Tài liệu Nghiên cứu rủi ro về sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho Khu công nghiệp Phố Nối B – Hưng Yên: ... Ebook Nghiên cứu rủi ro về sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho Khu công nghiệp Phố Nối B – Hưng Yên
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu rủi ro về sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho Khu công nghiệp Phố Nối B – Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
Trêng ®¹i häc N«ng nghiÖp hµ néi
---------------
®ç v¨n cêng
Nghiªn cøu rñi ro vÒ sö dông tiÒn ®Òn bï vµ viÖc lµm cña hé n«ng d©n do bÞ thu håi ®Êt giao cho Khu c«ng nghiÖp Phè Nèi B – Hng Yªn
luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ
Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp
M· sè: 60.31.10
Ngêi híng dÉn khoa häc: gs.ts. §ç kim chung
Hµ néi – 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo về một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi việc giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Đỗ Văn Cường
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến giáo viên hướng dẫn khoa học GS. TS. Đỗ Kim Chung – Trưởng khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn. Người thầy đã dành nhiều tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài này
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các Thày Cô giáo Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Khoa sau đại học, Bộ môn Phát triển nông thôn trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn UBND tỉnh Hưng Yên, UBND huyện Yên Mỹ, các phòng chức năng của huyện, UBND xã Nghĩa Hiệp, các hộ dân ở xã, Ban quản lý Khu công nghiệp Phố Nối và các doanh nghiệp đã hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thu thập tài liệu cho đề tài
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, động viên, khích lệ từ phía gia đình và bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và ghi nhận những tình cảm quí báu đó.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Đỗ Văn Cường
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
KCN
BQ
LĐ
CNH
HĐH
SXKD
UBND
Khu công nghiệp
Bình quân
Lao động
Công nghiệp hóa
Hiện đại hóa
Sản xuất kinh doanh
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Đất đai của xã Nghĩa Hiệp 30
Bảng 3.2: Nhân khẩu và lao động của xã Nghĩa Hiệp năm 2007 31
Bảng 3.3: Cơ cấu kinh tế của xã Nghĩa Hiệp năm 2007 33
Bảng 4.1. Đất đai của nhóm hộ mất đất năm 2007 41
Bảng 4.2: Nhân khẩu và lao động của nhóm hộ mất đất năm 2007 43
Bảng 4.3. Thu nhập của nhóm hộ mất đất năm 2007 46
Bảng 4.4. Thực trạng rủi ro sử dụng tiền đền bù của nhóm hộ bị mất đất 50
Bảng 4.5. So sánh rủi ro sử dụng tiền của hộ bị mất đất và nhóm hộ không bị mất đất 54
Bảng 4.6: Thực trạng rủi ro việc làm của nhóm hộ bị mất đất 60
Bảng 4.7: So sánh rủi ro việc làm của nhóm hộ mất đất và nhóm hộ không bị mất đất 62
Bảng 4.8: So sánh rủi ro việc làm trước khi mất đất và sau khi mất đấtcủa nhóm hộ mất đất 64
Bảng 4.9: Nguyên nhân gây ra rủi ro việc làm của nhóm hộ mất đất 68
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Sự cần thiết của đề tài
Ổn định đời sống cho người dân nông thôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nghiên cứu về vấn đề này đã có nhiều đề tài và nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Đề tài nghiên cứu của chúng tôi không nằm ngoài chủ trương trên nhưng hướng tiếp cận của đề tài là những khó khăn, rủi ro xảy ra đối với hộ nông dân.
Thực tế cho thấy, rủi ro có thể xẩy ra đối với mọi người, mọi gia đình. Nông dân là những người sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp, điều kiện sống khó khăn nên rủi ro xảy ra với đối với họ thường nghiêm trọng và nhiều hơn. Đối với nhóm hộ bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp (phục vụ cho chủ trương Công nghiệp hóa, Hiện đại hoá đất nước) bị giảm một phần hoặc toàn bộ đất nông nghiệp, đứng trước nguy cơ phải thay đổi ngành nghề truyền thống, đối mặt với hàng loạt vấn đề về thay đổi môi trường sống,… thì rủi ro họ gặp phải sẽ phức tạp hơn. Những con số sau phần nào nói lên điều đó: khoảng 2,5 triệu dân bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất, 70% tiền đền bù sử dụng không có hiệu quả, chỉ có hơn 29% người dân có đời sống tốt hơn trước khi nhận tiền đền bù,…( Công bố của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 14/7/2007- nguồn số 12(156) năm 2008). Chính vì vậy, nhóm hộ này cần được quan tâm.
Hưng Yên có nhiều khu công nghiệp(KCN) đã và đang mọc lên và là tỉnh có số hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp khá nhiều ( theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố ngày 14/7/2007 thì Hưng Yên có 31.033 hộ bị thu hồi đất, đứng thứ 4 cả nước sau Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh và Bắc Ninh). KCN Phố Nối là khu công nghiệp trọng điểm của tỉnh Hưng Yên, với diện tích rộng, số hộ bị thu hồi đất nhiều,… nên người dân ở đây, đặc biệt là người dân trực tiếp bị thu hồi đất bị ảnh hưởng rất lớn.
KCN Phố Nối B là một trong hai khu công nghiệp Phố Nối (A và B), đã giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động. Nhưng đi đôi với việc đó cũng có nhiều lao động thất nghiệp, đặc biệt là những lao động của các hộ bị mất đất. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đối với họ. Nhằm tìm hiểu về những hộ nông dân bị mất đất, đặc biệt là tìm hiểu rủi ro về việc làm và sử dụng tiền đền bù của họ. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“ Nghiên cứu rủi ro về sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho Khu công nghiệp Phố Nối B – Hưng Yên”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
1.2.1. Mục tiêu chung:
Qua nghiên cứu, đề tài nhằm đánh giá thực trạng rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN. Từ đó, đề xuất các giải pháp hạn chế những rủi ro này.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được mục tiêu chung, đề tài tập trung giải quyết một số mục tiêu cụ thể sau:
- Hệ thống được cơ sở lý luận về rủi ro sử dụng tiền đề bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho KCN.
