LỜI MỞ ĐẦU
Cháy, nổ hàng năm gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng, làm hàng trăm người chết và bị thương. Cháy có thể xảy ra bất cứ khi nào, ở đâu và với bất cứ ai. Con người dù luôn có ý thức phòng cháy nhưng vẫn không thể xoá bỏ hoàn toàn nguy cơ cháy, nổ. Hậu quả do cháy thường rất lớn, đôi khi mang tính chất thảm hoạ.
Để đối phó với cháy, nổ con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp khác nhau như hạn chế sử dụng vật liệu dễ cháy , thực hiện PCCC...Tuy nhiên để đối phó với hậu quả do cháy gây ra
110 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu tác động của Quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đến hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Công ty bảo hiểm dầu khí Khu vực Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, bảo hiểm được coi là hữu hiệu hơn cả. Bảo hiểm cháy ra đời từ rất sớm (thế kỷ 17) và cho đến nay nó luôn là nghiệp vụ không thể thiếu tại tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trên thế giới.
Nghị định 130/2006/NĐ-CP của chính phủ ngày 8 tháng 11 năm 2006 Quy định chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ra đời đã góp phần hoàn thiện hơn nữa các văn bản pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm. Nghị định 130/2006/NĐ-CP đã - đang và sẽ có rất nhiều ảnh hưởng đến hoạt đồng của thị trường bảo hiểm cháy, nổ Việt Nam như cầu về sản phẩm này sẽ gia tăng, nhu cầu về thoả mãn dịch vụ có chất lượng cao tăng, ý thức của khách hàng về bảo hiểm thay đổi, doanh thu của các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ tăng...
Em lựa chọn đề tài “Nghiên cứu tác động cuả Quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đến hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc” với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về nghiệp vụ bảo hiểm cháy, về tác động của Nghị định 130/2006/NĐ-CP đến thị trường bảo hiểm Việt Nam, và đặc biệt là đến Công ty BHDK Tây Bắc- đơn vị em thực tâp trong 4 tháng qua. Trong quá trình nghiên cứu, em cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh quá trình chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh thu và uy tín của BHDK Tây Bắc.
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ một chuyên đề thực tập tốt nghiệp, trong phạm vi hoạt động của BHDK Tây Bắc.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm phương pháp thống kê, tổng hợp phân tích, và so sánh.
Bố cục của đề tài gồm 3 phần:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM CHÁY, NỔ.
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC.
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TRIỂN KHAI TỐT NHẤT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC SAU NGHỊ ĐỊNH SỐ 130/2006/NĐ-CP CỦA CHÍNH PHỦ
Em xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới Th.s Nguyễn Ngọc Hương và các chuyên viên tại BHDK Tây Bắc đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện.
Hà Nội, tháng 4 năm 2007.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM BẢO HIỂM CHÁY, NỔ
1.1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM.
1.1.1 Lý luận chung về bảo hiểm.
Nhu cầu an toàn đối với con người là vĩnh cửu, lúc nào con người cũng tìm cách bảo về bản thân và tài sản của mình trước những bất hạnh của số phận. Bảo hiểm ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phòng vệ chính đáng này. Qua quá trình phát triển của bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm thương mại, chúng ta nhận thấy, ban đầu bảo hiểm chỉ mang tính chất sơ khai, tự phát với phạm vi nhỏ hẹp. Do nhu cầu thực tiễn, dần dần các khái niệm về bảo hiểm cũng đã được hình thành và phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, có nhiều khái niệm về bảo hiểm, nó tuỳ thuộc vào quan niệm của từng lĩnh vực bao gồm luật, kinh tế học, lịch sử học, khoa học thực tế, lý thuyết rủi ro và xã hội học mà các khái niệm có nhiều điểm khác nhau. Khái niệm về bảo hiểm, luôn bao gồm cả bảo hiểm thương mại và bảo hiểm xã hội, bởi hai hình thức này chỉ phân biệt bởi tính thương mại (kinh doanh rủi ro)và tính xã hội (cân bằng thu chi). Dưới đây, xin trình bày một số định nghĩa về bảo hiểm đang được thừa nhận trên thế giới, tại các quốc gia các nghiệp đoàn, và các công ty bảo hiểm.
Theo Uỷ ban thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro Hoa Kỳ thì: "Bảo hiểm là sự tập trung các tổn thất bất ngờ bằng việc chuyển giao những rủi ro gây ra cho NBH khi họ cam kết bồi thường những tổn thất này, cung cấp các quyền lợi bằng tiền khác khi tổn thất xảy ra hoặc cung cấp các dịch vụ liên quan đến rủi ro”
Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh thì: "Bảo hiểm là sự thoả thuận qua đó một bên (Người bảo hiểm ) hứa sẽ thanh toán cho bên kia (NĐBH hay NTGBH) một khoản tiền nếu có sự cố xảy ra gây tổn thất tài chính cho người bảo hiểm. Trách nhiệm thanh toán những tổn thất này được chuyển giao từ NTGBH đến người bảo hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, NBH đòi NĐBH một khoản tiền, đó là phí bảo hiểm”
Khái niệm được sử dụng tại một số trường đại học và thị trường bảo hiểm Châu Á: "Bảo hiểm là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một người hay một số ít người cho nhiều người có cùng khả năng chịu rủi ro nào đó thông qua việc tổ chức ra một quỹ tài chính tập trung huy động từ các cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm, để bồi thường hoặc bù đắp những tổn thất do những rủi ro đó gây ra”
Khi xem xét bảo hiểm từ khía cạnh những bên liên quan khác nhau đến hợp đồng bảo hiểm, bảo hiểm được định nghĩa như sau:
Từ phía người được bảo hiểm, bảo hiểm là tổ chức hợp lý một nhóm người có chung một loại rủi ro có thể xảy ra. Các khoản đóng góp về tài chính của họ cho phép bồi thường những thiệt hại mà một số người trong nhóm phải gánh chịu khi có tổn thất. Nhờ có bảo hiểm mà tổn thất sẽ nhẹ đi nếu chia sẻ cho nhiều người và là gánh nặng nếu một vài người phải gánh chịu tất cả.
Trên giác độ của người cung cấp dịch vụ bảo hiểm, ở đây là các doanh nghiệp bảo hiểm, bảo hiểm là hoạt động kinh doanh mà trong đó, người bảo hiểm sẽ chấp nhận những rủi ro đối với tài sản hoặc con người của người được bảo hiểm trên cơ sở người được bảo hiểm thanh toán một khoản phí nhất định.
Một cách tổng quát, bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó một bên là người đựơc bảo hiểm chấp nhận trả một khoản phí gọi là phí bảo hiểm cho chính mình hoặc cho người thứ ba khác để trong trường hợp có rủi ro xảy ra nằm trong phạm vi bảo hiểm sẽ được trả mọt khoản bồi thường từ người bảo hiểm, là người chịu trách nhiệm với những rủi ro đã cam kết và đền bù thiệt hại theo luật thống kê.
Tất cả những định nghĩa khác nhau về bảo hiểm, tựu chung lại đều làm bật lên bản chất của bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro giữa nhà bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm trên cơ sở một quỹ tiền tệ tập trung. Vậy rủi ro chính là một trong những yếu tố góp phần cơ bản cho sự hình thành, ra đời và phát triển của bảo hiểm.
Khái niệm rủi ro liên quan đến sự không chắc chắn, và rủi ro luôn được hiểu là sự không chắc chắn liên quan đến việc xảy ra một tổn thất. Rủi ro luôn bao gồm trong nó yếu tố không may mắn và không lường trước được, về khả năng xảy ra của nó, về thời gian và không gian xảy ra, về mức độ nghiêm trọng của rủi ro và hậu quả của nó.
Có rất nhiều nguyên nhân để xảy ra rủi ro, nhưng có thể tập hợp rủi ro vào ba nhóm chính:
Thứ nhất là nhóm các rủi ro do thiên tai gây ra như bão, lũ lụt, hạn hán, động đất, sét, lốc, sương muối, dịch bệnh, sóng thần...làm ảnh hưởng đến đời sống và sức khoẻ của con người.
Thứ hai là nhóm rủi do do biến động cuả khoa học và công nghệ.
Thứ ba, là nhóm rủi ro môi trường xã hội, những rủi ro này chịu tác động cuả nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành viên trong xã hội như ốm đau, dịch bệnh, mất việc làm, trộm cắp, hoả hoạn....
Bất kể nguyên nhân gì, khi xảy ra rủi ro thường gây ra cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài sản, làm ngưng trệ hoạt động sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp cá nhân, và làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế- xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu quả của rủi ro gây ra - đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro.
Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro:
Tránh né rủi ro tức là tìm ra phương thức hành động khác không có dấu hiệu của bất cứ yếu tố nào có thể dấn tới rủi ro
Ngăn ngừa tổn thất được sử dụng để đưa ra các hành động làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra khi không thể né tránh được dù đã tìm mọi cách.
Nhóm biện pháp tài trợ rủi ro. Biện pháp tài trợ rủi ro gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. (Đây là các biện pháp phải được thực hiện trước khi rủi ro xảy ra, nhằm mục đích giảm thiểu hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, nếu có).
+ Chấp nhận rủi ro, tức là người gặp rủi ro tự chấp nhận khoản tổn thất. Còn gọi là tự bảo hiểm. Có hai hình thức chấp nhận rủi ro, gồm chấp nhận một cách chủ động và chấp nhận thụ động. Hiệu quả của hai hình thức này không cao do rơi vào tình huống thụ động, sử dụng không hiệu quả đồng vốn, hoặc sai lệch trong tính toán lập quỹ dự phòng...
+Bảo hiểm: bảo hiểm ngày nay đã trở thành một lựa chọn không thể thiếu trong hầu hết các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như các cá nhân.Do nó khắc phục được hầu hết các nhược điểm của các biện pháp khác. Bảo hiểm chính là sự lựa chọn tối ưu của các chương trình quản lý rủi ro. Rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm sang nhà bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm nhận được sự tư vấn cho các chương trình kiểm soát rủi ro và đề phòng hạn chế tổn thất, nhận được khoản tiền bồi thường nhanh chóng, đủ, kịp thời khi sự kiện bảo hiểm xảy ra..
Ngày nay, với những lợi ích thiết thực của bảo hiểm đối với mọi thành viên, đơn vị tham gia bảo hiểm, khái niệm bảo hiểm đã trở nên ngày một gắn bó và gần gũi với con người, với các đơn vị sản xuất kinh doanh.
1.1.2 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm.
Như tất cả các ngành khác, bảo hiểm ra đời do nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo vệ, giúp đỡ, chia sẻ hoạn nạn khi rủi ro, tổn thất xảy ra như đã trình bày trên đây.
Bảo hiểm có nguồn gốc rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại mà thậm chí cho đến bây giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm xuất hiện khi nào. Từ thời nguyên thuỷ loài người sống bằng nghề săn bắn, họ đã biết dự trữ những gì săn bắt được. Đến một giai đoạn phát triển hơn, trong những cộng đồng dân cư nhỏ, hoặc trong một gia đình, nhóm gia đình đã hình thành một khối lượng lương thực dự trữ nhất định, được dùng tương trợ lẫn nhau khi mùa màng thất bát. Đây là hình thức sơ khai của bảo hiểm.
Đến thế kỷ XV, khi châu Âu thực hiện những chuyến khai phá tới Châu Á và Châu Mỹ, mở đường cho cuộc cách mạngg thương mại, ý tưởng về thành lập một quỹ chung để đối phó với rủi ro đã hình thành khá rõ ràng. Việc tìm ra châu lục mới, vùng đất mới, tạo ra hoạt động thương mại giữa những nơi này phát triển ngày một nhanh chóng. Đặc biệt là hình thức vận chuyển bằng đường biển. Theo dó, bảo hiểm, nhất là bảo hiểm hàng hải cũng phát triển theo. Bởi lẽ, những người chủ hàng, những người bỏ vốn đầu tư vào những chuyến đi mạo hiểm đó nhận thấy cần phải chia sẻ những rủi ro để tránh tình trạng một số nhà đầu tư bị mất trắng khoản đầu tư của mình do những con tàu gặp nạn trên biển, hoặc bị biến mất một cách bí ẩn. Để đáp ứng nhu cầu này, nhu cầu chia nhỏ tổn thất, người ta đã có hai phương án. Cách thứ nhất là thành lập một liên doanh có vốn cổ phần, theo đó, một nhóm đầu tư cùng đầu tư vào một đội thuyền chở hàng chung, cùng chia sẻ rủi ro khi tổn thất và phân chia lợi nhuận mà liên doanh thu được (Phuơng án này rất gần với hình thức các chủ hàng trên con đường tơ lụa nổi tiếng đã chia nhỏ hàng hoá của mình thành hàng trăm phần nhỏ, mỗi lạc đà sẽ chở một lượng hàng mà trong đó bao gồm nhiều phần hàng hoá của các chủ hàng khác nhau. Lạc đà nào bị cướp, tổn thất được chia đều cho các chủ hàng, mỗi người tổn thất một phần nhỏ trong tổng số hàng.). Cách thứ hai là bảo hiểm, theo cách này các nhà buôn và các chủ tàu thuyền chấp nhận trả một khoản tiền nhất định cho một cá nhân hay tổ chức, người mà đảm bảo rằng nếu hàng hoá hoặc tàu thuyền của họ bị tổn thất do một số nguyên nhân nhất định nào đó họ sẽ được trả một khoản tiền để bù đắp thiệt hại xảy ra.
Bảo hiểm hàng hải là lĩnh vực ra đời sớm nhất. Năm 1347, hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên được phát hành tại Genoa-Ý. Năm 1424, công ty bảo hiểm đầu tiên, Marietime Insurance Company ra đời. Năm 1583, xuất hiện hợp đồng bảo hiểm, mà cho đến nay được coi là cổ xưa nhất. Năm 1667, sau vụ cháy khủng khiếp tại London, làm hơn 13000 ngôi nhà bị cháy, hàng nghìn người thiệt mạng vào năm 1666, công ty bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên trên thế giới có tên “Fire Office” hoạt động tại Anh. Sau bảo hiểm hoả hoạn là các quỹ bảo hiểm nhân thọ cũng xuất hiện từ nhu cầu của cuộc sống, nhu cầu được chăm lo cho tương lai.
