Tài liệu Nghiên cứu thị trường Đài Loan phục vụ hoạt động Xuất khẩu hàng đồ gỗ thủ công mỹ nghệ của Công ty PROCOM: MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp muốn tồn tại va phát triển được phải có phương án kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao. Để đứng vững và phát triển, doanh nghiệp phải nắm bắt và đáp ứng được tâm lý và nhu cầu của người tiêu dùng với sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã phong phú, đa chủng loại. Muốn vậy các doanh nghiệp phải giám sát tất các quy trình từ khâu mua hàng đến khâu tiêu thụ hàng hóa để đảm bảo việc bảo toàn, tăng... Ebook Nghiên cứu thị trường Đài Loan phục vụ hoạt động Xuất khẩu hàng đồ gỗ thủ công mỹ nghệ của Công ty PROCOM
57 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thị trường Đài Loan phục vụ hoạt động Xuất khẩu hàng đồ gỗ thủ công mỹ nghệ của Công ty PROCOM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhanh tốc độ luân chuyển vốn, giữ uy tín với bạn hàng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước, cải thiện đời sống tinh thần và vật chất của cán bộ công nhân viên, doanh nghiệp đảm bảo có lợi nhuận để tích lũy mở rộng phát triển sản xuất và kinh doanh.
Để đạt được mục tiêu tăng lợi nhuận và mở rộng sản xuất và kinh doanh, doanh nghiệp cần tiến hành đồng bộ các biện pháp như phân phối nhanh, nâng cao chất lượng của sản phẩm và phải phân tích thị trường cho dù đó là thị trường truyền thống hay là thị trường mới, tính toán và xác định hiệu quả của từng hoạt động sản xuất kinh doanh làm cơ sở để vạch ra các chiến lược kinh doanh có hiệu quả sau thời gian tìm hiểu thực trạng sản xuất kinh doanh cũng như bộ máy quản lý của công ty, em nhận thấy thị trường đài loan là một trong những thị trường trọng điểm, và đài loan cũng là bạn hàng lâu dài của công ty vì vậy em quyết định lựa chọn đề tài chuyên ngành là :
“Nghiên cứu thị trường Đài Loan phục vụ hoạt động xuất khẩu hàng đồ gỗ thủ công mỹ nghệ của công ty PROCOM “
2 Mục tiêu nghiên cứu đề tài :
- Vận dụng lý thuyết về phân tích thị trường quốc tế nhằm phục vụ tốt cho công việc xuất khẩu của công ty, từ đó tìm ra những ưu điểm và những tồn tại cần phải khắc phục nhằm giúp công đạt được những mục tiêu mà công ty đã đề ra.
- Nghiên cứu thị trường Đài loan
- Đề xuất các giải pháp xuất khẩu hàng đồ gỗ thủ công mỹ nghệ của công ty vào thị trường Đài Loan
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề đặc điểm thị trường đồ gỗ thủ công mỹ nghệ Đài Loan, kênh phân phối, một số thị trường xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Đài Loan
4. Kết cấu của đề tài
Chuyên đề gồm 3 chương
Chương 1: Lý luận chung về nghiên cứu thị trường quốc tế
Chương 2 : Nghiên cứu thị trường Đài Loan phục vụ xuất khẩu cho công ty PROCOM
Chương 3 : Đề xuất đối với công ty PROCOM
Kết Luận
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
I. Lý luận chung về nghiên cứu thị trường quốc tế
1.Các khái niệm
Thị trường :
Theo trường phái cổ điển thì :” thị trường là nơi diễn ra mua bán hàng hóa “. Theo trường phái này thì thị trường là nơi có đầy đủ không gian và thời gian, dung lượng cụ thể, xong nó chỉ phù hợp với thời kỳ sản xuất chưa phát triển các hình thức mua bán trao đổi còn đơn giản. Khi nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hàng hoá phát triển lên trình độ cao thì các hình thức mua bán trao đổi trở lên phức tạp hơn thì khái niệm này không còn phù hợp nữa.
Theo khái niệm hiện đại :”thị trường là một quá trình mà trong đó người mua và người bán một thứ hàng hóa tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa “. Theo khái niệm này thì thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hóa, lưu thông tiền tệ, các giao dịch mua bán và các dịch vụ. Khái niệm này đã lột tả được bản chất của thị trường trong thời kỳ phát triển này, song nó chỉ mới đứng trên khía cạnh của nhà phân tích kinh tế nói về thị trường chưa giúp cho doanh nghiệp xác định được mục tiêu chính của mình.
