Mục lục
Lời mở đầu 3
Phần một: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và marketing hiện nay của công ty TNHH Việt Thành 5
I. Tổng quan về công ty TNHH Việt Thành 5
1. Quá trình phát triển của công ty TNHH Việt Thành 5
2. Cơ cấu tổ chức của công ty TNHH Việt Thành 8
II. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 9 TNHH Việt Thành 9
1. Năng lực sản xuất chung của công ty 9
1.1. khả năng tài chính 9
1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật lực lượng lao động 10
1.3. Lực lượng lao động 11
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu Poke, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong giai đoạn 2002-2005 12
III. Thực trạng hoạt động marketing của công ty TNHH Việt Thành 14
1. Tổ chức bộ máy marketing của công ty 14
2. Tình hình xây dựng và thực hiện chiến lược marketing của công ty 16
3. Những hoạt động marketing của công ty 16
4. Những đánh giá chung về môi trường kinh doanh công ty đang phải đối mặt 21
Phần hai: Chương trình nghiên cứu nhằm đánh giá sự nhận biết của người tiêu dùng đối vơi các sản phẩm thạch rau câu Poke 23
I. Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu 23
1. Xác định vấn đề nghiên cứu 23
2. Xác định mục tiêu nghiên cứu 24
3. Phạm vi nghiên cứu 25
II. Thiết kế dự án nghiên cứu chính thức 26
1. Các phương pháp thu thập thông tin 26
1.1. Phương pháp quan sát 27
1.2. Phương pháp điều tra 29
2. Thiết kế bảng hỏi và mẫu điều tra 31
3. Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu 33
III. Quá trình thu thập và xử lý thông tin 33
IV. Báo cáo kết quả thu được 33
Phần ba: một số giải pháp nhằm góp phần tăng cường hình ảnh sản phẩm thạch rau câu Poke trên thị trường 37
I. Nhóm giải pháp về phía công ty 37
1. Xây dựng một nề nếp làm việc mới 37
2. Xây dựng hệ thống thông tin nội bộ trong công ty 39
II. Nhóm giải pháp marketing hỗn hợp 41
1. Xây dựng thương hiệu Poke trên thị trường 41
2. Thoả mãn sự hài lòng của người tiêu dùng thông qua 4P 43
2.1. Sản phẩm 43
2.2. Giá cả 44
2.3. Phân phối 47
2.4. Xúc tiến hỗn hợp 49
Kết luận 51
Tài liệu tham khảo 52
Phụ lục 1 53
Phụ lục 2………………..……………………………………….55
Lời mở đầu
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang từng bước chuyển mình, phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhà nước ta đã có xây dựng những cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời cũng tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam từng bước thích nghi với cơ chế thị trường và phát triển. Điều này cũng dẫn đến việc để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, đặc biệt nhất đó là phải đối đầu với một môi trường cạnh tranh đầy khốc liệt với những biện pháp canh tranh truyền thống dựa trên các yếu tố sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến bán không còn hiệu quả như ngày xưa.
Cũng trong điều kiện hiện nay, thị trường Việt Nam cùng tràn ngập rất nhiều sản phẩm với sự đa dạng và phong phú của từng chủng loại hàng hoá. Điều đó tạo cho người tiêu dùng có những cơ hội lựa chọn những sản phẩm mà mình ưa thích nhưng cũng tạo ra cho các doanh nghiệp những khó khăn nhất định trong quá trình đưa sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng.
Mặt khác, do thu nhập ngày càng tăng lên dẫn đến việc mức sống của người dân cũng tăng lên. Và điều này là cho người tiêu dùng hiện nay có những đòi hỏi rất khắt khe về các sản phẩm, ngoài chất lượng, bao bì mẫu mã ra, người tiêu dùng còn có những đòi hỏi về các sản phẩm phụ thêm cho sản phẩm, các dịch vụ giá trị gia tăng…
Đối với công ty TNHH Việt Thành cùng vậy. Hiện nay công ty đang phải đối mặt với rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Thêm vào đó là những đòi hỏi khắt khe của người tiêu dùng đã làm cho công ty đang từng bước dần dần mất ưu thế của mình trên thị trường.
Do đó, việc “Nghiên cứu sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu Poke” là một vấn đề cấp bách hiện nay đối với công ty, để tìm ra được những nguyên nhân từ phía công ty, và từ đó có thể đưa ra được những giải pháp phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng và hợp lý với các nguồn lực của công ty.
Kết cấu của chuyên đề được chia ra làm ba phần:
Phần một: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và marketing hiện nay của công tyTNHH Việt Thành
Phần hai: Chương trình nghiên cứu nhằm đánh giá sự nhận biết của người tiêu dùng đối vơi các sản phẩm thạch rau câu Poke
Phần ba: một số giải pháp nhằm góp phần tạo dựng hình ảnh sản phẩm thạch rau câu Poke trong con mắt người tiêu dùng
Tuy nhiên, do trình độ có hạn cùng với những điều kiện về thời gian, chi phí cho nên cuộc nghiên cứu này vẫn còn những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Phạm Quang Hưng
Phần một: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và marketing hiện nay của công tyTNHH Việt Thành
Tổng quan về công ty TNHH Việt Thành
1. Quá trình phát triển của công ty TNHH Việt Thành
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, nền kinh tế thị trường tại Việt Nam đang chuyển biến tích cực, tác động mạnh mẽ và làm thay đổi đến tập tính và thói quen kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Cùng với đó là việc các hãng kinh doanh lớn danh tiếng trên thế giới về thực phẩm, hoá mỹ phẩm, công nghiệp... đã ồ ạt đưa hàng hoá của mình xâm nhập vào thị trường nước ta như: bia Tiger, nước giải khát Coca Cola, Pepsi, hoá mỹ phẩm của hãng P&G, Unilever, ôtô Toyota... xe máy SYM, dầu nhờn Castro, Sell...
Cùng với sự hội nhập này cũng đã mở ra những cơ hội kinh doanh mới cho một số doanh nghiệp Việt Nam như hợp tác cùng làm ăn, tham gia vào hệ thống phân phối của các hãng nước ngoài với những chính sách hấp dẫn... và nhất là học hỏi được những phương cách kinh doanh hiện đại của những công ty, doanh nghiệp hàng đầu trên thế giới.
Nhận thức được vấn đề đó, công ty TNHH Việt Thành đã ra đời vào năm 1995 (được sự hợp thành bởi các công ty: công ty Foreheads- tiếp thị thể thao, công ty TNHH luật Hà Nội- dịch vụ tư vấn luật và FDI, và công ty Hoàng Vân-hạ tầng cơ sở, bất động sản và thiết bị y tế) với loại hình là công ty TNHH một thành viên-một loại hình công ty vừa và nhỏ đang phổ biến lúc bấy giờ tại Việt Nam. Công ty có trụ sở chính tại 169 Hàng Bông- quận Hoàn Kiếm- Hà Nội và nhà máy sản xuất ở khu Cơ Giới Gia Lâm- phố Sài Đồng-quận Long Biên- Hà Nội. Ngoài ra công ty còn có văn phòng đại diện tại phòng 701-tầng 7 toà nhà bảo hiểm Nhà Rồng-185 Điện Biên Phủ-quận 1- thành phố Hồ Chí Minh và các văn phòng thương mại chi nhánh tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh.
Với khẩu hiệu là :“ nhiệm vụ của các đối tác và các nhân viên của công ty TNHH Việt Thành là xây dựng một công ty dẫn đầu về tiêu thụ hàng hoá ở Việt Nam. Công ty phân phối các sản phẩm có chất lương tới người tiêu dùng, đáp ứng những mong muốn về giá trị hơn nữa với các bên cộng tác bằng cách cam kết về những nền tảng bền vững, sức sáng tạo không giới hạn, sự nỗ lực vô tận và tính hiệu quả được chứng minh” công ty Việt Thành đã xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh trong 5 năm 1995-2000, đó là: tích cực tham gia vào hệ thống kênh phân phối của những hãng kinh doanh nước ngoài để tích luỹ vốn kinh doanh và tích luỹ kinh nghiệm của kinh tế thị trường, phục vụ chiến lược phát triển kinh doanh lâu dài của công ty. Trong thời kỳ này, công ty đã tham gia làm đại lý phân phối cho một số hãng với các sản phẩm như: mỹ phẩm, dầu nhờn Sell, sữa, kem...
3/1997: công ty bắt đầu trở thành nhà phân phối cho P&G tại Hà Nội.
1/1998: công ty trở thành nhà phân phối độc quyền cho LG Household & Heathcare.
2/1999: công ty trở thành nhà phân phối độc quyền cho kem Wall tại Hà Nội.
7/1999: công ty trở th ành nhà phân phối độc quyền cho Perfetti VanMelle tại khu vực Hà Nội
4/2000: công ty trở thành nhà phân phối độc quyền cho F&N Diaries tại miền bắcViệt Nam.