Từ cuối thế ký 19, cuộc đại cách mạng khoa học kỹ thuật trên toàn thế giới diễn ra sôi động, mang lại nhiều thành tựu, làm xuất hiện nhiều ngành nghề kinh doanh mới. Cùng với đó là sự gia tăng nhanh chóng các rủi ro có nguyên nhân xuất phát từ nhóm rủi ro do biến động của khoa học công nghệ. Đây là điều kiện thuận lợi đẩy mạnh sự phát triển bảo hiểm với những sản phẩm như bảo hiểm ôtô, máy bay, xây dựng lắp đặt...
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm là một sự đáp ứng đòi hỏi khách quan của cuộc sống đối với những biến động về tài chính do các sự cố bất ngờ gây ra. Tham gia bảo hiểm tạo điều kiện khôi phục nhanh chóng thiệt hại, góp phần sớm ổn định cuộc sống và sản xuất. Ngành bảo hiểm tại tất cả các quốc gia trên thế giới đóng vai trò không thể thay thế trong các trung gian tài chính, góp một phần lớn vào sự vững mạnh của thị trường tài chính và sự ổn định của nền kinh tế quốc dân.
1.1.3 Chức năng, vai trò, tác dụng của bảo hiểm.
Mục đích của bảo hiểm: là đem lại sự an tâm, an toàn về mặt tài chính cho người tham gia bảo hiểm trước những rủi ro có thể xảy ra.
Chức năng của bảo hiểm :xây dựng quỹ tài chính an toàn, tăng trưởng ổn định, bồi thường đúng đủ, kịp thời.
Vai trò của bảo hiểm :được biết đến một cách tổng quát nhất, như là một công cụ an toàn thực hiện chức năng bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho xã hội. Cụ thể:
Đối với từng người dân: Bảo hiểm đảm bảo về mặt tài chính nhằm khắc phục hậu quả bất ngờ khi gặp phải rủi ro liên quan đến tính mạng, tình trạng sức khoẻ và tài sản mà họ sở hữu.
Đối với các doanh nghiệp: Tham gia bảo hiểm là chuyển giao rủi ro, ổn định sản xuất, nhanh chóng khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra bằng STBT.
Đối với ngân hàng thương mại: Bảo hiểm là nhà đầu tư lớn, sử dụng nhiều dịch vụ tín dụng, và đưa lại nhiều hợp đồng tín dụng không cần bảo lãnh của ngân hàng.
Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp: hỗ trợ đắc lực cho nhà nông khôi phục sản xuất khi gặp rủi ro, thiên tai, đảm bảo cho sản xuất và lưu thông hàng hoá nông nghiệp không bị ngưng trệ gián đoạn.
Hoạt động bảo hiểm phát triển còn góp phần cải thiện môi trường đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư tạo ra môi trường thuận lợi cho việc hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác hoạt động bảo hiểm còn mang về cho kinh té quốc dân một khoản ngoại tệ đáng kể.
Bảo hiểm là nhà tư vấn quản trị rủi ro hàng đầu trong xã hội. Doanh nghiệp bảo hiểm vì lợi ích của bản thân, xã hội, người tham gia bảo hiểm...coi trọng xây dựng các công trình đề phòng hạn chế tổn thất.
Thị trường bảo hiểm:, Là một trung gian tài chính bên cạnh ngân hàng, thị trường chứng khoán.
Tác dụng của bảo hiểm: Bảo hiểm có rất nhiều tác dụng khác nhau:
Dàn trải tổn thất (phân tán rủi ro
Bảo vệ: Tham gia bảo hiểm là bảo vệ cho tính mạng tình trạng sức khoẻ và tài sản trước nguy cơ xảy ra tổn thất.
Đề phòng hạn chế tổn thất
Ổn định đời sống sản xuất kinh của người được bảo hiểm.
Tạo sự an tâm về mặt tinh thần cho người tham gia bảo hiểm.
Kích thích tiết kiệm
Đầu tư phát triển kinh tế
Đẩy mạnh tín dụng
Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Với những lợi ích kể trên, bảo hiểm đã ra đời từ rất lâu và ngày càng phát triển.
1.1.4 Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm.
Hoạt động bảo hiểm thương mại phải tuân thủ theo các nguyên tắc chung sau đây:
Nguyên tắc 1: Phải tuân theo luật hợp đồng.
Hợp đồng là căn cứ pháp lý để giải quyết những vấn đề pháp lý về sau.Các hợp đồng bảo hiểm nhất thiết phải là các văn bản pháp lý thể hiện những quy định cơ bản của luật pháp.
Nguyên tắc 2: Lựa chọn rủi ro.
Nhà bảo hiểm được lựa chọn các rủi ro được bảo hiểm, chỉ rủi ro không ai lường trước được mới được chấp nhận. Thậm chí với những rủi ro bất ngờ nhà bảo hiểm cũng có thể từ chối bảo hiểm hay chỉ chấp nhận một hay một số rủi ro trong đó để tiến hành bảo hiểm.
Nguyên tắc 2: Nguyên tắc phân tán rủi ro.
Sau khi chấp nhận rủi ro của bên tham gia bảo hiểm, đến lượt mình, nhà bảo hiểm cũng có thể gặp phải rủi ro và rất dễ dẫn đến tình trạng phá sản Để tránh phá sản, đảm bảo hoạt động kinh doanh, nhà bảo hiểm phải tiến hành phân tán rủi ro hai cách:
+ Đồng bảo hiểm
+Tái bảo hiểm
Nguyên tắc 3: Nguyên tắc có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với người mua bảo hiểm.
Quyền lợi được bảo hiểm tức là chủ thể tham gia mua bảo hiểm phải chứng minh được mối liên hệ đối với đối tượng được bảo hiểm. Thông thường, quyền lợi được bảo hiểm liên quan tới tài sản, trách nhiệm, con người...
Nguyên tắc 4: Số đông bù số ít.
. Chỉ có số đông người tham gia bảo hiểm thì mới có cơ sở hình thành quỹ bảo hiểm đủ lớn, rủi ro mới thực sự được san sẻ. …
Nguyên tắc 5: Nguyên tắc tín nhiệm tuyệt đối.
Khách hàng và nhà bảo hiểm tin tưởng tuyệt đối vào sự trung thực của hai bên trong cung cấp thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm.
Nguyên tắc 6: Nguyên tắc bồi thường.
Được áp dụng trong các hợp đồng bảo hiểm tài sản, trách nhiệm. Theo đó, số tiền bồi thường không thể lớn hơn quyền lợi bảo hiểm mà họ có.
Nguyên tắc thế quyền:
Tránh trường hợp người gây thiệt hại không thể tiến hành bồi thường cho người bị hại, và trường hợp số tiền bồi thường nhận được của người đựơc bảo hiểm lớn hơn tổn thất thực tế, người ta áp dụng nguyên tắc này. Nhà bảo hiểm được phép thế quyền (thay quyền) người được bảo hiểm đòi tổn thất thuộc phần trách nhiệm của người gây thiệt hại.
Nguyên tắc 8: Đóng góp bồi thường. Trong trường hợp, một tổn thất được bảo hiểm bằng nhiều đơn bảo hiểm, bảo hiểm trùng, các doanh nghiệp cùng tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng góp bồi thường khi tài sản bị tổn thất.
Nguyên tắc 9: Nguyên nhân trực tiếp, được hiểu là nguyên nhân đủ mạnh và có tác dụng làm chuyển động cả một chuỗi sự kiện dẫn đến một kết quả mà không cần có sự can thiệp cuả bất kỳ một lực nào khác phát sinh và phát huy tác dụng từ một nguồn độc lập nào khác. Nguyên nhân trực tiếp không nhất thiết là nguyên nhân đầu tiên hay cuối cùng, nhưng nó phải là nguyên nhân chủ yếu.
1.1.5. Phân loại bảo hiểm.:
1.1.5.1 Theo đối tượng bảo hiểm:
+Bảo hiểm xã hội.
+Bảo hiểm y tế.
+Bảo hiểm thất nghiệp.
+ Bảo hiểm thương mại.
1.1.5.2 Theo tính chất rủi ro hoặc theo luật kinh doanh bảo hiểm:
+Bảo hiểm nhân thọ
+Bảo hiểm phi nhân thọ.
(Bảo hiểm cháy nổ nằm trong mảng bảo hiểm phi nhân thọ, là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ)
.1.1.5.3 Theo kỹ thuật quản lý quỹ tài chính:
+Bảo hiểm quản lý theo kỹ thuật phân chia.
+Bảo hiểm quản lý theo kỹ thuật tồn tích.
Cách phân chia thứ hai, sử dụng phổ biến hơn cả.
1.2. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ.
Cháy và sự cần thiết của bảo hiểm cháy.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm cháy, tuy nhiên theo luật PCCC hiện nay cháy được hiểu là trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát được có thể gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng môi trường.( Điều 3-Luật PCCC)
Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn, nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đôla. Các vụ cháy không chỉ xảy ra ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển mà còn xảy ra ở các nước có nền kinh tế phát triển như Anh, Pháp, Mỹ..nơi mà nền khoa học, công nghệ đã đạt đến đỉnh cao của sự hiện đại và an toàn thì cháy vẫn xảy ra ngày một tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Mỹ môĩ năm có khoảng 2.4 triêụ vụ cháy, làm chết trên 300 000 người và thiệt hại 1.8 tỷ đôla. Ở Viêt Nam xảy ra rất nhiều vụ cháy khác nhau, Giá trị thiệt hại lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cho đến thời điểm năm 2007, tình hình cháy nổ tại Việt Nam được thống kê như sau:
Năm 1962-1991: Tổng số vụ cháy xảy ra là 566 036 vụ cháy, thiệt hại vật chất 948 tỷ đồng, làm chết 2574 người, các vụ cháy lớn ngày một gia tăng.
Năm 1990: Số vụ cháy đã xảy ra là 902 vụ, làm chết và bị thương 380 người, thiệt hại 11,5 tỷ đồng.
Năm 1992-1993 tổng số vụ cháy là 1710 vụ, làm chết 213 người, bị thương 348 người, thiệt hại 114, 76 tỷ đồng.
Từ năm 1996 đến 2003, tổng số vụ cháy xảy ra là 8015 vụ, bình quân 1003 vụ mỗi năm, thiệt hại trên 1000 tỷ đồng, cháy lớn chiếm 2.47% tổng số vụ cháy nhưng thiệt hại lại chiếm tới 67.25% tổng thiệt hại. Thiệt hại về tài sản giai đoạn này, tăng gấp 20 lần so với cả giai đoạn 1986 đến 1995. Trong số các vụ cháy, phần lớn xảy ra ở đô thị, đến 62%. Về đối tượng gây cháy, 70,1% xuất phát từ thành phần kinh tế tư nhân, và nhà dân.
Ngày 14-7-1994: Vụ cháy chợ đồng Xuân Hà Nội, thiệt hại 14 tỷ đồng , 2364 hộ kinh doanh bị thiệt hại.
Ngày 26-06-1996: Cháy kho xăng dầu 131 Thuỷ Nguyên, thiệt hại 31 tỷ đồng.
Ngày 18-11-1996: Cháy công ty giầy Đồng Nai, thiệt hại 12 tỷ đồng.
Năm 2001, vụ cháy tại Vising Pack thiệt hại trên 1,4 triệu $.
Ngày 29-10-2002: Cháy lớn tại trung tâm thương mại ITC Thành phố Hồ Chí Minh làm chết 60 người, trên 100 người bị thương, thiẹt hại 1,1 tỷ đồng cho toà nhà và 100 tỷ đồng cho các tài sản khác.
01-04-2003: Cháy ở Interfood, thiệt haị 70 tỷ đồng.
03-03-04: Chaý ở nhà máy giày Pouyuen, thiệt hại 9000 m² nhà xưởng, thiệt hại trên 4,4 triệu $
Năm 2005, tại Thành phố Hồ Chí Minh, xảy ra 270 vụ, giảm 92 vụ ( 35%) so với năm 2004. Tổng thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 21 tỷ 248 triệu đồng, làm chết 13 người, bị thương 50 người
Ngày 29/12/2006 Tại Thành phố Qui Nhơn, xảy ra vụ cháy chợ Qui Nhơn, thiệt hại 120 tỷ đ.
Năm 2006, cả nước xảy ra 1648 vụ cháy cơ sở sản xuất kinh doanh và nhà dân, làm chết 53 người, bị thương 154 người.
Riêng tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hai trung tâm kinh tế quan trọng nhất nước, xảy ra tình trạng cháy nổ nhiều nhất nước. Theo thống kê của phòng PCCC, riêng thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 đã xảy ra 293 vụ cháy, làm chết 11 người, thiệt hại tài sản 58,7 tỷ đồng. Số vụ cháy xảy ra trên toàn thành phố gia tăng 24 vụ, thêm 3 người chết, 11 ngưòi bị thương và thiệt hại hàng tỷ đồng so với 2003. Năm 2007, những tháng đầu năm ,từ tháng 1 đến tháng 3, tại Hà Nội xảy ra 49 vụ cháy. Tại thành phố Hồ Chí Minh, chỉ riêng tháng 3/2007 cũng xảy ra 49 vụ cháy,làm chết 3 người và thiệt hại 9,8 tỷ đồng.
Có thể thấy rằng cháy có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, với bất cứ ai, dù đã có ý thức PCCC nhưng vẫn không thể xoá bỏ hoàn toàn nguy cơ cháy nổ và tổn thất do cháy gây ra thường rất lớn, có khi mang tính chất thảm hoạ.
