Nghiên cứu tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến hộ nông dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang

Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học nông nghiệp hà nội ********* Lương thế tuấn Nghiên cứu tác động của thu hồi đất nông nghiệp đến hộ nông dân ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang Luận văn thạc sĩ kinh tế Chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60.31.10 Người hướng dẫn: GS.TS Phạm Thị Mỹ Dung Hà nội - 2009 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan, rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp

doc139 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến hộ nông dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Tác giả luận văn Lương Thế Tuấn Lời cảm ơn Tôi xin bảy tỏ sự cảm ơn trân trọng tới giáo viên hướng dẫn khoa học GS.TS. Phạm Thị Mỹ Dung – giảng viên Khoa Kinh tế và phát triển nông thôn đã dành nhiều thời gian tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Tôi xin được bày tỏ tấm lòng biết ơn đến Ban giám hiệu Nhà trường, các thầy, cô giáo, đặc biệt là các thầy các cô trong Bộ môn kinh tế tài nguyên – Khoa kinh tế và phát triển nông thôn và Viện đào tạo sau đại học, những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn UBND huyện Lục Nam, các cơ quan Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng HĐND- UBND huyện, Chi cục thuế, Phòng thống kê, phòng Tài chính – kế hoạch, UBND TT Đồi Ngô, UBND xã Tiên Hưng, UBND xã Nghĩa Phương, các hộ dân đã tham gia các cuộc phỏng vấn, đã cung cấp các số liệu cần thiết và giúp đõ tôi trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu đề tài. Trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài, tôi còn được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên của các bạn, đồng nghiệp và gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đõ và ghi nhận những tình cảm quý báu đó. Tuy có nhiều cố gắng nhưng cũng không tránh khỏi những hạn chế , thiếu sót nhất định khi thực hiện đề tài: Kinh mong thầy, cô giáo và các bạn tiếp tục giúp đỡ và chỉ bảo tôi hoàn thiện và phát triển đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Tác giả luận văn Lương Thế Tuấn MụC LụC Lời cam đoan cvii Lời cảm ơn cvii Mục Lục cvii Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt cvii Danh mục bảng cvii Danh mục đồ thị cvii Danh mục sơ đồ, hình ảnh cvii Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt BQ Bình quân BQLĐ Bình quân lao động BTHĐ Bị thu hồi đất CC Cơ cấu CVL Có việc làm CN Công nghiệp CHN-HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá DT Diện tích HĐSXKD Hoạt động sản xuất kinh doanh KBTHĐ Không bị thu hồi đất LĐ Lao động LĐCVL Lao động có việc làm LĐKCVL Lao động không có việc làm NN Nông nghiệp XKLĐ Xuất khẩu lao động GPMB Giải phóng mặt bằng SL Số lượng TN Thu nhập TTCN Tiểu thủ công nghiệp THĐ Thu hồi đất UBND Uỷ ban nhân dân Danh mục bảng Bảng 3.1: Tình hình đất đai của huyện Lục Nam qua 3 năm (2006 - 2008) 36 Bảng 3.2. Kết quả sản xuất kinh doanh của huyện Lục Nam qua 3 năm (2006 - 2008) 39 Bảng 4.1. Tình hình thu hồi đất của huyện Lục Nam qua 3 năm (2006 - 2008) 53 Bảng 4.2. Tình hình thu hồi đất nông nghiệp của huyện 55 Bảng 4.3. Tình hình thu hồi đất của các hộ điều tra 57 Bảng 4.4. Bảng giá bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp 62 Bảng 4.5. Tổng hợp các dự án thực hiện trên diện tích đất thu hồi 63 Bảng 4.6. Tình hình đầu tư, doanh thu và giải quyết việc làm của doanh nghiệp tại cụm công nghiệp 64 Bảng 4.7. Tình hình sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ của các hộ điều tra 67 Bảng 4.8. Tình hình lao động của nhóm hộ điều tra trước và sau khi thu hồi đất 72 Bảng 4.9. Thời gian làm việc của lao động trong nhóm hộ điều tra trước và sau thu hồi đất 73 Bảng 4.10. Tình hình biến động về ngành nghề của nhóm hộ điều tra 77 Bảng 4.11. Thu nhập và mức sống của nhóm hộ điều tra trước và sau khi thu hồi đất 80 Bảng 4.12. Biến động trong thu nhập và cơ cấu thu nhập trước và sau khi thu hồi đất 85 Bảng 4.13. Thu nhập và mức sống của nhóm hộ điều tra trước và sau khi thu hồi đất 89 Bảng 4.14. Phương hướng sản xuất kinh doanh của nhóm hộ điều tra sau khi thu hồi đất 95 Bảng 4.15. Tình hình tệ nạn xã hội của các xã điều tra 99 Bảng 4.16. Kết quả quan trắc môi trường tại cụm công nghiệp sau thu hồi đất 102 Bảng 4.17. Số cơ sở hạ tầng được xây dựng từ thu tiền sử dụng đất 104 Danh mục đồ thị Đồ thị 1: Cơ cấu kinh tế huỵên Lục Nam năm 2008 41 Đồ thị 2: Thu nhập của hộ điều tra trước thu hồi đất 93 Đồ thị 3: Thu nhập của hộ điều tra sau thu hồi đất 93 Đồ thị 4: Thu tiền sử dụng đất qua 3 năm 2006 - 2008 106 Danh mục sơ đồ, hình ảnh Sơ đồ 2.1. Trình tự thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng. 6 Hình 1: Hiện trạng sử dụng đất huyện Lục Nam 34 Hình 2: Một góc cụm công nghiệp Đồi Ngô - Già Khê 65 Hình 3: Khu quy hoạch dân cư 66 Phần 1 đặt vấn đề 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên quý giá nhất của quốc gia, là cơ sở quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội loài người. Do mang tính chất đặc thù là loại hàng hoá đặc biệt, có vị trí cố định, số lượng không đổi nên việc bảo vệ, quản lý và sử dụng đất có hiệu quả đã và đang được đánh giá đúng tầm quan trọng thông qua Hiến pháp mà cụ thể là tại Luật cũng như các văn bản dưới Luật. Trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, việc bồi thường đất đai giải phóng mặt bằng, tái định cư là hiện tượng phát triển mà Nhà nước nào cũng phải đối mặt như một quy luật tất yếu và phổ biến. Đặc biệt, ở điều kiện Việt Nam hiện nay, đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với nhiều dự án đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đô thị theo đó các cơ sở văn hoá giáo dục, thể dục thể thao cũng được phát triển làm cho tốc độ đô thị hoá cũng diễn ra nhanh chóng. Tất cả những công trình này đòi hỏi phải có mặt bằng để xây dựng, do đó nhu cầu về đất cho xây dựng là rất lớn. Để có đất cho mục tiêu trên, Nhà nước phải thu hồi một phần đất của nhân dân nên nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống vật chất, tinh thần của người bị thu hồi đất. Theo quy định tại điều 39 - Luật Đất đai năm 2003 thì khi thu hồi đất, Nhà nước phải bồi thường thiệt hại cho người có đất bị thu hồi và thực hiện các chính sách, biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất cho nhân dân. Huyện Lục Nam là huyện miền núi nghèo của tỉnh Bắc Giang. Trong những năm qua, thực hiện công cuộc CNH – HĐH có nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, cụm công nghiệp, khu dân cư được thực hiện đã làm cho kinh tế xã hội của huyện đã có nhiều bước phát triển khởi sắc. Để có mặt bằng cho việc thực hiện các dự án đó thì cũng giống như các địa phương khác phải tiến hành thu hồi đất của nông dân mà tập trung chủ yếu là đất nông nghiệp để thực hiện cho việc xây dựng cụm công nghiệp và quy hoạch khu dân cư. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc thu hồi đất để xây dựng cụm công nghiệp và các khu dân cư đã có những tác động tích cực cũng như tiêu cực đến đời sống nhân dân và còn nhiều vấn đề cần được giải quyết. - Về mặt tích cực : Thu hồi đất để xây dựng cụm công nghiệp để có nhiều các nhà máy, xí nghiệp đầu tư sản xuất làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi, giải quyết được công ăn việc làm cho nhân dân địa phương, đóng góp nguồn thu làm tăng giá trị sản xuất cho địa phương ; Còn quy hoạch các khu dân cư sẽ đáp ứng được nhu cầu về đất làm nhà ở cho nhân dân, hình thành nên các khu dân cư tập trung có đầy đủ các điều kiện cơ sở hạ tầng, tạo nên sự phát triển đồng bộ cho các khu vực nông thôn và tạo ra nguồn thu ngân sách chủ yếu để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ đời sông dân sinh. - Về mặt tiêu cực : Thu hồi đất xây dựng cụm công nghiệp và quy hoạch các khu dân cư làm cho hộ nông dân bị thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp, một số lao động mất việc làm, thất nghiệp, tệ nạn xã hội và tình trạng ô nhiễm môi trường do các nhà máy, xí nghiệp trong cụm công nghiệp, các khu tập trung dân cư; Thực hiện các quy trình về thu hồi đất còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn. Từ những vấn đề đã nêu ở trên đặt ra một số câu hỏi là: + Vì sao có chủ trương thu hồi đất để xây dựng cụm công nghiệp và khu dân cư. Việc làm đó có phù hợp với thực tế và luật đất đai không? + Thực trạng thu hồi đất ở huyện Lục Nam như thế nào và có những tác động như thế nào đến hộ nông dân bị mất đất của địa phương. + Liệu việc thu hồi đất có gặp khó khăn gì không? Việc bồi thường, giải phóng mặt bằng diễn ra như thế nào và hộ nông dân sử dụng tiền bồi thường vào những việc gì? + Các giải pháp, kiến nghị để giải quyết các vấn đề đó như thế nào? Để làm rõ được những vấn đề trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến hộ nông dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang” 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung Đánh giá những tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến hộ nông dân mất đất, cũng như những tồn tại trong công tác thu hồi đất từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị trong việc thu hồi đất ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc thu hồi đất nông nghiệp đến hộ nông dân bị mất đất. - Đánh giá những tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến hộ nông dân bị mất đất ở huyện huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. - Đề xuất giải pháp nhằm giải quyết những tác động tiêu cực tới hộ nông dân mất đất nông nghiệp nói chung và địa phương nói riêng. 1.3. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng - Các cơ quan chức năng thực hiện công tác thu hồi đất. - Các hộ nông dân chịu sự tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dụng: + Nghiên cứu việc thực hiện thu hồi đất nông nghiệp của các cơ quan liên quan, những khó khăn, thuận lợi họ gặp phải. + Nghiên cứu tác động thu hồi đất tới việc làm, thu nhập, phong tục, tập quán và những ảnh hưởng về môi trường đối với hộ nông dân bị thu hồi đất. + Nghiên cứu những tồn tại, bất cập khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp để có những giải pháp, kiến nghị khắc phục. + Nghiên cứu các giải pháp thu hồi đất. - Phạm vi về không gian: + Nghiên cứu các hộ nông dân có đất nông nghiệp bị thu hồi trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. + Tập trung chủ yếu là các hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng cụm công nghiệp và khu dân cư. - Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu ở thời điểm trước khi thu hồi đất năm 2005 và sau khi thu hồi đất thời điểm năm 2008. 1.3.