Với những sản phẩm này, công ty đã từng bước xây dựng được cho mình hình ảnh của một công ty phân phối hàng hoá chuyên nghiệp tại khu vực Hà Nội. Đây cũng là giai đoạn công ty lấy làm bàn đạp để hướng tới chiến lược phát triển của mình trong giai đoạn 5 năm tiếp theo: 2001-2006. Trong thời kỳ 5 năm lần thứ 2 này, công ty đã sàng lọc ra một số mặt hàng thế mạnh để tiếp tục làm đại lý phân phối tại Hà Nội, đồng thời tiếp tục phát triển thêm một số mặt hàng nhập khẩu khác, nhằm tạo dựng một hệ thống kênh phân phối mạnh trên toàn quốc. Vì lẽ đó công ty đã chọn mặt hàng kem Wall làm lợi thế phân phối tại thị trường Hà Nội, và vào tháng 1/ 2002, công ty đã trở thành nhà phân phối độc quyền sản phẩm thạch rau câu ABC của Đài Loan tại Việt Nam. Cũng vào n ăm 2002, công ty đã khai trương nhãn hiệu kem Coolteen với 2 cửa hàng tại hồ tây trên đường Phan Đình Phùng.
Năm 2004, công ty được ký hợp đồng phân phối độc quyền thương hiệu bánh Gerry của Indonexia tại Việt Nam và công ty đã giới thiệu thành công sản phẩm này vào dịp tết 2005.
Bên cạnh việc phát triển phân phối hàng hoá, công ty cũng đặt ra mục tiêu xây dựng một số thương hiệu sản phẩm của Việt Nam, trực tiếp sản xuất tại Việt Nam, nhằm phục vụ một số đoạn thị trường tiêu dùng mà sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được về giá cả. Chính vì thế công ty đã và đang tiếp tục nghiên cứu phát triển sản xuất một số thương hiệu sản phẩm mới như: thạch nước rau câu Newjoy, bánh kem chấm socola ROMROP. Hiện nay công ty vừa nghiên cứu và đưa ra thị trường sản phẩm mới là thạch rau câu Hugo-sản phẩm này mang tên một nhân vật hoạt hình mà trẻ em yêu thích- nhân vật Hugo trong chương trình “Hugo và các bạn” trên kênh truyền hình Hà Nội.
Từ thực tiễn kinh doanh quan nhiều thời kỳ như vậy, công ty đã từng bước xây dựng được hình ảnh của mình không chỉ trên thị trường Hà Nội mà đã mở rộng mạng lưới đại lý phân phối ra trên khắp thị trường miền Bắc, miền Trung và trong thành phố Hồ Chí Minh công ty cũng đã có văn phòng đại diện của mình. Cũng qua những năm tháng làm đại lý cho các hãng dang tiếng của nước ngoài mà công ty đã đào tạo được đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, năng động và có đủ trình độ, đủ khả năng có được những hợp đồng độc quyền phân phối sản phẩm tại Việt Nam từ những đối tác nước ngoài. Khi tham gia vào lĩnh vực sản xuất, công ty cũng đã mở rộng tầm ảnh hưởng của minh với một số nhà cung cấp nguyên vật liệu trong nước cũng như ngoài nước và công ty đã tạo dựng được rất nhiều mối quan hệ, đặc biệt là khách hàng cũng như các nhà cung cấp. Công ty cũng có được sự ủng hộ rất nhiều trong lĩnh vực quan hệ tín dụng với các đối tác, các nhà cung cấp thì có những tín dụng ưu đãi về thời gian còn khách hàng thì luôn chấp nhận trả tiền ngay khi mua hàng. Nhờ đó công ty không bị động về vốn-một trong những khó khăn chính của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay công ty cũng đã nhận được rất nhiều lời đề nghị hợp tác sản xuất kinh doanh của các đối tác nước ngoài sau một thời gian làm đại lý phân phối độc quyền cho các sản phẩm của họ tại thị trường Việt Nam.
Cơ cấu tổ chức của công ty TNHH Việt Thành
Bảng 1: Sơ đồ tổ chức của công ty TNHH Việt Thành
Giám đốc
quản lý/Chủ tịch
Quản lý
nhân sự
Phòng
Kế toán
Phòng Hỗ trợ thương hiệu
Thức ăn
VTC
Dịch vụ
ăn uống
Chuỗi
cung ứng
Quản lý bán hàng khu vực
Các quản lý bán hàng theo kênh
Giám sát
tiếp thị
Quản trị bán hàng
Hỗ trợ
hệ thống thông tin
Quản lý bộ phận nhóm
Giám sát
sản xuất
Giám sát
hậu cần
Hỗ trợ
hải quan
Hỗ trợ
mua hàng
Nguồn: phòng quản lý nhân sự
Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận:
Giám đốc: là người đại diện trước pháp luật của công ty và cũng là người chịu trách nhiệm điều hành các hoạt động sản xuất và kinh doanh của công ty.
Phòng tài chính kế toán: giúp giám đốc công ty chỉ đạo thực hiện toàn bộ những công việc liên quan đến tài chính, kế toán trong toàn bộ công ty.
Phòng hỗ trợ thương hiệu: có nhiệm vụ điều hành giải quyết các vấn đề có liên quan đến tình hình hoạt động của các thương hiệu của công ty trên các khu vực thị trường.
Phòng tổ chức nhân sự: có nhiệm vụ điều hành, quản lý nguồn lao động của công ty.
Ngoài ra, các nhân viên quản lý, giám sát khác cùng tất cả các nhân viên sản xuất, tiêu thụ của công ty đều phải có trách nhiệm hoàn thành tốt những công việc được giao đồng thời cũng được tạo điều kiện để phát huy tính sáng tạo của mình trong quá trình thực hiện công việc.
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty TNHH Việt Thành
Năng lực sản xuất của công ty TNHH Việt Thành
Công ty TNHH Việt Thành là một doanh nghiệp vừa và nhỏ nên để tồn tại và phát triển, công ty phải dựa vào những nền tảng kinh doanh sẵn có để phát triển ngành hàng, từ đó làm cơ sở cho việc phát triển quy mô lớn sau này. Trải qua gần 10 năm hoạt động, công ty đã từng bước tạo cho mình một nền tảng kinh doanh vững chắc cả về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, lực lượng lao động...
Khả năng tài chính
Tình hình tài chính của công ty được thể hiện qua bảng dữ liệu dưới đây:
Bảng 2: Báo cáo tình hình tài chính của công ty TNHH Việt Thành
Đơn vị: triệu đồng
STT
Các chỉ tiêu
Năm 2005
1
Tổng số vốn
4000
2
Tài sản cố định
1500
3
Tài sản lưu động
2500
4
Các khoản phải thu
1000
5
Các khoản phải trả:
Nợ ngắn hạn
Nợ dài hạn
2000
700
1300
Nguồn: phòng tài chính kế toán
Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy được tình hình tài chính của công ty là tốt. Hàng năm công ty đạt được tỷ suất lợi nhuận/doanh thu là khoảng 3%, trong khi đó tỷ lệ tài sản cố định/nợ ngắn hạn của công ty bằng 2, điều đó cho ta thấy khả năng thanh toán chung của công ty là tốt. Ngoài ra, với nguồn vốn tích luỹ qua các năm cùng với việc chú trọng xây dựng uy tín của mình trong quan hệ với các nhà cung cấp và với các ngân hàng đã đảm bảo cho công ty có một nguồn tài chính vững mạnh để phát triển kinh doanh và liên kết hợp tác với các đối tác nước ngoài.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật
Hiện nay công ty có trụ sở chính tại phố Hàng Bông, một nhà máy sản xuất ở khu Cơ Giới Gia Lâm. Ngoài ra công ty còn có văn phòng đại diện, các chi nhánh của mình tại một số tỉnh trên cả nước. Tại những địa điểm này công ty cũng đã trang bị đầy đủ những trang thiết bị cần thiết cho nhân viên của mình với những điều kiện làm việc tương đối tốt. Tại nhà máy sản xuất thì công ty cũng đầu tư trang bị những máy móc hiện đại cho công nhân làm việc
Bảng 3: tình hình tài sản cố định của công ty TNHH Việt Thành
Đơn vị: triệu đồng
STT
Các loại tài sản cố định
Giá trị
1
Tổng nguyên giá TSCĐ
Trong đó:
nhà cửa vật tư kiến trúc
máy móc thiết bị cho SXKD
phương tiện vận tải truyền dẫn
thiết bị dụng cụ dùng cho quản lý
quyền sử dụng đất
chi phi thành lập chuẩn bị SXKD
tài sản cố định khác
1500
300
700
300
100
50
50
2
Đã khấu hao
800
3
Giá trị còn lại
700
Nguồn : phòng tài chính kế toán
Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy cơ cấu tài sản cố định sẽ tăng về những năm sau( thời gian còn khấu hao là 2 năm). Điều này sẽ không có lợi cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh vì những năm cuối sẽ phải chịu giá trị khấu hao lớn hơn, dẫn đến việc làm tăng giá thành sản phẩm, điều này không có lợi cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Mặt khác, khi khấu hao tăng lên sẽ làm cho giá thành đơn vị sản phẩm tăng lên, và vì thế sẽ làm cho lợi tức gộp của doanh nghiệp giảm xuống. Tuy nhiên việc chịu phần giá trị khấu hao nhiều cũng góp phần làm đòn bẩy để kích thích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải tăng quy mô sản xuất để giảm khấu hao.