Theo quan điểm của các nhà marketing “ thị trường bao gồm các cá nhaanhay tổ chức, thích thú và mong muốn mua một sản phẩm cụ thể nào đó để nhận được chính những lợi ích thỏa mãn một nhu cầu, ước muốn cụ thể và có khả năng ( tài chính và thời gian) để tham gia vào việc trao đổi này”. Nhà marrketing thường xem những người bán tạo thành ngành kinh doanh và những người mua tạo thành thị trường. Sự khác nhau về khái niệm thị trường giữa nhà kinh tế và nhà marketing là do cách tiếp cận để phân tích thị trường. Nhà kinh tế đứng ở vị trí bên ngoài thị trường để phân tích thị trường, vì thế họ nhìn thị trường bao gồm người bán và người mua. Đối với nhà marketing thi họ đứng ở vị trí người bán ( họ là một trong những người bán) để nhìn thị trường, nên thị trường là tập hợp người mua.
Nghiên cứu thị trường quốc tế:
Nghiên cứu thị trường được định nghĩa như là các hoạt nhằm nắm bắt các nhu cầu thị trường để xác lập các biện pháp thoả mãn tối đa các nhu cầu đó, qua đó mang lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Và như vậy nghiên cứu thị trường quốc tế thực chất chỉ là sự tận dụng những nguyên lý, nguyên tắc, các phương pháp và kỹ thuật tiến hành của nghiên cứu thị trường trong điều kiện của thị trường nước ngoài
Sự khác biệt của nghiên cứu thị trường quốc tế và nghiên cứu thị trường nói chung chỉ ở chỗ là hàng hoá và dịch vụ được tiêu thụ không phải trên thị trường nội địa mà là trên thị trường nước ngoài.
Nội dung của nghiên cứu thị trường quốc tế:
- Phân tích và dự báo thị trường trên cơ sở phân tích nhu cầu khách hàng, tình hình cạnh tranh, các trung gian phân phối, phân tích môi trường chính trị, kinh tế, công nghệ, văn hoá xã hội...
- Làm thích ứnh chính sách kinh doanh của doanh nghiệp với nhu cầu và điều kiện thị trường và ở một chừng mực nào đó tác động đến nhu cầu thị trường thông qua chính sách sản phẩm, giá cả, phân phối và giao tiếp, khuyếch trương.
Theo định nghĩa của hiệp hội Marketing Hoa Kỳ định nghĩa nghiên cứu thị trường là “ chức năng liên kết giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng , khách hàng và cộng đồng thông qua thông tin”. Thông tin được sử dụng để :
- Nhận dạng, xác định các cơ hội và vấn đề marketing
- Thiết lập, điều chỉnh và đánh giá các hoạt động marketing
- Theo dõi việc thực hiện marketing và phát triển sự nhận thức về marketing là một quá trình.
Trong nghiên cứu ứng dụng của marketing ( nghiên cứu để ra quyết định marrketing ) khái niệm nghiên cứu thị trường và nghiên cứu marrketing có nghĩa như nhau. Khái niệm nghiên cứu thị trường được sử dụng phổ biến hơn trong thị trường và khái niệm nghiên cứu marketing được sử dụng rộng trong các trường đại học
2. Tầm quan trọng của nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. nó sẽ đánh giá quy mô tiềm năng thị trường. Và là cơ sở để lựa chọn thị trường và đoạn thị trường quốc tế
Nghiên cứu thị trường giúp các công ty xác lập chính sáchmarketing thích ứng với từng thị trường và môi trường riêng biệt
Nghiên cứu thị trường giúp các công ty giảm bớt rủi ro, tránh những sai lầm, xác định các cơ hội quốc tế
Nghiên cứu thị trường là một hoạt động rất quan trọng bởi nó có liên quan tới mọi hoạt động marketing như phân khúc thị trường hay định đoạt sản phẩm, giá cả phân phối trên thị trường của từng sản phẩm
3. Phương pháp nghiên cứu thị trường
Các phương pháp nghiên cứu thị trường sau:
a. Dựa vào nguồn dữ liệu ( thứ cấp hay sơ cấp)
- Nghiên cứu tại bàn các nghiên cứu mà dữ liệu cần thu thập cho nghiên cứu là dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu này được thu thập và xử lý cho mục đích nào đấy. Nhà nghiên cứu thị trường sử dụng lại chúng để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Ví dụ như để biết tốc độ tăng trưởng của các nước trong khu vực đông nam á trong những năm 2005 – 2006 thì ta có thể tìm hiểu thông qua các báo cáo tăng trưởng của các nước trên mạng internet, tài liệu của các tạp chí chuyên ngành
- Nghiên cứu tại hiện trường là các nghiên cứu khi dữ liệu cần thu thập cho nghiên cứu là các dữ liệu sơ cấp. Dữ liêụ sơ cấp do nhà nghiên cứu thu thập trực tiếp từ nguồn để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình. Ví dụ như để tìm hiểu thái độ của người tiêu dùng đối với các đoạn quảng cáo của công ty, hay mức độ nhận biết nhãn hiệu của người tiêu dùng thì các nhà nghiên cứu có thể trực tiếp thảo luận hoặc phỏng vấn họ để thu thập dữ liệu.