- Đánh giá được thực trạng rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho KCN Phố Nối B – Hưng Yên.
- Đề xuất một số giải pháp giảm thiểu rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN Phố Nối – Hưng Yên.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN Phố Nối B – Hưng Yên. Tuy nhiên, để có những nhận định khách quan, đề tài có nghiên cứu những rủi ro của những hộ nông dân không bị thu hồi đất, nhằm làm cơ sở so sánh.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Địa điểm nghiên cứu: Các xã ở những huyện của tỉnh Hưng Yên có KCN Phố Nối B nằm trên.
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu rủi ro của những hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN trong những năm gần đây và đặt trọng tâm chủ yếu năm 2007 .
PHẦN 2:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ RỦI RO SỬ DỤNG TIỀN ĐỀN BÙ VÀ VIỆC LÀM CỦA HỘ NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT
GIAO CHO KHU CÔNG NGHIỆP
2.1. Một số khái niệm
2.1.1. Khái niệm về sự không chắc chắn
Sự không chắc chắn là tình trạng không thể gắn xác suất với sự kiên xảy ra. Sự không chắc chắn có thể đem lại cơ hội cho người dân nhưng cũng có thể đem lại khó khăn cho họ. Đối với hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN thì ngoài việc gặp những sự không chắc chắn thông thường, họ còn gặp phải một số dạng không chắc chắn sau:
- Không chắc chắn trong việc làm: sau khi bị “mất đất” họ sẽ phải tìm cách sinh sống, một trong những cách phổ biến đó là vào các KCN để làm việc. Tuy nhiên, họ phải đối mặt với vấn đề, sẽ có việc làm nếu như họ thích nghi tốt được với cuộc sống công nghiệp, với cách làm việc công nghiệp vốn khác xa với cách làm nông nghiệp truyền thốngcủa họ hoặc sẽ là thất nghiệp nếu như họ không thích nghi được. Như vậy, sau khi bị “mất đất” họ đứng trước cơ hội việc làm mới hoặc thất nghiệp. Đây chính là sự không chắc chắn trong việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất.
- Không chắc chắn trong tiết kiệm: sau khi bị thu hồi đất, họ nhận được một khoản tiền đền bù. Khoản tiền này, có hộ đã tìm cách tiết kiệm (gửi ngân hàng, cho vay, mua vàng hoặc tiền tệ mạnh,…) như vậy họ phải đối mặt với vấn đề lạm phát. Có thể đồng tiền của họ sẽ “tăng giá” nếu như không hoặc xảy ra lạm phát ở mức thấp, nhưng cũng có thể đồng tiền đó của họ bị “giảm giá” nếu như xảy ra mức lạm phát cao. Hoặc họ phải đối mặt với việc lên xuống hàng ngày của các đồng tiền mạnh, vàng,…
Như vậy, khi tiết kiệm tiền họ đứng trước cơ hội sẽ có thêm tiền hoặc sẽ bị “mất tiền”. Đây chính là sự không chắc chắn trong tiết kiệm của hộ nông dân bị thu hồi đất.
- Không chắc chắn trong đầu tư: đây là sự không chắc chắn phổ biến nhất đối với hộ dân bị mất đất. Sau khi thu bị thu hồi đất, họ thiếu phương tư liệu sản xuất, vì vậy họ phải tìm cách đầu tư sang lĩnh vực khác. Do sự thiếu hiểu biết các thông tin về lĩnh vực đầu tư mới, cộng với việc xa lạ với những môi trường không phải là nông nghiệp, hoặc môi trường không quen thuộc với họ nên họ đứng trước điều không chắc chắn về thành công. Họ có thể thành công trong lĩnh vực mới, nếu được định hướng và trợ giúp từ phía cộng đồng, nhưng họ cũng dễ bị thất bại nếu như thiếu sự quan tâm trợ giúp. Đây chính là sự không chắc chắn trong đầu tư của hộ.
2.1.2. Khái niệm rủi ro
Ngày nay có rất nhiều khái niệm về rủi ro do những trường phái và tác giả khác nhau đưa ra. Nhưng nhìn chung, chúng ta có thể chia làm hai trường phái lớn sau:
Trường phái truyền thống: có một số định nghĩa như sau:
Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến.
Rủi ro là sự không may.
Rủi ro là sự bất trắc, gây ra mất mát, hư hại.
Rủi ro là yếu tố liên quan đến nguy hiểm, sự khó khăn, hoặc điều không chắc chắn,…
Rủi ro là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến.
Theo cách định nghĩa trên thì: rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố khác liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.[15]
Trường phái trung hòa: có một số khái niệm của trường phái như sau:
Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được
Rủi ro là sự bất trắc có liên quan đến việc xuất hiện những biến không mong đợi
Rủi ro là những ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác suất
Rủi ro là sự biến động tiềm ẩn những kết quả. Rủi ro có thể xuất hiện trong hầu hết các hoạt động của con người. Khi có rủi ro người ta không dự đoán được chính xác kết quả. Sự hiện diện của rủi ro gây lên sự bất định. Nguy cơ dẫn đến rủi ro phát sinh bất cứ khi nào mọi hoạt động dẫn đến khả năng được hoặc mất không thể đoán trước.