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8/2008 đến tháng 8/2009. Phần 2 Một số lý luận tác động của thu hồi đất nông nghiệp tới hộ nông dân 2.1. Thu hồi đất và các vấn đề liên quan 2.1.1. Thu hồi đất và bồi thường giải phóng mặt bằng * Khái niệm về thu hồi đất: Theo Điều 4 – Luật đất đai năm 2003 thì thu hồi đất là việc nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, cá nhân, uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và lợi ích an ninh quốc gia. Do đó, việc thu hồi đất là sự thoả thuận giữa Nhà nước và cơ quan có chức năng với người dân có đất trong vùng quy hoạch để đi đến sự thống nhất về giá cả bồi thường thiệt hại cho người dân và sự ủng hộ của người dân cho việc thu hồi đất của Nhà nước. Nhưng trong những năm qua, các vấn đề này hầu như chỉ thực hiện theo hình thức từ trên xuống, mọi giá cả là do Nhà nước và các cơ quan có chức năng của các địa phương, có đất bị thu hồi áp giá chưa phù hợp với giá thị trường, do đó gây không ít khó khăn trong việc thu hồi đất của Nhà nước. * Lý do của việc thu hồi đất: Công nghiệp hoá là quá trình phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường giúp các nước chậm phát triển rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Về thực chất, đây là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, cơ cấu lại việc phân bổ dân cư theo hướng tăng nhanh khối lượng dân cư sống ở khu vực thành thị và giảm mạnh số lượng dân cư sống ở khu vực nông thôn. Để làm được điều này, tất yếu là phải phân bổ lại các nguồn lực phát triển nền kinh tế, trong đó trước hết là nguồn nhân lực, đất đai và lao động. Phải thu hồi và chuyển một bộ phận đất đai, tập trung chủ yếu là đất nông nghiệp sang phục vụ cho xây dựng khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu dân cư tập trung, cũng như cho việc xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình công cộng phục vụ lợi ích cộng đồng. Đồng thời phải chuyển một bộ phận lực lượng lao động ở khu vực nông nghiệp là khu vực có năng suất lao động thấp, sang khu vực công nghiệp và dịch vụ là những khu vực có năng suất lao động cao, cũng như thu nhập cao. Sơ đồ 2.1. Trình tự thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng. Lập phương án tổng thể (UBND xã) Thông báo chủ trương thu hồi đất (UBND huyện) (1) Phê duyệt phương án tổng thể (UBND huyện) Bàn giao đất (Hộ nông dân) (2) (9) Chi trả tiền bồi thường, hộ trợ (UBND xã) Thông báo phương án tổng thể (UBND xã) (3) Quyết định thu hồi đất (UBND huyện) (8) (4) Phê duyệt phương án chi tiết (UBND huyện) (5) Thông báo phương án chi tiết (UBND xã) Lập phương án bồi thường chi tiết (UBND xã) (7) (6) (Nguồn: Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Nghị định số 197/2004/NĐ - CP và Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ) * Cơ chế thu hồi đất: Điều 5 – Luật đất đai năm 2003 quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất. Do đó, đất đai là tài sản quý giá, là tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân và nó quyết định cuộc sống của họ và gia đình họ. Thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ cho việc xây dựng khu cụm công nghiệp, khu dân cư, cơ sở hạ tầng công cộng là vấn đề kinh tế - xã hội lớn, nhưng lại phải tính đến lợi ích cơ bản của những người dân bị thu hồi đất. Qua đó, Nhà nước ta đã ban hành luật đất đai năm 2003, Nghị định số 181, 197, 198, 84 và hàng loạt chính sách vĩ mô hướng vào giải quyết cơ bản về đất đai nói chung và vấn đề thu hồi đất nông nghiệp nói riêng để đảm bảo giữa lợi ích chung của xã hội và lợi ích của hộ nông dân, nhằm giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Khi nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân phải tiến hành bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng. Người bị thu hồi đất loại nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi. Trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được Nhà nước hỗ trợ ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm. * Bản chất của việc bồi thường, giải phóng mặt bằng: Giải phóng mặt bằng là quá trình tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến di dời nhà cửa, cây cối và các công trình xây dựng trên phần đất nhất định được quy định cho việc thực hiện một dự án, công trình mới trên đó. GPMB là quá trình đa dạng và phức tạp. Nó thể hiện khác nhau đối với mỗi một dự án, nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia và lợi ích của toàn xã hội. - Tính đa dạng thể hiện: Mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác nhau với điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội và trình độ dân trí nhất định. Đối với khu vực đô thị, thị trấn, thị tứ, mật độ dân cư cao, ngành nghề đa dạng, giá trị đất và tài sản trên đất lớn dẫn đến quá trình GPMB có đặc trưng nhất định. Đối với khu vực ven đô thị, thị trấn, mức độ tập trung dân cư khá cao, ngành nghề dân cư phức tạp , hoạt động sản xuất đa dạng: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, buôn bán nhỏ ... quá trình GPMB cũng có đặc trưng riêng của nó. Còn đối với khu vực nông thôn hoạt động sản xuất chủ yếu của dân cư là sản xuất nông nghiệp, đời sống phụ thuộc chính vào nông nghiệp. Do đó, GPMB cũng được tiến hành với những đặc điểm riêng biệt. - Tính phức tạp thể hiện: Đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội đối với mọi người dân. ở khu vực nông thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất, thậm chí họ cho thuê đất còn được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn không cho thuê. Trước tình hình đó đã dẫn đến công tác tuyên truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó khăn và việc hỗ trợ chuyển nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau này. Mặt khác, cây trồng, vật nuôi trên vùng đó cũng đa dạng, không được tập trung một loại nhất định nên gây khó khăn cho công tác định giá bồi thường. * Vai trò của công tác thu hồi đất, bồi thường GPMB đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng và đời sống xã hội: + Đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng: Mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội có một sự phát triển thích ứng của hạ tầng kinh tế xã hội. Với tư cách là những phương tiện vật chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế xã hội lại trở thành lực lượng sản xuất quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội mà trong đó GPMB là điều kiện tiên quyết để dự án xây dựng cơ sở hạ tầng có được triển khai hay không. + Tiến độ thực hiện các dự án phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau như: Tài chính, lao động, công nghệ, điều kiện tự nhiên, tập quán của những người dân trong diện bị giải toả... Nhìn chung, nó phụ thuộc nhiều vào thời gian tiến hành thu hồi đất và bồi thường GPMB. + Thu hồi đất, bồi thường GPMB thực hiện đúng tiến độ đề ra sẽ tiết kiệm được thời gian và việc thực hiện dự án có hiệu quả. Ngược lại, thu hồi đất, bồi thường GPMB kéo dài gây ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng của các công trình, ảnh hưởng đến việc sử dụng lao động cũng như chi phí cho dự án, có khi gây ra thiệt hại không nhỏ trong đầu tư xây dựng. + Về mặt kinh tế của dự án: Thực hiện thu hồi đất, bồi thưòng GPMB được thực hiện tốt sẽ giảm tối đa chi phí cho giải toả đền bù, có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho các công trình khác. Thu hồi đất, bồi thưòng GPMB kéo dài dẫn đến chi phí bồi thường lớn, không kịp hoàn thành tiến độ dự án dẫn đến sự quay vòng vốn chậm gây khó khăn cho các nhà đầu tư: Đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh do không đáp ứng được tiến độ đầu tư vì vậy nhiều dự án mất cơ hội kinh doanh, hiệu quả kinh doanh thấp. Còn đối với các dự án đầu tư không kinh doanh, thời gian thi công kéo dài, tiến độ thi công bị ngắt quãng gây ra sự lãng phí rất lớn và ảnh hưởng tới chất lượng công trình. Đặc biệt, các nhà đầu tư trong nước có nguồn vốn hạn hẹp thì việc quay vòng vốn là cần thiết để đảm bảo tận dụng cơ hội đấu thầu của các công trình khác. 2.1.2 Giá đất và định giá đất * Giá đất: Tại điều 12 Luật Đất đai năm 1993 đã công nhận đất “có giá’’. Lần đầu tiên được coi là “có giá” làm thay đổi hẳn quan niệm cũ đã ngự trị trong suốt mấy chục năm của quá trình dài thời bao cấp, coi đất là của “trời cho” không có giá (nhất là đất nông nghiệp, lâm nghiệp). Xác định đất “có giá” bước đầu đã đề cập đến “tính chất kinh tế” của đất đai. Luật quy định đất “có giá” đã tạo khung pháp lý để chuyển từ việc quản lý Nhà nước về đất đai bằng biện pháp hành chính duy nhất sang biện pháp hành chính kinh tế và thúc đẩy quá trình vận động các quan hệ đất đai với việc cho phép người sử dụng đất được thực hiện 9 quyền. Trong nền kinh tế thị trường, đất đai được coi là tài sản - bất động sản- hàng hoá đặc biệt nên nó cũng có những đặc điểm chung của hàng hoá như: giá trị, giá trị sử dụng, giá cả và cũng được trao đổi trên thị trường dưới nhiều hình thức chuyển nhượng. Khi đó, đất đai trở thành “hàng hoá đất”. Giá trị của hàng hoá đất được thể hiện ở mặt khả năng sinh lợi của đất và tính sở hữu. Tại điều 55 Luật Đất đai 2003 quy định “Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Chính phủ giao cho UBND các tỉnh, thành phố quy định khung giá các loại đất đối với từng vùng và theo từng thời gian”. Đây là văn bản pháp quy quan trọng nhất của Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất nhưng trên thực tế sự mua bán đất đã hình thành. Đương nhiên, thị trường bất động sản trong đó có đất đai là một thành phần cơ bản xuất hiện thì các quy luật kinh tế khách quan trên thị trường cũng được hình thành để chi phối, điều tiết các hoạt động của giá cả đất đai. Điều khẳng định là cơ sở hình thành và vận động của giá đất. Giá trị của đất ngoài những lợi thế do thiên nhiên ban tặng chính là lao động, vốn, khoa học kỹ thuật đầu tư vào đất đai để khai thác và cải tạo đất. Giá của hàng hoá đất đai cũng như các hàng hoá khác, tuy nhiên, đất đai là loại hàng hoá đặc biệt nên giá cả của hàng hoá đất đai cũng có những đặc điểm riêng, phát triển theo những quy luật riêng của nó và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố rất cơ bản. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và vận động của giá đất nhưng ảnh hưởng lớn nhất là: Mục đích sử dụng, độ màu mỡ của đất, vị trí hình thể, địa hình, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, môi trường, tình trạng pháp lý, quan hệ cung cầu, sự khan hiếm, lòng ham muốn và chính sách đầu tư của Nhà nước. * Định giá đất: Là những phương pháp kinh tế nhằm tính toán lượng giá trị của đất đai bằng hình thái tiền tệ tại một thời điểm xác định khi chúng tham gia trong một thị trường nhất định. Đất đai là tài sản, vì vậy về nguyên tắc, việc định giá đất cũng như định giá các tài sản thông thường. Mặt khác, đất đai là một tài sản đặc biệt, giá đất, ngoài các yếu tố về không gian, thời gian, kinh tế, pháp luật chi phối, nó còn bị tác động bởi các yếu tố tâm lý xã hội. Vì vậy, như trên đã trình bày thì giá đất chỉ có thể là sự ước tính về mặt giá trị mà hông có thể tính đúng, tính đủ như các tài sản thông thường. 