Lực lượng lao động
Trong bất kỳ một doanh nghiệp nào thì nguồn nhân lực cũng là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Nhận thức được vấn đề này, ban giám đốc công ty đã chú trọng đến việc xây dựng các chính sách về nhân lực trong công ty. Mặt khác, do công ty mang đặc điểm là một công ty chuyên phân phối hàng hoá nên lực lượng lao động chính của công ty chủ yếu là lực lượng bán hàng. Chính vì vậy việc bảo đảm được sự ổn định nguồn nhân lực của công ty là yếu tố rất quan trọng trong quá trình đảm bảo sự thông suốt hàng hoá cho công ty.
Bảng 4: Cơ cấu lao động của công ty TNHH Việt Thành
Đơn vị: người
STT
Các loại lao động
Số lượng
1
Lao động giám tiếp
Trong đó có:
- trình độ đại học trở nên
- trình độ trung cấp
- nhân viên tạp vụ
27
10
15
2
2
Lao động trực tiếp
75
3
Lực lượng bán hàng trực tiếp
200
Nguồn: phòng quản lý nhân sự
Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy lực lượng lao động chủ yếu của công ty là lực lượng bán hàng. So với những năm trước thì lượng lao động của công ty đã tăng lên tương đối, điều đó cho thấy công ty đã phát triển, mở rộng sản xuất và kinh doanh. Để đáp ứng nhu cầu và chiến lược mới, công ty đã quyết định tăng cường thêm lực lượng lao động của mình trong thời gian sắp tới. Mặt khác, với lực lượng quản lý có trình độ, năng lực và nhiệt tình, năng động, luôn tự đổi mới để phù hợp với yêu cầu khách quan, công ty hy vọng sẽ có được những thành công mới trong giai đoạn sắp tới.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong giai đoạn 2002-2005
Để hiểu rõ hơn về thực trạng hoạt động của công ty TNHH Việt Thành trong thời gian gần đây, chúng ta tiến hành phân tích một số chỉ tiêu tài chính của công ty. Có thể nói giai đoạn 2002-2005 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của công ty, doanh thu qua các năm liên tục tăng. Cụ thể là năm 2003 tăng so với năm 2002 là 2000 triệu đồng( tăng 10%), năm 2004 tăng so với năm 2003 là 3000 triệu đồng( tăng 13.6%), và năm 2005 tăng so với năm 2004 là 5000 triệu đồng(tăng 20%).
Bảng 5: Kết quả hoạt đông kinh doanh của công ty TNHH Việt Thành trong giai đoạn 2002-2005wt co
Đơn vị: triệu đồngocg
STT
Các chỉ tiêu
Năm
2002
2003
2004
2005
1
Tổng doanh thu
20000
22000
25000
30000
2
Các khoản giảm trừ
1000
1100
1250
1500
3
Doanh thu thuần
19000
20900
23750
28500
4
Lợi tức gộp
7000
7700
8750
10500
5
Chi phí bán hàng
5000
5500
6250
7500
6
Chi phí quản lý
1000
1100
1250
1500
7
Lợi tức thuần
1000
1100
1250
1500
8
Lợi tức hoạt động tài chính
-200
-220
-250
-300
9
Lợi tức hoạt động bất thường
100
110
125
150
10
Tổng lợi tức trước thuế
900
990
1125
1350
11
Thuế lợi tức
252
277.2
315
378
12
Lợi tức sau thuế
648
712.8
810
972
Nguồn: phòng tài chính kế toán
Qua bảng số liệu ta có thể thấy được lợi nhuận của công ty tăng lên qua các năm: năm 2003 tăng so với năm 2002 là 10%, năm 2004 tăng so với năm 2003 là 13.6%...chính việc tăng lợi nhuận của công ty đã dẫn đến thu nhập bình quân của nhân viên trong công ty cũng tăng lên từ 1.1 triệu đồng/tháng lên 1.5 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, việc tăng doanh thu của công ty qua các năm cũng đồng nghĩa với việc tăng chi phí. Ta có thể thấy được tình hình chi phí của công ty qua bảng số liệu dưới đây:
Bảng 6: Số liệu chi phí sản xuất kinh doanh theo các yếu tố trong giai đoạn 2002-2005
Đơn vị: triệu đồng
STT
Các yếu tố
Năm
2002
2003
2004
2005
1
Chi phí nguyên vật liệu
12000
13200
15000
18000
2
Chi phí nhân công
9600
10560
12000
14400
3
Chi phí khấu hao tài sản cố định
1080
1188
1350
1620
4
Chi phí dịch vụ mua ngoài
600
660
750
900
5
Chi phí khác bằng tiền
360
396
450
540
Nguồn: phòng kế toán tài chính
Qua bảng số liệu này ta có thể thấy tất cả các chi phí của công ty đều tăng lên, đó là do trong giai đoạn này công ty đã mở rộng sản xuất và các mặt hàng kinh doanh, do đó cần đầu tư thêm các trang thiết bị, nhân lực...
Thực trạng hoạt động marketing của công ty TNHH Việt Thành
Thực trạng tổ chức bộ máy thực hiện marketing của công ty
Công ty TNHH Việt Thành là một doanh nghiệp vừa và nhỏ cho nên công ty chưa có đủ khả năng tổ chức một phòng marketing riêng biệt. Mặt khác, công ty cũng chưa có đủ điều kiện để tổ chức xây dựng một lực lượng làm marketing riêng. Chính vì thế cho nên các hoạt động marketing cuả công ty vẫn được tiến hành nhưng cũng như phần nhiều các công ty khác ở Việt Nam hiện nay, đó là việc tổ chức các hoạt động marketing dựa vào bộ máy tổ chức của công ty. Điều đó có nghĩa là các nhân viên cấp dưới sẽ đề xuất các chiến lược, kế hoạch marketing cho giám đốc, quản lý xem xét. Nừu chiến lược đó được phê duyệt thì giám đốc sẽ chuyển xuống cho các nhân viên dưới quyền triển khai kế hoạch, chiến lược đó.
Mặt khác, việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch marketing của công ty luôn được thống nhất từ trên xuống và luôn có sự phối kết hợp giữa các bộ phận với nhau. Do đó các chiến lược, kế hoạch marketing luôn được công ty triển khai một cách có hiệu quả nhất.
Ngoài ra, bộ máy bán hàng của công ty cũng là một bộ phận quan trọng trong việc thực hiện các chính sách marketing của công ty.
Bảng 7: Sơ đồ tổ chức đơn vị kinh doanh của công ty
VTC thức ăn quản lý chung
Hỗ trợ
tiếp thị
Hỗ trợ thông tin và hệ thống
Quản trị bán hàng phía Bắc
Quản trị bán hàng phía Nam
Quản lý các trung tâm thương mại
Quản lý khu vực phía Bắc
Quản lý trung tâm
Quản lý khu vực phía Nam
Các đại lý bán hàng khu vực
Các đại lý bán hàng
Các đại lý bán hàng khu vực
Các trung tâm phân phối
Nguồn: phòng tổ chức nhân sự
Tình hình xây dựng và thực hiện chiến lược marketing
Để đáp ứng nhu cầu phát triển mới trong giai đoạn 2001-2006, công ty đã xây dựng một chiến lược phát triển mới cho mình là trở thành một công ty phân phối hàng đầu của Việt Nam, đồng thời sản xuất được những sản phẩm tiêu dùng phù hợp với nhu cầu, mong muốn của người tiêu dùng. Chính vì thế trong những năm 2001-2006, công ty đã tiến hành sàn lọc một số mặt hàng thế mạnh của mình để tiếp tục phân phối trên thị trường Hà Nội, và công ty đã chọn mặt hàng kem Wall. Mặt khác, công ty tiếp tục nhập khẩu và phát triển một số mặt hàng trên thị trường toàn quốc. Năm 2002, công ty đã ký được hợp đồng phân phối độc quyền sản phẩm thạch rau câu ABC của Đài Loan để phân phối trên thị trường toàn quốc. Cũng từ đây công ty đã xây dựng cho mình một hệ thống phân phối rộng khắp trên toàn quốc.
Cũng trong giai đoạn này, công ty đã tiến hành nghiên cứu thị trường người tiêu dùng, phân đoạn thành những tiêu thức thích hợp, từ đó sử dụng những biện pháp để đo lường, dự báo tình hình thị trường, làm căn cứ cho việc lựa chọn các mặt hàng nhập khẩu của mình. Mặt khác công ty cũng tiến hành phân tích những hoàn cảnh, tình huống chi phối đến các hoạt động của công ty. Công ty nhận định, tình hình thị trường hiện nay đang tạo ra cho công ty những cơ hội kinh doanh rất lớn khi nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang có những chuyển biến tích cực với tốc độ tăng trưởng hàng năm gần 8%, đồng thời nhà nước cũng có những chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó công ty lại có một thuận lợi rất lớn đó là có một đội ngũ nhân viên trẻ, nhiệt tình, năng động và đoàn kết cùng với việc công ty có tình hình tài chính tương đối ổn định. Chính điều đó giúp công ty có thể đưa ra những kế hoạch, chiến lược và các nhóm biện pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn của môi trường kinh doanh hiện tại cũng như phù hợp với khả năng của công ty.