Hoả hoạn là vấn đề nhức nhối của xã hội, và là một trong những rủi ro diễn ra khá phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới, Hậu quả thường rất rất lớn (cả tài sản và con người, và việc gián đoạn kinh doanh); đồng thời ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống. Tại Indonesia, mỗi năm các vụ cháy rừng tạo ra 1400 triệu tấn Cácbonđioxit (CO2); Hà Lan là 80 triệu tấn....Các vụ cháy rừng ở Indonesia là một vấn đề to lớn, thời gian gần đây, các vụ cháy ngày càng tăng thêm. Hậu quả từ những vụ cháy là khói bụi được tạo ra từ đó phủ xuống cả một vùng dân cư rộng lớn, có khi tới hàng tuần lễ, khiến cho người, động vật, cây trồng đều không có khí thở . Mặc dù tất cả các nước trên thế giới đều rất coi trọng công tác phòng cháy chữa cháy, tuy nhiên hoả hoạn vẫn xảy ra.
Để đối phó với cháy, con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp khác nhau như các biện pháp PCCC, đào tạo nâng cao trình độ kiến thức và ý thức, thông tin tuyên truyền về PCCC. Tuy nhiên để đối phó với hậu quả do cháy gây ra thì bảo hiểm được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Do trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nhà bảo hiểm đã tiến hành đánh giá rủi ro, dù hợp đồng có được kí kết hay không thì đây cũng vẫn là lời cảnh báo đối với các chủ tài sản. Khi tham gia bảo hiểm hoả hoạn, vì lợi ích trực tiếp của mình, nhà bảo hiểm luôn luôn phối hợp với chủ tài sản để tư vấn cho họ về công tác PCCC, về an toàn vệ sinh lao động, về phương án PCCC, thậm chí phối hợp với lực lượng PCCC để phối hợp tập dượt các phương án đối phó khi hoả hoạn xảy ra. Chính vì vậy, làm cho tất cả các bên đều có ý thức về PCCC và luôn sẵn sàng PCCC. Hơn nữa, nếu tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm luôn luôn phân công, cử cán bộ thường xuyên theo dõi công tác này, điều này làm công tác đề phòng hạn chế tổn thất rất hiệu quả. Nếu không may hoả hoạn xảy ra, nhà bảo hiểm sẽ có biện pháp bồi thường kịp thời để giúp chủ tài sản nhanh chóng ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, khắc phục kịp thời việc gián đoạn kinh doanh. Chính vì những lý do nêu trên đây, bảo hiểm cháy ra đời là sự cần thiết khách quan đối với mỗi nền kinh tế trên thế giới cũng như đối với mỗi ngành, mỗi cơ quan, mỗi doanh nghiệp…
Tác dụng của bảo hiểm cháy cũng là một trong những nhân tố giải thích về sự cần thiết của bảo hiểm cháy.
Lịch sử ra đời của bảo hiểm cháy là một minh chứng rõ nét cho tác dụng của nó. Vào thời kỳ Trung đại, Phục hưng, ở châu Âu vẫn chưa có hệ thống phòng cháy chữa cháy hữu hiệu. Khi cháy xảy ra, người bị hại thường dựa vào sự giúp đỡ của phường hội. Phải đến năm 1666, sau vụ cháy lớn ở Luân Đôn kéo dài trong nhiều ngày, người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống PCCC và bồi thường cho người bị thiệt hại.Năm 1667 ở Anh xuất hiện một số văn phòng cung cấp dịch vụ phòng cháy chữa cháy và bảo hiểm cháy. Năm 1864 công ty bảo hiểm cháy đầu tiên (công ty Friendly Society) ra đời, hoạt động trên nguyên tắc tương hỗ, sau đó hàng loạt các công ty bảo hiểm cháy khác được thành lập và dần lan rộng sang các nước káhc trên lục địa châu Âu. Ngày nay, nghiệp vụ bảo hiểm cháy được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển.
Khi bảo hiểm cháy đi vào hoạt động tại các quốc gia, người ta nhận thấy những tác động tích cực của nó đến đời sống kinh tế, xã hội của người dân như sau:
Tích cực góp phần đề phòng, hạn chế hiện tượng cháy nổ xảy ra trong xã hội, từ đó góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Giúp người dân nâng cao tinh thần ý thức PCCC.
Trực tiếp góp phần giúp các cơ quan, doanh nghiệp nhà máy ổn định sản xuất kinh doanh, làm cho quá trình kinh doanh diễn ra liên tục.
Nghiệp vụ này ra đời đã giúp các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thế giới tăng doanh thu, lợi nhuận, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội.
Ở Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm cháy được triển khai từ cuối năm 1989. Qua một số năm thực hiện nghiệp vụ này ngày càng phát triển. Năm 2000 doanh thu phí bảo hiểm cháy đạt 16200000 USD (khoảng 259 200 triệu đồng), đến năm 2006 đạt 517 tỷ đồng, chiếm 6.36 % tổng doanh thu phí tất cả các nghiệp vụ., đứng sau nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới chiếm 34,73%, nghiệp vụ sức khoẻ và tai nạn con người chiếm 14.6234%, và nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và thiệt hại chiếm 19.1494%. Tốc độ tăng trưởng của nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ năm 2006 là 10.6%, đứng thứ 4 sau nghiệp vụ bảo hiểm Bảo hiểm tài sản và thiệt hại (35.2%), bảo hiểm con người (14.5%), bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa (19.8%)... và đứng trước các nghiệp vụ khác như bảo hiểm hàng không (5%), bảo hiểm sức khoẻ con người (15%), bảo hiểm xe cơ giới (6.9%)... Như vậy mức độ tăng trưởng của bảo hiểm cháy năm qua vẫn chưa phản ánh đúng tiềm năng của nó.
1.2.2 Những nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy.
1.2.2.1 Đặc điểm của rủi ro hoả hoạn.
Rủi ro hoả hoạn có đặc điểm:
-Xảy ra ở bất cứ lúc nào, ở đâu mà không ai lường trước được (dù đã có biện pháp đề phòng). Theo thống kê trên thế giới, nguyên nhân chủ yếu do chập điện, do sự bất cẩn của con người, do thời tiết và do khí hậu…Trong đó
-Hậu quả, thiệt hại do hoả hoạn gây ra là rất lớn, đôi khi mang tính chất thảm hoạ. Cháy trên diện rộng làm rất nhiều tài sản bị thiêu huỷ, người chết và bị thương.
-Hoả hoạn vẫn có thể khống chế được, vẫn có thể đề phòng và hạn chế tổn thất nếu các tổ chức, cá nhân có ý thức phối hợp với nhau để chống lại sự hoành hành của ngọn lửa.
-Hoả hoạn xảy ra thường liên quan đến cả những thiệt hại cuả bên thứ ba.Nhất là tại các thành phố có mật độ dân cư và cơ sở, doanh nghiệp lớn. Kèm theo cháy, người ta thường thấy khói đen, và thậm chí sự đổ sụp của các vật liệu xây dựng nhà cửa gây ra ảnh hưởng tới tài sản, con người...xung quanh.
-Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, khi hoả hoạn xảy ra, thường làm gián đoạn kinh doanh và làm thiệt hại rất lớn thu nhập kinh doanh.
1.2.2.2 Đối tượng của bảo hiểm cháy.
-Là tất cả các loại tài sản thuộc quyền sở hữu, hoặc quản lý hợp pháp của các đơn vị, tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Tuy nhiên để giúp cho việc tính phí bảo hiểm được chính xác, công tác bồi thường được nhanh chóng, đồng thời để giúp người tham gia bảo hiểm nhận biết một cách rõ ràng thực trạng tài sản tham gia bảo hiểm hoả hoạn của mình, nhà bảo hiểm chia đối tượng bảo hiểm như sau:
Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai .
Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
Vật tư hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu dự trữ trong kho.
Nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm đang trong dây truỳên sản xuất.
Các loại tài sản khác như: Kho, bãi ,chợ, nhà hàng, khách sạn, cây xăng…
1.2.2.3 Phạm vi bảo hiểm cháy.
Là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm, giới hạn trách nhiệm của các nhà bảo hiểm. Nhìn chung, các công ty bảo hiểm trên thế giới đều giới hạn trách nhiệm bồi thường của mình ở các loại thiệt hậi và chi phí sau:
Thiệt hại do rủi ro được bảo hiểm gây ra.
Chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất về tài sản trong và sau khi cháy.
Chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi cháy.
Tuy nhiên để phạm vi bảo hiểm thể hiện rõ trong các qui tắc bảo hiểm, nhà bảo hiểm luôn luôn đưa ra hai loại rủi ro đựơc bảo hiểm bao gồm:
Thứ nhất: Rủi ro hoả hoạn (rủi ro chính hay rủi ro cơ bản, hoặc rủi ro nhóm A):
Rủi ro này thực chất gồm ba phần, cháy, sét và nổ.
- Cháy được bảo hiểm phải được hội tụ đủ 3 yếu tố:
+Thực chất có sự phát lửa.
+Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng (Nhất thiết phải có một cái gì đó trong đám lửa mà đáng lẽ thứ đó không được có trong đó).
+Về bản chất, đám lửa đó phaỉ là bất ngờ hay ngẫu nhiên đối với người được bảo hiểm chứ không phải là cố ý, có chủ định của họ hoặc có sự đồng loã của họ. Tuy nhiên, hoả hoạn xảy ra do bất cẩn của người được bảo hiểm vẫn thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường.
Khi có đủ 3 điều kiện đ._.ó và có thiệt hại về vật chất do những nguyên nhân được cho là hợp lý gây ra, những thiệt hại đó sẽ được bồi thường cho dù đó là do bị cháy hay do nhiệt hoặc khói gây ra.
-Sét: Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ trực tiếp do sét hoặc sét đánh gây ra cháy. Nếu sét đánh mà không phát lửa hoặc không phá huỷ trực tiếp tài sản thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường. Cần lưu ý, sét đánh phá huỷ trực tiếp các thiết bị điện tử thì được bồi thường, còn sét đánh làm thay đổi dòng điện dẫn đến thiệt hại cho thiết bị điện thử htì không được bồi thường.
-Nổ: Nổ trong rủi ro, phạm vi bảo hiểm bao gồm:
+Nồi hơi phục vụ sinh hoạt.
+Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng hoặc sưởi ấm trong một ngôi nhà không phải nhà xưởng làm các công việc sử dụng hơi đốt.
+Các trường hợp nổ gây ra hoả hoạn đã nghiễm nhiên được bảo hiểm. Như vậy ở đây chỉ còn lại những thiệt hại do nổ mà không gây cháy.
Những trường hợp liên quan tới nổ dưới đây không cần chú ý khi tiến hành bồi thường trong hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ:
Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ nhưng không gây cháy thì không được bồi thường, trừ trường hợp nổ nồi hơi hoặc khí phục vụ sinh hoạt, với điều kiện là sự nổ đó không phải do các nguyên nhân loại trừ.
Tổn thất hoặc thiệt hại do cháy xuất phát từ nổ thì được bồi thường, với điều kiện là sự nổ đó không phải là do các nguyên nhân bị loại trừ.
Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ cháy: Thiệt hại ban đầu do cháy được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không.
Thứhai: Nhóm rủi ro phụ.Bên cạnh rủi ro chính thì có các rủi ro phụ. Các rủi ro này chỉ có thể được bảo hiểm khi đi kèm theo rủi ro chính, tuỳ thuộc vào quyết định của người tham gia bảo hiểm. Các rủi ro phụ bao gồm: máy bay và các phương tiện hàng không khác hoặc thiết bị trên các phương tiện đó rơi vào, nổi loạn, bạo động dân sự, đình công, bể xưởng, động đất, lửa ngầm dưới đất, giông bão, hệ thống chữa cháy rò rỉ nước…
Trong các nghiệp vụ bảo hiểm, đều có những rủi ro loại trừ. Trên thực tế có những rủi ro không thể bảo hiểm được. Vì thế, trong bảo hiểm cháy, các loại trừ được áp dụng như sau:
-Tổn thất do hành động cố ý hoặc đồng loã của người được bảo hiểm gây ra.
-Những tổn thất về:
+ Hàng hoá nhận uỷ hay ký gửi trừ khi những hàng hoá đó được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm, và người được bảo hiểm trả thêm phí theo tỷ lệ phí qui định.
+ Tiền bạc, hàng, kim loại, đã quý, chứng khoán, tem phiếu, thư bảo lãnh, bản vẽ thiết kế, số sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử, bản mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế trừ khi những hạng mục này được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm…
+ Chất nổ nhưng không bao gồm nhiên liệu xăng dầu.
+ Người, động vật và thực vật sống.
+ Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm Hàng hải, hoặc lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm Hàng hải, trừ phần thiệt hại vượt quá số tiền được bồi thường theo đơn bảo hiểm Hàng hải hoặc lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm Hàng hải.
+ Tài sản bị cướp hay bị mất cắp. Trong trường hợp tài sản bị cướp, mất cắp trong khi xảy ra hoả hoạn mà người được bảo hiểm không chứng mình được là mất cắp thì vẫn được bồi thường.
+Những thiệt hại mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào, trừ thiệt hại về tiền thuê nhà được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm.
+ Những thiệt hại gây cho bên thứ ba.
+ Những thiệt hại trong phạm vi mức miễn thường.
1.2.2.4 Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.Giá trị bảo hiểm (GTBH) là giá trị của tài sản được bảo hiểm. Giá trị này là giá trị thực tế hoặc giá trị mua mới.
Tài sản được bảo hiểm thường có giá trị rất lớn như: nhà cửa, công trình, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, hàng hoá, vật tư trong kho. Có thể xác định GTBH như sau:
-GTBH của các ngôi nhà (nhà xưởng, văn phòng, nhà ở) được xác định theo giá trị mới hoặc giá trị còn lại.
+Giá trị mới là gía trị mới xây chảu ngôi nhà bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế.
+Giá trị còn lại là giá trị mới trừ đi hao mòn sử dụng theo thời gian.
-GTBH của máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác được xác định trên cơ sở giá mua mới (bao gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt nếu có) hoặc giá trị còn lại.
-GTBH của thành phẩm và bán thành phẩm được xác định trên cơ sở giá thành sản xuất.
-GTBH của hàng hoá mua về để trong kho, cửa hàng được xác định theo giá mua cộng với chi phí vận chuyển.
Số tiền bảo hiểm (STBH) là giới hạn bồi thường tối đa của người bảo hiểm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. STBH còn là căn cứ để xác định phí bảo hiểm. Vì thế, xác định chính xác STBH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cơ sở xác định STBH là GTBH.