2.1.3. Vận dụng lý luận địa tô của C.Mac vào việc định giá đền bù thiệt hại đất và tài sản Trong điều kiện Nhà nước thu hồi đất phục vụ các công trình công cộng, lợi ích quốc gia thì các đơn vị cơ quan phải nộp một khoản tiền cho Nhà nước để sử dụng đất. Số tiền này chủ yếu được dùng để bù đắp những thiệt hại về đất và tài sản cho những người bị thu hồi đất. Việc thu hồi đất trong trường hợp này giống như là hành vi chuyển quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất nhưng là hành vi chuyển quyền sử dụng đất đặc biệt, nó không phải là một sự tự nguyện mà là một sự bắt buộc; phần bất lợi không mong muốn lại thuộc về người bị thu hồi. Bởi vậy, việc giải quyết thoả đáng lợi ích của người bị thu hồi đất là hết sức cần thiết và quan trọng thể hiện ở việc đền bù thiệt hại về đất và tài sản trên đất bị thu hồi dựa trên cơ sở nào và khoản này lấy từ đâu? Đó là vấn đề chủ yếu cần được xem xét nhằm giải quyết thoả đáng lợi ích cho người bị thu hồi. Lý luận địa tô của Mác vẫn có giá trị lý luận và thực tiễn để giải quyết hai câu hỏi đặt ra trên đây. - Về khoản tiền lấy từ đâu để đền bù thiệt hại đất và tài sản cho người có đất bị thu hồi có thể thấy ngay rằng nó được lấy từ người sử dụng đất mới. Khoản tiền mà người sử dụng đất mới phải trả ít nhất là bằng với số tiền phải đền bù cho người bị thu hồi cả về đất và thiệt hại tài sản nếu cần. - Vấn đề phức tạp hơn là mức đền bù bao nhiêu và dựa trên cơ sở nào để tính toán khoản này. Như chúng ta đều biết, theo lý luận địa tô của Mác thì độ phì nhiêu và vị trí của đất đai là cơ sở cho việc tính toán mức phải trả cho người sử dụng đất. Độ phì nhiêu và vị trí đất đai ở đây bao gồm cả các yếu tố tự nhiên và nhân tạo tức là cả các chi phí đầu tư của con người làm thay đổi độ phì và vị trí của mảnh đất được sử dụng. Bởi vậy, để tính mức phải trả của người sử dụng đất, theo chúng tôi căn cứ vào mấy yếu tố sau đây: - Loại đất bị thu hồi: Loại đất bị thu hồi là dựa trên phân loại đất theo mục đích sử dụng hiện hành như đất nông nghiệp, đất ở, đất đô thị ... đối với các loại đất cần lưu ý tới yếu tố nhân tạo tức là vai trò của con người đã tác động vào những loại đất đó. Ví dụ đối với đất nông nghiệp thì ngoài yếu tố độ phì tự nhiên, cần chú ý đến độ phì nhân tạo, tức là ở địa tô chênh lệch II. Với những yếu tố nhân tạo này cần được xem xét đến vai trò đầu tư của Nhà nước và những chi phí đầu tư của những người sử dụng đất trước đó. - Căn cứ vào loại công trình: Đất sử dụng vào mục đích công cộng và lợi ích quốc gia là đất dùng để xây dựng công trình. Có những công trình vừa phục vụ trực tiếp đời sống vừa có tác dụng trở lại cải tạo đất làm tăng thêm giá trị của đất đai tại một vùng. Việc căn cứ vào loại công trình để tính toán mức phải trả đối với các chủ sử dụng đất và mức đền bù thiệt hại cho người bị thu hồi làm cho chủ các công trình xây dựng phải tính toán kỹ lưỡng nhằm tiết kiệm khoản đầu tư vào đất. - UBND các địa phương và chủ đầu tư xây dựng các công trình sẽ là những người có liên quan trực tiếp đến xem xét các yếu tố, các điều kiện liên quan tới việc quy định mức giá phải nộp, bồi thường, hỗ trợ về đất và tài sản gắn liền với đất khi bị thu hồi để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, an ninh quốc phòng. 2.1.4 Về tái định cư Tái định cư được hiểu là một quá trình đền bù các thiệt hại về đất đai và tài sản, di chuyển, tái định cư, ổn định và khôi phục cuộc sống cho những người dân bị thu hồi đất để xây dựng các dự án nhằm mục đích phát triển. Tái định cư còn bao gồm hàng loạt các hoạt động nhằm hỗ trợ cho những người bị ảnh hưởng do việc thực hiện dự án gây ra, khôi phục và cải thiện mức sống tạo điều kiện phát triển những cơ sở kinh tế và văn hoá - xã hội của họ và cộng đồng. Nói tóm lại, tái định cư là nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế - văn hoá - xã hội đối với một bộ phận dân cư đã gánh chịu vì sự phát triển chung. Vì vậy, các dự án tái định cư cũng được coi là các dự án phát triển và phải được thực hiện như các dự án phát triển khác. Tuy nhiên, trên thực tế đã triển khai nhiều dự án xây dựng khu tái định cư để di dân khi nhà nước thu hồi đất bước đầu ổn định đời sống cho những người phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi đất song quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vấn đề cần được xem xét. - Một số khu tái định cư không đảm bảo điều kiện cơ sở hạ tầng tối thiểu như: Hệ thống điện, nước, đường giao thông, trường hoặc trạm xá ....Từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của những người đến tái định cư nơi này. - Việc bố trí tái định cư chưa quan tâm tới các yếu tố cộng đồng dân cư, các nhóm họ, tập quán sinh hoạt, sản xuất. Ví dụ như người sản xuất nông nghiệp lại chuyển đến khu định cư cao tầng không có tư liệu sản xuất trong khi việc hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm chưa có chế tài chặt chẽ. - Đa số việc xây dựng khu tái định cư còn bị động, đến khi có quyết định thu hồi đất hoặc thậm chí khi tiến hành bồi thường mới quan tâm đến vấn đề tái định cư. Từ chỗ khâu chuẩn bị không được kỹ lưỡng do sự bức bách về thời gian dẫn đến thiếu thốn các điều kiện tối thiểu. - Chưa có quy định tối thiểu về quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất vào khu tái định cư nên người dân không biết mình được hưởng quyền lợi gì. Nhiều khi các khu tái định cư xây dựng xong người dân đăng ký vào ở khi lập dự án nhưng lại không vào mà yêu cầu đền bằng tiền để tự lo chỗ ở mới đã dẫn đến tình trạng thừa chỗ trong khu tái định cư. - Chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của các bên có liên quan trong việc xây dựng khu tái định cư nên có tình trạng khoán trắng cho chủ đầu tư. * Vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định đời sống, sản xuất: Trong những năm trước đây, việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định đời sống, sản xuất dường như không được đề cập tới đã gây nhiều khó khăn cho đời sống của người dân. Tuy nhiên, cũng có hình thức hỗ trợ được thực hiện thông qua hỗ trợ một khoản tiền nhất định đối với mỗi dự án. Khoản tiền này phát huy tác dụng khác nhau: Với người năng động hoặc có khả năng thì nó được phát huy tác dụng thông qua đầu tư sinh lợi, với một số người khác thì khoản tiền đó được tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định sau đó dẫn đến thất nghiệp, ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, đôi khi có người mắc vào tệ nạn xã hội. Vì vậy, vấn đề tạo công ăn việc làm cụ thể cho thu nhập ổn định là mục tiêu phấn đấu trong mọi thời kỳ phát triển. Nó tạo điều kiện ổn định cuộc sống gia đình, ổn định xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Nội dung cơ bản của các chủ trương chính sách trên là: hướng vào tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động, đất đai khu vực nông nghiệp, nông thôn tạo động lực mới cho nông dân phát triển kinh tế hộ gia đình, trang trại, làng nghề, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn đáp ứng yêu cầu cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập; nâng cao chất lượng nguồn lực, sức mạnh cạnh tranh của lao động nông thôn, nông dân; tạo việc làm đầy đủ cho lao động nông thôn, nông dân, nhất là vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nâng cao giá trị việc làm cho nông dân. Các chính sách vĩ mô này góp phần quan trọng, tạo thế chủ động, tích cực để giải quyết vấn đề thu nhập, đời sống việc làm cho người lao động nông thôn nói chung, cho lao động nông nghiệp khi bị thu hồi đất nói riêng. Ngoài các chính sách trên, Nhà nước đã ban hành một số chính sách hỗ trợ người lao động như Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ quy định việc hỗ trợ nông dân khi thu hồi đất nông nghiệp được hỗ trợ trực tiếp kinh phí dạy nghề để chuyển nghề; Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (thay thế Nghị định 22/1998/NĐ-CP); Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành luật đất đai; Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg ngày 27/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. Tuy vậy, việc thực hiện các chủ trương chính sách trên của Nhà nước, đang đối mặt với nhiều thách thức. Vướng mắc lớn nhất trong giải quyết việc làm, thu nhập và đời sống cho người dân có đất bị thu hồi hiện nay là chưa có một khung chính sách đồng bộ để đảm bảo lợi ích cho người dân có đất bị thu. Chính vì thế, việc xây dựng một ._.khung chính sách đồng bộ đang là một vấn đề gây bức xúc. Theo chúng tôi, khung chính sách này bao gồm Chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại; Chính sách tạo việc làm; chính sách tái định cư; Chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích công cộng, xây dựng các khu dân cư; các chính sách xã hội có liên quan. 2.2. Những tác động của việc thu hồi đất đến hộ nông dân 2.2.1. Tác động trực tiếp tới hộ 2.2.1.1. Tác động về việc làm * Tác động tích cực: - Tăng cơ hội việc làm trong các khu, cụm công nghiệp cho hộ nông dân. - Nhiều loại hình dịch vụ phát triển, có cơ hội về việc làm mới nhờ đó nâng cao thu nhập cho hộ nông dân. * Tác động tiêu cực: - Lực lượng lao động có độ tuổi cao, trình độ thấp không có việc làm. - Hộ nông dân do bị thu hồi đất không còn đất sản xuất hoặc chỉ còn lại một phần, sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ không đúng mục đích nên sẽ dẫn tới việc dư thừa lao động, mặt khác một số lao động do không có khả năng chuyển đổi việc làm dẫn tới thất nghiệp. 2.2.1.2. Tác động về thu nhập: * Tác động tích cực: - Khi thu hồi đất thì do được nhận tiền đền bù nên một số hộ có khả năng đầu tư cho phát triển kinh tế nhờ đó thu nhập của họ cũng tăng lên. - Khi các ngành nghề truyền thống của địa phương được khôi phục phát triển và tận dụng được lượng lao động dư thừa, nên thu nhập của các hộ này được tăng lên. - Nhiều loại hình dịch vụ phát triển, có cơ hội về việc làm mới nhờ đó nâng cao thu nhập cho hộ nông dân. * Tác động tiêu cực: - Khi thu hồi đất thì những hộ mất đất do không chuyển đổi được việc làm sẽ không có việc làm từ đó dẫn tới thu nhập ngày càng thấp. - Mặc dù kinh tế xã hội phát triển nhưng bộ phận nông dân do nhượng đất nên không có khả năng tự cung cấp các nhu cầu thiết yếu cho đời sống hàng ngày nên phải mua, dẫn tới mặc dầu thu nhập cao hơn trước, nhưng cuộc sống về vật chất lại thấp hơn trước đây do chi tiêu tăng nhanh hơn thu nhập. 2.2.2. Tác động gián tiếp tới hộ 2.2.2.1. Về mặt xã hội * Tác động tích cực: - Thay đổi bộ mặt văn hoá của địa phương. - Thay đổi nếp sống của cộng đồng theo hướng tốt lên. - Các hộ nông dân có điều kiện tiếp xúc với phương tiện thông tin đại chúng nhiều hơn nên có cơ hội hưởng thụ văn hoá nhiều hơn. * Tác động tiêu cực: - Có thể làm mất đi những phong tục tập quán tốt của địa phương do lối sống đô thị thâm nhập vào. - Nhiều luồng văn hoá, các thành phần xã hội du nhập sẽ làm cho tệ nạn xã hội nhiều hơn. - Sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất sai mục đích, vô tình làm cho các hộ nông dân không chuyển đổi được nghề nghiệp, không đầu tư cho tái sản xuất đẩy họ vào các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, chơi đề… 2.2.2.2. Tác động về môi trường * Tác động tích cực: - Nếu thực hiện việc quy hoạch, xây dựng đồng bộ các cơ sở hạ tầng, hệ thống xử lý chất thải, nước thải sẽ giảm thiểu ô nhiễm môi trường. - Thực hiện thu hồi đất thuận lợi sẽ thúc đẩy công tác đầu tư sản xuất một cách nhanh chóng hơn và đỡ tốn kém trong công tác đầu tư mặt bằng cơ sở hạ tầng. - Góp phần di chuyển một số những cơ sở sản xuất, kinh doanh nằm trong khu dân cư, khu đô thị ra khu, cụm công nghiệp để tránh ô nhiễm môi trường. - Chi phí xử lý chất thải, nước thải bảo vệ môi trường tốn ít chi phí hơn. * Tác động tiêu cực: Khu, cụm công nghiệp, khu dân cư phát triển sẽ kéo theo nhiều loại hình dịch vụ phát triển do đó công tác bảo vệ môi trường không tốt sẽ làm cho môi trường sinh thái xấu đi. Các chất thải tại khu, cụm công nghiệp nếu không quản lý chặt chẽ và có biện pháp xử lý đồng bộ, khoa học sẽ gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới nhân dân. 2.2.2.3. Tác động đến thu ngân sách * Tác động tích cực: - Đáp ứng nhu cầu về đất ở cho các hộ nông dân. - Khi thu hồi đất quy hoạch khu dân cư để giao đất có thu tiền sẽ tạo ra nguồn thu ngân sách chủ yếu cho địa phương để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống của nhân dân. - Khi thu hồi đất quy hoạch khu, cụm công nghiệp tạo ra nguôn thu từ các khoản thuế của các doanh nghiệp cho ngân sách địa phương. * Tác động tiêu cực: Nếu chỉ đạo, quản lý việc thu tiền sử dụng đất dẫn tới những tồn đọng tiền sử dụng đất, sử dụng không đúng mục đích. 2.3. Chính sách thu hồi, đền bù đất qua các thời kỳ 2.3.1. Trước khi có Luật Đất đai 1993 ở nước ta, sau cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lần đầu tiên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ban hành Hiến pháp vào năm 1946. Bản Hiến pháp này chỉ nói đến đất đai một cách khái quát như sau: “... Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là phải bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ...” Đến năm 1953, Nhà nước ta thực hiện cuộc cải cách ruộng đất nhằm phân chia lại ruộng đất thực hiện khẩu hiệu: “Người cày có ruộng” và Luật Cải cách ruộng đất được ban hành. Một trong những mục tiêu đầu tiên của cuộc cải cách là: Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và đế quốc xâm lược ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân. Luật này quy định các điều khoản về tịch thu ruộng đất, trưng thu, trưng mua ruộng đất tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, trên thực tế, việc trưng mua, tịch thu là chủ yếu còn việc trưng mua ít xảy ra với giá cả thị trường và được Nhà nước trả dần. Khi cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành, Đảng và Nhà nước đã đem ruộng đất cho nông dân, hộ nông dân được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất - hình thức sở hữu tư nhân. Sau đó Đảng và Nhà nước ta đã vận động nông dân vào làm ăn tập thể, đồng thời Nhà nước thành lập các nông trường quốc doanh, các trạm trại nông nghiệp - hình thức sở hữu tập thể . Ngày 14/4/1959, Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định số 151 - TTg quy định về thể lệ tạm thời trưng dụng ruộng đất, sau đó Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và Bộ nội vụ ban hành thông tư liên bộ số 1424/ TTLB ngày 06/ 7/1959 về việc thi hành Nghị định số 152/TTg của Chính phủ quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất để làm địa điểm xây dựng các công trình kiến thiết cơ bản với nguyên tắc phải đảm bảo kịp thời và diện tích đủ cần thiết cho công trình xây dựng kiến thiết cơ bản, đồng thời chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống của người có ruộng đất. Đất thuộc sở hữu tư nhân hoặc tập thể khi bị trưng dụng thì thuộc sở hữu của Nhà nước. Theo Nghị định151/TTg, việc đền bù thiệt hại do lấy đất gây nên phải bồi thường hai khoản: về đất thì bồi thường từ 1 đến 4 năm sản lượng thường niên của ruộng đất bị trưng thu. Ngoài ra, còn được bồi thường những tài sản bị thiệt hại có trên đất như nhà, công trình phục vụ sinh hoạt, mồ mả, hoa màu bị thiệt hại. Cách đền bù thiệt hại. Cách đền bù như vậy được thực hiện cho đến khi có Hiến pháp 1980 ra đời. Hiến pháp 1980 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, chính vì vậy việc thực hiện đền bù về đất không được thực hiện mà chỉ thực hiện đền bù những tài sản có trên đất hoặc những thiệt hại do việc thu hồi đất gây nên. Sau đó Luật Đất đai năm 1988 ban hành cũng dựa trên những điều cơ bản đó. Ngày 31/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 186/HĐBT về việc đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi bị chuyển sang sử dụng vào mục đích khác thì phải bồi thường thiệt hại. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào mục đích khác thì phải bồi thường về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước. Khoản tiền này được nộp vào ngân sách Nhà nước và được sử dụng vào việc khai hoang, phục hoá, trồng rừng, cải tạo đất nông nghiệp, ổn định cuộc sống định canh, định cư cho vùng bị lấy đất. 2.3.2. Sau khi ban hành Luật Đất đai 1993 Khi Hiến pháp 1992 ra đời thay thế Hiến pháp 1980 đã quy định : “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Tại Điều 17 quy định : “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”. Và Điều 18 quy định: “Các tổ chức và cá nhân được Nhà nước giao đất sử dụng lâu dài và được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Đặc biệt, tại điều 23 quy định : “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật luật định”. Những quy định trên đã tạo điều kiện củng cố quyền hạn riêng của Nhà nước trong việc thu hồi đất đai cho mục đích an ninh, quốc phòng và các lợi ích quốc gia. Luật Đất đai năm 1993 đã có hiệu lực từ ngày 15/10/1993 thay thế cho Luật Đất đai năm 1988. Đây là văn kiện chính sách quan trọng nhất đối với việc thu hồi đất và đền bù thiệt hại của Nhà nước. Luật Đất đai quy định các loại đất sử dụng ,các nguyên tắc sử dụng từng loại đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Một thủ tục rất quan trọng và là cơ sở pháp lý cho người sử dụng đất là họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà. Chính điều này làm căn cứ cho quyền được đền bù khi Nhà nước thu hồi đất. Tại điều 12 Luật Đất đai năm1993 đã quy định: “Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất. Tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất. Chính phủ quy định khung giá các loại đất đối với từng vùng theo thời gian”. Điều 27 quy định: “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người thu hồi đất được đền bù thiệt hại”. Sau khi Luật Đất đai 1993 được ban hành, Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư và các văn bản pháp quy khác về quản lý đất đai nhằm cụ thể hoá các điều luật để thực hiện các văn bản đó, bao gồm: - Nghị định 90/CP ngày 17/9/1994 quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. - Nghị định 87/CP ngày 17/8/1994 ban hành khung giá các loại đất và Thông tư Liên bộ số 94/ TTLB ngày 14/11/1994 của Liên bộ Tài chính- Xây dựng- Tổng cục Địa chính- Ban vật giá Chính phủ hướng dẫn thi hành Nghị định 87/CP. - Nghị định 22/1998/ NĐ-CP ngày 24/4/1998, thay thế Nghị định 90/CP về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. 2.3.3. Luật sửa đổi một số điều của Luật Đất đai ban hành năm 1998 Về cơ bản, Luật Đất đai sửa đổi năm 1998 vẫn dựa trên nền tảng cơ bản của Luật cũ, chỉ một số điều được bổ sung thêm cho phù hợp với thực tế. Vấn đề định giá đất và công tác đền bù thiệt hại chưa được đề cập nhiều mặc dù hiện nay vấn đề GPMB đang là việc làm hết sức nóng cần giải quyết. Thực tế hiện nay công tác GPMB diễn ra quá chậm và các chính sách chưa rõ ràng. Tháng 10/1999, Cục quản lý Công sản- Bộ tài chính đã tiến hành dự thảo lần thứ nhất về việc sửa đổi bổ sung Nghị định 22/CP về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. trong đó, một số điều cơ bản đã được đề nghị sửa đổi như xác định mức đất để tính đền bù, giá đền bù, lập khu tái định cư, quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải chuyển đến nơi ở mới, các chính sách hỗ trợ và các điều kiện bắt buộc phải có của khu tái định cư, Hội đồng đền bù GPMB và thẩm định phương án đền bù GPMB. - Thông tư 145/1998/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 22/1998/NĐ-CP bao gồm các phương pháp xác định hệ số K, nội dung và chế độ quản lý, phương án đền bù và một số nội dung khác. - Văn bản số 4448/TC-QLCS ngày 04/9/1999 của Cục Quản lý Công sản - Bộ tài chính hướng dẫn xử lý một số vướng mắc trong công tác đền bù GPMB. 2.3.4. Luật Đất đai sửa đổi năm 2001 Theo Luật đất đai sửa đổi năm 2001, cơ bản các nội dung về thu hồi, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất không có gì thay đổi so với Luật đất đai 1993, sửa đổi năm 1998 và cụ thể là Nghị định 22/1998/ NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. 2.3.5. Luật Đất đai năm 2003 Hiện nay, việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng được áp dụng theo Luật đât đai năm 2003. Được cụ thể hoá tại các Nghị định số 181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành luật đất đai; Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (thay thế Nghị định 22/1998/NĐ-CP); Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành luật đất đai; Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg ngày 27/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ ; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. Theo đó, thì khi nhà nước thu hồi đất để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, mục đích công cộng thì phải bồi thường cho người sử dụng đất bằng đất, nếu không có đất thì phải bồi thường bằng giá trị đất tại thời điểm và kèm theo đó là thực hiện các chính sách về hỗ trợ như hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp và hỗ trợ tái định cư. Còn những dự án phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân cơ bản phải chủ đầu tư phải tự thoả thuận với người có đất trên cơ sở giá thị trường... Về cơ bản Luật đất đai năm 2003, quy định về bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất giống như luật cũ. Tuy nhiên, có điều chỉnh, bổ sung một số nội dung cho phù hợp với tình hình thực tế và điều kiện phát triển của đất nước bằng những biện pháp hỗ trợ như hỗ trợ như hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp và hỗ trợ tái định cư. Tất cả mọi mục tiêu của quốc gia là để cho người dân có ăn, có mặc, có chỗ ở ổn định và được học hành nâng cao dân trí để xây dựng đất nước. Nhưng hiện nay, vấn đề thu hồi đất, bồi thường GPMB diễn ra rất chậm, chưa hiệu quả, còn nhiều sai sót gây khiếu kiện trong nhân dân làm ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư, triển khai dự án, đồng thời công tác quy hoạch và quản lý xây dựng còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến tiến độ của các dự án. Mặt khác, các chính sách đất đai đã được đổi mới nhiều song công tác quản lý đất đai ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém. Đối với một số địa phương, công tác GPMB dường như là công việc luôn luôn mới vì chỉ khi có dự án mới thành lập hội đồng đền bù. Hội đồng đền bù thông thường chỉ kiêm nhiệm hoặc điều động tạm thời, thậm chí là hợp đồng ngắn hạn, không có bộ phận chuyên trách thực hiện công việc, do đó khi tích luỹ được chút ít kinh nghiệm là lúc kết thúc dự án. Mặt khác, thường là khi thu hồi đất và giải quyết đền bù thiệt hại về đất đi đôi với việc giải quyết tranh chấp, giải quyết các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai mà trong đó giải quyết những trường hợp sử dụng đất bất hợp pháp là rất khó khăn mang tính chất xã hội phức tạp. Việc đền bù thiệt hại nhìn chung Nhà nước chỉ đền bù về giá trị đất và tài sản trên đất còn cuộc sống của người dân bị mất đất sau thu hồi thì chưa quan tâm triệt để hoặc nếu có thì chỉ mang tính hình thức. Việc đền bù thiệt hại về tài sản có trên đất tiến hành từ trước tới nay khá dễ dàng nhưng vấn đề đền bù thiệt hại đất đai mới được thực hiện sau khi Luật Đất đai 1993 ban hành, tức là khi Nhà nước ban hành chính sách giao đất cho người dân sử dụng ổn định lâu dài. Từ thực tế tình hình quản lý Nhà nước và các chính sách đất đai, chính sách đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất qua các thời kỳ và hiện tại, chúng tôi nhận thấy rằng việc chỉnh lý, bổ sung chính sách bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là cần thiết nhằm góp phần vừa thực hiện công cuộc CNH- HĐH, vừa ổn định đời sống hộ nông dân bị thu hồi đất. 2.4. Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số nước trên thế giới Đối với bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, đất đai là nguồn lực quan trọng nhất, cơ bản của mọi hoạt động đời sống kinh tế - xã hội. Khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho các mục đích của quốc gia đã làm thay đổi toàn bộ đời sống kinh tế của hàng triệu hộ dân và người dân, người bị ảnh hưởng không những không hạn chế về số lượng mà có xu hướng ngày càng tăng. Đặc biệt, ở những nước đang phát triển, người dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp thì đó quả là vấn đề sống còn của họ. Dưới đây là một số kinh nghiệm quản lý đất đai của các nước trên thế giới sẽ phần nào giúp ích cho Việt Nam chúng ta, đặc biệt trong chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng. 2.4.1 Australia (úc) Về mặt diện tích, australia lớn gần bằng Hoa Kỳ, gấp rưỡi Châu âu, bằng 32 lần so với Vương Quốc Anh và lớn hơn Việt Nam 23 lần. Phần diện tích đất liền gồm 7.659.855 km2, diện tích là đảo và 35.877 km bờ biển. Từ khi người châu âu đến định cư tại australia, Nữ hoàng nắm giữ toàn bộ đất đai. Quyền sở hữu đất phụ thuộc vào sự ban phát của Nữ hoàng cho những người nắm giữ và người sử dụng. Trách nhiệm theo hợp đồng bao hàm ý nghĩa rằng người nắm giữ đất đai của Nữ hoàng được quyền hưởng thụ một cách bình thường tuỳ theo chứng thư ban phát. Trong khi ban phát, Nữ hoàng thường quy định một điều khoản dành riêng quyền lấy lại một phần đất cho các mục đích công cộng cho đến khi Nữ hoàng thực hiện quyền lấy lại một phần đất đai đã được ban phát, người chiếm hữu đất đai có quyền “hưởng thụ đất đai một cách tuyệt đối”. Mọi sự thu hồi đất của tư nhân cho Nữ hoàng và những cơ quan có chức trách khác tiến hành đều phải căn cứ vào quyền hạn theo luật định. Theo quyền từ Hiến pháp australia, Chính quyền Liên bang (Chính phủ): “Có quyền ban hành các luật từ việc thu hồi đất theo những điều khoản chính đáng từ bất kỳ bang hoặc cá nhân nào mà Quốc hội có quyền ban hành luật”. Cơ quan chức trách có thể thu lại đất đai bằng hai cách: thoả thuận tự nguyện và cưỡng bức (bắt buộc). Về đền bù, Luật quy định rằng chủ sở hữu sẽ được đền bù thiệt hại do việc thu hồi đất. Hộ nông dân có quyền nhận thanh toán bằng tiền không thấp hơn mức thiệt hại phải chịu những cũng không được cao hơn. Mục đích của việc đền bù là trả cho chủ sở hữu bị lấy đất khoản tương đương với những gì mà hộ nông dân bị lấy đi. Ngoài giá trị thị trường, việc đền bù cần phải tính đến các yếu tố khác mà người bán đất bình thường không thể nhận được từ người mua thông thường, ví dụ như những khiếu nại về việc gây phiền hà - bồi thường phụ thêm (trên và cao hơn giá bán đất thông thường). Về bồi thường thiệt hại, tổng số tiền mà hộ nông dân có thể nhận được nếu bán trên thị trường cộng với các khoản thiệt hại khác sinh ra từ việc lấy lại đất. Bảo đảm cho chủ đất không có quyền sở hữu không bị thiệt hơn và cũng không được lợi hơn trước do việc thu hồi tài sản của anh ta. Luật pháp thừa nhận rằng giá trị ước tính bán đất không thể đủ để bảo đảm cho chủ đất không chịu các thiệt hại khác. Nguyên tắc đền bù: nhìn chung bao gồm: 1. Giá trị thị trường mảnh đất của hộ nông dân. 2. Giá trị đặc biệt dành cho chủ sở hữu cao hơn hoặc trên giá trị thị trường của mảnh đất. 3. Những thiệt hại gây ra khi thu hồi đất. 4. Thiệt hại về việc gây phiền hà. 5. Các khoản chi phí về luật pháp và thẩm định giá. Quy định mức đền bù: Chủ sở hữu có thể khiếu nại của Chính phủ ngay sau khi đất bị thu hồi bằng quá trình bắt buộc. Khoản tiền đền bù cần phải đền bù cho chủ sở hữu một cách công bằng cho việc thu hồi đất. Khi tính toán mức đền bù cần xem xét 6 yếu tố sau: 1. Giá trị thị trường của mảnh đất; 2. Sự chia cắt đất đai; 3. Những phiền nhiễu; 4. Các khoản chi phí về chuyên môn hoặc pháp lý hợp lý; 5. Nếu bạn là người đi thuê, bạn có thể khiếu nại mức đền bù cho giá trị của bất cứ tài sản nào bị ảnh hưởng mà bạn quản lý; 6. Tiền bồi thường về mặt tinh thần - khoản này bồi thường những tác động không nhìn thấy được của việc chuyển ra khỏi nhà mà bạn thuê hoặc sở hữu. Khi bạn sở hữu nhà của bạn và nó bị thu hồi thì chính phủ cũng phải trả khoản đền bù đủ cho bạn có thể mua một ngôi nhà tương đương. Thanh toán khoản đền bù gồm thanh toán ứng trước và thanh toán cuối cùng. Đối với thanh toán ứng trước, Chính phủ sẽ thanh toán cho chủ nhân toàn bộ khoản đền bù một khi đơn khiếu nại đã được xem xét. Nếu Chính phủ không chấp nhận toàn bộ các khoản mục trong đơn khiếu nại thì Chính phủ sẽ thanh toán trước ít nhất là 90% số tiền mà đã được định ra. Đây là một trong những lợi thế của chủ sở hữu thu hồi bắt buộc chứ không phải bị thu hồi theo thoả thuận. Trong thoả thuận này, Chính phủ không phải trả bất cứ khoản tiền nào cho tới khi toàn bộ những vấn đề đàm phán được hoàn tất. Khi đã chấp nhận khoản thanh toán trước thì chủ sở hữu không nhất thiết phải chấp nhận sự định giá của Chính phủ như là mức cuối cùng. Chủ sở hữu vẫn có quyền tiếp tục đàm phán hoặc kháng cáo. Đối với thanh toán cuối cùng, Chính phủ sẽ thanh toán đầy đủ số tiền đền bù ngay sau khi tổng số tiền cuối cùng đã được chấp thuận. Khoản thanh toán cuối cùng này sẽ tính toán cả những khoản thanh toán ứng trước mà chủ sở hữu đã nhận hoặc bất cứ khoản thuế hoặc khoản phải trả khác mà Chính phủ đã thanh toán. Tiền lợi tức sẽ được tính gộp vào khoản thanh toán này và sẽ được tính từ ngày thu hồi đất đến ngày trả tiền đền bù. Lãi suất là mức lãi suất áp dụng cho trái phiếu ngân khố thời hạn 5 năm, tính lãi gộp theo kỳ hạn 3 tháng. Bất kể khoản thanh toán cao hơn nào cũng phải trả lại cho Chính phủ. 2.4.2 Hàn Quốc Luật bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất của Hàn Quốc được chia thành hai thể chế. Một là “đặc lệ” liên quan đến bồi thường thiệt hại cho đất công cộng đã đạt được theo thủ tục thương lượng của pháp luật được lập vào năm 1962. Hai là luật “sung công đất” theo thủ tục quy định cưỡng chế của công pháp được lập vào năm 1975. Tuy nhiên, dưới hai thể chế luật và trong quá trình thực hiện luật “đặc lệ” thương lượng không đạt được thoả thuận thì luật “sung công đất” được thực hiện bằng cách cưỡng chế nhưng như thế thì được lặp đi lặp lại và đôi khi bị trùng hợp cho nên thời gian có thể kéo dài và chi phí bồi thường sẽ tăng lên. Đặc trưng của luật đền bù: Thực hiện luật bồi thường của Hàn Quốc thực hiện theo ba giai đoạn: Thứ nhất: Định giá theo quy định tức là tiền đền bù đất đai sẽ được giám định viên công cộng đánh giá trên tiêu chuẩn giá quy định để thu hồi đất phục vụ cho công trình công cộng. Mỗi năm, Hàn Quốc cho thi hành đánh giá đất hơn 27 triệu địa điểm trên toàn quốc và chỉ định 470.000 địa điểm làm tiêu chuẩn và thông qua đánh giá của giám định để dựa theo đó hình thành giá quy định cho việc đền bù. Giá quy định không dựa vào những lợi nhuận khai thác, do đó có thể bảo đảm khách quan trong việc bồi thường. Thứ hai: Pháp luật có quy định không gây thiệt hại nhiều cho người có quyền sở hữu đất trong quá trình thương lượng chấp nhận thu hồi đất. Quy trình chấp nhận theo thứ tự là công nhận mục đích, lập biên bản tài sản và đất đai, thương lượng chấp nhận thu hồi. Thứ ba: Biện pháp di dời là một đặc điểm quan trọng. Chế độ này được Nhà nước hỗ trợ tích cực về mặt chính sách bảo đảm sự sinh hoạt của con người, cung cấp đất đai cho những người bị mất nơi cư trú do thực hiện công trình công cộng cần thiết của Nhà nước. Đây là công việc có hiệu quả lôi cuốn người dân tự nguyện di dời và liên quan rất nhiều tới việc GPMB. Theo luật bồi thường, nếu như toà nhà nơi dự án sẽ được thực hiện có trên 10 người sở hữu thì phải xây dựng cho các đối tượng này nơi cư trú hoặc hỗ trợ 30% trị giá của toà nhà đó. Còn nếu như các dự án xây dựng chung cư nhà ở thì cung cấp cho các đối tượng này chung cư hoặc nhà ở thấp hơn giá thành. Luật Bồi thường của Hàn Quốc được thực hiện theo ba nguyên tắc trên đối với đất đai, bất động sản và các quyền kinh doanh, nông nghiệp, ngư nghiệp, khoáng sản... để cung cấp tiền bồi thường và chi phí di dời. Chế độ và luật khi thu hồi đất GPMB: Theo luật sung công đất đai thì nếu như đã trả hoặc đặt cọc tiền bồi thường xong nhưng không chịu di dời thì được xem như gây hại cho lợi ích công cộng do đó phải thi hành cưỡng chế giải toả thì được thực hiện quyền thi hành theo luật thực hiện thi hành hành chính và quyền thi hành này phải theo thủ tục pháp lệnh cảnh cáo theo quy định. Thực chất biện pháp GPMB thường bị các thường dân hoặc các người ở thuê phản đối và chống trả quyết liệt gây ảnh hưởng xấu đến xã hội cho nên tốt nhất là phải có sự nghiên cứu tìm ra biện pháp cho dân tự nguyện di dời là hay hơn cả. 2.4.3 Trung Quốc Khi thực hiện thu hồi đất, di dời tái định cư thực hiện nguyên tắc chỗ ở mới tốt hơn chỗ ở cũ. Khu tái định cư được quy hoạch tổng thể (nhà ở, trường học, chợ), cân đối được giao thông động và tĩnh. Trong quá trình thu hồi đất, đền bù, GPMB phải lập các biện pháp xử lý đối với việc sắp xếp bồi thường khi không đạt được thống nhất. Khi không đạt được thống nhất sẽ xử lý theo phương thức trước tiên là dựa theo trọng tài, sau theo khiếu tố. Tiêu chuẩn sắp xếp bồi thường di dời nhà cửa hiện nay của Trung Quốc được thực hiện theo 3 loại: - Loại 1: Lấy theo giá thị trường của nhà đất đối với nhà bị tháo dời cộng thêm với “Giá tăng thêm nhân với diện tích xây dựng của ngôi nhà bị tháo dỡ”. - Loại 2: Đổi nhà theo tiêu chuẩn giá trị, bố trí nhà lấy theo giá thị trường, giá tương đương với giá nhà bị tháo dỡ, di dời. - Loại 3: Bố trí nhà theo tiêu chuẩn diện tích, đây là tiêu chuẩn mà chính quyền quận, huyện nơi có di dời lập ra đối với những người có khó khăn về nhà ở. Người bị di dời có thể chọn hình thức bố trí nhà ở cho phù hợp. Dựa vào khu vực bố trí nhà ở để tăng diện tích, dựa theo phân cấp từng vùng trong thành phố. Càng ra ngoại vi càng được hệ số tăng thêm, mức tăng thêm có thể là 70%, 80% hay 100%. 