mạnh trồng sắn làm nguyên liệu chế biến mì chính và sắn thái lát kho xuất khẩu. Khoai lang cũng chuyển sang phục vụ chế biến thực phẩm làm quà bánh hoặc chế biến thức ăn gia súc.
Cây công nghiệp hàng năm và rau đậu: thực hiện phương châm “đất nào trồng cây ấy” nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, những năm vừa qua cơ cấu đất nông nghiệp đã chuyển một phần diện tích trồng lúa, màu năng suất và hiệu qủa thấp sang trồng cây công nghiệp chủ yếu là những loại cây phục vụ xuất khẩu và làm nguyên liệu cho công nghiệp như lạc, mía, đỗ tương, bông. Vì thế trong 10 năm 1991-2000 sản lượng sản phẩm từ cây công nghiệp không ngừng tăng lên lạc tăng 49,6%, đỗ tương tăng 77,3%, bông tăng 2,3 lần.
Mía là cây công nghiệp ngắn ngày có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các laọi cây công nghiệp. Diện tích mía năm 1991 chỉ có 144,6 nghìn ha với sản lượng 6,2 triệu tấn, nhưng đến năm 1999 diện tích mía đã tăng lên 344,2 nghìn ha (2,3%) với sản lượng 17,8 triệu tấn (2,78%), tăng 11,6 triệu tấn so với năm 1991 bình quân mỗi năm tăng trên 1 triệu tấn. Nguyên nhân sản lượng mía tăng nhanh là do nhu cầu mía làm nguyên liệu cho các nhà máy đường mới được xây dựng ngày càng nhiều.
Gieo trồng rau đậu cũng có tiến bộ theo hướng nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của nhân dân và xuất khẩu. Hàng loạt các vùng chuyên canh rau sạch, sản xuất theo công nghệ tiên tiến đã được quy hoạch ở hầu hết các khu vực ngoại thành ngoại, thị góp phần làm phong phú thêm thị trường rau quả.
Cây công nghiệp lâu năm: tổng diện tích gieo trồng các loại cây lâu năm từ 1991 đến năm 2002 đã tăng lên không ngừng với mức tăng bình quân 8% năm theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Nếu như năm 1990 diện tích mới chỉ có 657,3 nghìn ha thì đến năm 2000 tổng diện tích cây lâu năm nhóm cây công nghiệp chiếm 68,5% tổng diện tích gieo trồng đạt tới 1397,4 nghìn ha tức là tăng 212,6% năm 1990.
Cà phê là một trong những cây công nghiệp lâu năm có giá trị xuấtkhẩu cao và chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm. Tỷ trọng diện tích cây cà phê chiếm trong tổng diện tích nhóm cây công nghiệp lâu năm ngày càng tăng từ 18,15% năm 1990 đến năm 2000 là 36,98%. Năm 2000 diện tích gieo trồng cà phê đạt 516,7 nghìn ha, bằng 433,1 % năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 15,8 %. Sản lượng năm 2000 ước tính đạt 698,2 nghìn tấn, bằng 758,9% năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 22,5 %. Sản lượng tăng lên do diện tích cho sản phẩm tăng từ 61,8 nghìn ha năm 1990 lên 408,3 nghìn ha năm 2000, bình quân mỗi năm tăng lên 20,8%.
Cây cao su phát triển tương đối ổn định chiếm khoảng 30% tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm. Năm 2000 sản lượng mủ đạt 291,9 nghìn tấn ,bằng 504,1% năm 1990. Sản lượng cao su tăng lên là do ngoài năng suất còn do diện tích tăng, từ 81,1 nghìn ha năm 1990 lên 228,3 nghìn ha năm 2000.
Các cây công nghiệp lâu năm khác như cây tiêu, cây điều và cây chè cũng ngày càng được đầu tư mở rộng diện tích, thâm canh tăng năng suất. Vì vậy sản lươọng tiêu tăng bình quân hàng năm 15,7%: điều tăng 12,5%/năm, chè tăng 9%/năm.
Nhóm cây ăn quả cũng tăng mạnh từ 281,2 nghìn ha năm 1990 tăng lên 540,8 nghìn ha năm 2000 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 6,8%. Trừ một vài năm diện tích cây ăn quả giảm cò lại năm sau đều cao hơn năm trước.