Trong điều kiện hiện nay, quy mô sản xuất kinh doanh có xu hướng ngày càng đựơc mở rộng do đó số lượng và giá trị tài sản cũng tăng lên. Đối với các tài sản cố định, việc xác định STBH căn cứ vào GTBH của tài sản. Đối cới các tài sản lưu động, giá trị thường xuyên biến động. Vì vậy, STBH có thể xác định theo giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa.
Nếu bảo hiểm theo gía trị trung bình, người được bảo hiểm ước tình và thông báo cho công ty bảo hiểm biết gía trị số hàng hoá trung bình có trong kho, trong cửa hàng. Trong thời gian bảo hiểm giá trị trung bình này được coi là STBH.
Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trị trung bình đã khai báo.
Nếu bảo hiểm theo giá trị tối đa thì người được bảo hiểm ước tình và thông báo cho công ty bảo hiểm biết giá trị số lượng hàng hóa tối đa có thể đạt vào một thời điểm nào đó trong thời gian bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở gía trị tối đa và thường được thu trước 75%. Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá gía trị tối đa đã khai báo. Đầu mỗi tháng, mỗi quý (tuỳ theo sự thoả thuận của 2 bên), người được bảo hiểm thông báo cho công ty bảo hiểm số hàng tối đa thực có trong tháng, trong quý trước đó. Cuối thời hạn bảo hiểm, trên cơ sở các gía trị được thông báo, công ty bảo hiểm tính giá trị số hàng tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại phí bảo hiểm. Nếu phí tính được trên cơ sở số giá trị tối đa bình quân nhiều hơn số phí bảo hiểm đã nộp thì người được bảo hiểm trả thêm cho công ty bảo hiểm số phí còn thiếu.
Trong thời gian bảo hiểm, tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm được người bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường (STBT) vượt quá giá trị tối đa bình quân thì phí bảo hiểm được tính dựa vào số tiền bồi thường đã trả. Trong trường hợp này số tiền được bồi thường được coi là STBH.
Việc áp dụng bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp, đòi hỏi người bảo hiểm phải biết giá trị hàng hoá được bảo hiểm, theo dõi chặt chẽ số hàng hoá đó trong suốt thời gian hiểm. Những tài sản có giá trị lớn công ty bảo hiểm khó có thể tái bảo hiểm vì tính phí phức tạp và khó khặn.
Ngược lại bảo hiểm theo giá trị trung bình lại đơn giản, dễ theo dõi. Nếu một loại hàng hoá được bảo hiểm giá trị ít biến động trên thị trường áp dụng phương pháp này rất thuận tiện.
1.2.2.5 Phí bảo hiểm cháy.
Phí vảo hiểm chính là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Mức phí cao hay thấp phụ thuộc chủ yếu vào đối tượng được bảo hiểm, xác suất rủi ro cho đối tượng bảo hiểm trong một số năm trước đó.
Phí bảo hiểm cháy được tính theo công thức:
P= Sb x R
Trong đó:
Sb là STBH
R: Tỉ lệ phí bảo hiểm.
P: Phí bảo hiểm.
Có rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến biểu phí vì đối tượng của bảo hiểm cháy đa dạng về chủng loại, mức độ rủi ro. Nếu một công ty có hệ thống PCCC tốt không thể đóng một mức phí giống như một công ty khác có hệ thống PCCC kém. Bởi vậy không thể áp dụng cho một biểu phí cố định cho tất cả các loại công trình, tài sản của những công ty có mức độ rủi ro khác nhau và việc phòng cháy khác nhau. Thông thường các công ty bảo hiểm áp dụng các tỷ lệ phí khác nhau cho tất cả ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ sau đó điều chỉnh tỷ lệ phí theo các yếu tố tăng (giảm) phí. Trên thực tế, một số yếu tố cơ bản sau ảnh hưởng đến biểu phí:
-Vật liệu xây dựng: Tuỳ theo các yếu tố kết hợp vật liệu xây dựng có thể chịu đựng được lâu dài hay không đối với sức nóng, người ta chia làm 3 loại:
+Vật liệu nặng khó bắt lửa và có khả năng chịu lửa tốt như bê tông, cốt thép, đá…loại này được sử dụng để xây dựng công trình loại D.
+Vật liệu trung gian: Là vật liệu nhiều chất hoá học trộn với vật liệu thiên nhiên, khả năng chịu lửa không tốt bằng vật liệu nặng, loại này được sử dụng để xây dựng công trình loại N.
+Vật liệu nhẹ: Loại này dễ bắt lửa và không có sức chịu lửa, thường được để xây dựng công trình loại L.
-Ảnh hưởng của các tầng nhà: Khi xảy ra hoả hoạn, lửa hoặc hơi nóng sẽ được truyền lên qua các tầng nhà, qua các cầu thang lên xuống, qua lỗ hổng hoặc qua cửa sổ làm cho các tầng nhà có thể bị sập kéo các thiệt hại bên trong. Do đó, sức chịu đựng của các tầng nhà cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm.
- Phòng cháy, chữa cháy: Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc tính phí. Công tác PCCC là một yếu tổ để điều chỉnh phí bảo hiểm. Nếu côgn tác PCCC được trang bị tốt để hạn chế thấp nhất rủi ro xảy ra thì phí bảo hiểm sẽ được tính thấp hơn. Vị trí gần hay xa nguồn nước, đội cứu hoả…cũng ảnh hưởng đến phí bảo hiểm.
-Cách phân chia đơn vị rủi ro: Theo khoảng cách phân chia hoặc tường chống cháy. Các đơn vị rủi ro càng gần nhau, phí bảo hiểm càng cao và ngược lại.
-Bao bì đóng gói, chủng loại hàng hoá, cách thức xếp đặt: Tuỳ từng loại hàng hoá, bao gói hay cách thức xếp đặt hàng hoá mà phí bảo hiểm phải căn cứ vào đó mà xác định.
Tỷ lệ phí bảo hiểm cháy thường được chia làm 2 bộ phận: Tỷ lệ phí thuần và tỷ lệ phụ phí.
R=R1+R2
Trong đó:
R1: Tỷ lệ phí thuần.
R2 : Tỷ lệ phụ phí.
Khi xác định tỷ lệ phí thuần thường phải căn cứ vào só liệu thống kê trong một số năm trước đó như: Tổng số đơn vị rủi ro tham gia bảo hiểm cháy; số đơn vị rủi ro bị cháy; tổng số tiền bảo hiểm cháy; số tiền bồi thường bảo hiểm cháy…Đơn vị rủi ro trong bảo hiểm cháy được hiểu là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác vói khoảng cách không cho phép ngọn lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác (tuy nhiên khoảng cách gần nhất không dưới 12m).
Có 2 phương pháp xác định tỷ lệ phí thuần:
-Xác định theo phân loại, cụ thể là kết hợp các đơn vị rủi ro có thể so sánh được với nhau về cùng một loại, tính tỉ lệ cho mỗi loại, xem xét các yếu tố ẩnh hưởng tới tỉ lệ phí (vật liệu xây dựng, công tác PCCC…)
-Xác định tho danh mục: tiến hành theo 3 bứơc:
Bước 1: Rà soát lại danh mục tài sản tham gia bảo hiểm sau đó tiến hành phân loại theo các danh mục khác nhau,.
Bứơc 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để cọn ra một tỷ lệ phí thích hợp trong bảng tỷ lệ phí có sẵn.
Bước 3: Điều chỉnh tỷ lệ phí theo các yếu tố tăng, giảm phí…Việc điều chỉnh căn cứ vào các yếu tố như vật liệu xây dựng, PCCC…Tất cả những yếu tố này đều có thể làm tăng hoặc giảm tỷ lệ phí. Các công ty bảo hiểm thường quy định như sau:
+Loại D: Giảm tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí.
+Loại N: Giữ nguyên tỷ lệ phí.
+Loại L: Tăng tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí.
Căn cứ vào các yếu tố đó, công ty bảo hiểm có cơ sở để quyết định ký hay không ký hợp đồng bảo hiểm cháy.
Trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy, công ty bảo hiểm cần phải quan tâm đến các yếu tố làm giảm mức độ rủi ro vì những yếu tố này là cơ sở để giảm mức phí cơ bản. Tuy nhiên, tổng mức giảm phí về các thiết bị và phương tiện phòng cháy, chữa cháy của mỗi đơn vị rủi ro không quá 45%. Các yếu tố làm tăng rủi ro thường bao gồm:
Thiết bị phòng cháy, chữa cháy;
Việc trực, kiểm tra, canh gác;
Thiết bị phương tiện chữa cháy như:
Công trình có hệ thống phun nước;
Có hệ thống dập cháy bằng CO2;
Có hệ thống tự động dập cháy bằng CO2;
Có ôtô chữa cháy và nhân viên chữa cháy;
Gần đội cứu hoả công cộng..
Khi xem xét việc tăng giảm phí, nhân viên bảo hiểm phải đi thực địa, xem xét một cách nghiêm túc, đặc biệt khi xem xét các yếu tố này cần hết sức khách quan, sau đó hai bên thoả thuận với nhau trước khi ký hợp đồng.
Tỷ lệ phụ phí: R2 được nhà bảo hiểm kế hoạch hoá từ trước, và duy nhất chỉ phụ thuộc vào thời hạn bảo hiểm và công tác quản lý rủi ro sau khi ký kết hợp đồng. Thông thường phí bảo hiểm thường rất lớn nên người tham gia bảo hiểm có thể nộp phí một lần hoặc nhiều lần là do 2 bên thoả thuận.
Trong nghiệp vụ này, còn áp dụng các mức miễn thường. Tuỳ theo từng loại tài sản được bảo hiểm mà mức miễn thường được quy định khác nhau. Thông thường, trong bảo hiểm cháy áp dụng mức miễn thường có khấu trừ tối thiểu là 2% STBH nhưng không dưới 100 USD trên mỗi vụ tổn thất và tối đa không quá 2.000 USD trên mỗi vụ tổn thất. Đây là mức miễn thường bắt buộc không được giảm phí. Nếu người tham gia bảo hiểm muốn lựa chọn mức miễn thường cao hơn để được giảm phí thì sẽ có thoả thuận riêng về mức miễn thường và tỷ lệ giảm phí.
1.2.2.6 Thời hạn bảo hiểm.
Thông thường thời hạn bảo hiểm là một năm và tính từ khi người tham gia bảo hiểm nộp phí cho đến thời điểm 16h ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể đóng phí tiếp và yêu cầu tái tục hợp đồng bảo hiểm.
1.2.2.7 Giám định trong bảo hiểm cháy.
- Khi tài sản của người được bảo hiểm bị hoả hoạn, người tham gia phải kịp thời thông báo bằng văn bản, hoặc điện thoại, điện tín để cho nhà bảo hiểm được biết. Nội dung thông báo, ít nhất phải đảm bảo 3 nội dung sau:
Địa điểm, thời gian xảy ra hoả hoạn.
Đối tượng thiệt hại.
Dự báo nguyên nhân gây ra hoả hoạn.
Sau khi nhận được nội dung thông báo này, nhà bảo hiểm phải cử ngay nhân viên bảo hiểm hoặc người đại diện tới hiện trường để tổ chức công tác giám định.
- Giám định hoả hoạn là một công việc hết sức phức tạp đối với nhà bảo hiểm vì tài sản tham gia bảo hiểm và tài sản bị tổn thất rất đa dạng, giá cả ở các thời điểm khác nhau là rất khác nhau. Hiện trường rất dễ bị xáo trộn, nhân chứng của các vụ hoả hoạn cũng như lời khai của nhân chứng cũng hết sức khác nhau.
Chính vì vậy, giám định viên bảo hiểm hoả hoạn phải có nghiệp vụ, được đào tạo bài bản, đặc biệt khi giám định, tuỳ theo tính chất và đặc điểm của từng nghiệp vụ hoả hoạn, nhà bảo hiểm có thể mời thêm chính quyền địa phương, công an cùng tham gia giám định.
Khi giám định cần chú ý các vấn đề:
Thời điểm ban đầu xảy ra hoả hoạn và thời điểm kết thúc hoả hoạn.
Nguyên nhân gây hoả hoạn.
Thống kê lại tài sản đã bị thiệt hại.
Lấy lời khai của các nhân chứng có liên quan.
Xem xét lại toàn bộ công tác PCCC và ngăn ngừa thiệt hại suốt thời gian xảy ra hoả hoạn.
Sau đó lập biên bản giám định tại hiện trường. Biên bản này, có thể có rất nhiều chữ ký của các bên tham gia giám định và chứng kiến. Ví dụ cơ quan điều tra, cơ quan công an, thuế vụ, PCCC, kiểm toán…
Căn cứ vào biên bản giám định, công ty bảo hiểm dự trù số tiền bồi thường một lần hay nhiều lần cho người tham gia bảo hiểm.
1.2.2.8 Bồi thường tổn thất.
Bồi thường là trách nhiệm chủ yếu của công ty bảo hiểm khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm.
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy, công ty bảo hiểm căn cứ vào biên bản giám định, xét bồi thường theo một trong hai cách sau:
Cách 1: Bồi thường theo qui tắc tỷ lệ số tiền bảo hiểm.
Mục đích của bồi thường theo tỷ lệ số tiền bảo hiểm là tránh cho công ty bảo hiểm phải chịu những phiền toái về khiếu nại đồng thời ngăn ngừa người tham gia bảo hiểm lợi dụng bảo hiểm. Theo cách này, việc bồi thường được qui định:
+ Nếu thời điểm xảy ra tổn thất mà STBH nhỏ hơn giá trị thực tế của tài sản được bảo hiểm thì:
STBT =Giá trị tổn thất thực tế x STBHGiá trị bảo hiểm.
+Trường hợp STBH bằng GTBH của tài sản tại thời điểm xảy ra tổn thất thì STBH ngang bằng với giá trị tổn thất thực tế.
+ Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất mà giá trị thực tế của tài sản trên thị trường lớn hơn giá trị của tài sản khi tham gia bảo hiểm theo đánh giá thì STBT sẽ là:
STBT =Giá trị tổn thất thực tế (1)x Giá trị tài sản khi tham gia bảo hiểm (2)
Giá trị tài sản tại thời điểm xảy ra tổn thất.(3)
+Trong thời hạn bảo hiểm, tài sản bị tổn thất và được bảo hiểm theo hình thức bảo hiểm trùng, với lớn hơn 1 hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường của mỗi công ty được phân bổ theo hạn mức trách nhiệm mà mình bảo hiểm, theo tỷ lệ. Cụ thể:
STBT = (1) x (2)(3) x Tỷ lệ bảo hiểm.
Cách 2: Bồi thường theo quy tắc tỷ lệ phí
Trong trường hợp, người tham gia bảo hiểm vì lý do nào đó chưa đóng đủ số phí bảo hiểm cho thời hạn một năm, xảy ra tổn thất, nhà bảo hiểm tiến hành bồi thường như sau:
STBT = (1) x Phí bảo hiểm đã đóng Phí bảo hiểm lẽ ra phải đóng.
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM CHÁY TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC
2.1 GIỚI THIỆU VỀ TỔNG CÔNG TY CP BẢO HIỂM DẦU KHÍ VIỆT NAM VÀ CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ TÂY BẮC.
2.1.1 Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam
2.1.1.1 Khái quát chung.
* Quá trình hình thành và phát triển.
Địa chỉ: 154 Nguyễn Thái Học
Quận Ba Đình- Hà Nội
Điện thoại: (84-04) 733 5588
Fax: (84-04) 733 6284
Email: pvinsurance@fpt.vn
Phương châm phục vụ khách hàng:
“Trung thành và tận tụy với khách hàng”
Bảo hiểm Dầu khí ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành Dầu khí, một ngành kinh tế trọng điểm của đất nước với lượng vốn đầu tư rất lớn và mang tính quốc tế cao. Trong quá trình xây dựng một tập đoàn Dầu khí quốc gia, ngoài việc quản lý các dự án dầu khí trong nước, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam (Petro Việt Nam) đang từng bước mở rộng hoạt động, vươn mạnh ra thị trường quốc tế. Để đảm bảo định hướng phát triển của ngành Dầu khí, Petro Việt Nam đã quyết định thành lập Công ty Bảo hiểm dầu khí (BHDK), tên giao dịch quốc tế là PV Insurance. Với nhiệm vụ xây dựng chương trình quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn tài sản, cũng như các hoạt động của ngành, đồng thời trực tiếp kinh doanh sinh lợi để tăng tiềm lực tài chính. Kể từ khi thành lập đến nay, Công ty Bảo hiểm dầu khí đã trưởng thành và phát triển mạnh mẽ, khẳng định là một trong những nhà bảo hiểm phi nhân thọ hàng đầu tại Việt Nam.
Liên tục trong nhiều năm gần đây, Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam đã phát huy lợi thế về thương hiệu, năng lực tài chính và tính chuyên nghiệp đạt chuẩn quốc tế để vươn lên dẫn đầu thị trường BH Việt Nam ở lĩnh vực BH năng lượng, xây dựng lắp đặt, tài sản, tham gia tích cực vào thị trường BH hàng hải, tranh thủ sự ủng hộ của các nhà thầu Dầu khí, các chủ dự án để triển khai BH cho các công trình trọng điểm của đất nước.
Từ ngày thành lập đến nay, sự phát triển của công ty được đánh dấu bằng các mốc quan trọng sau:
Năm 1996:Công ty bảo hiểm dầu khí được thành lập theo quyết định số 12/BT ngày 23/01/1996 của Bộ trưởng chủ nhiệm Văn phòng chính phủ- giấy phép đăng ký kinh doanh số 110356 ngày 26/01/1996 trên cơ sở Bảo hiểm Y tế Dầu khí. Là một doanh nghiệp nhà nước xếp hạng I và là thành viên của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, có phạm vi hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam và nước ngoài. Những ngày đầu thành lập, công ty đặt trụ sở tại: Số 10 - Điện Biên Phủ- Hà Nội. Với nhân sự mỏng và hầu như chưa có kinh nghiệm hoạt động bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh lúc bấy giờ còn phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ với các công ty bảo hiểm khác. Năm đầu, doanh thu của BHDK chỉ mới đạt mức 50 tỷ đồng.
Từ 1996 đến năm 2000: Sau những khó khăn ban đầu, BHDK đã nhanh chóng khẳng định được vị thế của doanh nghiệp. Doanh thu bình quân hàng năm của BHDK những năm này đã đạt con số 100 tỷ đồng/ năm, đóng góp vào ngân sách nhà nước 48 tỷ đồng/ năm, lợi nhuận là 30 tỷ đồng/ năm. Năm 1998 lần đầu tiên doanh thu đạt trên 100 tỷ đồng.
Năm 2001: Thảm hoạ 11/9 xảy ra tại Hoa Kỳ đã làm rung động nền kinh tế thế giới, đặc biệt có tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính và bảo hiểm quốc tế. Nhiều công ty bảo hiểm đã bị phá sản hoặc rút khỏi thị trường. PVI là nhà bảo hiểm duy nhất thu xếp chương trình bảo hiểm năng lượng tại Việt Nam cũng phải đối mặt với sự kiện này. Vảo thời điểm khó khăn đó, nhận được sự chỉ đạo của lãnh đạo công ty, BHDK vẫn vững vàng đối mặt với thách thức. Thị trường bảo hiểm thế giới đóng băng, PVI phải gồng mình để vượt qua thời điểm khó khăn nhất. PVI là nhà bảo hiểm duy nhất có hợp đồng tái bảo hiểm cố định ra nước ngoài về năng lượng đảm bảo an toàn, hiệu quả cho các hợp đồng bảo hiểm. PVI khẳng định thành công vị thế trên thị trường bảo hiểm trong nước và quốc tế qua con số doanh thu đạt 187 tỷ đồng, gấp 2 lần doanh thu năm 2000. Năm 2001 PVI còn vinh dự nhận được bằng khen của thủ tướng chính phủ vì thành tích xuất sắc giai đoạn 1998-2000.
Từ năm 2002 đến 2004: tiếp tục khẳng định hình ảnh của Công ty bảo hiểm chuyên nghiệp, vốn lớn năng lực tài chính mạnh, trình độ nghiệp vụ chuyên môn của nhân viên cao. Doanh thu của doanh nghiệp liên tục tăng qua các năm, vinh dự nhận được hàng loạt phần thưởng cao quý của nhà nước trong những năm này. Năm 2002 nhận cờ thi đua “Đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua”. Năm 2004 nhận giải thưởng “Sao vàng đất Việt” - phần thưởng cho thương hiệu mạnh được người tiêu dùng bình chọn và Huân chương lao động hạng ba từ Chủ tịch nước.
Năm 2005: Hoạt động kinh doanh tiếp tục phát triển, doanh nghiệp duy trì tốt vị thế trên thị trường Việt Nam và quốc tế. Công ty kiểm soát được thị trường bảo hiểm năng lượng Việt Nam và là doanh nghiệp duy nhất xây dựng được hợp đồng năng lượng duy nhất của Việt Nam tại thị trường Lloyd’s London.
Năm 2006, Công ty BHDK hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam giao 160% và tiến hành cổ phần hoá.
Thực hiện cổ phần hoá của Bộ Công nghiệp và Tổng công ty Dầu khí Việt Nam tháng 9/2006, Lãnh đạo và Ban đổi mới doanh nghiệp Công ty Bảo hiểm dầu khí đã rất tích cực triển khai các Quyết định này và ngày 29/12/2006 công ty đã khép lại năm 2006 bằng việc bán đấu giá 11.729.000 cổ phần của Công ty tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đánh giá chung lại kết quả cổ phần hoá, BHDK đã đạt được 3 kỷ lục cao nhất từ trước đến nay. Đó là thời gian tiến hành cổ phần hoá nhanh nhất (hơn 3 tháng); Số người đăng ký mua cổ phần lớn nhất (trên 8000 Nhà đầu tư); Mức giá trúng thầu cao nhất đật 215.000đ/ 1 cổ phiếu, mức giá trúng thầu trung bình 160.205đ/ 1 cổ phiếu, mức giá trúng thầu thấp nhất 142.200đ/ 1 cổ phiếu.
Năm 2007: Đánh dấu bằng tiến trình cổ phần hoá được hoàn thành. Và từ 20/3/2007 Công ty bảo hiểm Dầu khí hoạt động dưới hình thức Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam. Với hình thức mới, phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế, hứa hẹn nhiều bước đột phá trong quá trình phát triển về sau.
Cù ng với doanh thu mà BHDK đã đạt được, mức đóng góp vào ngân sách nhà nướcliên tục tăng qua các năm. Sau mười năm hoạt động Bảo hiểm Dầu khí đã đóng góp gần 350 tỷ đồng cho ngân sách, chỉ tính riêng giai đoạn 2001 - 2005 đã đóng góp xấp xỉ 300 tỷ đồng. Thành công đó tiếp tục được khẳng định bằng sự kiện hai tổ chức DNV và Quacert tái cấp Chứng nhận chứng chỉ ISO vào tháng 11 năm 2005. Đây là sự đánh giá khách quan, khẳng định chiến lược phát triển đúng đắn của Công ty và thành công trong nghệ thuật quản lý của Ban Giám đốc, cộng với sự cống hiến nhiệt tình, sáng tạo không ngừng của tập thể đội ngũ nhân viên toàn Công ty.
2.1.1.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty.
Để vươn lên vị thế một trong những doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đứng đầu thị trường bảo hiểm Việt Nam, BHDK từ ngày đầu thành lập đến nay đã có nhiều thay đổi trong cơ cấu tổ chức. Việc cải tiến bộ máy quản lý luôn là yêu cầu cấp thiết nhằm tìm ra một mô hình hiệu quả hơn, nhiều ưu việt hơn và phát huy mạnh mẽ năng lực của các phòng ban, cán bộ công nhân viên toàn công ty.
Với sự lớn mạnh của tổng công ty bảo hiểm dầu khí, cơ cấu tổ chức cũng dần được điều chỉnh để tìm ra một mô hình hợp lý nhất.
Hiện nay, sau khi tiến hành cổ phần hoá, sơ đồ tổ chức của Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam như sơ đồ sau:
ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN TỔNG GIÁM ĐỐC
BAN KIẺM SOÁT
CÁC CÔNG TY
LIÊN DOANH & PVI THAM GIA GÓP VỐN
TRỤ SỞ CÔNG TY
CÁC CÔNG TY
THÀNH VIÊN
VĂN PHÒNG
BAN BẢO HIỂM HÀNG HẢI
BAN TÀI CHÍNH
KẾ TOÁN
BAN BẢO HIỂM
KỸ THUẬT
BAN KẾ HOẠCH &PHÁT TRIỂN
BAN BẢO HIỂM NĂNG LƯỢNG
VĂN PHÒNG II
BAN TIN HỌC THÔNG TIN
BAN ĐẦU TƯ
BAN GIÁM ĐỊNH BỒI THƯỜNG
BAN
BẢO HIỂM DỰ ÁN
BAN TỔNG HỢP PHÁP CHẾ
BAN TÁI BẢO HIỂM
BAN TỔ CHỨC NHÂN SỰ
PVI HÀ NỘI
PVI SÀI GÒN
PVI KV ĐÀ NẴNG
PVI
ĐÔNG ĐÔ
PVI KV
KHÁNH HOÀ
PVI KV
NAM ĐỊNH
PVI KHU VỰC ĐỒNG NAI
PVI KV
BẮC TRUNG BỘ
PVI
NAM TRUNG BỘ
PVI KV
ĐÔNG BẮC
PVI KV
TÂY NAM
PVI KV
TÂY BẮC
PVI VŨNG TÀU
PVI KV
DUYÊN HẢI
PVI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1.1.2.1 Đại hội cổ đông: gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của Công ty. Có quyền quyết định loại cổ phần được bán, cổ tức hàng năm, bầu và miễn nhiễm thành viên Hội Đồng quản trị , Ban kiểm soát; thông qua báo cáo tài chính hàng năm...
2.1.1.2.2 Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản lý Công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liênquan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông
2.1.1.2.3 Ban Tổng Giám đốc: Thực hiện quản lý công ty, đứng đầu là Tổng Giám đốc, phụ trách điều hành hoạt động hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về các quyền và nhiệm vụ được giao. Tổng Giám đốc có 4 Phó Tổng Giám đốc hỗ trợ trong các mảng khác nhau.
2.1.1.2.4 Ban kiểm soát : Thực hiện công tác kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, thẩm định báo cáo tài chính hàng năm....
2.1.1.2.5 Các công ty liên doanh & PVI tham gia góp vốn: PVI tham gia liên doanh, góp vốn ở nhiều công ty khác nhau; ví dụ Công ty du lịch PVI,
2.1.1.2.6 Trụ sở công ty: Gồm các ban:
2.1.1.2.6.1 Ban hành chính pháp chế:
Nhiệm vụ chính gồm:
-Thực hiện tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp cán bộ, nâng lương, đề bạt, khen thưởng và kỷ luật đối với các cán bộ của các phòng ban trong công ty.
-Xây dựng tiêu chuẩn chức danh định biên của các phòng.
-Xem xét đề nghị uỷ quyền cho các chi nhánh về việc thuê trụ sở làm việc.
2.1.1.2.6.2. Ban Kế hoạch và phát triển kinh doanh.
Chức năng : tham mưu và giúp Tổng giám đốc công ty trong việc chỉ đạo hoạch định chiến lược kinh doanh, kế hoạch dài hạn và ngắn hạn, tính toán hiệu quả kinh tế, phát triển kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản.
Nhiệm vụ: Thực hiện công việc quản lý theo các quy trình, qui định thuộc hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2001 của công ty, gồm:
a.Công tác kế hoạch thống kê:
b.Công tác phân tích hiệu quả các hoạt động kinh doanh:
c.Công tác đầu tư xây dựng cơ bản:
2.1.1.2.6.3 . Ban Tài chính kế toán:
Phòng kế toán thực hiện xây dựng các chỉ tiêu về chi phí và lợi nhuận hàng năm của công ty và các chi nhánh.