Theo các định nghĩa của trường phái trung hòa thì: rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được.[15]
Phân biệt giữa rủi ro và sự không chắc chắn
Từ các khái niệm về rủi ro và sự không chắc chắn ta thấy:
Rủi ro có thể đề cập tới nhiều kết quả, mỗi kết quả lại có khả năng xảy ra khác nhau và có thể tính toán được khả năng xảy ra của một kết quả là bao nhiêu. Tức là rủi ro có thể định lượng được.
Không chắc chắn cũng đề cập tới nhiều kết quả và không biết được rằng khả năng xảy ra của một kết quả là bao nhiêu. Như vây, sự khác nhau lớn nhất giữa rủi do và không chắc chắn chính là việc có xác định được khả năng xảy ra kết quả hay không.
2.1.3. Khái niệm rủi ro sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm của hộ nông dân bị mất đất cho khu công nghiệp
2.1.3.1. Khái niệm rủi ro của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiêp.
Như chúng ta đã biết: rủi ro là sự thiệt hại mất mát xảy ra đối với con người. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra khái niệm về rủi ro của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN như sau: rủi ro của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho KCN là những mất mát, thiệt hại do việc mất đất đem đến cho họ, những thiệt hại đó có thể đo lường được.
Để đo lường được rủi ro của hộ nông dân do bị mất đât thì trước tiên cần phải được ghi chép một cách tỷ mỉ những sự kiện xảy ra đối với người dân, sau đó chắt lọc, phân loại ra những rủi ro nào là do việc mất đất gây nên. Trong đề tài này, chúng tôi đi sâu sâu nghiên cứu rủi ro trong sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm của hộ nông dân khi họ bị mất đất.
2.1.3.2. Khái niệm rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp.:
Khi bị thu hồi đất, hộ nông dân sẽ nhận được một khoản tiền đền bù. Khoản tiền này có thể coi là tư liệu sản xuất thay thế cho ruộng đất mà hộ bị mất. Vì vậy, hộ phải tìm cách để sử dụng hiệu quả, đảm bảo cho cuộc sống của hộ sao cho mức đảm bảo ít nhất cũng phải bằng mức đảm bảo của số lượng đất mà hộ bị mất. Tất cả mọi cách thức sử dụng mà không đảm bảo được điều đó, trong đề tài này chúng tôi coi là rủi ro trong sử dụng tiền đền bù của hộ. Do đó, với quan niệm như trên, chúng tôi đưa ra khái niệm sau: rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ là sự mất mát, thiệt hại số tiền doanh nghiệp đền bù cho hộ, do hộ sử dụng vào mục đích nào đó. Sự thiệt hại đó có thể lượng hóa được.
Việc lượng hóa rủi ro này của hộ được tính theo số lượng tiền và theo đơn vị của tiền tệ hoặc theo tỷ lệ .
Khi bị mất đất hộ được nhận một số tiền, trong đó gồm nhiều khoản: tiền đền bù thiệt hại hoa mầu, tài sản; tiền hỗ trợ chuyển đổi việc làm; tiền bồi thường đất đai,…Trong đề tài này chúng tôi không tách bạch các khoản, mà chúng tôi coi tiền đền bù là tổng số tiền mà hộ nhận được do bị mất đất.
2.1.3.3. Khái niệm rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp
Sau khi bị thu hồi đất hộ sẽ bị giảm một phần diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Lúc này, cùng số lượng lao động như cũ, nhưng hộ lại chỉ sản xuất trên quy mô diện tích nhỏ hơn, số công lao động cần cho quy mô diện tích sản xuât giảm đi, trong khi đó số lượng lao động không đổi. Điều này, đồng nghĩa với việc lao động của hộ sẽ bị tăng thời gian thất nghiệp nếu không có biện pháp tạo việc làm cho hộ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra khái niệm sau: rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp là sự mất việc làm đối với lao động của hộ (trong ngắn hạn hoặc trong dài hạn) và sự mất việc này có thể lượng hóa được.
Lượng hóa rủi ro này được tính bằng số lượng lao động, số ngày công lao động của hộ, số tháng lao động, hoặc có thể là tỷ lệ của những đơn vị trên.
2.2. Phân loại rủi ro sử dụng tiền đền bù và rủi việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp
2.2.1. Phân loại rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp
Có nhiều cách để phân loại rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiêp. Trong nghiên cứu này chúng tôi phân loại như sau:
2.2.1.1. Theo mục đích sử dụng tiền đền bù:
Khi nhận được tiền đền bù, hộ sẽ sử dụng vào rất nhiều mục đích khác nhau. Tất cả những mục đích sử dụng đó, đều có thể đem đến rủi ro đối với khoản tiền đền bù của hộ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhóm các cách sử dụng tiền của hộ và phân loại những rủi ro thành 2 loại chính như sau:
* Rủi ro trong việc đã sử dụng tiền đúng mục đích: là rủi ro xảy ra trong phương án đầu tư đúng mục đích của hộ như: đầu tư vào sản xuất kinh doanh, đầu tư cho vay, tiết kiệm,… làm thiệt hại, mất mát tiền đền bù mà hộ đã đầu tư.
Có một số cách sử dụng và gặp rủi ro như sau :
- Hộ sử dụng số tiền được đền bù vào việc đầu tư cho phương án sản xuất cũ của mình và gặp rủi ro làm cho như:
+ Đầu tư vào việc mua sắm các phương tiện sản xuất: máy móc, thiết bị, công cụ, dụng cụ, … phục vụ cho việc sản xuất của mình. Nhưng do những điều kiện nào đó, những phương tiện sản xuất này không được sử dụng đúng theo công suất mong muốn nên sẽ bị tổn thất trong việc đầu tư sản xuất kinh doanh.
+ Đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh: mua đất nông nghiệp tiếp tục sản xuất, tăng quy mô chăn nuôi,…hoặc mở rộng kinh doanh dịch vụ mà mình đang làm và gặp rủi ro
- Hộ sử dụng số tiền đền bù được vào phương án sản xuất kinh doanh mới, thông thường là kinh doanh dịch vụ mới hoặc chuyển sang nghề mới. Ở phương án sử dụng tiền đền bù này hộ cũng vẫn có thể gặp rủi ro như ở phương án cũ. Nhưng họ cũng gặp rủi ro khác do nhiều nguyên nhân, đặ biệt là do thiếu hiểu biết về ngành nghề kinh doanh mới.
- Hộ đầu tư vào cho vay, gửi tiết kiệm và gặp rủi ro như: đầu tư tiền đền bù vào gửi tiết kiệm và bị rủi ro do lạm phát cao, do đối tượng vay không có khả năng trả nợ;….
* Rủi ro do đã sử dụng tiền đền bù chưa đúng mục đích: khi nhận được tiền đền bù hộ không sử dụng để đầu tư sản xuất kinh doanh, tiết kiệm, cho vay,…; mà đã sử dụng số tiền đó cho những mục đích khác ngoài sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Tất cả những việc sử dụng không có khả năng sinh lời tiền đền của hộ đó, đều làm giảm số tiền được đền bù của hộ và được coi là rủi ro của hộ. Việc sử dụng tiền này có thể nhằm vào một số mục đích chính sau:
-Hộ sử dụng tiền để xây nhà ở, xây dựng các công trình gia dụng, xây dựng mồ mả,...
- Hộ sử dụng tiền để mua sắm các vật dụng sử dụng trong gia đình
- Hộ sử dụng tiền để tiêu dùng sinh hoạt trong gia đình
- Hộ sử dụng tiền để đi chơi, du lịch, cờ bạc, lô đề,…
- Hộ sử dụng tiền để chữa bệnh, khắc phục hậu quả tai nạn,…
2.2.1.2. Theo mức độ thiệt tiền đền bù:
Khi gặp rủi ro, số tiền đền bù của hộ sẽ gặp thiệt hại. Căn cứ vào mức độ thiệt hại, đề tài phân loại thành những loại sau:
* Thiệt hại nhiều tiền đền bù: rủi ro làm cho tiền đền bù của hộ bị thiệt hại nặng, mất đi phần lớn số tiền đền bù của hộ (nhiều hơn 50% số tiền đền bù của hộ). Làm cho hộ gặp rất nhiều khó khăn, làm kiệt quệ kinh tế của hộ và khả năng khắc phục rủi ro là rất ít.
* Thiệt hại tiền đền bù ở mức trung bình: rủi ro làm thiệt hại số tiền đền bù của hộ, mức độ thiệt hại từ 30% đến 50% số tiền đền bù của hộ. Với mức thiệt hại như vậy, hộ tuy có gặp khó khăn, nhưng vẫn còn nhiều khả năng để khắc phục.
* Thiệt hại ít: rủi ro gây ra thiệt hại không nhiều đến tiền đền bù của hộ, khoảng dưới 30%. Với mức thiệt hại này, hộ có đôi chút khó khăn, nhưng khả năng khắc phục là rất lớn.
2.2.1.3. Theo nguyên nhân gây ra rủi ro
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong việc sử dụng tiền đền bù của hộ. Trong đề tài này, chúng tôi nhóm lại và phân ra thành những loại nguyên nhân chủ yếu sau:
* Nguyên nhân chủ quan: nhóm nguyên nhân này xuất phát từ phía con người hoặc các tổ chức của con người gây ra, bao gồm:
- Nguyên nhân xuất phát từ chính hộ và lao động của hộ: chất lượng, trình độ, tâm lý,…lao động của hộ quyết định rất nhiều trong việc sử dụng tiền đền bù của hộ hiệu quả. Mà như chúng ta đã biết, lao động ở khu vực nông thôn trình độ và chất lượng thường không được tốt. Điều đó đã làm cho việc sử dụng tiền ở hộ kém hiệu quả, tức là tăng them rủi ro cho hộ
- Nguyên nhân xuất phát chính quyền địa phương: các chính sách, các thủ tục, các hoạt động của chính quyền địa phương,…
- Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: doanh nghiệp cũng góp phần đáng kể trong việc tạo ra rủi ro đối với tiền đền bù của hộ, đặc biệt là trong việc hợp tác kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ
* Nguyên nhân khách quan: nhóm nguyên nhân này, con người khó kiểm soát như: các hiện tượng tự nhiên, sự thay đổi của các đồng tiền mạnh, sự tăng giá của các loại tài nguyên, đặc biệt là các nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh của hộ. Các rủi ro thuộc nhóm này thường nghiêm trọng và khó lường, thiệt hại từ các loại rủi ro này thường rất nhiều.
2.2.2. Phân loại rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp
Có nhiều cách phân loại rủi ro việc làm đối với hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp. Trong nghiên cứu này, chúng tôi phân loại theo những cách sau:
2.2.2.1. Theo ngành nghề:
Theo cách phân loại này, sẽ căn cứ vào tính chất của các loại hình công việc và nhóm lại với nhau thành từng loại có những tính chất chung, cơ bản giống nhau, bao gồm những loại như sau:
* Rủi ro đối với sản xuất – kinh doanh nông nghiệp: là những rủi ro xảy ra đối với hộ tham gia vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp làm cho lao động của hộ bị mất việc. Nhóm rủi ro này thường do các điều kiện thiên nhiên gây ra. Ví dụ: đầu tư vào chăn nuôi và gặp dịch bệnh, đầu tư vào trồng trọt và bị mất mùa,…làm thiệt hại trực tiếp đến việc đầu tư của hộ, làm giảm quy mô đầu tư, điều này đồng nghĩa với việc sự mất việc của lao động của hộ tăng lên
* Rủi ro đối với sản xuất – kinh doanh ngoài nông nghiệp: là rủi ro xảy ra đối với những hộ tham gia sản xuất kinh doanh không thuộc lĩnh vực nông nghiệp, làm cho lao động của hộ bị mất việc. Ví dụ: kinh doanh các mặt hàng tiêu dùng và gặp rủi ro làm cho quy mô sản xuât kinh doanh bị thu hẹp hoặc bị phá sản, và như vậy thất nghiệp sẽ gia tăng đối với lao động của hộ.