Nhóm cây nhãn, vải, chôm chôm có tốc độ tăng diện tích và sản lượng khá sao. Diện tích gieo trồng của nhóm cây này giai đoạn 1995-2000 tăng bình quân hàng năm là 21,4%( từ 57 nghìn ha năm 1995 tăng lên 150,4 nghìn ha năm 2000. Sản lượng tăng bình quân hàng năm 26,4% và đạt 648,7 nghìn tấn vào năm 2000 bằng 322,7% năm 1990.
Diện tích gieo trồng cam, chanh, quýt từ 19,1 nghìn ha năm 1990 tămg lên 69,3 nghìn ha năm 2000 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 13,8 %. Diện tích cho sản phẩm đạt 48,4 nghìn ha năm 200 bằng 333,8% năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 12,8%. Sản lượng năm 2000 đạt 449,9 nghìn tấn bằng 377,4% năm 1990 và tốc độ tăng bình quân hàng năm là 14,2%.
Nguyên nhân chủ yếu làm cho diện tích cây lâu năm tăng nhanh như trên là do việc đổi mới các chính sách trong nông nghiệp của đảng và nhà nước về thuế nông nghiệp về quyền sử dụng đất về tiêu thụ và xuất khẩu nông sản hàng hoá ,. . . Các yếu tố này đã khuyến khích nông dân đầu tư mở rộng sản xuất, khai hoang, phục hoá cải tạo vườn tạp,tiếp cận và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới chuyển đổi cây trồng giá trị kinh tế thấp sang những cây trồng có giá trị kinh tế cao ngoài ra diện tích cây công nghiệp lâu năm tăng lên còn do tác động của một số chương trình quốc gia như chương trình 5 triệu ha rừng, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Bên cạnh đó vẫn có một số loại cây lâu năm giảm cả về diện tích và sản lượng như dứa, dâu tằm, nho. Nguyên nhân chính là do các loại cây này có giá trị kinh tế thấp. Riêng cây nho còn do nông dân tự nhân giống. Do vậy giống nho ngày càng thoái hoá làm cho năng suất và chất lượng quả thấp dần.
Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong lĩnh vực trồng trọt đã biến nền nông nghiệp độc canh cây lúa thành nền nông nghiệp đa canh với sự xuất hiện của cây trồng chủ lực mới như cà phê, cao su, tập đoàn cây ăn quả nhãn, chuối, xoài, cam, chanh, và những cây công khác.
Biểu 3: Diện tích các loại cây trồng phân theo loại cây:
Đơn vị : nghìn ha.
Bảng số liệu cho thấy tổng diện tích các loại cây trồng về số tuyệt đối tăng lên hàng năm, năm 1995 tăng 1457 nghìn ha; năm 2000 tăng 3604 nghìn ha so với năm 1990, diện tích cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả có sự tăng lên rõ rệt năm 2000 tăng tổng diện tích hai loại cây là 831,3 nghìn ha so với năm 1995 do chính sách phát triển nông nghiệp có sự đầu tư mạnh cho các loại cây có giá trị kinh tế cao. Diện tích cây lương có hạt tuy có tăng lên nhưng với tốc độ chậm do sản lượng ngày càng tăng với năng suất ngày càng cao nên lương thực sản xuất ra đủ đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Bảng cơ cấu diện tích các loại cây trồng
đơn vị %
năm
tổng
cây lương
thực có hạt
cây cn
hàng năm
cây cn
lâu năm
cây
ăn quả
1990
100
71. 62
6. 00
7. 27
3. 11
1991
100
71. 74
6. 15
7. 04
2. 89
1992
100
71. 29
5. 99
7. 15
2. 68
1993
100
70. 36
5. 97
7. 56
2. 95
1994
100
68. 71
6. 32
7. 80
3. 08
1995
100
69. 76
6. 83
8. 60
3. 30
1996
100
69. 71
6. 35
9. 29
3. 44
1997
100
68. 60
6. 43
10. 19
3. 77
1998
100
68. 25
6. 88
10. 24
3. 81
1999
100
67. 74
7. 22
10. 21
4. 16
2000
100
66. 41
6. 15
11. 48
4. 47
( Nguồn từ niên giám thống kê 2001)
Xét về số tương đối, cơ cấu diện tích đất nông nghiệp có sự thay đổi đáng kể qua các năm 1990-2000. Tỷ trọng diện tích cây lương thực có hạt giảm năm 1990 chiếm 71,62% nhưng đến năm 1994 còn 68,71% và đến năm 2000 giảm xuống còn 66,41%. Trong khi đó tỷ trọng diện tích cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả tăng lên rõ rệt năm 1990 chiếm 7,27% đến năm 1995 tăng lên 8,6% và năm 2000 là 11,48% (diện tích cây công nghiệp dài ngày); năm 1990 chiếm 3,11% và năm 2000 tăng 4,47%(diện tích cây ăn quả)
Nếu năm 1991 cả nước mới gieo cấy được 6,3 triệu ha lúa cả năm thì năm 2000 đã tăng lên đạt trên 7,65 triệu ha. Bình quân mỗi năm tăng 135 ngàn ha, gần bằng diện tích lúa cao nhất trong các tỉnh phía bắc. Cơ cấu mùa vụ cũng có sự chuyển biến theo hướng tích cực: lúa hè thu là vụ có diện tích gieo cấy tăng nhanh nhất mỗi năm tăng trên 108 triệu ha. Diện tích lúa đông xuân cũng tăng từ 2,16 triệu ha lên 3,01 triệu ha. Diện tích gieo cấy lúa mùa một vụ , năgn suất thấp của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 920 ngàn ha năm 1991 xuống còn 535 nghìn ha năm 2000.