2.4.4 Nhật Bản Theo vụ phân tích môi trường (JBIC) thì khi thu hồi đất, bồi thường GPMB được chia thành hai cấp độ: Dự án và Quốc gia. ở cấp độ dự án thì việc thực hiện tuyên truyền, thông báo công khai. Sau đó, lấy ý kiến của những người ảnh hưởng ngay từ đầu, có kế hoạch khôi phục cuộc sống và trình bày rõ ràng cho họ hiểu. Tạo điều kiện để người bị di dời đưa ý kiến vào các bản kế hoạch. Có cơ chế giải quyết các vấn đề với sự tham gia của các bên trong suốt thời gian thực hiện dự án. ở cấp độ quốc gia thì ban hành khuôn khổ pháp lý cung cấp một cách thống nhất hướng dẫn cho từng dự án. Vai trò của cơ quan tái định cư, đặc biệt là chính quyền địa phương rất quan trọng. Khi thực hiện thu hồi đất để thực hiện dự án xa lộ tại thành phố Hồ Chí Minh, JBIC phải di dời 6000 hộ gia đình. Chính sách của tổ chức này là bồi thường và hỗ trợ cho việc di dời, có nhiều lựa chọn cho tái định cư (22 vị trí với kết cấu hạ tầng sẵn sàng cho dự án tự cân đối, bố trí), làm rõ các khoản đền bù và tái định cư, phí chuyển dời, di dời, tái hoà nhập và phục hồi thu nhập. 2.5. Thực trạng thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng ở một số địa phương trong nước 2.5.1 Hà Nội Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá tại thủ đô hà nội tăng với mức độ đáng kể. Có 130 dự án đủ điều kiện GPMB, hoàn thành và GPMB được 64 dự án, diện tích đất thu hồi 349 ha, chi trả 438 tỷ đồng liên quan đến 11.450 hộ. Năm 2006 có 257 dự án đủ điều kiện GPMB, đã GPMB được 159 dự án và bàn giao cho chủ đầu tư với diện tích 733 ha, chi trả 768 tỷ đồng, liên quan đến 22.662 hộ, bố trí tái định cư cho 1.602 hộ. Năm 2007 có 309 dự án đủ điều kiện GPMB, thực hiện bàn giao 194 dự án với diện tích 1.003 ha, chi trả 930 tỷ đồng, liên quan đến 27.767 hộ, số hộ bố trí tái định cư là 969. Năm 2008, trên địa bàn toàn Thành phố có 353 dự án có liên quan đến GPMB. Diện tích đất phải thu hồi là 2.123 ha, liên quan đến 49.079 hộ dân, trong đó, nhu cầu bố trí tái định cư gần 9.000 hộ. Công tác đền bù, tái định cư, GPMB gặp nhiều khó khăn ách tắc do dân chưa nhất trí với giá đền bù thiệt hại, chủ đầu tư chưa làm đúng quy trình thủ tục thu hồi đất hoặc chưa thanh toán dứt điểm tiền đền bù theo phương án đã phê duyệt. Cụ thể, dự án vành đai 3 liên quan đến 1.000 hộ dân có đất thổ cư nhưng chưa xác định được khu tái định cư nên khó GPMB. Ngoài ra, cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chức năng chưa đồng bộ, việc tổ chức đào tạo nghề và chuyển đổi sản xuất cho vùng nông thôn thu hồi nhiều đất và tuyển dụng lao động tại chỗ vào làm ở các dự án còn gặp không ít khó khăn. 2.5.2 Đà Nẵng Những năm qua, tốc độ đô thị hoá ở Đà Nẵng đã diễn ra khá nhanh, đặc biệt là tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, phát triển mạng lưới giao thông. Đà Nẵng đã xây dựng trên 40 khu tái định cư, khu dân cư mới với tổng diện tích trên 500 ha, giải quyết chỗ ở cho 15.000 hộ gia đình. Giá đất ở Đà Nẵng trong những năm gần đây đã tăng gấp 4-5 lần so với trước, cá biệt có khu vực tăng gấp 10 lần. Lợi dụng sự xáo trộn về chỗ ở của người dân, sự tiêu cực của một số cán bộ dự án, chính quyền cơ sở... , tư thương, cò và những tay đầu cơ nhà đất đã tạo nên tình trạng giá đất ở thị trường Đà Nẵng tăng liên tục, tại khoảng cách chênh lệch giá từ 20-50 %, thậm chí có nhiều nơi còn tăng trên 100% so với khung giá quy định của Nhà nước. Đã nảy sinh nhiều hình thức gian lận trong công tác giải toả, bố trí khu tái định cư, mua bán, sang nhượng đất ở Đà Nẵng. Cụ thể là hiện nay tại các khu đô thị mới ở Khuê Trung, Hoà Cường (quận Hải Châu), khu Hoà Minh (quận Liên Chiểu), khu Mân Thái, Thọ Quang (quận Sơn Trà)... các hộ dân thuộc vị trí giải toả đã bằng mọi hình thức “nhảy dù”, xây nhà tạm chiếm đất đến việc tách hộ, chia khẩu trái phép, gây khó khăn cho công tác kiểm định, đền bù và bố trí tái định cư, trở ngại tiến độ cho các dự án ... Cho đến thời điểm hiện nay, Đà Nẵng là địa phương đi đầu trong cả nước về làm tốt công tác thu hồi đất, đền bù GPMB. Có nơi ở Đà Nẵng, người dân đã “hiến đất” cho Nhà nước không lấy tiền đền bù vì số đất còn lại sau này bám đường sẽ lên giá rất cao. Tuy nhiên, không phải ở đâu người dân cũng làm được chuyện đó vì theo ông Nguyễn Bá Thanh - Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng chỉ đạo khi có quyết định xong một dự án quy hoạch, ngay lập tức cho thông báo công khai trên báo, đài bởi nếu làm đường thì._.ng trưởng kinh tế cao hơn, đưa đất nước tiến nhanh hơn trên con đường dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. + Về phía nhà đầu tư, có thể nói là Nhà nước với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng và lợi ích quốc gia, có thể đó là chủ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau (doanh nghiệp, công ty cổ phần, công ty TNHH…), do mua quyền sử dụng đất của dân nên sẽ có đất để phát triển khu công nghiệp, phát triển các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh, thu lợi nhuận cao hơn khi chưa vào khu công nghiệp. + Về phía người dân bị thu hồi đất, thu hồi đất vì lợi ích phát triển đất nước nhưng nó có ảnh hưởng đến lợi ích cơ bản và có thể nói là sống còn của mỗi người dân có đất bị thu hồi. Họ sẽ không còn ruộng đất để sản xuất, mất việc làm truyền thống mà họ quen thuộc, làm cho cuộc sống bị xáo trộn, do đó nếu không đảm bảo cho họ được việc làm, có thu nhập thường xuyên và ổn định thì sẽ lâm vào cảnh khó khăn. Chính vì thế, trong quá trình thu hồi đất để phục vụ khu công nghiệp, giải quyết việc làm, thu nhập, đời sống cho người dân có đất bị thu hồi là vấn đề đặt ra hàng đầu hiện nay. -Thứ ba: Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên giải quyết việc làm, thu nhập và đời sống cho người dân có đất bị thu hồi phục vụ quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá phải được thực hiện cơ chế kinh tế thị trường, nguyên tắc pháp luật và chính sách phù hợp. Chính vì thế giải quyết việc làm, thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi cũng phải đảm bảo tuân thủ hai yêu cầu. + Phải tuân theo nguyên tắc thị trường để thực hiện việc bồi thường, đền bù thu hồi đất, xây dựng các khu tái định cư, giải quyết việc làm thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi. Điều này thể hiện trứơc hết ở giá cả đền bù giải toả và giá đất, giá đất khu tái định cư phải được hình thành trên nguyên tắc thoả thuận giữa Nhà nước với người dân. Đồng thời theo nguyên tắc thị trường, cũng đòi hỏi người lao động phải nâng cao tính chủ động trong việc tìm kiếm việc làm, sử dụng tiền đền bù để có thu nhập ổn định, cùng Nhà nước giải quyết vấn đề bức xúc về việc làm thu nhập và sớm ổn định đời sống của bản thân và gia đình. + Phải tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước thông qua việc hoàn thành hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế tạo nên sự đồng bộ hợp lý của hệ thống chính sách giải quyết lợi ích cho người nông dân và các doanh nghiệp. - Thứ tư: Đảm bảo việc làm thu nhập và đời sống cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất là trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương và cơ sở của các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, của các doanh nghiệp và của mọi người dân có liên quan. Phát huy tính chủ động, năng động sáng tạo của người dân bị thu hồi đất trong học nghề và tự tạo việc làm và tham gia thị trường lao động. Chính vì thế, trong quá trình thực hiện cần tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo của chính quyền các cấp trong việc thực hiện các phương án đền bù, đề án dạy nghề tạo việc làm cho người lao động trong vùng chuyển đổi đất, phải thực hiện công khai, minh bạch về quy hoạch kế hoạch và nguồn tài chính, có cơ chế tham gia, giám sát của người dân, tránh tiêu cực, tham nhũng. - Thứ năm: Thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho việc xây dựng cụm công nghiệp, khu dân cư phát triển kinh tế xã hội phải gắn với việc gìn giữ phong tục, tập quán truyền thông, đảm bảo ổn định xã hội và đặc biệt là bảo vệ môi trường. Trong thời gian qua, việc phát triển các khu, cụm công nghiệp, các khu dân cư ở nhiều nơi đã có phần nào ảnh hưởng tới tình hình xã hội như tệ nạn xã hội, nhiều luồng văn hoá không lành mạnh du nhập đã làm mai một một số phong tục, tập quán truyền thống, tình hình ô nhiễm môi trường do chất thải của các khu dân cư, cụm công nghiệp…Chính vì vậy đòi hỏi các cấp, các ngành, các doanh nghiệp phải cùng phối hợp giải quyết đảm bảo giữa phát triển kinh tế phải gắn với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường bền vững. 4.3.2. Các giải pháp giải quyết tác động của thu hồi đất 4.3.2.1. Đào tạo lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập: - Thứ nhất: Thực hiện đồng bộ các chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại, chính sách tạo việc làm, chính sách tái định cư, chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dung vào các mục đích phát triển khu công nghiệp, khu đô thị. - Thứ hai: Rà soát lại quy hoạch sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch đất nông nghiệp gắn với kế hoạch dạy nghề, tạo việc làm, đặc biệt gắn với kế hoạch tuyển lao động tại chỗ, trước hết cho thanh niên để có kế hoạch đào tạo họ cho phù hợp với ngành nghề và cơ cấu lao động của doanh nghiệp, nhất là phải thể chế hoá cam kết của người sử dụng đất về thu hút lao động tại chỗ. - Thứ ba: UBND huyện xây dựng quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch cụm công nghiệp và quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của huyện để làm căn cứ tổ chức thực hiện. Trong đó có quy hoạch mạng lưới đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho hộ nông dân bị thu hồi đất. Khắc phục tình trạng đất đã được thu hồi nhưng không thể triển khai dự án theo đúng tiến độ hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng cũng không triển khai xây dựng dẫn đến dân mất đất không có việc làm, còn doanh nghiệp cũng không thu hút được lao động vào làm việc. - Thứ tư: Thống kê, rà soát lại tình hình lao động, việc làm ở những khu vực có đất bị thu hồi, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo lao động ở địa phương, xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020 để tạo việc làm cho dân cư. Quy hoạch và xây dựng khu dân doanh giáp cụm công nghiệp Đồi Ngô - Già Khê để phục vụ cho việc kinh doanh dịch vụ. Trong đó ưu tiên cho các hộ bị thu hồi đất được thuê ki ốt để kinh doanh. - Thứ năm: Đầu tư đào tạo dạy nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là lớp đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, ngân sách hỗ trợ kịnh phí đào tạo, lựa chọn ngành nghề trình độ đào tạo phù hợp với hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Quy định việc sử dụng bắt buộc các và các mức lương thuê khoán và lao động kỹ thuật định trong những ngành nghề. Thực hiện các chương trình xuất khẩu lao động sang các nước làm việc có thời hạn, hỗ trợ tích cực cho lao động nông thôn học nghề và tham gia đi xuất khẩu lao động để có việc làm, được đào tạo thực hành tay nghề và có vốn tích luỹ phát triển kinh tế gia đình. - Thứ sáu: Huy động các nguồn vốn như Chương trình 134, 135, JIBIC...để giải quyết lao động việc làm nông thôn, phải huy động đồng bộ cả nguồn vốn tại chỗ để nhanh chóng mở rộng quy mộ sản xuất và tiếp cận được kỹ thuật và công nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, muốn vậy phải có chính sách ưu đãi, khuyến khích thu hút nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp và tư nhân, thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài bằng các chính sách lãi xuất cho thuê đất đai, chính sách thuế xuất nhập khẩu, thuể sản xuất và chế biến nông, lâm thuỷ sản, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn (điện, giao thông, thông tin liên lạc, dịch vụ thương nghiệp). - Thứ bảy: Đề nghị Chính phủ và UBND tỉnh: Cần phải sửa đội Nghị định số 17 của Chính phủ theo hướng giá đất áp dụng cho bồi thường, đảm bảo lợi ích trước mắt và thiết yếu cho hộ nông dân, giá đất thu hồi phải được xác lập trên nguyên tắc thoả thuận giữa người dân với các cơ quan thực thi của Nhà nước; Bổ sung vào Luật đất đai và các Nghị định của Chính phủ về trách nhiệm của Nhà nước các cấp có liên quan đến vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo đối với người dân có đất bị thu hồi, chính sách hỗ trợ giao đất ở hoặc đất kinh doanh dịch vụ cho người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi cho phù hợp với điều kiện địa phương. - Thứ tám: Đối với các doanh nghiệp, chủ đầu tư các khu công nghiệp khi tiếp nhận dự án đầu tư. UBND huyện phải có cơ chế hỗ trợ công tác giải phóng mặt bằng và yêu cầu các công ty phải có cam kết đào tạo, sử dụng lao động địa phương vào làm việc tại các công ty, ưu tiên con em những hộ bị thu hồi đất nông nghiệp, ưu tiên các dự án sử dụng nhiều lao động địa phương, quy định cụ thể thời gian sử dụng lao động có đất bị thu hồi của địa phương làm việc trong các doanh nghiệp để khắc phục tình trạng thu hút lao động chỉ là hình thức để rồi sau một thời gian ngắn lại sa thải. Khi xây dựng phương án đầu tư của từng dự án phải ghi rõ các khoản chi phí đào tạo nghề cho người có đất bị thu hồi một cách cụ thể, rõ ràng công khai để người dân biết và giám sát quá trình thực hiện. Chủ động phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ sở đào tạo để tuyển sinh, tổ chức các lớp dạy nghề cho người dân có đất bị thu hồi tại doanh nghiệp. 