Phân tích hiệu quả kinh doanh của các đơn vị.
Kết hợp với các phòng ban và chi nhánh trong xây dựng các dự án đầu tư trong công ty.
2.1.1.2.6.4. Ban giám định bồi thường.
Phòng thực hiện công việc tiếp nhận, xem xét tính hợp lệ của hồ sơ khiếu nại và xét giải quyết bồi thường.
2.1.1.2.6.5 Ban Tổ chức nhân sự..
Tham mưu và giúp Tổng giám đốc chỉ đạo công tác pháp chế, thư ký quản trị….Cập nhật, lưu trữ các văn bản luật và dưới luật liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty. Kiểm tra giám sát việc thực hiện nội quy lao động. Sắp xếp lịch làm việc của ban Tổng giám đốc, lưu trữ hồ sơ chỉ đạo của Ban Tổng giám đốc…Là đầu mối trong công tác mua trang thiết bị, duy tu sửa chữa nhà cửa và in ấn, thông tin quảng cáo cho công ty…..
2.1.1.2.6.6. Ban Tin học thông tin.
Nhằm thực hiện chiến lược xây dựng Bảo hiểm Dầu khí thành một thương hiệu mạnh trong tập Đoàn Dầu khí, có quy mô hoạt động toàn cầu, sẵn sàng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, Công ty Bảo hiểm Dầu khí đặc biệt chú trọng đến việc đầu tư cho công nghệ thông tin, một biện pháp không thể thiếu để tăng năng lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm…Phòng Tin học thông tin ngoài quản lý hệ thống thông tin trong doanh nghiệp, xây dựng, áp dụng những quy trình quản lý bằng tin học còn tổ chức nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên trong công ty….
2.1.1.2.6.7 Ban bảo hiểm năng lượng.
Ban bảo hiểm Năng lượng có nhiệm vụ tiến hành kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm năng lượng bao gồm các công việc từ khâu tiếp thị, chào bán bảo hiểm, cấp đơn bảo hiểm và tư vấn bảo hiểm cho khách hàng. Phòng Bảo hiểm Năng lượng được ra đời từ năm 1996 ngay từ ngày đầu thành lập Công ty Bảo hiểm Dầu khí nhằm thực hiện nhiệm vụ chính của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam giao phó là tư vấn, quản lý rủi ro và cung cấp bảo hiểm cho các hoạt động dầu khí tại Việt Nam.
2.1.1.2.6.8 Ban bảo hiểm kỹ thuật.
Ban có chức năng kinh doanh, tham mưu và giúp Giám đốc Công ty chỉ đạo kinh doanh theo đúng pháp luật trong lĩnh vực Bảo hiểm kỹ thuật, công trình, xây dựng lắp đặt, tài sản, trách nhiệm, bảo hiểm trọn gói cho các dự án hạ nguồn của ngành dầu khí.
Thực hiện các công việc kinh doanh do Giám đốc phân công.
Thực hiện công việc kinh doanh theo các quy định, quy trình gồm: Tiếp thị, đánh giá rủi ro trước khi cấp đơn, cấp đơn bảo hiểm, phân tán rủi ro.
Thực hiện hợp tác với các Công ty bảo hiểm, các môi giới bảo hiểm có quan hệ kinh doanh.
Trực tiếp giao dịch với khách hàng, đàm phán với khách hàng, và các đối tác theo quy định của công ty...
2.1.1.2.6.9. Ban bảo hiểm hàng hải.
Là một phòng kinh doanh mũi nhọn của công ty với ba loại hình dịch vụ chính: Bảo hiểm thân tàu, Bảo hiểm hàng hoá, Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu... Phòng luôn đạt doanh thu trên 100 tỷ đồng mỗi năm.
2.1.1.2.6.10 Ban Bảo hiểm dự án
Nhiệm vụ của phòng là phát triển các dịch vụ ngoài ngành. Nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng, nắm bắt tiềm năng tham gia bảo hiểm... Từ đó đưa ra giải pháp tiếp cận thị trường.
2.1.1.2.6.11 Ban tái bảo hiểm.
Chức năng nhiệm vụ chính của phòng là thu xếp tái bảo hiểm hiệu quả và an toàn cho các dịch vụ vượt mức giữ lại của Công ty.
Phối hợp với các đơn vị kinh doanh trong việc đàm phán các chương trình chào phí bảo hiểm cạnh tranh từ thị trường quốc tế.
._. dẫn thực hiện nghị định còn ở dạng dự thảo, chưa có văn bản chính thức. Do vậy chế tài áp dụng cho những trường hợp sai phạm chưa có tác dụng.
+ Đây là một sự tác động rất mạnh mẽ lên các doanh nghiệp, đòi hỏi phải có thời gian đủ dài để DNBH có thể kịp thời thích ứng với thay đổi của thị trường. Thời gian cho phổ biến nghị định, đào tạo và tuyển dụng nhân viên , triển khai các chiến lược kinh doanh mới của doanh nghiệp.
Do vậy, dù thời gian triển khai nghị định đã đi qua được 1quý, nhưng so với cùng kỳ năm trước, số đơn bảo hiểm có gia tăng nhưng chưa có những đột biến tích cực. Số gia tăng ngoài số đơn bảo hiểm tái tục là chủ yếu, chỉ có một lượng không lớn các đơn bảo hiểm mới. Như vậy, từ thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ hiện nay, đòi hỏi công ty phải thực hiện mạnh mẽ hơn những quyết sách của ban quản trị.
2.3.3. Thuận lợi & Khó khăn.
Sau nghị định 130/2006/NĐ-CP của chính phủ , thuận lợi và khó khăn của công ty trong khai thác bảo hiểm cháy nổ có thể khái quát như sau:
2.3.3.1 Thuận lợi: (Bao gồm cả những thuận lợi vốn có và những thuận lơi mới từ sau nghị định 130):
+ Thuận lợi xuất phát từ phía tập đoàn dầu khí và Tổng công ty BHDK .
Thương hiệu ngành dầu khí ở Việt Nam là một thương hiệu mạnh, đa phần người dân nước ta đều có sự tin tưởng vào các công ty mang thương hiệu Dầu khí. Trong hoạt động kinh doanh, Tổng công ty BHDK cũng như các công ty thành viên có rất nhiều thuận lợi nhờ vào sức mạnh thương hiệu của tập đoàn. Do vậy, khi tiến hành triển khai bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc có thể hoạt động tuyên truyền quảng cáo của công ty chi phí không lớn bằng các công ty khác nhưng kết quả đạt được có khả năng cao hơn.
+ Thuận lợi về vị trí địa lý, dân cư, đời sống kinh tế chính trị xã hội tại khu vực thị trường mà công ty đảm nhận: BHDK Tây Bắc trụ sở chính đặt tại thành phố Hà Đông- Hà Tây, giáp ranh Hà Nội. Địa bàn công ty đảm nhận, phần lớn là các tỉnh đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ như Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ...Hơn nữa, giáp ranh với Hà Nội nên BHDK Tây Bắc khá thuận lợi trong tiếp cận khách hàng tiềm năng, thuận lợi trong tuyển nhân sự có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững... Triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm với đầy đủ thuận lợi từ khâu nhân sự, đến yếu tố khách hàng, giao thông, thông tin liên lạc... đã cho thấy hoạt động triển khai bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc của BHDK Tây Bắc sẽ đạt được kết quả tốt đẹp.
+ Thuận lợi từ sự phát triển của đất nước: Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của Việt Nam trong 5 năm qua luôn đạt trên 7,5%, năm 2006 đạt 8,17%. Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển đứng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Các tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vũng Tàu... kết quả đạt được còn cao hơn nữa, ở khoảng 13 đến 15% mỗi năm. Qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy mạnh mẽ hình thành các nhà máy xí nghiệp, công ty... Đây là cơ hội cho BHDK Tây Bắc tăng doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm cháy bởi nhu cầu vì nghiệp vụ bảo hiểm này cũng sẽ tăng theo.
+ Thuận lợi từ cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ công nhân viên: Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Tổng công ty, cơ sở vật chất BHDK Tây Bắc nhìn chung được cải thiện đáng kể qua các năm. Tỷ lệ máy tính, điện thoại trên nhân viên đạt tỷ lệ xấp xỉ 1. Cán bộ đang làm việc tại Công ty đều được tuyển dụng trên cơ sở các kỳ sát hạch nghiêm túc, chất lượng cao. Trên 80% cán bộ, nhân viên có trình độ đại học, một số trên đại học, khả năng chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao. Hơn nữa, môi trường làm việc thân thiện cũng góp phần tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động của Công ty.Những khó khăn khi triển khai bảo hiểm cháy nổ bắt buộc như nhân viên trẻ, hoặc cán bộ mới chưa có nhiều kinh nghiệm, và nắm chưa sâu và chắc vấn đề...sẽ được giải quyết nhanh chóng bằng sự giúp đỡ tận tình của người có thâm niên công tác, và trình độ, năng lực tốt hơn.
+ Thuận lợi chung đối với tất cả các công ty bảo hiểm, trong đó có BHDK Tây Bắc: Ngày nay, trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao, qui mô sản xuất ngày càng được mở rộng, rủi ro tiềm ẩn vì thế cũng gia tăng. Do vậy, hoạt dộng tự bảo hiểm, lập dự phòng không còn hiệu quả khi mà chỉ một sơ suất nhỏ đủ gây ra một tổn thất rất lớn. Mặt khác, ý thức của người dân, nhất là cán bộ, lãnh đạo các cơ sở, doanh nghiệp về PCCC, bảo hiểm cháy...ngày càng được nâng cao. Đáp ứng đòi hỏi của phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống văn bản pháp luật nói chung và văn bản pháp luật hướng dẫn điều chỉnh hoạt động bảo hiểm, PCCC, bảo hiểm cháy đang được hoàn thiện. Hơn nữa giữa các bộ ngành liên quan đã có sự phối hợp nhất định
+ Thuận lợi khác: Loại hình bảo hiểm cháy nổ có đối tượng bảo hiểm là tài sản của cá nhân, tổ chức doanh nghiệp... Đây là tài sản được xác định hoặc dễ xác định mà không xảy ra phức tạp như các hình thức bảo hiểm bắt buộc khác liên quan đến trách nhiệm dân sự, do vậy khi xảy ra tổn thất nó không hoặc ít gây tranh cãi, khiếu nại trong giải quyết bồi thường. Ngoài ra, trong thời gian gần đây, các vụ hoả hoạn xảy ra ở Việt Nam và thế giới tự bản thân chúng đã là những đoạn phim quảng cáo có tác dụng cao về sự cần thiết của bảo hiểm cháy nổ.
+ Thuận lợi từ những lợi ích mà Nghị định 130/2006/NĐ-CP đưa lại cho nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm và đối tượng tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc (như đã trình bày). Không những thế nghị định cũng có sự ảnh hưởng rộng rãi tới những đối tượng không thuộc phạm vi điều chỉnh của nghị định, đối tượng được lựa chọn tự nguyện tham gia hoặc không. Hoạt động khai thác của chuyên viên đối với bảo hiểm tự nguyện vì thế sẽ thuận lợi hơn, có thể giảm chi phí khai thác nhưng số đơn và giá trị hợp đồng cấp ra sẽ tăng nhiều lần.
2.3.3.2 Khó khăn:
+ Tốc độ phát triển của Việt Nam mặc dù cao nhưng giá trị 1% tăng trưởng so với các nước trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan và những nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Anh....còn rất nhỏ bé.Việt Nam cho đến nay vẫn là nước kém phát triển. Thu nhập bình quân đầu người dù đã tăng nhưng chỉ với 720 USD mỗi năm, lại phải đối mặt với lạm phát, người dân Việt Nam vẫn là những người rất nghèo. Với khoản thu nhập nhỏ, nhưng phải phục vụ cho nhiều nhu cầu và mục đích khác nhau, người dân Việt Nam hầu như không có khoản chi phí giành cho bảo hiểm. Tổ chức, doanh nghiệp luôn có nhu cầu đổi mới máy móc, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm...luôn quan niệm chi phí cho các khoản bảo hiểm là lãng phí. Hơn nữa, đa số cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp do khả năng tài chính hạn hẹp cũng không có điều kiện sở hữu tài sản có giá trị cao. Do những lý do trên, nhu cầu bảo hiểm nói chung, bảo hiểm cháy nổ nói riêng còn hạn chế.
+ Mức sống dân cư được cải thiện nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn là quốc gia nông nghiệp, tư duy và ý thức của người dân về cộng đồng, xã hội, về những ngành mới mẻ như bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán...còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, việc tuyên truyền, giảng dạy, phổ biến kiến thức, tạo điều kiện để người dân tiếp cận với thông tin về các lĩnh vực trên được tiến hành không hệ thống, không thống nhất, đứt quãng...Do vậy kết quả thu được không những không như mong đợi của các cơ quan ban ngành có liên quan mà còn gây ra tác động trái ngược. Người dân từ chỗ ít hiểu biết trở thành hiểu không rõ, hiểu sai. Phát triển bảo hiểm vì thế trở lên khó khăn hơn.
+ Địa bàn mà BHDK Tây Bắc đảm nhận bên cạnh các tỉnh có tốc độ công nghiệp hoá diễn ra mạnh mẽ vẫn có những tỉnh nghèo, lạc hậu, kinh tế phát triển chậm chạp. Trong cơ cấu các ngành kinh tế, sản xuất nông nghiệp là chính. Nhu cầu về bảo hiểm cháy nổ vì thế còn rất thấp. Giao thông, liên lạc khó khăn cũng gây ra trở ngại trong hoạt động khai thác của các chuyên viên, trong tạo dựng và phát triển mạng lưới đại lý chuyên nghiệp.