Kết quả mở rộng diện tích lúa rõ nét nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2000 diện tích lúa vùng này đạt 3,94 triệu ha tăng 1,35 triệu ha so với năm 1990, chủ yếu do khai hoang tăng vụ ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hởu và chưong trình ngọt hoá bán đảo cà Mau.
Thành tựu 10 năm khai hoang và cải tạo mở rộng diện tích lúa ở vùng đồng băng sông Cửu Long là kết quả của quá trình đầu tư liên tục có trọng điểm với số vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng tạo nên những công trình thuỷ lợi quan trọng như: Quản Lộ–Phụng Hiệp ngọt hoá bán đảo, các tỉnh trong vùng này không chỉ tăng về diện tích canh tác mà còn toạ ra khả năng tăng vụ. Hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu từ chỗ mỗi năm chỉ gieo cấy một vụ lúa mùa với giống địa phương dài ngày, năng suất thấp nay đã trở thành tỉnh gieo cấy được cả 3 vụ đông xuân, hè thu và vụ mùa với giống cao sản. Sản lượng lúa của 2 tỉnh này năm 1991 chỉ đạt hơn 1 triệu tấn thì đến năm 2000 đã đạt trên 1,7 triệu tấn.
I.2.2. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi.
Bảng biểu 4: Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi :
Đơn vị : tỷ đồng
Nhìn chung giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng đều qua các năm, trong đó giá trị sản xuất của gia súc tăng mạnh hơn, năm 1995 tăng 2280,3 tỷ đồng, năm 2000 tăng5351,5 tỷ đồng so với năm 1990 do đời sống ngày càng nâng cao nên nhu cầu ăn uống tăng nhanh, sản phẩm cây con tăng lên. Gia cầm và sản phẩm không qua giết thịt cũng tăng lên với tốc độ cao và ổn định. Tuy nhiên tỷ trọng các loại vật nuôi thay đổi không đáng kể, gia súc vẫn chiếm tỷ trọng cao trong chăn nuôi, tỷ trọng gia cầm khá ổn định qua các năm. Tốc độ tuy chậm chạp nhưng cũng có xu hướng giảm tỷ trọng chăn nuôi gia súc, tăng tỷ trọng sản phẩm không qua giết thịt.
Bảng cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi
Đơn vị:%
năm
tổng
gia súc
gia cầm
sp không
qua giết thịt
1990
100
63. 87
19. 26
12. 92
1991
100
62. 96
23.2
13. 82
1992
100
63. 03
19. 14
14. 15
1993
100
63. 81
18. 53
14. 01
1994
100
65. 38
17. 73
13. 35
1995
100
64. 92
17. 50
14. 19
1996
100
64. 83
17. 47
14. 53
1997
100
64. 16
17. 40
15. 45
1998
100
64. 59
17. 50
15. 05
1999
100
64. 50
17. 84
14. 93
2000
100
64. 41
17. 81
15. 14
( Nguồn niên giám thống kê 2001)
Sự thay đổi cơ cấu trong chăn nuôi thể hiện rõ ở một số mặt sau:
Đàn trâu: tăng từ 2. 858,6 nghìn con năm 1991 lên 2. 977,3 nghìn con năm 1994. Tuy nhiên từ năm 1995 do nông dân các vùng đồng bằng sông hồng và đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nhiều máy cày loại nhỏ vào sản xuất nên trâu cày kéo giảm. Đến năm 2000 đàn trau còn 2. 897,2 ngìn con. Tuy nhiên trâu nuôi lấy thịt tăng nên sản lươọng thịt trâu hơi xuất chuồng năm 2000 đạt 48,1 nghìn tấn tăng 11,08% so với năm 1991.