Những hoạt động marketing của công ty
Trong giai đoạn vừa qua, để có được những thành công như hiện nay, công ty đã thực hiện rất nhiều công việc, và đặc biệt là những hoạt động marketing của công ty đã đem lại những hiệu quả rất lớn, phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh của công ty ngày một tốt hơn.
Với tích chất sản phẩm là thực phẩm ăn liền mà hiện nay công ty đang kinh doanh và sản xuất thì nhóm khách hàng mà công ty hướng tới là thanh thiếu niên, phụ nữ và đặc biệt là trẻ em, do đó những sản phẩm của công ty luôn được cải tiến chất lượng và mẫu mã, bao bì để tăng khả năng tiêu thụ, đồng thời cũng để phù hợp với những xu thế chung của thị trường. Đối với những sản phẩm công ty tự sản xuất thì trước khi sản xuất công ty cũng nhập các sản phẩm đã có thương hiệu của nước ngoài về để phân phối, sau đó mới sản xuất ở trong nước với một sản phẩm mang một thương hiệu khác.
Công tác sản phẩm luôn được công ty, nhất là ban lãnh đạo rất quan tâm. Các quyết định về các chính sách sản phẩm luôn được công ty đem ra bàn luận một cách nghiêm túc. Công ty luôn tìn tòi, nghiên cứu để cho ra những sản phẩm mới lạ cả về các thành phần nguyên liệu lẫn mẫu mã và cách đóng gói sản phẩm.
Hiện nay công ty có khoảng 10 mặt hàng, trong đó chủ yếu là các sản phẩm thạch như Poke, JOY, Hugo. Ngoài ra công ty còn có các sản phẩm khác như nước rau câu Poke, thạch sữa chua, bánh chấm Gery, bánh chấm ROMROP…Đối với mỗi loại sản phẩm, công ty đều có những chiến lược đa đạng hoá sản phẩm, mỗi loại sản phẩm đều có những chủng loại khác nhau, có sản phẩm túi, có sản phẩm hũ. Trong mỗi loại lại có những hình thức, bao bì khác nhau…để khách hành có thể có những lựa chọn khác nhau tuỳ theo những sở thích khác nhau của mình. Đồng thời mỗi loại sản phẩm cũng đều có những hương vị khác nhau, đáp ứng nhiều loại nhu cầu của những khách hàng khác nhau. Ngoài ra công ty cũng sản xuất được những mặt hàng mà các đối thủ cạnh tranh chưa sản xuất được như thạch bút chì, bánh ROMROP. Cùng với việc tự sản xuất, công ty cũng mạnh dạn thuê các hãng thạch nổi tiếng của Đài Loan gia công sản phẩm mang thương hiệu của mình- một phương án được đánh giá là khá khôn ngoan bởi công ty có thể tạo ra cho mình uy tín của một nhà cung cấp các sản phẩm nội với chất lượng cao.
Cùng với sản phẩm thì các chính sách về giá cả cũng là một yếu tố quan trọng của chiến lược marketing của công ty và đó cũng là một công cụ quyết định giúp công ty thành công trong việc định vị sản phẩm của mình trên thị trường. Từ trước đến nay, so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thì các sản phẩm của công ty luôn được đánh giá là cao hơn, tuy nhiên không vì thế mà sản phẩm của công ty không tiêu thụ được mà ngược lại, chúng lại có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Hiện nay, để đạt được mục tiêu cạnh tranh, công ty xây dựng cho mình một chiến lược giá đa dạng cho mỗi loại mặt hàng với các sản phẩm thạch rau câu sản xuất trong nước thì có mức giá trung bình, các sản phẩm thạch nhập khẩu lại được áp dụng một mức giá cao. Cách định giá như vậy giúp cho cả hai loại sản phẩm có thể bổ xung cho nhau, cách định giá cao cũng đồng nghĩa với việc thu được lợi nhuận cao hơn, từ đó bù đắp được những phần chi phí cho những sản phẩm có mức giá thấp, giá trung bình. Hơn nữa, với cánh định giá này, công ty có thể xâm nhập vào cả hai đoạn thị trường là thị trường bình dân và thị trường cao cấp: những người ưa thích sản phẩm nhập ngoại, chất lượng cao và những người thích sản phẩm có chất lượng trung bình. Như vậy, độ bao quát thị trường của sản phẩm sẽ lớn hơn, phạm vi bao phủ thị trường sẽ rộng lớn. Để phù hợp với tình hình hiện nay, công ty cũng đã có những biện pháp nhằm giảm bớt những chi phí không cần thiết như sắp xếp lại bộ máy hành chính của công ty, từng bước đổi mới máy móc, trang thiết bị, dây truyền công nghệ, thực hiện khoán công việc, định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho từng công đoạn sản xuất nhằm tăng tính chủ động, tránh lãng phí…từ đó công ty đã giảm được phần nào những chi phí cho sản xuất cũng như cho quản lý, giúp cho việc giảm giá thành đơn vị sản xuất xuống và đồng thời tăng phần lợi nhuận của công ty lên. Và để thuận lợi cho việc đưa hàng hoá ra thị trường thì công ty cũng đã có những chính sách giá khác nhau đối với các đại lý, các cửa hàng và các trung tâm mua hàng nhiều của công ty.
Về phân phối, công ty có một mạng lưới phân phối ở tất cả các tỉnh của đất nước. Các sản phẩm của công ty có mặt ở hầu hết mọi nơi, mọi khu vực thị trường. Đối với những trung tâm thương mại, những siêu thị thì sản phẩm của công ty đã có mặt ở tất cả các trung tâm lớn trên cả nước. Đối với những trung tâm này, công ty trực tiếp quản lý tình hình, hoạt động tiêu thụ ở đây vì đây là những nơi mang lại nguồn thu cố định cho công ty. Ngoài những trung tâm, siêu thị ra thì công ty còn thành lập ba trung tâm bán hàng ở ba miền của đất nước, đó là các trung tâm ở Hà Nội, Đà Nẵng và ở thành phố Hồ Chí Minh. Những trung tâm này cũng chịu sự quản lý trực tiếp của công ty. Đồng thời công ty cũng đã xây dựng cho mình một loạt các nhà phân phối chính thức của công ty tại các tỉnh như: Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hoá, Vinh, Hải Dương, Việt Trì, Thái Nguyên, Huế… và một loạt hệ thống các đại lý phân phối cấp I của mình ở các tỉnh như: Yên Bái, Vĩnh Yên, Hoà Bình, Ninh Bình, Hà Nam, Thái Bình, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, Vũng Tàu, Cần Thơ…Tại mỗi nhà phân phối đều có các đại diện mại vụ của công ty thường trực ở đó. Ngoài ra các chi nhánh cũng được hỗ trợ với các hỗ trợ viên tiếp thị thương mại cùng công tác với các nhà quản lý theo những nguyên tắc nhất định. Các thiết bị và việc phân phối hàng hoá đều được quản lý trực tiếp bởi các trung tâm phân phối của công ty trong các thị trường tiêu thụ chính và chịu sự giám sát giám tiếp bởi các nhà phân phối khu vực. Chính công tác quản lý và hoạt động như vậy đã dần giúp công ty trở thành một nhà phân phối lớn mạnh, có mạng lưới phân phối hàng hoá rộng khắp trong cả nước cùng với một lực lượng bán hàng chuyên nghiệp. Cũng nhờ có mạng lưới phân phối rộng khắp trong cả nước mà công ty có được những hiểu biết sâu sắc về hành vi tiêu thụ cũng như các cách buôn bán tại các khu vực thị trường khác nhau trên toàn thị trương Việt Nam.
Về xúc tiến hỗn hợp, do đặc điểm sản phẩm công ty kinh doanh hiện nay là loại sản phẩm dành cho trẻ em là chủ yếu cho nên có những hạn chế trong quá trình truyền thông rộng rãi sản phẩm của công ty trên thị trường. Do đó trong thời gian qua, công ty chỉ có một số ít các hoạt động nhằm kích thích tiêu thụ như khuyếch trương, có một số ít các chương trình khuyến mại cho người tiêu dùng. Ngoài ra công ty còn có các chương trình phát quà trực tiếp cho người tiêu dùng với việc bố trí các nhân viên bán hàng của công ty mặc đồng phục trực tiếp đến các cửa hàng bán lẻ và đứng đó phát quà cho những khách hàng mua sản phẩm của công ty. Gần đây nhất là đối với sản phẩm thạch rau câu Hugo, công ty cũng có một chương trình khuyến mại khá hấp dẫn là khi khách hàng mua 3 túi thạch Hugo 400g thì khách hàng sẽ được tặng một hộp sữa Kid, khi mua 2 hũ thạch Hugo 620g khách hàng cũng được tặng một hộp sữa Kid. Cùng với chương trình khuyến mại đó thì công ty cũng cho các nhân viên của mình đi phát tờ rơi tại các trường tiểu học và các trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm tạo sự nhận biết cho các khách hàng mục tiêu của mình. Cùng với đó, công ty cũng có nhiều hoạt động khác như tham gia những hội trợ triển lãm hàng tiêu dùng, mới đây nhất là công ty đã có chương trình tài trợ cho giải bóng đá của ._.khoa marketing-trường đại học kinh tế quốc dân.