* Rủi ro đối với ngành nghề: là loại rủi ro xảy ra đối với những hộ làm các nghề truyền thồng, làm các nghề phụ,… làm cho lao động của hộ bị mất việc.
* Rủi ro đối với kinh doanh dịch vụ: là rủi ro xảy ra đối với hộ tham gia vào kinh doanh dịch vụ. Ví dụ: Đầu tư xây dựng nhà trọ, nhà nghỉ,… và các dịch vụ khác gặp rủi ro có thể là không có người thuê. Điều này đồng nghĩa với số công làm dịch vụ của lao động của hộ sẽ giảm đi và như vậy có nghĩa là rủi ro tăng lên.
2.2.2.2. Theo thời gian chịu rủi ro:
* Rủi ro làm thất nghiệp trong thời gian rất dài: là nhứng rủi ro làm cho lao động của hộ bị mất việc trên 6 tháng trong năm.
* Rủi ro làm thất nghiệp trong thời gian dài: là những rủi ro làm cho lao động của hộ mất việc từ 3 tháng tới 6 tháng trong năm.
* Rủi ro làm thất nghiệp trong thời gian trung bình: là rủi ro làm cho lao động của hộ mất việc từ 1 tháng đến dưới 3 trong năm.
* Rủi ro làm thất nghiệp trong thời ngắn: là rủi ro làm cho lao động bị mất việc dưới 1 tháng trong năm.
2.2.2.3. Theo mức độ xuất hiện rủi ro:
Theo cách phân loại này thì có 2 loại chính:
* Rủi ro xảy ra một lần trong năm: ở loại này, lao động của hộ sẽ bị mất việc liên tiếp rong một khoảng thời gian sau lại có việc trong khoảng thời gian còn lại của năm
* Rủi xảy ra nhiều lần trong năm: ở loại rủi ro này lao động của hộ sẽ bị mất việc nhiều lần trong một năm, khoảng thời gian mất việc và có việc sẽ xen kẽ lẫn nhau trong năm.
22.2.4. Theo nguyên nhân gây ra rủi ro:
Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro việc làm cho lao động của hộ. Trong nghiên cứu này chúng tôi phân loại thành 2 nhóm nguyên nhân chính sau:
* Nguyên nhân chủ quan: nhóm nguyên nhân này xuất phát từ phía con người hoặc các tổ chức của con người gây ra, bao gồm:
- Nguyên nhân xuất phát từ chính hộ và lao động của hộ: chất lượng, trình độ, tâm lý,…lao động của hộ quyết định rất nhiều đến khả năng tìm kiếm, tạo và làm việc. Nếu chất lượng, trình độ và khả năng làm việc tốt thì cơ hội việc làm cho lao động của hộ sẽ cao và ngược lại. Nhưng chúng ta đều biết, lao động của nông hộ thường có trình độ kém điều này sẽ làm cho rủi ro về việc làm sẽ gia tăng nếu không có những giải pháp hợp lý để khắc phục.
- Nguyên nhân xuất phát chính quyền địa phương: rủi ro này xuất hiện do sự thay đổi các chính sách, các thủ tục, các hoạt động của chính quyền địa phương,… đặc biết là các chính sách hướng nghiệp, dạy nghề. Cũng có thể rủi ro này xuất phát từ việc thực hiện các chính sách của chính quyền địa phương.
- Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: doanh nghiệp góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm cho lao động của hộ. Nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết với địa phương về giải quyết việc làm cho lao động địa phương, không nỗ lực tìm kiếm cơ hội kinh doanh, không hoạt động hiệu quả thì sẽ làm gia tăng rủi ro việc làm cho lao động địa phương.
* Nguyên nhân khách quan: nhóm nguyên nhân này, bao g ốm đau, bệnh tật,… làm cho lao động của hộ giảm khả năng làm việc, đồng nghĩa với việc thất nghiệp sẽ tăng.
2.3. Vai trò của việc nghiên cứu rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp.
Nghiên cứu rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất có vai trò rất quan trọng. Bởi vì:
* Nghiên cứu này đóng góp một phần quan trọng trong lý luận về rủi ro của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp.
* Nghiên cứu này là tiền đề để phát triển các nghiên cứu tiếp theo, nhằm tìm ra giải pháp hiệu quả nhất trong sử dụng tiền đền bù và giải quyết việc làm cho hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN
* Nghiên cứu này chỉ ra những rủi ro trong sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm mà hộ nông dân bị thu hồi đất gặp phải và nguyên nhân gây ra những rủi ro đó. Nhằm giúp cho: Chính quyền các cấp có cái nhìn chi tiết và toàn diện hơn về rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất. Để có những chính sách hợp lý giúp cho hộ hạn chế rủi ro có thể gặp phải; Giúp cho hộ và lao động có hộ hiểu biết hơn về rủi ro mà mình có thể gặp phải. Từ đó có những hành động hợp lý để hạn chế rủi ro.
* Nghiên cứu này đưa ra những giải pháp và khuyến nghị để giúp hạn chế rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN.