3.3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, phương hướng sản xuất, kinh doanh cho hộ nông dân: - Thứ nhất: Xây dựng và bổ sung các quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông – lâm nghiệp – nuôi trồng thuỷ sản cho phù hợp với tình hình thực tế tại mỗi địa phương và trong điều kiện đất đai bị thu hẹp. - Thứ hai: Xây dựng cơ chế hỗ trợ và vận động nông dân đầu tư thâm canh để hình thành vùng sản xuất tập trung; đưa cây công nghiệp ngắn ngày và cây nguyên liệu chế biến vào cơ cấu luân canh; áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ từ khâu giống đến khâu chăm sóc, bảo quản, chế biến. - Thứ ba: Hình thành và tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho các hộ nông dân như tổ chức các hội trợ giới thiệu sản phẩm, phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn; áp dụng công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực bảo quản, chế biến và cơ chế hỗ trợ những dự án đầu tư về bảo quản, chế biến nông sản cho hộ nông dân. - Thứ tư: Hỗ trợ khôi phục và phát triển những ngành nghề là thế mạnh và có tiềm năng của địa phương bằng việc đầu tư kinh phí, công nghệ tiên tiến, tìm đầu ra cho sản phẩm và ưu đãi về thuế. 4.3.2.3. Sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ có hiệu quả - Thứ nhất: Tích cực tuyên truyền, định hướng sử dụng nguồn vốn này cho các hộ ngay từ khi thực hiện thông báo chủ trương thu hồi đất cho đến khi quyết định thu hồi đất và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB. Để các hộ thấy rõ được bản chất của nguồn kinh phí này, tập trung đầu tư cho tái sản xuất, chuyển đổi ngành nghề để tạo ra thu nhập mới thay thế cho thu nhập từ chính mảnh đất của các hộ đã bị thu hồi. - Thứ hai: Có cơ chế lãi suất ưu đãi đối với các hộ gửi tiền từ kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi không đầu tư sản xuất. Tạo ra những ngành nghề mới, lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ, sở đào tạo nghề để có thể thống nhất với người bị thu hồi đất chuyển khoản kinh phí của họ được nhận cho những nội dung trên để hạn chế việc thanh toán bằng tiền mặt cho các hộ. - Thứ ba: Số tiền đền bù do thu hồi đất chia thành 2 phần, một phần giao cho người dân xây dựng nhà cửa và chi dùng vào những việc thật cần thiết, phần còn lại lớn hơn có thể được góp vốn với doanh nghiệp dưới hình thức mua cổ phần, hoặc gửi vào ngân hàng hoặc mua bảo hiểm. Với cách làm này, người dân sau khi bị thu hồi đất, vẫn chưa được chia lợi nhuận từ kết quả sản xuất công nghiệp, kể cả có việc làm ngay trên mảnh đất của mình hoặc nhận được lãi suất tiền gửi để có thu nhập ổn định. 4.3.2.4. Giữ gìn phong tục tập quán, hạn chế tệ nạn xã hội - Thứ nhất: Bên cạnh phát triển những ngành nghề công nghiệp – TTCN, dịch vụ thì duy trì và phát triển những ngành nghề truyền thống của địa phương. Giải quyết tốt vấn đề định hướng chuyển đổi ngành nghề, đào tạo lao động và giải quyết việc làm cho những lao động do tác động của thu hồi đất nông nghiệp. - Thứ hai: Tích cực tuyên truyền bằng nhiều hình thức để người dân thấy được những tác hại của những luồng văn hoá xấu du nhập. Đồng thời, các cấp chính quyền xử lý nghiêm những tệ nạn xã hội, không để bùng phát, lan rộng trong nhân dân. 4.3.2.5. Bảo vệ môi trường - Thứ nhất: Kiện toàn hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về môi trường với chức năng và trách nhiệm rõ ràng, có quy chế đầu tư và giám sát chặt chẽ hoạt động của tổ chức này. Gắn việc xây dựng chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường cho giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với chiến lược công nghiệp hoá về kinh tế xã hội đảm bảo phát triển nganh mạnh nhưng bền vững về môi trường môi trường. Thực hiện đầy đủ luật bảo vệ môi trường có chế độ xử phạt nghiêm đối với các vi phạm. - Thứ hai: Thiết lập mối quan hệ mang tính lồng ghép trong nghiên cứu và phát triển của các cơ quan quản lý vĩ mô về kinh tế và môi trường, hoàn chỉnh hệ thống thôn tin về môi trường, thể chế hoá việc điều tra môi trường trong nội dung điều tra cơ bản với vai trò đầu mối của cơ quan thống kê. - Thứ ba: Xây dựng tiếp và hoàn thiện việc đánh giá tác động môi trường của các chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý và khai thác có hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên. Đưa hệ thống quan trắc môi trường vào thực thi với sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước. Khi chấp thuận dự án đầu tư của các đơn vị tại cụm công nghiệp phải có Báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc đề án bảo vệ môi trường. - Thứ tư: Bước đầu quan tâm giải quyết các vấn đề môi trường nông thôn như: Cải thiện điều kiện sinh thái ruộng đồng canh tác, sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu, nguồn nước, chất thải và vệ sinh nông thôn. Thực hiện có kết quả nhiều chương trình, dự án như: chương trình PAM, chương trình 327, chương trình 5 triệu ha rừng, nhằm nâng cao độ che phủ của rừng. - Thứ năm: Xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng thu gom, xử lý, tiêu thoát nước thải tại cụm công nghiệp, khu dân dư trước khi thải vào hệ thống tiêu thoát chung. Đồng thời, tại các cụm công nghiệp, khu dân cư phải có tổ đội thu gom rác thải đến nơi quy định. - Thứ sáu: Ngân sách địa phương có cơ chế hỗ trợ ưu tiên cho xử lý chất thải tại cụm công nghiệp bằng nguồn kinh phí 1% thu ngân sách địa phương. Cùng với đó là sự đóng góp của các đơn vị trong cụm công nghiệp để thực hiện tốt công tác xã hội hoá trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. 4.3.3.6. Về tổ chức thực hiện GPMB: - Thứ nhất: UBND huyện thành lập Hội đồng bồi thường, giải phóng mặt bằng để chỉ đạo các xã, thị trấn tổ chức thực hiện. Tổ chức họp dân để lấy ý kiến trước khi tiến hành lập phương án tổng thể để đi đến thu hồi đất, nhằm đảm bảo dân chủ, công khai và tập hợp các ý kiến đóng góp và nguyện vọng của hộ nông dân để thống nhất giải quyết. - Thứ hai: Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục từ các cơ quan đoàn thể để hỗ trợ như Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến binh, hội nông dân, hội liên hiệp phụ nữ các cấp và cá tổ chức đoàn thể khác trong việc phối hợp với chính quyền động viên thuyết phục và hướng dẫn người dân có đất bị thu hồi thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Phần 5 Kết luận và kiến nghị 5.1. Kết luận: 1. Tác động trực tiếp tới hộ: - Về lao động, việc làm: Khi thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng cụm công nghiệp, khu dân cư có tác động tới lao động và việc làm của hộ nông dân theo hướng: Số lao động có việc làm tăng lên đối với những lao động có tay nghề, ở độ tuổi lao động trẻ và thời gian lao động thường tập trung ở 9 đến 10 tháng/năm. Bên cạnh đó thì số lượng lao động không có việc làm cũng tăng lên tập trung ở lao động không có tay nghề, không được đào tạo, tuổi lao động cao và thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trình độ của lao động cũng được tăng lên sau khi thu hồi đất do đòi hỏi của công việc mới cần phải có trình độ cao hơn, đi đào tạo để tìm kiếm việc làm mới khi mà đất nông nghiệp bị thu hẹp, nếu không sẽ thất nghiệp không có việc làm. - Về dịch chuyển cơ cấu ngành nghề: Sau khi thu hồi đất lao động trong lĩnh vực nông nghiệp giảm chuyển sang các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề. Điều đó là tất yếu khi mà diện tích đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất của hộ nông dân nay bị thu hẹp thì một lực lượng lao động phải chuyển sang ngành nghề khác. Trong đó, tập trung chuyển dịch cơ cấu ngành nghề sang dịch vụ và công nhân tại cụm công nghiệp là chủ yếu. - Về thu nhập của hộ nông dân: Khi thu hồi đất sản xuất nông nghiệp đã có tác động đến thu nhập và cơ cấu thu nhập của hộ nông dân theo hướng thu nhập tăng lên, mặc dù thu nhập từ ngành nông nghiệp giảm. Có được điều đó là khi thu hồi đất đã làm giảm diện tích đất sản xuất và một bộ phận lao động đã chuyển sang làm việc tại một số lĩnh vực khác có thu nhập cao hơn như công nhân, dịch vụ, ngành nghề và đi lao động ở nước ngoài. Sau khi thu hồi đất thì nhóm hộ giàu, khá có thu nhập cao hơn và tập trung vào các ngành, nghề mới chuyển đổi sang như dịch vụ, làm công nhân, nghề của cả nhóm hộ bị thu hồi đất và nhóm không bị thu hồi đất. Nhóm bị thu hồi đất có tác động lớn hơn nhóm không bị thu hồi đất. Điều này chứng tỏ sự tác động tới thu nhập và cơ cấu thu nhập khi thu hồi đất ảnh hưởng tới cả xã hội ở các mức độ khác nhau. Trong cả 2 nhóm bị thu hồi đất và không bị thu hồi đất thì nhóm hộ nghèo chịu sự tác động theo hướng thu nhập giảm đi do mức độ chuyển đổi ngành nghề ở nhóm hộ này là hạn chế. - Về phương hướng sản xuất, kinh doanh: Khi thu hồi đất nông nghiệp đã tác động đến phương hướng sản xuất, kinh doanh. Nhóm hộ có diện tích mất càng nhiều thì sự dịch chuyển về phương hướng sản xuất kinh doanh của hộ, lao động trong hộ theo hướng chuyển dịch lực lượng lao động từ nông nghiệp sang ngành nghề, công nhân và dịch vụ. Trong đó sự dịch chuyển diễn ra ở cả các nhóm hộ bị thu hồi đất và nhóm hộ không bị thu hồi đất, nhưng ở nhóm hộ bị thu hồi đất và càng thu hồi nhiều đất thì sự dịch chuyển càng nhanh. - Việc sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ của hộ nông dân: Chủ yếu tập trung vào cho việc mua đất ở trong khi nhu cầu đất ở của các hộ chưa bức thiết, chi tiêu cho xây dựng, sửa chữa nhà, mua sắm tiện nghi; Đầu tư cho tái sản xuất, chuyển đổi ngành nghề, tìm việc làm mới chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Do vậy dẫn đến tình trạng sau khi đã chi tiêu hất số tiền đó, trong khi diện tích đất sản xuất đã bị thu hẹp thì hộ nông dân sẽ gặp rất nhiều khó khăn như thất nghiệp, lao động không có việc làm, không có thu nhập trong khi các công ty trong cụm công nghiệp chỉ giải quyết được một số lượng lao động nhất định (lao động trẻ, có trình độ, tay nghề), kéo theo hệ luỵ là tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, chộm cắp, phạm pháp hình sự sảy ra làm ảnh hưởng tới cộng đồng và xã hội. 2. Tác động gián tiếp tới hộ: - Tình hình tệ nạn xã hội sau khi thu hồi đất tăng lên so với trước khi thu hồi đất như ăn chơi, cờ bạc, rượu chè... Sự du nhập nhiều luồng văn hoá từ bên ngoài vào