b. Dựa vào đặc điểm của dữ liệu (định tính hay định lượng)
- Nghiên cứu định tính là các nghiên cứu trong đó dữ liệu cần thu thập ở dạng định tính. Dữ liệu định tính là các dữ liệu chính nó không thể đo lường bằng số lượng. Dữ liệu định tính là các dữ liệu trả lời cho câu hỏi : thế nào ? cái gì ? tại sao ? Ví dụ như khi chúng ta cần biết thái độ của người của người tiêu dùng đối với một nhãn hiệu nào đó và chúng ta hỏi thông qua câu hỏi và trả lời có dạng : vì sao anh/ chị lại thích sử dụng nhãn hiệu đó ?
- Nghiên cứu định lượng là các nghiên cứu trong đó dữ liệu cần thu thập ở dạng định lượng. Các dữ liệu định lượng là các dữ liệu cho phép chúng ta đo lường chúng bằng số lượng. Dữ liệu định lượng là dữ liệu trả lời cho câu hỏi : bao nhiêu ? Ví dụ như khi muốn hỏi người tiêu dùng lượng tiêu thụ lượng trung bình trong một tháng bao nhiêu cân xà phòng, chúng ta có thể hỏi : trung bình một tháng gia đình anh / chị tiêu thu hết bao nhiêu kg xà phòng ?
c. Dựa vaò mức độ tìm hiểu thị trường ( khám phá, mô tả, hay nhân quả)
-Nghiên cứu khám phá là bước đầu tiên trong nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu khám phá là để tìm hiểu sơ bộ vấn đề cần nghiên cứu cũng như khẳng định lại các vấn đề nghiên cứu. Trong nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu khám phá là công cụ hữu hiệu cho việc thiết lập các giả thiết nghiên cứu. Nghiên cứu khám thường được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu tại bàn, nghiên cứu kinh nghiệm và các kỹ thuật trong nghiên cứu định tính như thảo luận nhóm, thảo luận tay đôi .
- Nghiên cứu mô tả là dạng nghiên cứu phổ biến nhất trong các dạng nghiên cứu. Nghiên cứu mô tả được dùng để mô tả thị trường.Ví dụ như mô tả đặc tính của người tiêu dùng, thói quen tiêu dùng của họ và thái độ của họ đối với các thành phần marketing và đối thủ cạnh tranh...Nghiên cứu mô tả thường được thực hiện thường thông qua các kỹ thuật nghiên cứu định lượng.
- Nghiên cứu nhân quả là các nghiên cứu nhằm mục đích tìm mối quan hệ nhân quả giữa các biến thị trường. Ví dụ như là chúng ta tìm hiểu mối quan hệ giữa quảng cáo và mức độ nhận biết thương hiệu đó của người tiêu dùng. Nghiên cứu nhân quả thường được thực hiện thông qua các kỹ thuật thực nghiệm.
d. Dựa vào mức độ thường xuyên
- Nghiên cứu đột xuất là các nghiên cứu thực hiện để giải quyết vấn đề marketing mà công ty đang vướng phải. Khi một công ty gặp khó khăn một vấn đề marketing (có thể là một cơ hội hoặc là một thách thức ) nào đó đòi hỏi sự cần thiết của một nghiên cứu thì nghiên cứu được thực hiện và không biết lúc nào thì thực hiện lại nó. Kết quả của các nghiên cứu đột xuất là sản phẩm riêng của từng công ty.
- Nghiên cứu liên tục là nghiên cứu được thực hiện liên tục nhằm theo dõi thị trường. Các nghiên cứu này thường được thực hiện sẵn để bán cho khách hàng. Dữ liệu thu thập ở dạng này thường được gọi là dữ liệu tổ hợp. Thông tin tổ hợp phục vụ cho nhiều khách hàng nên các nghiên cứu này cũng ở dạng nghiên cứu cho nhiều khách hàng. Ví dụ như theo dõi doanh thu, số lượng hàng bán của các cửa hàng bán lẻ...
- Nghiên cứu kết hợp là các nghiên cứu thực hiện cho nhiêug khách hàng khác nhau và mỗi khách hàng cần những loại thông tin khác nhau phục vụ cho mục tiêu riêng của mình. Nhà nghiên cứu kết hợp các nhu cầu nghiên cứu của từng khách hàng (công ty cần nghiên cứu ) để thực hiện trong cùng một dự án. Các dự án kết hợp thường được thực hiện định kỳ 3 tháng, 6 tháng ....