Đàn bò : tăng từ 3. 135,6 nghìn con năm 1991 lên 4. 127,8 nghìn con năm 2000, bình quân mỗi năm tăng 1,03 %. Việc cơ giới hoá trong nông nghiệp cũng làm giảm bò cày kéo nhưng nuôi bò lấy thịt và bò sữa phát triển mạnh để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Năm 1993 dự án DANIDA về việc cải tạo đàn bò đưa giống mới có vóc dáng to hơn được triẻn khai đã làm cho đàn bò thịt tăng lên ỏ nhiều tỉnh thuộc miền núi phía Bắc và Tây nguyên. Đàn bò sữa phát triển mạnh ỏ thành phố HCM,Hà Tây,. . . riêng năm 2000 đàn bò sữa tăng 19% so với năm 1999.
Đàn lợn : 10 năm qua phát triển mạnh bình quân mỗi năm tăng 1,05%. Đàn lợn phát triển do những năm qua đã có nhiều chương trình và dự án của nhà nước hỗ trợ nhân dân chăn nuôi lợn, trong đó có chương trình xoá đói giảm nghèo. Sản lượng thịt lợn hơi năm 2000 đạt 1408,9 nghìn tấn năm 1991 tăng 96.7%.
Đàn gia cầm: Trong hơn 10 năm và nhất là những năm gần đây đàn gia cầm đã tăng nhanh. Năm 2000 đàn gia cầm đạt 196,1 triệu con so với 109 triệu con năm 1991, trong đó đàn gà đạt 147,05 triệu con tăng 66,76 triệu con so với năm 1991. Sản lượng thịt gia cầm năm 2000 đạt 286,5 nghìn tấn so với 157,8 nghìn tấn năm 1991. Sản lượng trứng gia cầm năm 2000 đạt 3708,6 triệu qủa tăng 1670,6 triệu quả so với năm 1991. Nuôi gà công nghiệp phát triển mạnh ở các tỉnh Đông Nam Bộ như Đồng Nai, Bình Dương và một số tỉnh miền núi phía Bắc.
Nhìn chung chăn nuôi tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ về con giống như lợn lai, phong trào chăn nuôi theo hướng nạc hoá đàn lợn, sinh hoá đàn bò, nuôi bò sữa, gia cầm siêu thịt, siêu trứng và các tiến bộ khoa học kỹ thuật khác đã góp phần chuyển đổi hình thức chăn nuôi theo hướng bán công nghiệp, hoặc chăn nuôi công nghiệp, lấy hộ gia đình là đơn vị chăn nuôi cơ bản.
II.3. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo lãnh thổ
Bảng giá trị sản xuất nông nghiệp phân theo địa phương (theo giá so sánh năm 1994) đơn vị tỷ đồng
So với các địa phương trong cả nước, Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai khu vực phát triển mạnh ngành nông nghiệp có giá trị sản xuất nông nghiệp lớn nhất. Tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp của hai khu vực chiếm 52,3% của cả nước. Tuy nhiên có thể thấy rằng giá trị sản xuất nông nghiệp cảu các địa phương không đều qua các năm. Nếu như ĐBSH có xu hướng tăng dần, các vùng như Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc trung bộ, DHMT,…cầm chừng hoặc tăng không đáng kể thì ĐBSCL có xu hướng giảm mạn.Cụ thể năm 1995:31247,6 tỷ đồng đến năm 1998 chỉ còn 16352,5 và năm 1999 là 11415 tỷ đồng. Tuy vậy với lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, bờ sông bồi đắp phù sa màu mỡ thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi do đó năng suất sản lượng tăng nhanh bảo đảm nhu cầu lương thực cho cả nước và xuất khẩu thu nguồn ngoại tệ lớn
Do vận hành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp mới chuyển sang cơ chế thị trường sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong thời gian qua mặc dù đúng hướng nhưng còn chậm và chưa đạt được mục tiêu mong muốn, cơ cấu đó không đủ sức giúp tạo ra nền tảng cho sự phát triển kinh tế khu vực và thế giới.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đã diễn ra trên địa bàn cả nước nhất là các vùng nông thôn ven đô thị, ven các vùng khu công nghiệp và các vùng có nhiều ngành nghề truyền thống vùng sản xuất nông sản tập trung. ở vùng Đông Nam Bộ do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh, các khu c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT132.DOC