+ Khó khăn trong cạnh tranh. Cạnh tranh lành mạnh là yếu tố không thể thiếu để các doanh nghiệp phát triển. Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên địa bàn BHDK Tây Bắc đảm nhận không nhiều, nhưng sự cạnh tranh tại đây diễn ra khá gay gắt. Khu vực này có khá nhiều tỉnh giáp ranh với Hà Nội, việc các công ty bảo hiểm khác vươn sức ảnh hưởng đến các địa bàn này là tất yếu. Do vậy BHDK Tây Bắc không chỉ cạnh tranh với các công ty có trụ sở đặt tại địa bàn mà còn phải cạnh tranh trực tiếp với tất cả công ty bảo hiểm hoạt động tại Hà Nội. Trong khi đó, trong bảo hiểm xuất hiện ngày càng nhiều phương thức cạnh tranh. Cạnh tranh bằng các hình thức lôi kéo khách hàng như: mở rộng phạm vi bảo hiểm, tăng tỷ lệ hoa hồng, áp dụng giảm phí, tăng chi phí phục vụ khách hàng, quan hệ khách hàng, lôi kéo một số cán bộ trong các cơ quan hành chính sự nghiệp đoàn thể dùng sức ép, buộc nhân viên dưới quyền tham gia bảo hiểm...Trong các biện pháp trên, phổ biến là hình thức giảm phí. Nó tạo ra cuộc chạy đua trong các công ty bảo hiểm, giảm phí đến tối đa có thể. Hậu quả là dự phòng phí bị giảm theo, hiệu quả kinh doanh giảm sút.
+ Bên cạnh số lãnh đạo doanh nghiệp, cơ sở đã nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm cháy nổ còn phổ biến các lãnh đạo doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước mang tư tưởng bao cấp, không tìm hiểu hoặc không nhận thức được vấn đề. Tạo ra khó khăn tỏng khai thác cho doanh nghiệp.
+ Đối tượng khách hàng của BHDK Tây Bắc hiện nay đa phần là các doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn.... đối tượng này gía trị tài sản, công xưởng không lớn. Trong khi đó, khi tham gia bảo hiểm mang tư tưởng “tham gia vì mục đich vay vốn ngân hàng” do đây là điều kiện bắt buộc trong các hợp đồng vay vốn, hoặc tham gia vì các mối quan hệ.
+ Nghiệp vụ bảo hiểm cháy là một nghiệp vụ rất phức tạp trong tất cả các khâu, từ khai thác đến bồi thường. Đòi hỏi cán bộ khai thác, giám định bồi thường...phải có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt. Hiểu biết rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau như vật liệu xây dựng, kết cấu công trình, chất nổ, nguyên liệu cháy...Nhưng hiện nay tại BHDK Tây Bắc chưa có chuyên gia giỏi về lĩnh vực này. Tỷ lệ phí được áp dụng chủ yếu dựa vào cảm tính, hoặc dựa trên các đơn bảo hiểm cấp trước đó mà không phải dựa trên đánh giá chính xác đối tượng đựơc bảo hiểm. Do vậy nguy cơ tính phí không sát, không chính xác rất cao....
+ Phân mức trách nhiệm mà BHDK Tây Bắc hiện đảm nhận so với giá trị bảo hiểm, STBH mà những khách hàng lớn lựa chọn không tương thích...Với sự phát triển của BHDK Tây Bắc, nhiều dự án công ty đã có thể đảm nhận, nhưng do vướng mắc từ hạn mức trách nhiệm, công ty phải chuyển lên tổng công ty. Hậu quả là thời gian phục vụ khách hàng bị kéo dài, chi phí gia tăng...nên hiệu quả kinh doanh thấp.
+ Qui định bắt buộc bảo hiểm cháy nổ bắt buộc thực hiện dưới sự giám sát của cơ quan PCCC, mà cụ thể là cán bộ PCCC tại các tỉnh, thành phố...nguy cơ lạm dụng chức quyền để thay đổi kết quả kiểm tra, kiểm soát đối với công tác PCCC ở cấp cơ sở là rất cao. Do đó, việc BHDK Tây Bắc phải bảo hiểm cho những công trình không đủ điều kiện an toàn PCCC là tất yếu. Kết quả là hiệu quả kinh doanh bảo hiểm chays nổ không cao.
+ Qui định bắt buộc trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ban ngành năm 2003 đã từng gây dư luận không đồng tình trong nhân dân do khâu tổ chức triển khai nghiệp vụ này của các công ty bảo hiểm tiến hành có nhiều bất cập. Do vậy, hình thức bảo hiểm cháy nổ bắt buộc có thể chịu gánh chịu phản ứng tiêu cực từ phía người tham gia ngay từ khi nghị định được ban hành, đi vào triển khai thời gian đầu.
Định hướng của công ty BHDK Tây Bắc trong nắm bắt cơ hội thị trường BH cháy thời gian tới.
BHDK Tây Bắc đề ra các mục tiêu sau đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy:
+ Doanh thu bảo hiểm cháy nổ trong năm 2007 tăng gấp 2 tốc độ tăng năm 2006. Đạt mức:22.500 tỷ đồng.
+ Gia tăng số đơn bảo hiểm cấp ra tại các tỉnh như Lạng Sơn, Bắc Giang, Yên Bái...
+ Tăng cưòng dịch vụ khách hàng, làm khách hàng hài lòng không chỉ với mức phí hợp lý mà còn với dịch vụ bảo hiểm tốt nhất.
+ Chiếm lĩnh thị phần cao nhất về bảo hiểm cháy nổ tại khu vực thị trường đảm nhận.
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TRIỂN KHAI
TỐT NHẤT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC SAU NGHỊ ĐỊNH SỐ 130/2006/NĐ-CP CỦA CHÍNH PHỦ
ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC:
- Tăng cường kiểm tra giám sát từ nhiều phía:
Theo nghị định 130, các bộ ngành liên quan gồm Bộ Công An, Bộ Xây dựng, Bộ Tài Chính và đại diện hiệp hội bảo hiểm (cơ quan thống nhất ý kiến từ các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểmViệt Nam) lập ra một chuẩn mực về qui trình, nội dung kiểm tra giám sát về an toàn phòng cháy chữa cháy. Kết quả kiểm tra từ bất cứ thành viên nào trong các bộ ngành trên đều được thông báo tới các bên.
- Hoàn thiện khung pháp lý qui định chê độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc.
Trước mắt là ban hành văn bản chính thức gồm Thông tư hướng dẫn thực hiện qui định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và Qui tắc, biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Sau đó, các bên liên quan cùng thảo luận các hình thức chế tài áp dựng trong trường hợp xử lý sai phạm của đối tượng tham gia.
- Gia tăng mức phạt: Gia tăng mức phạt đối với các cơ sở không thực hiện đúng yêu cầu an toàn PCCC, và mức phạt đối với đối tượng không tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Mức phạt phải có sức răn đe đối với đối tượng, không được thấp hơn mức chi phí giành cho xây dựng, trang bị phương tiện PCCC... hoặc thấp hơn mức phí bảo hiểm cháy nổ đáng lý phải bỏ ra.
- Xây dựng khung hình phạt cụ thể đối với các trường hợp cán bộ cơ quan PCCC vì lợi dụng chức quyền, tắc trách trong công việc cấp giấy chứng nhận an toàn PCCC cho các đối tượng không đạt yêu cầu.
- Tạo điều kiện hơn nữa cho DNBH trong cấp đơn bảo hiểm. Trường hợp DNBH phát hiện có sai phạm trong khâu cấp chứng nhận an toàn PCCC của cơ quan PCCC, cho phép DNBH được từ chối bảo hiểm.
- Các cơ quan ban ngành liên quan kết hợp cùng xây dựng các chương trình tuyên truyền về ích lợi của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, tránh trường hợp nhân dân hiểu sai lệch đường lối chỉ đạo của nhà nước đối với ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm cháy nổ nói riêng.
- Minh bạch các khoản chi phí liên quan đến tài khoản tạm giữ của bộ công an tại Kho bạc nhà nước, tài khoản được sử dụng để bổ sung kinh phí cho hoạt động PCCC hàng năm.
- Hiện nay, pháp luật nghiêm cấm quảng cáo khuyến mại đối với hình thức bảo hiểm bắt buộc. Tuy nhiên do trong kinh tế thị trường, yếu tố cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Và cạnh tranh bằng quảng cáo là một hình thức có cả mặt tốt và không tốt của nó. Do vậy, để bảo hiểm cháy nổ đưa lại kết quả cao nhất nhà nước cần có những điều chỉnh hợp lý về vấn đề quảng cáo đối với bảo hiểm bắt buộc nói chung và bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc nói riêng. Theo đó ban hành văn bản về vấn đề quảng cáo trong lĩnh vực này, nêu rõ những trường hợp nào là vi phạm và trường hợp nào được phép tiến hành. Kèm theo là hình phạt khi có sự vi phạm.
- Hợp đồng bảo hiểm hiện nay được Bộ Tài chính qui định chuẩn, nhưng vì chiến lược kinh doanh của mỗi công ty họ có thể coi các điều khoản trong hợp đồng như lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên Bộ Tài chính cũng qui định rằng, nếu 2 bên, bảo hiểm và tham gia bảo hiểm thoả thuận được với nhau, những gì được Bộ Tài chính qui định có thể thay đổi. Trong rất nhiều trường hợp, vì các lợi ích nào đó, các bên tham gia ký kết hoàn toàn có thể tìm được tiếng nói chung để vi phạm pháp luật, lách luật va làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên khác. Do vậy để tránh trường hợp này, Bộ Tài chính cần chỉ rõ sự thay đổi có thể xảy ra ở mục nào, và mức tối đa tối thiểu của sự thay đổi là như thế nào.
- Bộ Tài chính nên thường xuyên cập nhật qua Website những qui định của Chính phủ, của Bộ có liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm. Số liệu liên quan đến thị trường bảo hiểm như doanh thu phí, chi phí bồi thường, số vụ bồi thường lớn và điển hình...không chỉ được cung cấp riêng tới các doanh nghiệp bảo hiểm mà Bộ nên coi đây là thông tin chung của tất cả những đối tượng có quan tâm đến hoạt động của thị trường bảo hiểm .
- Có thể thực hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba hoặc với cộng đồng xã hội kèm theo Nghị định 130/2006/NĐ-CP. Vì cháy, ko khi nào thiệt hại chỉ xảy ra với riêng đối tượng được bảo hiểm. Hậu quả của cháy không chỉ xảy ra riêng đối với đối tượng được bảo hiểm vì kèm theo cháy còn có hiện tượng khói đen, đổ nhà cửa, cơ sở...Những tác nhân có thế làm môi trường ô nhiễm, người và tài sản xung quanh bị thiệt hại. Do vậy, thực hiện bảo hiểm thêm các hình thức bảo hiểm đã nêu càng tăng phần đảm bảo an toàn cho xã hội.
-Ban hành những mã hiệu cho DN thực hiện tốt PCCC và BH cháy. Học tập ngành môi trường ở một số quốc gia ấy, nếu DN hoặc hãng nào trong quá trình sản xuất thực hiện tốt công tác bảo vệ vệ môi trường, xử lý rác thải đúng quy trình, bảo vệ môi trường xanh sạch...trên bao bì sản phẩm, logo quảng cáo đều có chữ (R)- dấu hiệu khẳng định những thông tin trên , và ai cũng biết. Vậy, ở VN để thực hiện tốt PCCC cũng nên học tập. Vì những DN thực sự có trách nhiệm đối với an toàn xã hội, lợi ích cộng đồng khi thực hiện tốt công tác PCCC và tham gia bảo hiểm cháy đã phải bỏ ra một khoản chi phí không nhỏ. Điều này làm giảm lợi nhuận ròng, giảm mức đầu tư trở lại hoạt động sản xuất...sức cạnh tranh vì thế giảm so với các đối thủ khác. Nếu không có hình thức nào đó để trân trọng những việc làm, thực chất là tốt cho họ, song gián tiếp có ích với xã hội...thì nhanh chóng những đối tượng này sẽ né tránh, thực hiện qua loa, hoặc ko thực hiện....Gắn một ký hiệu, ví dụ (F) lên bao bì, mẫu mã sản phẩm...là một sự tôn vinh về công tác PCCC, tham gia bảo hiểm cháy tại công ty đó...Việc này phải song song kết hợp với giáo dục ý thức người dân. Vì nếu đa phần đông dân chúng có sự ưu ái hơn đối với doanh nghiệp có kí hiệu (F), DN sẽ thuận lợi hơn trong kinh doanh... Đến một thời điểm nào đó, việc thực hiện PCCC và tham gia bảo hiểm cháy trở thành nhu cầu thực sự của doanh nghiệp mà không cần tới yếu tố bắt buộc của chính phủ.
3.2 ĐỐI VỚI HIỆP HỘI BẢO HIỂM.
- Thống nhất ý kiến từ các hội viên để lập ra những thoả thuận nhất định liên quan đến cạnh tranh trong khai thác bảo hiểm. Thống nhất tối đa các hành động công ty bảo hiểm thuộc hiệp hội không được thực hiện. Tránh những kết quả không mong đợi như triển trai bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba năm 2003 và những năm sau đó. Việc các DNBH mạnh ai người đó tiến đà làm thị trường bảo hiểm xe cơ giới lôn xộn, làm mất lòng tin ở người dân vào bảo hiểm, tạo tâm lý ức chế khi họ phải tham gia bảo hiểm bắt buộc...
- Thống nhất khung phạt trong hiệp hội đối với trường hợp vi phạm thoả thuận đã ký kết.: Hiệp hội ở VN hiện nay không mạnh, sức ảnh hưởng không cao. Các thành viên đồng ý ký kết vào các loại thoả thuận, nhưng sau đó thì tuỳ từng trường hợp lại vi phạm...Tồn tại phổ biến tư duy sự vi phạm đó có lợi cho bản thân công ty là có thể thực hiện, còn quyền lợi của những công ty khác, đối tượng khác bị ảnh hưởng không nằm trong sự quan tâm của Công ty. Nếu có sự can thiệp của hiệp hội thì phán quyết của Hiệp hội cũng không có nhiều ý nghĩa. Do vậy hiệp hội cần phải thực hiện biện pháp nào đó để tăng vai trò của mình. Nhất là trong giai đoạn tới, bảo hiểm cháy nổ bắt buộc được chính thức áp dụng. Hành động của hiệp hội sẽ góp phần hạn chế các hình thức cạnh tranh không lành mạnh như: trường hợp tranh cướp khách hàng bằng giảm phí quá đáng hoặc chi hoa hồng quá lớn, trường hợp DNBH này đã ko chấp nhận bảo hiểm cho khách hàng vì những sai phạm hoặc thiếu sót trong an toàn PCCC, nhưng công ty khác lại chấp nhận bảo hiểm.