4. Quy trình nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường chia làm 3 giai đoạn chính là : thiết lập mục tiêu nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu và thực hiện nghiên cứu,
a. Thiết lập mục tiêu nghiên cứu
Điều đầu tiên trong quá trình nghiên cứu thị trường là phải thiết lập mục tiêu nghiên cứu. Xác định vấn đề cần nghiên cứu là bước quan trọng nhất trong quá trình nghiên cứu thị trường. Nếu nhà nghiên cứu chưa xác định rõ ràng, cụ thể được vấn đề nghiên cứu thì các công việc tiếp theo sẽ không còn ý nghĩa.
Thực tế thì các nhà nghiên cứu và quản trị marketing thường không quan tâm đúng mức đến khâu này vì vậy nên chúng ta thường nhầm lẫn giữa vấn đề thực và triệu chứng của nó. Các dự án nghiên cứu khám phá sẽ giúp các nhà nghiên cứu xác định đúng đắn vấn đề nghiên cứu.
b. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu là quá trình hoạch định dự án nghiên cứu khi thiết kế nghiên cứu phải trả lời được 2 câu hỏi sau:
- Tại sao phải thực hiện nghiên cứu và nên thực hiện nghiên cứu gì ?
- Giá trị nghiên cứu đó có xứng đáng với chi phí phải bỏ ra hay không ?
Để trả lời 2 câu hỏi trên nhà nghiên cứu phải có một thiết kế nghiên cứu thích hợp vì không bao giờ có một thiết kế nghiên cứu hoàn hảo cho tất cả các dự án nghiên cứu. Bản thiết kế nghiên cứu là cơ sở giúp nhà quản trị trả lời hai câu hỏi trên một cách rõ ràng và đầy đủ nhất.
Thiết kế nghiên cứu là quá trình hoạch định dự án nghiên cứu. Hay nói cách khác thiết kế là một chiến lược để đạt được mục tiêu nghiên cứu. Thiết kế nghiên cứu liên quan đến hai bước công việc. Đó là nhà nghiên cứu phải xác định một cách cụ thể cái gì mình muốn đạt được. Và nhà nghiên cứu phải xác định phương cách tối ưu để đạt được nó. Một khi mục tiêu nghiên cứu đã được xác định, thì kế hoạch nghiên cứu sẽ được xây dựng và sau đó là chương trình thực hiện cụ thể.
Thiết kế nghiên cứu liên quan đến nhiều vấn đề liên quan mật thiết với nhau. Với dựa vào thông tin cần thiết, nhà nghiên cứu xác định dạng nghiên cứu như khám phá, mô tả hay nhân quả, định tính hay định lượng, dạng nghiên cứu một lần hay liên tục...Tuỳ theo dạng nghiên cứu, nhà nghiên cứu sẽ xác định cụ thể về nguồn dữ liệu, công cụ thu thập dữ liệu, thiết kế theo mẫu, cách thức thu thập, xử lý dữ liệu, hình thức báo cáo ...
Sản phẩm của khâu thiết kế nghiên cứu là một kế hoạch nghiên cứu trong đó xác định đầy đủ và chi tiết các nội dung như làm gì, ai thực hiện, khi nào thực hiện , tại đâu, kiểm soát như thế nào, chi phí thực hiện.
c. Thực hiện nghiên cứu
Sau khi thiết kế nghiên cứu nhà nghiên cứu có một kế hoạch nghiên cứu cụ thể thì khâu tiếp theo sẽ tiến hành thực hiện nghiên cứu. Khi nguồn dữ liệu là thứ cấp thì việc tổ chức thu thập thường đơn giản và nhanh chóng hơn so với nguồn sơ cấp nếu chúng hiện diện.Tuy nhiên như chúng ta đã biết không phải là lúc nào nguồn dữ liệu cũng là thứ cấp và phù hợp với mục đích nghiên cứu cũng như tính cập nhật. Vì vậy, các nhà nghiên cứu thị trường bao giờ thường thu thập dữ liệu sơ cấp.
Một khi dữ liệu đã được thu thập thì dữ liệu này sẽ được hiệu chỉnh , mã hoá, và nhập vào chương trình máy tính thích hợp để thực hiện tóm tắt, phân tích và tìm ý nghĩa của nó.
Trong quá trình thiết kế nghiên cứu, nhà nghiên cứu đã xác định rõ phương pháp phân tích dữ liệu cũng như dự đoán dạng thức của kết quả nghiên cứu.
Bước cuối cùng của dự án nghiên cứu là viết báo cáo và trình bày kết quả nghiên cứu. Khâu viết báo cáo và trình bày kết quả của nghiên cứu cũng không kém phần quan trọng trong quy trình nghiên cứu thị trường. Nếu kết quả nghiên cứu không được trình bày đầy đủ rõ ràng và dễ hiểu thì nhà quản trị marketing không thể sử dụng nó một cách có hiệu quả được.