2.4. Đặc điểm rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp
2.4.1. Đặc điểm rủi sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp
Như trên đã trình bày, rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN là sự mất mát, thiệt hại tiền đền bù của hộ. Do đó, ta có thể thấy những đặc điểm chủ yếu như sau:
- Giảm tiền đền bù tuyệt đối: là sự giảm trực tiếp số tiền đền bù của hộ theo số tuyệt đối, và ta có thể dễ dàng quan sát trực tiếp được. Ví dụ: hộ nông dân nhận được tiền đền bù, hộ đã sử dụng tiền đó đi chơi cờ bạc, đi du lịch,…làm giảm trực tiếp lượng tiền đó.
- Giảm tiền đền bù tương đối: sự giảm này chúng ta khó quan sát trực tiếp được, bởi vì: số lượng tiền đền bù của hộ không bị giảm đi, nhiều khi có thể tăng lên, nhưng sự tăng này không bù đắp được sự trượt giá của tiền. Vì vậy, mặc dù lượng tiền đền bù của hộ không giảm trực tiếp, nhưng giá trị của lượng tiền đền bù đó không bằng trước được, tức là lượng tiền của hộ bị giảm. Ta có thể nhận biết được sự giảm này, thông qua sự so sánh giữ mức tăng của tiền đền bù với mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hoặc lạm phát. Ví dụ: hộ nông dân nhận được tiền đền bù, họ đem gửi ngân hàng với một tỷ lệ lãi suất nào đó, nhưng tỷ lệ lạm phát lại cao hơn tỷ lãi suất. Như vậy, mặc dù tiền đền bù của hộ vẫn tăng về số lượng nhưng thực tế lại bị giảm.
2.4.2. Đặc điểm của rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp
Chúng ta đã biết, rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiêp là sự mất việc làm của hộ. Chính vì vây, rủi ro này sẽ có đặc điểm chủ yếu là lao động của hộ bị thất nghiệp. Đặc điểm này cho thấy: lao động của hộ có thể bị thất nghiệp trong thời gian ngắn; hoặc có thể mất việc trong thời gian dài. Sự mất việc này có thể có hai biểu hiện: thứ nhất, mất việc liên tục trong một khoảng thời gian. Ví dụ: Hộ có việc làm liên tục trong 9 tháng liên tiếp, sau đó lại bị mất việc trong thời gian 3 tháng còn lại của năm; thứ hai, khoảng thời gian mất việc xen kẽ với có việc. Ví dụ: lao động có việc trong 2 tháng và bị mất việc 3 tuần, tiếp đó lại có việc, sau lại mất việc và cứ xen kẽ như vậy trong năm.
2.5. Nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nêu ra một số nhân tố chủ yếu sau:
2.5.1. Hộ và lao động của hộ
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ tới rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp. Chúng ta có thể thấy như sau:
Khi không còn hoặc còn rất ít đất đai, các hộ nông dân bị mất đất cho khu công nghiệp sẽ phải tìm cách mưu sinh bằng con đường mới như: làm công nhân, làm người cung cấp các dịch vụ,… nói chung họ phải thay đổi hoàn toàn hoặc phần nhiều cách sản xuất truyền thống. Lúc này, trình độ và sự nhận thức của họ sẽ quyết định rất nhiều đến tần số xuất hiện và mức độ của rủi ro xảy ra đối với họ. Nếu trình độ và nhận thức của họ tốt thì sẽ hạn chế được rủi ro xảy ra đối với họ rất nhiều và ngược lại. Bởi vì, nếu trình độ và nhận thức tốt thì họ sẽ có sự lựa chọn tốt hơn trong việc đầu tư tiền đền bù, họ sẽ có ý thức và hiểu biết nhiều hơn về việc làm và chọn việc làm. Như vây, sẽ hạn chế được rất nhiều những rủi ro không mong muốn như: sử dụng chưa đúng mục đích, lựa chọn công việc không có tính định hướng,…Hơn nữa, nếu trình độ của lao động của hộ tốt thì họ sẽ phản ứng nhanh hơn với sự thay đổi của chính sách, sự thay đổi của môi trường đầu tư và môi trường lao động, họ sẽ hạn chế tình trạng bị động, từ đó sẽ hạn chế được rủi ro.
2.5.2. Chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương có ảnh hưởng lớn tới rủi ro của hộ nông dân, đặc biệt là những hộ bị thu hồi đất giao cho KCN.
Khi bị mất đất, người dân phải tìm mọi cách để mưu sinh, nhưng trình độ và sự kém hiểu biết sẽ đẩy họ vào những rủi ro. Lúc này vai trò của chính quyền địa phương là cực kỳ quan trọng. Chính quyền địa phương sẽ hướng nghiệp cho họ, sẽ tuyên truyền cho họ hiểu biết hơn về những lĩnh vực để họ sẽ đầu tư sản xuất kinh doanh,…Sự quan tâm nhiều hay ít của chính địa phương sẽ ảnh hưởng mạnh tới mức độ thiệt hại mà rủi ro gây ra cho hộ
Khi bị thu hồi đất, hộ sẽ phải thu hẹp quy mô. Sự thu hẹp này sẽ kéo theo một bộ phận lao động phải mất việc. Lúc này họ sẽ phải tìm mọi cách để có việc làm, có thể đi làm thuê, có thể họ sẽ vào các doanh nghiệp để làm, hoặc có thể họ sẽ đi tìm những công việc khác. Khi đó, chính quyền địa phương sẽ có vai trò quan trọng trong việc định hướng việc làm cho hộ và lao động của hộ. Mọi sự nỗ lực của chính quyền địa phương đều có thể làm hạn chế rủi ro của hộ.
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương còn là người đứng ra bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho hộ và lao động của hộ. Nếu làm tốt được điều này, rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ sẽ được hạn chế hơn, khi họ vào các doanh nghiệp làm việc hoặc họ thực hiện liên doanh, liên kết.