Tuy có một số các hoạt động marketing tương đối tốt nhưng hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty vẫn còn có những thiếu sót, công ty vẫn chưa có những đầu tư thích đáng cho hoạt động này-một hoạt động rất quan trọng trong quá trình thực hiện marketing. Các hoạt động nghiên cứu của công ty mới chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu sơ bộ tình hình thị trường để lấy thông tin, làm cơ sở cho việc ra những quyết định của công ty tại từng thời điểm. Điều này có thể được giải thích là do công ty TNHH Việt Thành vẫn là một công ty nhỏ, ngân sách chưa đủ lớn để có những cuộc nghiên cứu có quy mô.
4. Những đánh giá chung về môi trường kinh doanh công ty hiện đang phải đối mặt
Công ty TNHH Việt Thành là một doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức độ đầu tư của công ty chưa lớn lắm cho nên môi trường vĩ mô chưa có những tác động, ảnh hưởng nhiều đến các hoạt đông sản xuất kinh doanh của công ty. Hiện nay, công ty chịu tác động rất nhiều từ những yếu tố của môi trường vi mô. Những yếu tố này thường xuyên thay đổi và tác động trực tiếp đến các kết quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Với tính chất của sản phẩm mà hiện nay công ty đang sản xuất và kinh doanh là thực phẩm ăn liền cho nên nhóm khách hàng mà công ty hướng tới chủ yếu là tầng lớp thanh thiếu niên, phụ nữ và trẻ em, trong đó khách hàng mục tiêu mà công ty hướng tới là trẻ em. Mặt khác, do phong tục tập quán và những nét văn hoá riêng của người Việt Nam cùng với những quy định của pháp luật cho nên những chương trình quảng cáo của công ty tới khách hàng mục tiêu của mình bị hạn chế đi rất nhiều, từ đó làm cho kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cũng chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Một yếu tố nữa của môi trường vi mô tác động mạnh mẽ đến các hoạt động của công ty đó chính là tình hình cạnh tranh trên thị trường hiện nay. Do đặc điểm của ngành hàng sản xuất mà công ty hiện đang tham gia là ngành sản xuất hàng tiêu dùng cho nên trình độ máy móc công nghệ để tham gia sản xuất là không nhiều, không đặc biệt, nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư sản xuất được. Vì thế trên thị trường hiện nay công ty có rất nhiều các đối thủ cạnh tranh, từ đó làm cho các khu vực thị trường của công ty ngày một thu hẹp lại. Đối với thị trường tiêu dùng cao cấp( có giá bán sản phẩm là trên 20 000đ) thì ngoài sản phẩm nhập khẩu của công ty là Poke và Poke ABC được nhập khẩu từ Đài Loan thì ngoài thị trường cũng có các sản phẩm khác như Newchoise, Fruitpeti cũng là các sản phẩm được nhập khẩu từ Đài Loan. ở thị trường tầm trung ( có giá bán từ 13 000đ đến dưới 20 000đ) có các sản phẩm của công ty như Hugo, JOY, Poke (do công ty tự sản xuất) và các sản phẩm của các doanh nghiệp khác như Newtown, Long Hải, TenTen, Hữu Nghị, Hải Hà…Và ở thị trường cấp thấp (có giá bán dưới 13 000đ) thì có các sản phẩm của Long Hải, Hải Vân, 319 Bộ quốc phòng…Việc trên thị trường có nhiều các đối thủ cạnh tranh một mặt tạo cho doanh nghiệp nhiêu khó khăn như phải đầu tư các trang thiết bị hiện đại để sản xuất, giảm thiểu các chi phí… nhưng mặt khác nó cũng tạo ra một trào lưu tiêu thụ trong người tiêu dùng, kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đa dạng hoá các mặt hàng của mình để đáp ứng ngày một tốt hơn những nhu cầu, mong muốn khắt khe của người tiêu dùng.
Hiện nay công ty có được bốn loại sản phẩm trải rộng trên tất cả các thị trường, tạo được nhiều khả năng lựa chọn cho khách hàng, đồng thời cũng tạo cho công ty một lợi thế rất lớn trong việc bao phủ được thị trường một cách toàn diện hơn, công ty có thể có được nhiều khách hàng hơn và do đó có thể đẩy sản lượng tiêu thụ của công ty nhiều hơn.
Phần hai: Chương trình nghiên cứu nhằm đánh giá sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu Poke
Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu
1. Xác định vấn đề nghiên cứu
Khi đề cập đến vấn đề nghiên cứu của một cuộc nghiên cứu marketing, có nghĩa là chúng ta bàn đến chủ đề hay đề tài của một cuộc nghiên cứu hay nói cách khác là đề cập đến khả năng quản lý của nó. Vấn đề nghiên cứu ở đây không chỉ được xem xét trên khía cạnh là nó có đúng đắn, chính xác, rõ ràng và cần thiết hay không mà nó còn được xem xét trên phạm vi của nó như thế nào.
Để lựa chọn được những vấn đề nghiên cứu thật sự thích hợp cho một cuộc nghiên cứu marketing cụ thể thị thường người ta phải tính đến các yếu tố là khả năng ngân sách dự định dành cho cuộc nghiên cứu đó, thời gian để tiến hành nghiên cứu, trình độ, khả năng của những người tiến hành nghiên cứu và cuối cùng là khả năng có được những thông tin cần thiết có liên quan đến việc nghiên cứu.
Để xác định được vấn đề trong cuộc nghiên cứu thì đòi hỏi phải sử dụng những phương pháp cụ thể để tiến hành tiếp cận và lựa chọn chúng. Do đó chúng ta sẽ sử dụng các cách tiếp cận là sử dụng phương pháp hình phễu, phân tích hoàn cảnh, tình huống và thực hiện điều tra sơ bộ.
Phương pháp hình phễu là một quá trình phân tích gồm nhiều bước công việc kế tiếp nhau. Thoạt đầu người nghiên cứu chú ý đến một phạm vi đề tài rộng lớn đang có những dấu hiệu bất thường, nổi cộm trong kinh doanh. Sau đó sẽ thu hẹp dần chúng lại để có thể tìm được những vấn đề cốt lõi nhất và tăng dần mức độ quản lý đối với chúng. Như vậy, phương pháp hình phễu là quá trình loại trừ dần những cái không phải là vấn đề hay là những vấn đề không không quan trọng, không cấp thiết ra khỏi tổng số những khả năng có thể xảy ra trước một tình huống của công ty để lựa chọn đúng được vấn đề quan tâm. Với việc sử dụng phương pháp hình phễu như vậy sẽ giúp cho nhà nghiên cứu tránh được khả năng chọn nhầm hay bỏ sót vấn đề, đảm bảo một độ an toàn tin cậy cho sự lựa chọn của mình.
Song hành với phương pháp hình phễu đó là việc phân tích tình huống và điều tra sơ bộ. Đây là những phương pháp cụ thể thuộc loại hình nghiên cứu thăm dò dùng để phát hiện vấn đề. Thực hiện phân tích tình huống có nghĩa là các nhà nghiên cứu tiến hành quan sát, theo dõi và tìm hiểu một cách liên tục những tình hình hoạt động kinh doanh chung của toàn công ty và những biến đổi thị trường để phát hiện ra những tình huống có vấn đề, từ đó đưa ra các giả thuyết cho các giai đoạn nghiên cứu tiếp theo. Việc phân tích tình huống nhằm mục đích cung cấp cho người nghiên cứu những thông tin tổng quát, cơ sở về lĩnh vực nghiên cứu và những vấn đề cần phải xem xét. Phân tích tình huống và điều tra sơ bộ là một quá trình nghiên cứu lướt nhanh trên các dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp thông qua những cuộc giao tiếp, gặp gỡ với những người có liên quan, hiểu biết về đối tượng, đề tài được nghiên cứu.
Đối với công ty, trước tình hình doanh số giảm sút trong một thời gian đã tiến hành điều tra sơ bộ để xác định các nguyên nhân sụt giảm. Sau khi đã sàng lọc ra các nguyên nhân ảnh hưởng tới việc sụt giảm doanh số, công ty đã xác định vấn đề cần nghiên cứu ở đây là người tiêu dùng. Đó là do hiện nay trên thị trường có quá nhiều sản phẩm thạch đang bán trên thị trường, điều này làm cho người tiêu dùng có những thay đổi trong hành vi của mình khi lựa chọn các sản phẩm.