Nội dung của một báo cáo kết quả nghiên cứu thị trường thường có nhiều hình thức khác nhau. Một cách tổng quát nhất một báo cáo bao gồm các phần chính sau:
- Tóm tắt cho nhà quản trị
- Giới thiệu cơ sở, mục đích nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu.
- Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của chúng.
- Các hạn chế
- Kết luận và kiến nghị
- Phụ lục và tài liệu tham khảo nếu cần
5. Các nguồn dữ liệu trong phân tích thị trường
a. Nguồn dữ liệu thứ cấp
Nguồn dữ liệu thứ cấp là nguồn dữ liệu đã được thu thập và xử lý với mục đích nào đó, nhà nghiên cứu thị trường dử dụng lại cho việc nghiên cứu của mình.và đữ liệu thứ cấp chia làm 2 phần :
+ Dữ liệu bên trong bao gồm : các báo cáo của bộ phận chức năng trong công ty như báo cáo về chi phí, doanh thu, hoạt động phân phối....
+ Dữ liệu bên ngoài bao gồm 2 nguồn chính : thư viện và tổ hợp. Nguồn thư viện bao gồm các dữ liệu đã được xuất bản như trong sách báo, tạp chí, đặc san, các báo cáo nghiên cứu, niên giám thống kê....Nguồn tổ hợp bao gồm các dữ liệu tổ hợp do công ty nghiên cứu thị trường thực hiện sẵn để bán cho khách hàng chứ không được xuất bản. Ở những nước có ngành nghiên cứu thị trường phát triển, các thông tin tổ hợp rất phong phú và đa dạng như thông tin về người tiêu dùng, bán buôn, bán lẻ, thông tin về các kênh truyền thông đại chúng...
b. Nguồn dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp là dữ liệu mà nhà nghiên cứu thị trường thu thập trực tiếp tại nguồn dữ liệu và xử lý nó để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng nhiều phương pháp khác nhau, các kỹ thuật chính để thu thập dữ liệu sơ cấp bao gồm:
+Quan sát: là phương pháp thu thập dữ liệu trong đó nhà nghiên cứu dùng mắt để quan sát đối tượng nghiên cứu. ví dụ quan sát cách bố trí, bày đặt của một sản phẩm trong một cửa hàng, quan sát thói quen tiêu dùng của một số người tiêu dùng...
+ Thảo luận: bao gồm 2 hình thức : một là thảo luận tay đôi giữa nhà nghiên cứu với đối tượng cần thu thập dữ liệu về chủ đề nghiên cứu. Thảo luận nhóm trong đó một nhóm đối tượng cần thu thập dữ liệu thảo luận với nhau theo một chủ đề nghiên cứu nào đó thông qua sự điều khiển chương trình của nhà nghiên cứu. Thảo luận nhóm và thảo luận tay đôi là 2 phương pháp chính để thu thậpdữ liệu định tính. Thảo luận nhóm thường được dùng trong nghiên cứu thị trường sản phẩm tiêu dùng và thảo luận tay đôi thường được dùng trong thị trường sản phẩm công nghiệp.
+ Phỏng vấn : là phương pháp thu thập dữ liệu trong đó nhà nghiên cứu phỏng vấn đối tượng nghiên cứu để thu thập dữ liệu. Có nhiều hình thức phỏng vấn. phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn viên có thể đến tại nhà để phỏng vấn hoặc mời họ đến một trung tâm phỏng vấn để phỏng vấn . Hoặc là phỏng vần qua điện thoại. Hoặc có thể phỏng vấn là gửi thư và phỏng vấn thông qua mạng internet. phỏng vấn là phương pháp chính để thu thập dữ liệu định lượng.
Với hai loại dữ liệu trên thì dữ liệu sơ cấp được thu thập trực tiếp tại nguồn nhằm giải quyết vấn đề nghiên cứu cho nên về nguyên tắc thì chúng luôn luôn phù hợp với mục tiêu nghiên cứu và có độ tin cậy cao. Hơn nữa, tính hiện hữu và cập nhật của dữ liệu cũng cao hơn. Nhưng để thu thập dữ liệu sơ cấp tốn kém nhiều thời gian và chi phí, cho nên tốc độ thu thập chậm và tính kinh tế thấp. Trong các nguồn dữ liệu thứ cấp, nguồn dữ liệu tổ hợp là nguồn có những đặc tính trên gần với dữ liệu sơ cấp nhất.