2.5.3. Doanh nghiệp
Các doanh nghiệp ảnh lớn trong việc giải quyết việc làm cho lao động của hộ. Doanh nghiệp về đóng tại địa phương sẽ kèm theo cam kết sử dụng lao động địa phương, đào tạo nghề cho lao động của địa phương,… Nếu làm tốt được điều này, sẽ giải quyết được rất nhiều việc làm cho lao động của hộ. Từ đó, hạn chế được nhiều rủi ro về việc làm cho lao động của hộ. Tuy nhiên, nếu không làm tốt được điều này thì rủi ro việc làm đối với lao động của hộ sẽ nặng nề hơn.
Khi doanh nghiệp về địa phương, bên cạnh việc thực hiện cam kết sử dụng lao động của địa phương, họ có thể thực hiện hàng loạt các hợp đồng liên doanh, liên kết với hộ trong một số khâu của sản xuất, hoặc dịch vụ. Điều này, sẽ giúp giải quyết được việc làm cho rất nhiều lao động của hộ, đặc biệt là lao động lớn tuổi, hạn chế được tình trạng thất nghiệp ở hộ, tức là hạn chế được rủi ro việc làm cho lao động của hộ.
Doanh nghiệp về địa phương sẽ kéo theo rất nhiều lao độn._.g khác về địa phương, nhu cầu về các dịch vụ ở địa phương sẽ tăng. Điều này góp phần thúc đảy phát triển các dịch vụ ở địa phương. Từ đó góp phần hướng hộ sử dụng tiền đền bù đúng mục đích và cũng là giải quyết việc làm cho lao động của hộ. Tức là hạn chế rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm cho hộ.
2.5.4. Các nhân tố khác
Bên cạnh các nhân tố trên, còn nhiều nhân tố khác cũng ảnh hưởng tới rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ như: chính sách, lạm phát, tự nhiên,…
2.6. Nội dung nghiên cứu rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu nghiệp.
Nghiên cứu về hộ nông dân và rủi ro của hộ nông dân đã có nhiều nghiên cứu thực hiện, nghiên cứu này tập trung vào các nội dung chính đó là: thông tin về tình hình đất đai, nhân khẩu và lao động, thu nhập hiện tại của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp; Rủi ro sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp.
2.6.1. Nội dung nghiên cứu rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp
Để nghiên cứu nội dung này, đề tài tập trung làm rõ các nội dung sau:
* Thực trạng rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp, bao gồm:
- Rủi ro trong trương hợp đã sử dụng tiền đền bù đúng mục đich như: đầu tư vào phương án sản xuất cũ và găp rủi ro; đầu tư vào chuyển đổi ngành nghề sản xuất kinh doanh mới và gặp rủi ro; đầu tư cho vay, tiết kiệm và gặp rủi ro.
- Rủi ro sử dụng tiền đền bù chưa đúng mục đích như: mua và xây dựng nhà cửa; mua sắm vật dụng gia đình; ăn, tiêu, lô đề, cờ bạc,...; khám chữa bênh; chia cho con cháu, bị mất,…
* Rủi ro trong sử dụng tiền của nhóm hộ nông dân không bị mất đất.
* Nguyên nhân gây ra rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp, bao gồm 3 nhóm chính: nguyên nhân xuất phát từ phía hộ và lao động của hộ; nguyên nhân xuất phát từ phía chính quyền địa phương, nguyên nhân xuất phát từ phía doanh nghiệp.
* Giải pháp hạn chế rủi ro sử dụng tiền đên bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN
2.6.2. Nội dung nghiên cứu rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp.
* Thực trạng việc rủi ro làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp, bao gồm:
- Thực trạng rủi ro việc làm của hộ trước khi bị thu hồi đất
- Thực trạng rủi ro việc làm của hộ sau khi bị thu hồi đất
* Thực trạng rủi ro việc làm của nhóm hộ không mất đất
* Nguyên nhân gây ra rủi ro việc làm của hộ nông dân dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp, bao gồm 3 nhóm nguyên nhân chính: nguyên nhân xuất phát từ phía hộ và lao động của hộ; nguyên nhân xuất phát từ phía chính quyền địa phương; nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
* Giải pháp hạn chế rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN
2.7. Một số kinh nghiệm quản lý rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp.
2.7.1. Thất nghiệp ở Vĩnh Phúc năm 2005 và biện pháp khắc phục
Theo Báo điện tử VietNamNet(http//:www.vnn.vn) ngày 05/5/2005 thì: Thống kê của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Vĩnh Phúc, tính đến tháng 3 năm 2005, tỉnh này đã có hơn 18 nghìn hộ nông dân với gần 48 nghìn người trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất để xây dựng các khu, cụm công nghiệp và công trình công cộng. Tổng diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là 2.415 ha.
Thống kê cũng cho biết, mặc dù tỉnh Vĩnh Phúc đã đề ra các chính sách chuyển đổi ngành nghề, yêu cầu các doanh nghiệp thu nhận lao động địa phương bị thu hồi đất sau khi xây dựng nhà máy, nhưng do tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn thấp nên người dân mất đất rất khó tìm được việc làm. Ngược lại doanh nghiệp dù muốn cũng khó tuyển được lao động tại địa phương khi không đáp ứng đủ các yêu cầu. Điển hình như xã Quang Minh (huyện Mê Linh) đã bị thu hồi 650 ha đất cho phát triển công nghiệp (chiếm 73% diện tích đất nông nghiệp), nhưng mới chỉ có hơn 900 lao động tại chỗ được nhận vào làm việc (chiếm 11,4%). Hiện còn trên 7.000 người khác đang thất nghiệp do mất đất.