Xác định mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là cái đích nghiên cứu hay là cái chủ ý cụ thể của sự nghiên cứu mà người làm nghiên cứu hướng tới, nhằm vào. Mục tiêu nghiên cứu cần phải được làm rõ ngay sau khi đã xác định được vấn đề nghiên cứu. Thực ra, việc trình bày mục tiêu nghiên cứu chính là sự diễn giải các nội dung chi tiết có liên quan đến vấn đề hay đề tài nghiên cứu đã được lựa chọn. Do đó, khi xác định vấn đề nghiên cứu của công ty là người tiêu dùng thì công ty cũng đã xác định ra một số mục tiêu có thể có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của công ty đó là do sản phẩm của công ty không đáp ứng được những yêu cầu về chất lượng, bao bì mẫu mã cho khách hàng, do hệ thống kênh phân phối hoạt động chưa được tốt, giá cả sản phẩm của công ty không phù hợp với khách hàng mục tiêu, sự nhận biết của khách hàng đối với sản phẩm của công ty là chưa đầy đủ…
Từ việc xác định được các mục tiêu trên, công ty xây dựng nên một mô hình cây mục tiêu với những mục tiêu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Phương pháp tiếp cận này cho phép công ty xây dựng được các mục tiêu nghiên cứu một cách có hệ thống, nhờ thế mà đối tượng nghiên cứu được nhìn nhận, xem xét một cách toàn diện.
Ngoài ra công ty cũng sử dụng cách thức xây dựng mục tiêu nghiên cứu dựa trên những thông tin có được. Với cách thức này, công ty dựa vào những thông tin chưa có hoặc chưa đầy đủ để làm cái đích để hướng vào. Theo cách thức này thì với những mục tiêu nào đã biết được nguyên nhân, bản chất của tình hình và cách thức giải quyết thì sẽ loại bỏ chúng ra. Chính vì vậy, sau khi đã xem xét và sàng lọc các vấn đề nghiên cứu đang đứng trước công ty thì công ty đã lựa chọn mục tiêu nghiên cứu về sự nhận biết của người tiêu dùng, một khía cạnh mà hiện này công ty dường như không có một ít thông tin gì về nó.
Sau khi đã xác định được mục tiêu nghiên cứu, một giả thiết được hình thành đối với người làm nghiên cứu của công ty đó là người tiêu dùng nhận biết chưa đầy đủ về các sản phẩm thạch rau câu mà công ty hiện đang cung cấp. Giả thiết này sẽ làm cơ sở cho công ty trong suốt quá trình nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu
Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu được thuận lợi, cùng với đó là những hạn chế về mặt thời gian, chi phí và trình độ của người thực hiện nghiên cứu, do đó chương trình nghiên cứu này chỉ được giới hạn trong phạm vi tương đối nhỏ, đó là các khu vực thị trường trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phạm vi này tuy chỉ trong thành phố nhưng đây lại là một khu vực thị trường trung tâm của công ty với những siêu thị, đại lý và trung tâm bán hàng lớn của công ty đặt tại đây. Mặt khác, khu vực này cũng là một khu vực thị trường rất đa dạng và phong phú với rất nhiều dạng khách hàng khác nhau, có những nhu cầu và mong muốn khác nhau.
Do đó, việc nghiên cứu tại khu vực thị trường này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty có thể hiểu biết kỹ hơn về những nhóm khách hàng mà mình đang tập trung những nỗ lực nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của họ.
Ngoài ra, phạm vi của cuộc nghiên cứu còn được giới hạn trong việc chỉ nghiên cứu thái độ và sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu mang thương hiệu Poke chứ không đi vào nghiên cứu thái độ của những người bán hàng, các đại lý, các nhà phân phối của công ty trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vì ở đây, qua cuộc nghiên cứu này, công ty có thể đánh giá được mức độ nhận biết của người tiêu dùng đối với sản phẩm của mình, để từ đó công ty có thể đưa ra được những giải pháp nhằm xây dựng được hình ảnh của mình trong tâm trí của người tiêu dùng một cách tốt hơn.
Thiết kế dự án nghiên cứu chính thức
Các phương pháp thu thập thông tin
Sau khi đã xác định được vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu thì công việc tiếp theo của người làm nghiên cứu là phải xác định được những dạng và nguồn dữ liệu cần thiết cho việc nghiên cứu. Trong cuộc nghiên cứu này, những dữ liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu gồm hai dạng, đó là những dữ liệu thứ cấp và những dữ liệu sơ cấp.
Việc thu thập dữ liệu thứ cấp đơn giảm hơn rất nhiều so với việc thu thập dữ liệu sơ cấp. Nó có thể được thu thập từ những sổ sách của lực lượng bán hàng, của các phòng ban khác trong công ty. Ngoài ra, dữ liệu thứ cấp còn có thể thu thập từ bên ngoài từ những ấn phẩm, những báo cáo thống kê… Những dữ liệu thứ cấp thu thập một mặt tạo cho người làm nghiên cứu có những thuận lợi như dễ tìm kiếm, chi phí cho việc thu thập dữ liệu thứ cấp ít hơn rất nhiều so với việc thu thập dữ liệu sơ cấp, những thông tin mà dữ liệu thứ cấp mang lại có thể dùng ngay vào một mục tiêu cụ thể nào đó mà không cần phải tốn nhiều thời gian, và dữ liệu thứ cấp cũng phần nào làm tăng hiệu quả của những thông tin, dữ liệu sơ cấp mà người làm nghiên cứu thu thập được, nhưng mặt khác, việc thu thập dữ liệu thứ cấp cũng tạo ra những khó khăn cho người làm nghiên cứu vì có thể những đơn vị đo lường của dữ liệu là không phù hợp với cuộc nghiên cứu, hay những khái niệm phân chia, phân loại của dữ liệu là không phù hợp với người làm nghiên cứu, hoặc đó cũng có thể là những tài liệu được thu thập gián tiếp thông qua những tài liệu khác( hay đó là tài liệu được tìm thấy trong lần nghiên cứu thứ hai).
Dữ liệu sơ cấp có thể được thu thập bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng các phương pháp thông dụng nhất mà lâu nay vẫn được sử dụng đó là quan sát, thực nghiêm và điều tra, phỏng vấn. Tuy nhiên, trong cuộc nghiên cứu này, người tiến hành nghiên cứu chỉ sử dụng hai phương pháp để thu thập dữ liệu sơ cấp, đó là sử dụng phương pháp quan sát và phương pháp điều tra, phỏng vấn.
Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp liên quan đến sự giám sát về những hoạt động cần được quan tâm và lựa chọn. Sức mạnh của phương pháp này chính là ở chỗ các hoạt động được xem xét, nghiên cứu trong lúc chúng đang xảy ra, do đó người nghiên cứu có thể có được những thông tin chính xác về các hiện tượng đang nghiên cứu. Với bản chất đó, phương pháp quan sát cho phép khắc phục được tình trạng thiếu chính xác của những thông tin do những người được phỏng vấn tập hợp lại một cách không chuẩn tắc, đặc biệt là trong trường hợp phải mô tả lại những hoạt động không phải là của hiện tại.
Trong nghiên cứu quan sát thì có thể chia ra làm quan sát trong môi trường bình thường, môi trường có điều kiện, quan sát mở và ngụy trang, quan sát bằng máy và bằng người, quan sát có tổ chức và không có tổ chức. Tuy nhiên, không phải hoạt động nào cũng có thể áp dụng được phương pháp quan sát để theo dõi mà thông thường nó chỉ phù hợp với những hành động xảy ra trong một thời gian ngắn có thể chấp nhận được, hoặc là một cuộc nghiên cứu một số khâu nhất định của những hoạt động diễn ra trong một thời gian dài, hoặc là các hành vi phải xuất hiện trong bối cảnh người nghiên cứu có thể sẵn sàng quan sát, hoặc nó phải được tiến hành với những hoạt động lặp đi lặp lại quá nhiều mang tính hệ thống đến nỗi mà người được hỏi không thể nhắc lại được.
Để đảm bảo thành công, khi tiến hành sử dụng phương pháp quan sát cần thực hiện theo các trình tự:
Đưa ra quyết định chung về đối tượng và vị trí quan sát.
Lựa chọn những dạng quan sát cụ thể cho cuộc nghiên cứu đang tiến hành.
Lựa chọn danh mục những đặc điểm cụ thể cần được quan sát.
Đào tạo người tiến hành quan sát để họ có nghiệp vụ và thái độ quan sát nghiêm túc, cẩn thận.
Một điều rất đáng chú ý trong khi tiến hành nghiên cứu quan sát đó là sự nhạy bén của các giác quan của người quan sát và sự chính xác, đầy đủ trong việc ghi nhận nó. Điều này cũng quyết định rất lớn đến hiệu quả của việc thu thập dữ liệu.
Phương pháp quan sát ngày càng được áp dụng phổ biến vì trong khi tiến hành quan sát, các đối tượng của cuộc nghiên cứu sẽ không nhận thấy họ đang bị quan sát cho nên họ phản ứng theo cách tự nhiên, tạo cho người nghiên cứu một cái nhìn thực tế chứ không phải là những hành vi được báo cáo lại. Mặt khác, các đối tượng bị quan sát sẽ không được hỏi về một hành động nhất định nào mà thay vào đó là họ sẽ bị quan sát trong khi thực hiện hành động. Trong một vài trường hợp thì quan sát là cách duy nhất thu được thông tin một cách chính xác hoắc có thể thu được những thông tin có độ chính xác cao với chi phí rẻ hơn.