II. Nội dung nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu
1. Khái niệm nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà xuất khẩu có nhiều thông tin hơn và do đó có những quyết định marketing tốt hơn. Vì đây là một quá trình tìm kiếm khách quan và có hệ thống cùng sự phân tích thông tin cần thiết để giải quyết vấn đề marketing, nên nghiên cứu thị trường đang ngày càng trở nên được công nhận là một sự trợ giúp không thể thay thế đối với các hãng marketing, nhất là các hãng marrketing thị trường. Những nhân tố của nghiên cứu thành công là : lên kế hoạch cẩn thận, phân chia nhiệm vụ nghiên cứu thành những phần việc có thể đảm đương và xử lý chúng một cách logic với sự chú ý đúng mức đến từng chi tiết.
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu là một bộ phận của nghiên cứu thị trường nói chung. Và nghiên cứu thị trường bao gồm nghiên cứu thị trường trong nước và nghiên cứu thị trường thị trường nước ngoài. Nghiên cứu thị trường nước ngoài phải tiến hành rất nhiều các hoạt động và phức tạp hơn nhiều so với việc nghiên cứu thị trường trong nước do môi trường chính trị, pháp luật và văn hoá của các nước khác nhau. Đặc biệt việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu còn phải nghiên cứu tìm hiểu kỹ các quy định của nước mình định xuất khẩu đối với mặt hàng kinh doanh của mình, các thủ tục hải quan thông quan hàng hoá...
2. Các yếu tố của thị trường xuất khẩu
Đối với các doanh nghiệp thì việc xác định các yếu tố của thị trường cũng rất cần thiết. Điều đó giúp cho các doanh nghiệp hiểu hơn về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó và đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp.
Các yếu tố của thị trường bao gồm cung, cầu và giá cả thị trường
Tổng hợp nhu cầu của khách hàng tạo nên cầu của hàng hoá. Đối với các doanh nghiệp thì nhu cầu đó đòi hỏi phải cụ thể hơn đó là các nhu cầu có khả năng thanh toán cao và đặc biệt là các nhu cầu về mặt hàng của doanh nghiệp đã, sẽ và có khả năng kinh doanh. Đối với thị trường nước ngoài thì nhu cầu có khả năng thanh toán là khác nhau giữa những nước phát triển khác nhau. Đối với các nước phát triển thì thu nhập của người dân rất cao, mạng lưới phân phối khá hoàn chỉnh do vậy đối với hàng hoá thông thường, nhất là nhu cầu yếu phẩm thì nhu cầu và nhu cầu có khả năng thanh toán là tương đương nhau. Nhưng đối với các nước kém phát triển thì hai loại nhu cầu này có sự khác biệt rất lớn đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu và điều tra , kỹ lưỡng.
Tổng hợp nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng trên thị trường tạo nên cung hàng hoá. Hay chính xác hơn đó chính là doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì đối thủ cạnh tranh không phải chỉ là doanh nghiệp trong nước mà quan trọng hơn là các doanh nghiệp quốc tế với đủ loại hình kinh doanh khác nhau.
Sự tương tác giữa cung và cầu ( tương tác giữa người mua và người bán, người bán và người bán, người mua và người mua) hình thành giá cả thị trường.
Giá cả hàng hoá trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá đó trên thị trường thế giới. Xác định đúng đắn giá cả hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa to lớn đối với hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
Giá cả là biểu hiện bằng tiền tệ của giá trị hàng hoá đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân như mối quan hệ cung cầu, tích luỹ tiêu dùng công nông nghiệp, giá cả luôn gắn liền với thị trường là một yếu tố cấu thành thị trường...
Trong kinh doanh thương mại quốc tế giá cả thị trường lại càng phức tạp do việc buôn bán diễn ra trong thời gian dài vận chuyển qua nhiều nước khác nhau, với những chính sách thuế khác nhau. Để đạt được hiệu quả cao trên thương trường quốc tế đòi hỏi các nhà kinh doanh luôn theo dõi, nghiên cứu sự biến động giá cả đồng thời phải có biện pháp tính toán, xác định giá một cách chính xác, khoa học để thực sự trở thành một công cụ trong kinh doanh thương mại quốc tế. Thông thường các nhà kinh doanh xuất khẩu định giá bán sản phẩm dựa trên ba căn cứ :
+ Căn cứ vào giá thành cộng chi phí ( bao bì, vận chuyển, chi phí bảo hiểm, các chi phí khác...)
+ Căn cứ vào sức mua của người tiêu dùng và nhu cầu của họ”
+ Căn cứ vào giá cả hàng hoá cạnh tranh.
Các bước khi định giá hàng hoá trên thị trường
+ Bước 1: Phân tích chi phí
+ Bước 2 : Phân tích dự đoán thị trường
+ Bước 3 : Vùng giá và các mức giá dự kiến
+ Bước 4 : Lựa chọn giá tối đa
+ Bước 5 : Xác định cơ cấu giá
+ Bước 6 : Báo giá cho khách hàng
Giá cả quốc tế có tính chất đại diện với mỗi loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Giá đó phải là giá của những giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ do tự chuyển đổi được...