- Tăng cường vai trò trung gian giữa các công ty bảo hiểm. Phát hiện có trục lợi bảo hiểm cháy nổ dưới hình thức bảo hiểm trùng, cần nhanh chóng thông báo để các công ty bảo hiểm có liên quan tiên hành xử lý giải quyết. Bảo hiểm trùng xảy ra rất phổ biến trong bảo hiểm cháy, nổ. Trong khi đó, tại thị trường bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp lại hạn chế cung cấp thông tin lẫn nhau về khách hàng với lý do bảo vệ bí mật trong kinh doanh. Vai trò trung gian của Hiệp hội vì thế cần được phát huy mạnh hơn bằng các ràng buộc giữa hiệp hội với các Công ty bảo hiểm hoặc giữa các Công ty với nhau.
- Là đại diện của các công ty bảo hiểm trên thị trường kịp thời phản ánh những vướng mắc khi nghị định đi vào triển khai. Chắc chắn khi nghị định đi vào triển khai sẽ có rất nhiều trường hợp khác với những gì đã suy tính trong quá trình soạn thảo Nghị định 130/2006/NĐ-CP. Sẽ phát sinh rất nhiều tình huống ngoài sự kiến. Do quyền lợi của các bên có thể đối chọi nhau hoặc có thể nó phù hợp với địa bàn này nhưng lại không phù hợp với địa bàn khác. Có thể mức phí BTC đưa ra để các doanh nghiệp tham khảo theo thời gian không còn phù hợp với thực tế. Cũng có thể các cơ quan chức năng có liên quan không thực hiện đúng phận sự của họ, hoặc gây khó dễ cho DNBH hoặc cá nhân cán bộ khai thác....
3.3 ĐỐI VỚI CÔNG TY BẢO HIỂM.
3.3.1 Tổng Công ty CP Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam.
Tổng Công ty BHDK Việt Nam tiến hành đổi mới sản phẩm bảo hiểm, phân định rõ sự khác biệt giữa sản phẩm bảo hỉêm cháy nổ bắt buộc và sản phẩm bảo hiểm tự nguyện. Có thể có những ưu tiên nhất định trong hợp đồng bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, phí thấp hơn, điều kiện mở rộng hơn (trong phạm vi cho phép của Bộ Tài chính và Hiệp hội bảo hiểm)...
Tổ chức khoá đào tạo nâng cao nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ cho toàn bộ chuyên viên có tham gia vào quá trình triển khai sản phẩm bảo hiểm cháy nổ. Đào tạo không chỉ về nghiệp vụ bảo hiêm cháy nổ, kỹ năng khai thác, kỹ năng quan hệ khách hàng...mà cả kỹ năng phuc vụ khách hàng. Phục vụ tốt, tạo ấn tượng tốt để khách hàng luôn nghĩ đến công ty đầu tiên khi muốn tái tục hợp đồng bảo hiểm trong các năm sau. Khách hàng tham gia ký kết hợp đồng trong bảo hiểm cháy nổ bắt buộc hầu hết là những người có trọng trách tại các cơ sở, doanh nghiệp do vậy có hiểu biết về quan hệ hợp đồng, về hợp đồng, về các vấn đề liên quan...Do vậy cán bộ khai thác cần chuẩn bị kỹ kiến thức chuyên môn của mình. Không để xảy ra trường hợp khách hàng do có thắc mắc về các vấn đề về bảo hiểm, về qui định bắt buộc nhưng không giải đáp được. Năm 2007, có ý nghĩa rất quan trọng đối với khâu khai thác những năm sau. Nếu năm này chiếm được thị phần lớn, với nhiều nhất số đơn bảo hiểm và STBH bình quân mỗi đơn cao, những năm sau, do đặc tính tâm lý của người Việt Nam ngại thay đổi, họ sẽ tiếp tục tham gia tại Công ty.
Tăng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Tạo thêm sự tự chủ cho các công ty thành viên trong khoản chi này. Chi đề phòng hạn chế tổn thất thực chất là khoản chi rất quan trọng, nó liên quan trực tiếp đến kết quả triển khai của nghiệp vụ. Chi cho bảo hiểm cháy trong thời gian tới chắc chắn sẽ phải lớn hơn thời gian trước. Chi đề phòng hạn chế tổn thất, trên lý thuyết gồm chi tuyên truyền quảng cáo, chi hội thảo hội nghị tuyên truyền ... nhưng thực tế các công ty bảo hiểm nói chung và BHDK nói riêng thực hiện chưa hiệu quả. Công tác quảng cáo thời gian tới, nếu có, Tổng Công ty phải thống nhất hình thức, nội dung quảng cáo, tránh trường hợp mỗi đơn vị thành viên lại tiến hành một phương thức, cung cấp nội dung không đầy đủ... Gây nhầm lẫn, gây khó hiểu đối với người tham gia...Lập quỹ riêng để thanh toán các chi phí liên quan trong trường hợp chuyên viên thực hiện thăm, tư vấn cho đối tượng tham gia bảo hiểm về quản trị rủi ro.
Tăng hạn mức trách nhiệm của các đơn bảo hiểm cháy nổ cho các công ty thành viên. Sức mạnh của các công ty thành viên ngày càng tăng, nếu không kịp thời thay đổi hạn mức trách nhiệm sẽ dẫn tới lãng phí nguồn lực, lãng phí thời gian, và thậm chí mất khách hàng.
Trong kế hoạch ký kết đầu năm của các thành viên trong TCT, chỉ phân chỉ tiêu tổng doanh thu, ko chỉ rõ nên có doanh thu trong mỗi lĩnh vực là bảo nhiêu. Không có hạn mức cụ thể tăng tính tự chủ cho Công ty thành viên ...tuy nhiên, do không có mức kế hoạch cụ thể, cán bộ khai thác không có mốc để phấn đấu. Như vậy, nếu cán bộ khai thác không có kiến thức thị trường, kiến thức thực tế tốt sẽ không thể nắm bắt tốt cơ hội. Chỉ tiêu doanh thu với mỗi lĩnh vực trên một góc độ nào đó có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho nhân viên.
Thông tin tới hiệp hội bảo hiểm các đơn bảo hiểm STBH lớn, có nghi ngờ trục lợi bảo hiểm bằng đơn bảo hiểm trùng. Thay đổi tư duy giữ kín thông tin khách hàng là giữ bí mật kinh doanh.
Tổ chức công tác thống kê bảo hiểm theo chương trình phần mềm thống nhất.
Xây dựng và phổ biến chương trình cạnh tranh trong triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Theo chất luợng dịch vụ cao đặt lên hàng đầu và không sử dụng phí như phương tiện duy nhất để cạnh tranh.
3.3.2 Công ty BHDK Tây Bắc.
Thực hiện các bước trong triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ theo đúng quy trình Tổng Công ty chỉ đạo thực hiện.
Kịp thời tiếp nhận và phản ánh những bất cập trong triển khai bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Trong quá trình triển khai nghiệp vụ sẽ xuất hiện những vấn đề nằm ngoài sự dự tính của các nhà làm luật khi soạn thảo Nghị định 130/2006/NĐ-CP. Trong khi đó, đội ngũ chuyên viên khai thác tại các Công ty tham gia và có vai trò rất quan trọng trong quá trình triển khai. Họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra những thiếu sót của Nghị định 130/2006/NĐ-CP, khi đó cần có cơ chế phù hợp để tiếp nhận ý kiến và đề bạt lên Tổng Công ty hoặc các cơ quan có trách nhiệm khác.
Tạo điều kiện để nhân viên tham gia đầy đủ các khoá đào tạo liên quan tới bảo hiểm cháy nổ bắt buộc do Tổng Công ty BHDK tiến hành. Tạo điều kiện về thời gian, về kinh phí để nhân viên hăng hái học tập. Khuyến khích chuyên viên tại các phòng tìm hiểu sâu về bảo hiểm cháy bằng nhiều con đường khác nhau như qua Internet, tạp chí chuyên ngành, tài liệu nước ngoài..Hiện tại, chuyên viên tại Công ty trình độ ngoại ngữ còn yếu, do vậy bên cạnh đào tạo về nghiệp vụ, về dịch vụ khách hàng...cần có khoá đào tạo về ngoại ngữ để phục vụ tốt hơn quá trình nghiên cứu tìm hiểu về bảo hiểm...Có thể khuyến khích hình thức làm việc theo nhóm (teamwork) hơn nữa, tạo cơ hội để người có kinh nghiệm truyền đạt kiến thức cho người trẻ. Thời gian tới, khối lượng công việc liên quan đến bảo hiểm cháy, nổ sẽ tăng mạnh, BHDK Tây Bắc cần nhanh chóng có kế hoạch đề nghị Tổng Công ty giúp đỡ và tạo điều kiện để tuyển đủ, tuyển đúng người có năng lực.
Tạo dựng mạng lưới đại lý chuyên nghiệp tại các tỉnh thành mà doanh thu bảo hiểm cháy nổ còn thấp. Tạo điều kiện để đối tượng này nhanh chóng được đào tạo về bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc.. Bước đầu có thể để họ tham gia vào các khâu cơ bản của qui trình triển khai nghiệp vụ, như thông tin về yêu cầu bảo hiểm của khách hàng cho Công ty...
Phối hợp với các tỉnh thành để thực hiện các chương trình phổ biến về Nghị định 130/2006/NĐ-CP và bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Tài trợ cho các dự án liên quan đến các hoạt động này tại các địa phương. Đây là bước chuẩn bị tốt nhất để tiếp cận đối tượng khách hàng thuộc khối quốc doanh, và các cơ sở ở tỉnh xa.
Kết hợp với công an, cơ quan cảnh sát PCCC để nhận được kết quả kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với đối tượng có nguy cơ cháy nổ cao, đối tượng đã tham gia bảo hiểm tại BHDK Tây Bắc
Tạo điều kiện cho cán bộ khai thác có thể đi thăm đối tượng bảo hiểm, định kỳ hoặc đột xuất. Đánh giá rủi ro, tư vấn đề phòng tổn thất...Hiện nay, xảy ra tình trạng, cán bộ khai thác ký hợp đồng xong, trong thời hạn bảo hiểm không giám sát về sự thay đổi của đối tượng bảo hiểm. Do vậy xảy ra trường hợp mức độ rủi ro nâng lên cả về tần suất và tổn thất có thể có nhưng Công ty không biết. Điều này có thể xuất phát từ yếu tố chưa tạo điều kiện về thời gian, về vật chất đối với cán bộ khai thác. Vì vậy, kiến nghị Công ty cấp kinh phí, tạo điều kiện để cán bộ khai thác thực hiện công tác này.
Hiện nay, BHDK Tây Bắc cũng như các công ty bảo hiểm khác sử dụng bảng đánh giá rủi ro do nước ngoài thiết kế, vì vậy có rất nhiều điểm do đặc thù của Việt Nam, không được đề cập trong bảng đánh giá nhưng lại có nguy cơ cháy nổ rất cao ..Vì vậy, BHDK Tây Bắc cần không chỉ căn cứ vào kê khai của khách hàng để tiến hành chấp nhận bảo hiểm mà cần có điều tra kỹ bằng thực tế quan sát đối tượng bảo hiểm.
Công tác thống kê, lưu trữ hồ sơ: Thực hiện thống kê theo chuẩn mực nhất định trong toàn Công ty, tiến hành thống kê theo phần mềm giành riêng cho hoạt động này của ngành bảo hiểm. đào tạo nâng cao năng lực thống kê của chuyên viên. Khắc phục tình trạng công tác thống kê thực hiện riêng biệt từng phòng, không có chuẩn mực chung, không có bộ phận thống kê trong toàn công ty, các chỉ tiêu thống kê còn thiếu một số chỉ tiêu quan trọng như số đơn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm mỗi đơn ...Thực hiện tốt công tác thống kê sẽ tạo điều kiện dễ dàng trong tra cứu thông tin khách hàng, và tính toán các chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng như chỉ số thời vụ, số tiền bảo hiểm bình quân một đơn...
KẾT LUẬN
Nghị định 130/2006/NĐ-CP là cơ hội giành cho tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ tại thị trường bảo hiểm Việt Nam: cơ hội để tăng doanh thu, cơ hội để tạo vị trí vững vàng hơn trước thời điểm 1/1/2008 khi cam kết WTO chính thức được dỡ bỏ.
Hiện nay chỉ với 10% cơ sở và doanh nghiệp có nguy cơ cháy nổ tham gia bảo hiểm cháy thị trường bảo hiểm đối với nghiệp vụ này còn rất nhiều tiềm năng. Quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ra đời sẽ nhanh chóng đẩy cầu bảo hiểm cháy nổ lên cao. Tuy nhiên yếu tố bắt buộc cũng đưa lại nhiều thách thức cho các công ty bảo hểim trong hoạt động triển khai nghiệp vụ. Bởi kết quả triển khai không chỉ liên quan đến doanh thu của các công ty mà còn thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật Việt Nam.
Công ty BHDK Tây Bắc là công ty thành viên của Tổng Công ty CP Bảo hiểm dầu khí Việt Nam, khu vực thị trường đảm nhận là là 13 tỉnh thành phía bắc nên có rất nhiều thuận lợi, về tốc độ phát triển kinh tế của đất nước, về cơ sở vật chất và trình độ khoa học kỹ thuật…. Bên cạnh đó là một số khó khăn nhất định liên quan đến cạnh tranh, và ý thức về sự cần thiết của bảo hiểm cháy cuả các chủ doanh nghiệp, cơ sở còn nhiều hạn chế…
Đứng trước tình hình trên, để đạt được kết quả cao nhất, đòi hỏi Công ty BHDK Tây Bắc có kế hoạch phát huy yếu tố tích cực từ tác động của Nghị định 130/2006/NĐ-CP, và nhanh chóng triển khai các kế hoạch đó.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31900.doc