do có cụm công nghiệp hình thành làm thay đổi một số phong tục tập quán như con cái, cháu chắt lễ phép với ông bà, cha, mẹ bị giảm xút; ý trí vượt khó khăn cần cù lao động bị giảm xuống thay vào đó là sự hưởng thụ ngại vượt khó; việc cưới, việc tang mang tính chất công nghiệp tốn kém, tình cảm vợ chồng giảm xút... Đã làm ảnh hưởng tới toàn xã hội, mà trước hết tác động và ảnh hưởng lớn nhất là các hộ bị thu hồi đất và kể cả các hộ không bị thu hồi đất. - Sau khi thu hồi đất môi trường sống bị ô nhiễm và suy giảm so với trước khi thu hồi đất do tình trạng chất thải tại cụm công nghiệp, khu dân cư. Trong đó, tập trung chủ yếu là các công ty tại cụm công nghiệp chưa có hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung, trong sản xuất kinh doanh mới chỉ chú trọng tới lợi ích kinh tế, chưa chú ý, quan tâm đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ, đời sống của hộ nông dân, gây bức xúc, đơn thư phản ánh kiến nghị của nhân dân. - Thu hồi đất để quy hoạch khu dân cư tạo ra khoản thu ngân sách từ tiền sử dụng đất đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng phục vụ đời sống, sản xuất của hộ nông dân được tốt hơn. 5.2. Kiến nghị: Để vừa đảm bảo cho việc thu hồi đất phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, vừa giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người dân có đất bị thu hồi được thực hiện tốt, thực sự có hiệu quả chúng tôi xin kiến nghị một số việc sau đây: 1. Đối với Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền: - Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải gắn với lập quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội của địa phương, quy hoạch hệ thống thu gom, xử lý chất thải và chiến lược đào tạo lao động cho các vùng quy hoạch trước khi thu hồi đất. Chấm dứt tình trạng việc sử dụng tuỳ tiện và thiếu kế hoạch cũng như một số địa phương rơi vào tình trạng quy hoạch treo. - Nhà nước đã có cơ chế xây dựng quỹ đào tạo nghề cho những người có đất bị thu hồi trên 50% diện tích đất nông nghiệp. Nên có cơ chế xây dựng quỹ đào tạo nghề cho tất cả những người có đất bị thu hồi và căn cứ vào tỷ lệ diện tích bị thu hồi để hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất trong việc đào tạo nghề. - Nhà nước cần rà soát lại toàn bộ các chính sách có liên quan đến việc thu hồi đất, đền bù tái định cư, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi cho phù hợp với từng điều kiện của mỗi địa phương. Tập trung vào một số vấn đề: một là quy định giá đền bù cho sát với giá thực tế hơn; hai là về cơ bản chuyển số lao động bị thu hồi đất sang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ; ba là nghiên cứu cách trả tiền đền bù cho dân sao cho hợp lý, để số tiền ấy không bị sử dụng một cách lãng phí, tạo ra cuộc sống ổn định, lâu dài cho người dân; bốn là quy định thời gian được phép điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sử dụng đất cho phù hợp để tránh quy hoạch treo; năm là có chế tài với những trường hợp không phải nhà nước thu hồi đất mà do tự thoả thuận giữa người dân và doanh nghiệp. - Nhà nước cần có cơ chế để huy động tất cả các cơ quan, các đoàn thể và các tổ chức xã hội cùng tích cực tham gia vào việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập và ổn định đời sống của người dân có đất bị thu hồi. Làm sao để các cơ quan đoàn thể có liên quan phải coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng của họ. - Nhà nước cần phải quy định cụ thể các dự án khi muốn đầu tư vào khu, cụm công nghiệp phải thực hiện đồng bộ vừa đầu tư sản xuất, kinh doanh, vừa phải thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải như Báo cáo đánh giá tác động môi trường và Bản cam kết bảo vệ môi trường khi nào hoàn thiện mới được hoạt động. 2. Đối với doanh nghiệp trong cụm công nghiệp, cần quan tâm hơn đối với lao động của những hộ bị thu hồi đất nói riêng và lao động của địa phương nói chung. Cần thực hiện nghiêm túc những yêu cầu của địa phương sau khi đã thu hồi đất. Bên cạnh đó cũng cần phải quan tâm hỗ trợ kinh phí xây dựng công trình hạ tầng công cộng của địa phương và thực hiện đầy đủ các nội dung cam kết bảo vệ môi trường. 3. Đối với chính quyền địa phương trước hết phải căn cứ vào chiến lược quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước để xây dựng cho mình một quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất hợp lý với tình hình cụ thể của địa phương, đảm bảo cho việc sử dụng đất ở địa phương thực sự có hiệu quả. Mặt khác cần tích cực tuyên truyền cho người dân hiểu được ý nghĩa khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp, khu dân cư. Ngoài ra chính quyền địa phương cũng cần phải thoả thuận chặt chẽ hơn đối với các công ty đặt cơ sở trên địa bàn xã, đặc biệt là vấn đề lao động, việc làm khi thu hồi đất và công tác bảo vệ môi trường. 4. Đối với hộ nông dân, trước hết cần phải ủng hộ chủ trương thu hồi đất phục vụ cho việc phát triển kinh tế – xã hội, tự mình tìm ra hướng đi mới, năng động, sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm nhằm phát huy hết khả năng vốn có để vươn lên làm giàu chính đáng trong điều kiện ruộng đất bị thu hẹp. Tài liệu tham khảo Bạch Song Lân, Nghiên cứu, đánh giá thực hiện chính sách đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn đô thị thị xã Hoà Bình, Tỉnh Hoà Bình, Luận văn thạc sỹ khoa học. Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam (1968), NXB KHXH, Hà Nội. Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg ngày 27/3/2006 của Thủ tướng chính phủ về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đỗ Kim Chung (2003) giáo trình dự án phát triển nông thôn, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội 2006. Đỗ Kim Chung, Phát triển văn hoá - xã hội và bảo vệ môi trường ở nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Kỷ yếu khoa học nghiên cứu kinh tê nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội -2002. Hội KHKT Xây dựng Việt Nam (2002), Kỷ yếu hội thảo đền bù và Giải phóng mặt bằng các dự án xây dựng ở Việt Nam, Bộ xây dựng, Hà Nội. Giá đất đến bù chưa tìm được giải pháp cụ thể. tìm giải pháp cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp. tuc/chinh sach/2009/07/389AE627, Giá đất bồi thường cao hơn hai lần giá đất. Quỹ hỗ trợ người bị thu hồi đất tiền chỉ nằm trên giấy. Giá đất đến bù chưa tìm được giải pháp cụ thể. tìm giải pháp cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp. tuc/chinh sach/2009/07/389AE627, Giá đất bồi thường cao hơn hai lần giá đất. Quỹ hỗ trợ người bị thu hồi đất tiền chỉ nằm trên giấy. Nguyễn Văn Xa, Giá đền bù đất phải phù hợp với thực tế chuyển nhượng. Hoàng Tuấn Lâm, Nghiên cứu tác động của xây dựng khu công nghiệp Bắc Vinh tới việc làm và thu nhập của hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở xã Hưng Đông, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Luật cải cách ruộng đất năm (1953). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm (1998). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm (2001). Luật đất đai (2003) Lê Du Phong (2005), Thực trạng thu nhập đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và nhu cầu cộng đồng và lợi ích quốc gia, đề tài cấp Nhà nước. Lệ Huyền, Giải phóng mặt bằng ở Hà Nội vẫn còn nhiều bất cập, Báo công an nhân dân số 1612/2003. Lê Thu Hoa (2007), Phát triển các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội và vấn đề việc làm cho các lao động có đất bị thu hồi. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 352, số ra tháng 9 năm 2007. Nghị định 64 /CP (27/9/1993) của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Nghị định 90/CP (17/8/1994) của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Nghị định số 181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành luật đất đai năm 2003. Nghị định số 17/2006/NĐ - CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 04/4/1998 của Chính phủ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Nghị định số 84/2007/NĐ - CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ về quy định bổ sung về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết số 16/2008/NQ – HĐND ngày 08/7/2008 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang về thành lâp quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho người dân khi nhà nước thu hồi 50% đất sản xuất nông nghiệp trở lên. Ngô Văn Hải, Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng lao động nông thôn trong sự nghiệp CNH và HĐH đất nước Kỷ yếu khoa học nghiên cứu kinh tê nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội -2002. Nguyễn Văn Song, Vũ Thị Phương Thuỵ, Giáo trình kinh tế tài nguyên môi trường, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội – 2006. Nguyễn Hữu Dũng (2000), Luận cứ khoa học cho xây dựng chính sách giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Bàn về phương pháp tính chỉ tiêu thu nhập/1ha diện tích đất nông nghiệp, Tạp chính nông thôn mới số 98. Mai Mộng Hùng (2003), Tìm hiểu pháp luật đất đai của một số nước trên thế giới, Tạp chí địa chính số 1- 1/2003, Hà Nội. Jydy L.Baker (người dịch: Vũ Hoàng Linh), Đánh giá tác động của các dự án phát triển tới đói nghèo. Phạm Thị Mỹ Dung (2008), Bài giảng môn phân tích kinh tế nông nghiệp, ĐHNN Hà Nội. Phòng Thống kê huyện Lục Nam (2005 – 2008), Niên giảm thống kê. Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Lục Nam (2005 – 2008), Báo cáo tình hình đầu tư xây dựng cơ bản, Báo cáo kết quả thu tiền đất. Phòng Tài nguyên-Môi trường(2005–2008), Báo cáo tình hình thu hồi đất. Quyết định số 97/2008/QĐ - UBND ngày 29/8/2008 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc quy định thu, quản lý và sử dụng quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp từ 50% trở lên. Quyết định số 04/2008/QĐ - UBND ngày 18/01/2008 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc ban hành quy định một số điểm cụ thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Quyết định số 112/2005/QĐ-UBND ngày 25/12/2005, Quyết định số 85/2006/QĐ-UBND ngày 22/12/2006, Quyết định số 102/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc ban hành bảng giá các loại đất. Quyết định số 07/2005/QĐ-UB ngày 02/02/2005 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất, thu hồi, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT ngày 13/4/2005 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành luật đất đai năm 2003. Thông tư số 14/2008/TTLT/BTC – BTNMT ngày 31/01/2008 của Bộ Tài nguyên và Môi trường – Bộ Tài chính về việc hương dẫn thực hiện một số điều Nghị định số 84/2007/NĐ-CP. Văn phòng HĐND – UBND huyện Lục Nam, Quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội huyện Lục Nam giai đoạn 2001 - 2010. Văn phòng Huyện uỷ Lục Nam, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khoá XVII huyện Lục Nam, Chương trình hành động số 15-CTr/HU ngày 20/10/2008 về việc hực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Vũ Văn Long (2002), Tìm hiểu vài nguyên nhân khiếu kiện về đền bù giải toả, Tạp chí địa chính số 11 – 11/2002, Hà Nội. Vũ Trọng Khải, Đỗ Thái Đông, Đặng Bích Hợp (2004), phát triển nông thôn Việt Nam từ làng xã truyền thống đến văn minh hiện đại, Nhà xuất bản Nông nghiệp. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHKT09063.doc
Tài liệu liên quan