Xu hướng biến động của giá cả các loại hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp. Trong cùng một thời gian giá cả biến đổi theo những xu hướng trái ngược nhau. Hơn nữa thị trường thế giới có phạm vi rộng lớn do vậy việc nắm bắt tình hình xu hướng biến động giá cả trên thị trường thế giới là hết sức khó khăn đòi hỏi phải có thông tin
Có thể dự đoán xu hướng biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán thị trường đánh giá đúng ảnh hưởng của các nhân tố như : chu kỳ, cạnh tranh, lũng loạn giá cả, lạm phát...
Nghiên cứu vấn đề giá cả được coi là chiến lược quan tâm hàng đầu bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức tiêu thụ, doanh thu, và lợi nhuận của doanh nghiệp. Đánh giá đúng đắn đảm bảo cho nhà xuất khẩu thắng lợi trong kinh doanh tránh được rủi ro...
Giá cả thị trường là đại lượng biến động do sự tương tác của cung và cầu trên thị trường của một loại hàng hoá ở địa điểm và thời điểm cụ thể. Nhưng thị trường xuất khẩu thì giá cả không chỉ bị chi phối của cung cầu mà còn bị chi phối bởi hai yếu tố nữa đó là sự tác động của địa phương( chính phủ các nước ) và tỷ giá hối đoái, hai yếu tố này có tác động mạnh và chi phối lớn đến giá cả hàng hoá. Vì vậy điều đầu tiên đối với doanh nghiệp khi nghiên cứu giá cần xem xét đến hai yếu tố này.
Một yêú tố nữa của thị trường đó là cạnh tranh yếu tố này chỉ xuất hiện một cách rõ nét khi kinh tế hàng hoá phát triển mức độ cao. Đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp trong cùng một ngành hoặc có những sản phẩm có khả năng thay thế loại hàng hoá của doanh nghiệp trong cùng thị trường và trong cùng một chu kỳ. Đối với thị trường xuất khẩu thì đối thủ cạnh tranh không chỉ hiểu là các doanh nghiệp trong nội địa ( có ưu thế khuyến khích dùng hàng nội địa ), mà còn là các đối thủ nước ngoài với nguồn lực mạnh và các chiến lược cạnh tranh nổi trội.
Tìm hiểu và nắm, biết cách điều phối yếu tố thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp chinh phục được thị trường và đạt được hiệu quả kinh doanh như mong muốn.
3. Nội dung nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Khi nghiên cứu thị trường thì công ty phải nghiên cứu các nội dung sau đây :
- Sự phát triển của thị trường
- Đặc điểm sản phẩm của thị trường
- Đặc điểm kênh phân phối trên thị trường
- Các quy định về nhập khẩu sản phẩm vào thị trường đó
- Nghiên cứu về nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng ở thị trường nghiên cứu
- Nghiên cứu các xu hướng tiêu dùng về sản phẩm cần xuất khẩu qua các giai đoạn phát triển của thị trường, đặc biệt là giai đoạn hiện tại.
4 Các bước nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu
a Các nguyên tắc nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Nghiên cứu thị trường là công việc khi xử lý những việc tìm hiểu khả năng buôn bán do nước của bạn yêu cầu hoặc tìm thị trường cho một loại sản phẩm của nước bạn trên thị trường nước sở tại. Các nguyên tắc chung khi nghiên cứu:
Biết được vấn đề đang tồn tại cần được nghiên cứu ( có thể là vấn đề lớn hoặc nhỏ )
Xác định vấn đề, tức là cần đúng loại thông tin nào
Lên phương án về phương pháp nghiên cứu thích hợp, có thể là từ một cuộc điện thoại cho đến một cuộc nghiên cứu và toàn diện.
Xác minh nguồn thông tin
Thu thập số liệu và phân tích thông tin đó.
Chuẩn bị và phân phát thông tin th được dưới dạng một báo cáo, viết tay hoặc truyền miệng, tuỳ hoàn cảnh yêu cầu.