Tuy nhiên phương pháp này cũng có những mặt hạn chế của nó. Đó là khi tiến hành quan sát thì chỉ có một số lượng nhỏ các đối tượng điển hình được nghiên cứu, vì vậy tính đại diện bị hạn chế. Ngoài ra, khi tiến hành quan sát thì các hoạt động có thể diễn ra không thường xuyên, làm mất thời gian quan sát, hoặc có những động cơ, quan điểm và các điều kiện bên trong không thể quan sát được, dẫn đến việc phương pháp này không thể giải thích được nguyên nhân của những gì đã quan sát được. Và khi tiến hành nghiên cứu quan sát, các thông tin ghi chép lại có thể bị nhầm lẫn, sai sót do xu hướng mệt mỏi theo thời gian, sự cẩu thả trong việc ghi chép lại các sự kiện.
Phương pháp điều tra
Trong các cuộc nghiên cứu marketing, nghiên cứu phỏng vấn được coi là phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp được sử dụng nhiều nhất và đôi khi nó bị lạm dụng nhất. Nó được sử dụng nhiều nhất vì đầy là phương pháp thu thập thông tin về những hoạt động và quan điểm của con người cực kỳ linh hoạt trên nhiều phương diện khác nhau.. Nó bị lạm dụng nhất vì nhiều cuộc nghiên cứu được thực hiện bằng những câu hỏi định kiến nghèo nàn, thậm chí là vô nghĩa, người phỏng vấn không được đào tạo tốt hoặc mẫu phỏng vấn hầu như ít có khả năng đại diện cho toàn bộ tổng thể.
Nghiên cứu phỏng vấn có thể được chia làm nhiều loại: phỏng vấn qua điện thoại, qua thư tín, trực tiếp, phỏng vấn cá nhân hoặc nhóm… Mặt khác, để thu thập dữ liệu có hiệu quả bằng nghiên cứu phỏng vấn, việc lựa chọn các dạng phỏng vấn cụ thể cùng cần phải dựa vào nhiều căn cứ khác nhau như loại hình nghiên cứu và nhiệm vụ mục tiêu nghiên cứu, đặc tính của mỗi một dạng phỏng vấn và một số yêu cầu khác như những tiêu chuẩn hoá câu hỏi, câu hỏi có được in sẵn không…Và từ những căn cứ đó thì người ta cũng đặt ra một loạt các tiêu chuẩn cho việc lựa chọn các dạng phỏng vấn thích hợp như: khả năng tự do trả lời của người được hỏi, khả năng kiểm soát được việc lựa chọn dữ liệu, độ sâu sắc của cuộc phỏng vấn, khả năng đảm bảo chi phí thấp hay kinh tế, mức độ đeo bám của những người cung cấp thông tin, khả năng hồi tưởng lại những thông tin khó nhớ…
Nhưng trong cuộc nghiên cứu này, người làm nghiên cứu lựa chọn phương pháp phỏng vấn cá nhân trực tiếp vì phương pháp này cho phép người phỏng vấn có thể thu được lượng thông tin một cách tối đa bởi vì người phỏng vấn có thế đặt ra những câu hỏi không theo những khuôn mẫu có trước. Nó có thể được sử dụng một cách có hiệu quả để nắm bắt được những phản ứng của người được phỏng vấn về những bức tranh, sản phẩm hoặc những mẫu vật. Đồng thời nó cũng cho phép người phỏng vấn hợp lý hoá những câu trả lời bằng cách quan sát hoặc thăm dò liên tiếp đối tượng được phỏng vấn.
Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định như đó là một dạng phỏng vấn có chi phí cao vì để có thể tiến hành phỏng vấn thì công ty cần phải có những đầu tư về đào tạo trình độ, kỹ năng cho những người tiến hành phỏng vấn, những chi phí cho việc đi lại của những người tham gia phỏng vấn. Mặt khác, kết quả của phỏng vấn cá nhân trực tiếp chịu ảnh hưởng rất lớn từ người đi phỏng vấn. Trong khi cố gắng gây ấn tượng với người phỏng vấn, người được phỏng vấn có thể sẽ đưa ra những câu trả lời hoàn toàn không chân thật. Hơn nữa, những quan tâm cá nhân và quan điểm của người phỏng vấn có thể đưa họ đến việc giải thích câu trả lời khác đi.
Nhìn chung, một cuộc nghiên cứu riêng lẻ chính thức không bị giới hạn trong một phương pháp nghiên cứu duy nhất nào đó. Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là chỉ nên dùng một dạng hay kết hợp nhiều dạng nghiên cứu phỏng vấn với nhau. Người ta thường kết hợp giữa phỏng vấn qua điện thoại với phỏng vấn qua thư tín hoặc cũng có thể kết hợp giữa phỏng vấn qua điện thoại với phỏng vấn trực tiếp nhưng do điều kiện về mặt thời gian cũng như những điều kiện về mặt chi phí cho cuộc nghiên cứu bị hạn chế cho nên người tiến hành cuộc nghiên cứu này chỉ kết hợp giữa phỏng vấn cá nhân trực tiếp với phương pháp nghiên cứu quan sát.
2. Thiết kế bảng hỏi và mẫu điều tra
Bảng câu hỏi hay còn gọi là phiếu điều tra được xem như là một công cụ phổ biến nhất khi thu thập các dữ liệu sơ cấp. Nó thường bao gồm một tập hợp các câu hỏi mà qua đó người được hỏi sẽ trả lời còn người nghiên cứu sẽ có được những thông tin cần thiết. Bảng câu hỏi rất quan trọng, đó là điều hiển nhiên nhưng để thiết kế được một bảng câu hỏi hoàn chỉnh thì lại là một công việc hết sức khó khăn vì bảng câu hỏi phải thực hiện được tất cả các chức năng và giảm bớt những khó khăn phức tạp và những sai lầm mà người nghiên cứu có thể gặp phải trong quá trình thiết kế. Để làm được điều này thì người thiết kế bảng câu hỏi phải tiến hành các bước dưới đây:
Bước thứ nhất là người thiết kế bảng hỏi phải xác định những thông tin cần tìm kiếm và cách thức sử dụng chúng. Một điều kiện tiên quyết để lập bảng câu hỏi có hiệu quả là phải xác định chính xác cái gì cần phải đo lường. Mặc dù điều này là rất rõ ràng song nhiều khi nó thường bị bỏ qua và do đó gây phương hại cho bảng câu hỏi. Chính vì thế, để thiết lập bảng câu hỏi, người thiết kế phải xuất phát từ mục tiêu của cuộc nghiên cứu. Tiếp theo, người thiết kế phải liệt kê đầy đủ những gì cần đo lường để hoàn thành mục tiêu đó. Bản liệt kê này chính là một danh mục các loại thông tin cần tìm kiếm phù hợp với mục tiêu đã được khẳng định. Ngoài ra, người làm nghiên cứu cũng sẽ phải suy nghĩ xem nên dùng những kỹ thuật nào để tiến hành phân tích, mang lại ý nghĩa cho dữ liệu đó.
Bước hai đó là việc tiến hành soạn thảo và đánh giá các câu hỏi. Thực chất đây là việc phát triển, liệt kê và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các câu hỏi xét ra có thể cần thiết để có thông tin. Để xây dựng được những câu hỏi như vậy cần phải quan tâm đến hai vấn đề, đó là nên dùng những dạng câu hỏi nào và nên đặt những các câu hỏi đó như thế nào. Sau khi các câu hỏi được liệt kê ra, nhiệm vụ của người nghiên cứu là thực hiện đánh giá chúng. Trong quá trình này có thể có những sự thay đổi cần thiết về nội dung câu hỏi và cách hỏi cũng có thể được định lại để chắc chắn rằng các câu hỏi là hợp lệ và hỏi được đúng vấn đề cần quan tâm. Hơn nữa, nhà nghiên cứu cố gắng giảm đến mức tối thiểu sự thiên về một khuynh hướng, hoặc khả năng biết sẵn các câu trả lời của câu hỏi do cách hỏi hoặc cách sắp xếp câu hỏi tạo ra.
Cần phải lưu ý rằng việc soạn thảo và đánh giá các câu hỏi là những công việc đan xem tiếp nối với nhau và được lặp đi lặp lại một cách liên tục và nhiều lần. Nói cách khác, các câu hỏi phải trải qua một chuỗi các phác thảo và có rất nhiều các bản thảo về chúng trước khi được chấp nhận ở dạng cuối cùng. Chỉ có cách hành động như vậy mới có hy vọng thiết lập được các câu hỏi như mong muốn.
Trong cuộc nghiên cứu này, bảng câu hỏi được thiết kế với 10 câu hỏi nhằm thu thập được những thông tin có thể đánh giá được những hiểu biết của người tiêu dùng về sản phẩm thạch rau câu Poke. Các câu hỏi được trình bày một cách rõ ràng, đơn giản, các từ ngữ sử dụng một cách đơn nghĩa để khách hàng có thể dễ hiểu, và bảng câu hỏi được chia làm ba phần:
Phần mở đầu: là tiêu đề của cuộc nghiên cứu, lời tự giới thiệu của người nghiên cứu và ý nghĩa, mục đích của cuộc nghiên cứu.
Phần nội dung: là phần được thiết kế để trình bày các câu hỏi. Phần này được chia làm hai phần bao gồm những câu hỏi liên quan đến đề tài nghiên cứu và những câu hỏi có tính chất cá nhân đối với người được hỏi.