b. Các bước nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Để chuẩn bị nghiên cứu thị trường tiến hành tốt thì cần thực hiện những bước sau đây :
+ Chuẩn bị các hướng chính của cuộc nghiên cứu : những người làm nghiên cứu thị trường trong công ty cần đưa ra một kế hoạch nghiên cứu hoàn chỉnh, được sự chấp nhận của cấp trên để tiến hành nghiên cứu
+ Xây dựng kế hoạch nghiên cứu :
+ Nghiên cứu sơ bộ
+ Nghiên cứu tại văn phòng
+ Nghiên cứu tại chỗ
c. Nghiên cứu dung lượng thị trường xuất khẩu
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau. Và việc định dạng các nhân tố này cho phép doanh nghiệp xác định rõ những nội dung cần thiết tiến hành nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Các nhân tố này còn ảnh hưởng tới lượng hangd hoá được giao dịch trên thị trường đó trong một thời gian nhất định. Các nhân tố đó bao gồm :
* nhân tố môi trường chính trị và luật pháp
Các nhân tố này quyết định đến việc thâm nhập vào thị trường thị trường xuất khẩu đó hay không. Yếu tố chính trị luật pháp của các doanh nghiệp không chỉ phải nghiên cứu môi trường trong nước mà quan trọng là nghiên cứu môi trường quốc tế.
Môi trường chính trị và luật pháp trong nước : Đó là các chính sách, pháp luật quy định về:
+ Hoạt động xuất nhập khẩu
+ Mặt hàng xuất nhập khẩu
+ Điều phối tiền tệ
+ Tỷ giá hối đoái
+ Các hoạt động về quan hệ quốc tế ... Các yếu tố này để thu thập và tìm hiểu
Môi trường chính trị và luật pháp ngoài nước : Các yếu tố phải nghiên cứu cũng giống như các yếu tố phải nghiên cứu trong nước nhưng khó khăn hơn trong vấn đề thu thập thông tin một cách cập nhật nhất. Và các yếu tố này ít khi có lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu. Nói chung ở môi trường này chú ý đặc biệt đến:
+ Quan hệ quốc tế
+ Các quy định về mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu
+ Các yếu tố về điều phối tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
* Nghiên cứu môi trường kinh tế
Thông qua nghiên cứu môi trường này doanh nghiệp sẽ xác định được nhu cầu về mặt hàng, khả năng thanh toán của khách hàng ở thị trường đó (hay đó chính là độ hấp dẫn của thị trường). Có 3 đặc điểm của môi trường kinh tế phản ánh sự hấp dẫn của một nước xét như một thị trường cho doanh nghiệp nước ngoài.
+ Thứ nhất là cấu trúc công nghiệp của nước đó: Dựa trên cấu trúc công nghiệp sẽ xác định được nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ cần nhập khẩu. Có thể phân biệt các nước thành 4 loại cấu trúc công nghiệp sau :
- Các nền kinh tế tự cung tự cấp : Thì sản phẩm tự làm ra để tiêu dùng do vậy ít nhập khẩu. Đối với nền kinh tế xuất khẩu nguyên vật liệu thô : thì các nước tài nguyên phong phú nhưng lại nghèo các phương diện khác, do vậy nhu cầu nước này là trang thiết bị khai thác, dụng cụ, thiết bị xử lý và các mặt hàng xa xỉ phương tây...
- Các nền kinh tế xuất khẩu nguyên liệu thô: các nước này có một hay nhiều loại tài nguyên phong phú nhưng lại nghèo ở các phương diện khác nhau. Phần lớn thu nhập là từ xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên. Đây là thị trường tiềm năng đối với các loại trang thiết bị khai thác, dụng cụ và nhiên liệu, thiết bị xử ký và phương tiện vận chuyển. Bộ phận dân cư giàu có ở các nước này còn là thị trường đối với các loại hàng xa xỉ mang phong cách phương tây.
- Các nền kinh tế đang công nghiệp hoá: Các nước này công nghiệp chiếm 20- 30% tổng sản lượng quốc dân, do vậy cần nhập khẩu nguyên liệu dệt, thép, cơ khí nặng. Và công nghiệp hoá tạo ra một tầng lớp giàu có mới và tầng lớp trung lưu đang phát triển có nhiều nhu cầu về hàng máy móc chủ yếu là hàng nhập khẩu.
- Các nền kinh tế công nghiệp hóa: các nước này phát triển chủ yếu có các nhu cầu về nguyên vật liệu thô sơ và sơ chế. Và tầng lớp trung lưu lớn khá phát triển do vậy có nhu cầu với mọi mặt hàng nhập khẩu. Có thể nói đây là những thị trường hấp dẫn đối với mọi sản phẩm.
+ Thứ hai là phân phối thu nhập : ảnh hưởng đến sức mua và khả năng thanh toán hàng hoá. Tuỳ từng mức thu nhập trung bình của các hộ gia đình khác nhau mà có chính sách cung ứng các loại hàng hoá với mức giá khác nhau. Có 3 mức thu nhập: Thấp , trung bình, cao
+ Thứ 3 là động thái nền kinh tế: (tốc độ tăng trưởng kinh tế) ảnh hưởng đáng kể đến mức nhu cầu thị trường và tổng mức nhạp khẩu hàng hoá. Có 4 loại động thái đó là :
- Các nước có tốc ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11214.doc