Lời cảm ơn: là câu cuối cùng khi kết thúc bảng câu hỏi.
( bảng câu hỏi của cuộc nghiên cứu được trình bày ở phần phụ lục)
Việc chọn mẫu cho cuộc nghiên cứu cũng là một vấn đề rất khó khăn. Tổng thể lấy mẫu trong cuộc nghiên cứu này được xác định là những người đã từng sử dụng sản phẩm thạch rau câu Poke trên thị trường thành phố Hà Nội. Nhưng do hạn chế về mặt thời gian và chi phí cho cuộc nghiên cứu cho nên kích thước mẫu chỉ được xác định trong phạm vị 50 mẫu
3. Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu
Quá trình phân tích và xử lý dữ liệu được bắt đầu ngay sau khi các dữ liệu đã được thu thập đầy đủ và được tiến hành trên phần mềm phân tích dữ liệu thống kê SPSS.
Người nghiên cứu tiến hành biên soạn các câu hỏi, sửa chữa những câu hỏi chưa đầy đủ… và sau đó tiến hành mã hoá các dữ liệu đã thu thập được bằng những con số để thuận tiện cho việc phân tích dữ liệu.
Quá trình thu thập và xử lý thông tin
Quá trình thu thập thông tin được tiến hành từ ngày 10/4/2006 đến ngày 20/4/2006 trên địa bàn thành phố Hà Nội. Người nghiên cứu gặp gỡ những khách hàng đã được lựa chọn trong khung lấy mẫu và thực hiện những thao tác nghiệp vụ nhằm thu thập được những thông tin phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Những thông tin thu thập được ghi chép lại một cách đầy đủ trong phiếu điều tra và trong nhật ký của người nghiên cứu để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá các kết quả thu được.
IV.Báo cáo kết quả thu được
Qua một thời gian tiến hành nghiên cứu, những thông tin cần thiết của quá trình nghiên cứu đã được thu thập và xử lý.
Kết quả của cuộc nghiên cứu này cho thấy có 96% khách hàng đã từng biết đến sản phẩm thạch rau câu Newchoise, 84% khách hàng đã từng biết đến sản phẩm Frutpeti, 62% khách hàng biết đến sản phẩm của Long Hải và có 76% khách hàng biết đến những sản phẩm thạch rau câu của các hãng khác. Điều này cũng dễ hiểu vì hiện nay trên thị trường có rất nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh mặt hàng thạch rau câu, trong đó sản phẩm thạch Newchoise và Frutpeti là những sản phẩm nhập khẩu từ Đài Loan, có mặt trên thị trường đã lâu và chiếm được thị phần nhiều nhất trên thị trường. Do đó phần lớn khách hàng đều biết đến các sản phẩm của họ.
Còn đối với sản phẩm thạch Long Hải thì mới xuất hiện trên thị trường nhưng do sản phẩm của họ được bán với giá rẻ, phù hợp với những khách hàng có thu nhập thấp cho nên họ cũng đã chiếm được thị phần khá cao trên thị trường.
Mặt khác qua cuộc nghiên cứu cũng cho thấy có đến 62% khách hàng đã từng sử dụng thạch rau câu Newchoise, trong khi đó của thạch Frutpeti là 78%, thạch Long Hải là 58% và các sản phẩm thạch khác là 70%.
Về đánh giá sự nhận biết của người tiêu dùng về các sản phẩm của thạch Poke thì chỉ có 40% khách hàng đánh giá sản phẩm thạch Poke có nhãn hiệu nổi bật, 46% khách hàng đánh giá Poke có chất lượng tốt, 56% khách hàng đánh giá Poke có chủng loại đa dạng và 62% khách hàng đánh giá Poke có những đặc điểm khác nổi bật. Điều này đúng, vì trên thị trường hiện này thì sản phẩm thạch Poke có chất lượng không cao, thấp hơn các sản phẩm như Newchoise, Frutpeti và chỉ cao hơn các sản phẩm trong nước. Do đó việc cạnh tranh về chất lượng với các sản phẩm thạch nhập khẩu của công ty là khó có thể thành công. Trong khi đó thì sản phẩm Poke lại có lợi thế là chủng loại hàng hoá đa dạng, phong phú với những bao bì đóng gói khác nhau và sản phẩm có một hệ thống kênh phân phối rộng khắp trên các thị trường, các địa bàn, do đó sản phẩm có thể đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của nhiều khách hàng khác nhau. Do đó, để cạnh tranh trên thị trường, công ty TNHH Việt Thành nên xây dựng một danh mục hàng hoá đa dạng tốt hơn nữa, củng cố lại hệ thống kênh phân phối của mình tốt hơn, từ đó tạo được lợi thế cho sản phẩm Poke của mình trên thị trường.
Về các đặc điểm của sản phẩm, phần lớn khách hàng cho rằng sản phẩm thạch rau câu Poke có hương vị, độ ngọt, độ giòn của miếng thạch là bình thường, không có gì nổi bật hơn các đối thủ cạnh tranh( 58% khách hàng cho rằng hương vị thạch Poke là bình thường, 42% cho rằng độ ngọt của Poke là bình thường, 40% cho rằng độ giòn của thạch Poke là bình thường). Trong khi đó về màu sắc của sản phẩm được khách hàng đánh giá tốt hơn, 36% khách hàng đánh giá là thích, 24% đánh giá là rất thích và 28% đánh giá là bình thường. Nguyên nhân khách hàng đánh giá như vậy là do chất lượng sản phẩm Poke chưa được cao. Vì thế công ty cần cải tiến chất lượng sản phẩm của mình để phù hợp với những nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, từ đó tạo được sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Qua cuộc nghiên cứu cũng cho thấy rằng người tiêu dùng đánh giá các sản phẩm thạch Poke có giá là khá cao (36% cho rằng sản phẩm có giá đắt, 40% cho rằng sản phẩm có giá là bình thường). Điều này có thể giải thích được là do thu nhập của người tiêu dùng của Việt Nam hiện nay chưa được cao, do đó với mức giá hiện nay của công ty đặt ra cho sản phẩm Poke thì vẫn không có nhiều người tiêu dùng chấp nhận được. Chính vì thế công ty cần có những giải pháp nhằm giảm bớt những chi phí sản xuất, kinh doanh xuống, từ đó có thể hạ giá của sản phẩm, đáp ứng được những yêu cầu của người tiêu dùng về giá cả.
Mặt khác, qua cuộc nghiên cứu cũng cho thấy được người tiêu dùng không hài lòng về những thông tin có được về sản phẩm ( 16% rất không hài lòng, 40% không hài lòng và 26% là bình thường). Đó là do trong tình hình hiện nay, thị trường có quá nhiều sản phẩm cạnh tranh với rất nhiều nhãn hiệu khác nhau, vì thế người tiêu dùng cần biết càng nhiều thông tin về sản phẩm để có thể biết về xuất xứ, thành phần… của sản phẩm, từ đó tạo ra tâm lý yên tâm khi tiêu dùng sản phẩm. Vì thế công ty cần phải biết được những mong muốn của khách hàng về sản phẩm để có thế đáp ứng kịp thời. Ngoài ra, cuộc nghiên cứu cũng cho thấy người tiêu dùng biết đến sản phẩm Poke chủ yếu thông qua người quen và những thông tin khác(40% khách hàng là do người quen giới thiệu, 40% khách hàng là do những thông tin khác trong khi đó thì chỉ có 20% khách hàng biết đến sản phẩm thông qua truyền thông). Nguyên nhân của điều này là do công ty là một doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, mặt khác do mặt hàng kinh doanh của công ty không có gì đặc biệt, lợi nhuận tính trên một đơn vị sản phẩm là nhỏ cho nên công ty hầu như không có các hoạt động truyền thông về sản phẩm của mình. Công ty chỉ tập trung vào các hoạt động kích thích tiêu thụ, khuyến mãi…và điều này đã đạt được thành công khi sản phẩm của công ty đã có trong tâm trí của người tiêu dùng.
Ngoài ra, các kết quả khác của cuộc nghiên cứu cũng được thu thập và được trình bày ở phần phụ lục 2.
Qua cuộc nghiên cứu này thì công ty có thế đưa ra được những giải pháp nhằm tạo dựng được hình ảnh sản phẩm của mình trong tâm trí người tiêu dùng một cách tốt hơn, nhằm đạt được những mục tiêu về thị phần, lợi nhuận mà công ty đặt ra.
Phần ba: Một số giải pháp nhằm góp phần tăng cường hình ảnh sản phẩm thạch rau câu Poke trên thị trường
I. Nhóm giải pháp về phía công ty
Xây dựng một nề nếp làm việc mới
Nề nếp làm việc của tổ chức là cách mô tả ngắn gọn những giá trị và thái độ được công nhân viên tổ chức đó thể hiện trong quá trình làm việc. Nề nếp công tác phản ánh qua trách nhiệm của công nhân viên đối với mục tiêu chung và quyết định kỹ năng hay năng lực cần thiết của toàn thể lực lượng lao động để thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ được giao của mình. Việc xây dựng một nề nếp công tác mới thích hợp phải là bước đầu tiên được xem xét trong các quá trình chiến lược, gắn liền với việc tạo ra một t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5288.doc