Để giải quyết tình trạng trên, Vĩnh Phúc đã đề ra chính sách, nếu doanh nghiệp sử dụng lao động chưa qua đào tạo tỉnh sẽ hỗ trợ kinh phí với mức 500 nghìn đồng/người. Bên cạnh đó là hỗ trợ các đơn vị dạy nghề và người lao động học nghề vào làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh; hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn; khuyến khích đưa lao động đi làm việc ngoài tỉnh theo chế độ mỗi lao động thuộc hộ có đất chuyển đổi mục đích sử dụng đi làm việc ở các tỉnh phía Bắc được hỗ trợ 300 nghìn đồng, đi miền Trung 500 nghìn đồng và đi miền Nam là 700 nghìn đồng.
Với những biện pháp trên, Vĩnh Phúc hy vọng mỗi năm sẽ giải quyết việc làm mới cho khoảng 20 nghìn lao động/năm. Đảm bảo cân bằng giữa thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp và đời sống nông dân bị thu hồi đất.
2.7.2. Khó khăn của hộ dân bị mất đất ở Hà Nội và giải pháp khắc phục
Theo http//:saigonhouses.com, trích từ VNN ngày 03/5/2008 thì: Trong 8 năm qua, TP.Hà Nội đã triển khai 2.818 dự án đầu tư liên quan đến thu hồi đất, bình quân trên 300 dự án/năm. Bình quân một năm, TP đã giải phóng mặt bằng gần 1.000ha, trong đó trên 80% là đất nông nghiệp, liên quan đến 178.205 hộ dân và bố trí tái định cư cho 13.044 hộ. Theo báo cáo của UBND TP.Hà Nội, các cơ chế chính sách của T.Ư và TP về hỗ trợ học nghề, tạo việc làm cho người dân nông nghiệp bị thu hồi đất chưa đồng bộ và hiệu quả, dẫn tới nguy cơ về mất việc làm, thất nghiệp rất lớn. Một bộ phận hộ gia đình nông dân sau khi bị thu hồi đất trên 30% đã trở thành hộ nghèo. Chính sách bồi thường, hỗ trợ mới quan tâm đến thiệt hại vật chất và được chi trả trực tiếp cho người dân, khiến người dân sử dụng khoản tiền này chưa hợp lý, ít quan tâm đến học nghề, chuyển đổi nghề và việc làm để đảm bảo ổn định cuộc sống khi Nhà nước thu hồi đất. Kết quả điều tra của Trường ĐH Kinh tế quốc dân cho thấy, người dân được đền bù sử dụng số tiền để xây nhà chiếm 57,5%; mua đồ dùng 8,72%; đầu tư cho sản xuất phi nông nghiệp 1,27%; gửi tiết kiệm 18% và học nghề 2,55%.
Trước thực trạng đó, TP.Hà Nội đã đưa ra các giải pháp thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế đi liền với chuyển đổi cơ cấu lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập, phát triển nông thôn, ổn định đời sống cho nhân dân vùng thu hồi đất:
Giải pháp đầu tiên được đưa ra là việc thành lập Quỹ Hỗ trợ ổn định đời sống, phổ cập giáo dục, học nghề và việc làm cho các hộ dân bị thu hồi trên 30% đất sản xuất nông nghiệp được giao theo Nghị định 64/CP.Theo đó, ngân sách TP cấp ban đầu là 50 tỉ đồng; trích 50% nguồn kinh phí hỗ trợ của các nhà đầu tư cho TP khi được giao đất; kêu gọi, vận động đóng góp của chủ đầu tư được giao đất sản xuất kinh doanh, dịch vụ... TP hỗ trợ trong 3 năm tiền học phí và tiền đóng góp cơ sở vật chất trường học cho học sinh ở độ tuổi phổ cập phổ thông ; hỗ trợ 100% kinh phí bảo hiểm y tế cho người trên 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi với nữ; trợ cấp khó khăn cho người già, cô đơn có hoàn cảnh đặc biệt, mức tương đương 30kg gạo/người/tháng. Ngoài ra, TP sẽ hỗ trợ học nghề một lần kinh phí đào tạo một nghề cho người trong độ tuổi lao động, có nhu cầu học nghề bằng hình thức cấp thẻ học nghề, nhưng không chi trực tiếp cho người học, với mức tối đa không quá 6 triệu đồng/thẻ.
Các giải pháp còn lại được UBND TP thực hiện là: Xây dựng, ban hành quy chế ưu tiên đấu thầu kinh doanh dịch vụ tại các khu đô thị, KCN dịch vụ mới hình thành; xã hội hoá các hoạt động dịch vụ tại các khu đô thị và KCN khi xây dựng trên diện tích đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng cho người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi được tham gia kinh doanh, ưu tiên cho lao động trong các hộ bị thu hồi trên 30% đất sản xuất nông nghiệp được giao; có cơ chế về đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn tại các khu vực thu hồi nhiều đất nông nghiệp (trên 30%) để tạo điều kiện kinh doanh dịch vụ, phục vụ các khu công nghiệp, đô thị, giải quyết việc làm tại chỗ, đồng thời đảm bảo sự gắn kết hạ tầng của khu đô thị và công nghiệp hiện đại với vùng dân cư cũ (thôn, xã, tổ dân phố, phường).
2.7. 3. Quảng Nam tạo việc làm cho nông dân lớn tuổi
Theo http//:www.nongdan.vn, thứ hai, 06/03/2006 thì: huyện Điện Bàn hiện có hàng ngàn hộ nông dân thuộc diện bị thu hồi đất sản xuất cho các dự án trong khu công nghiệp. Nông dân trẻ còn có cơ hội tìm việc làm trong khu công nghiệp, nhưng nông dân trên 40 tuổi rất khó khăn để chuyển đổi nghề. Công ty giày Ricker Việt Nam, đóng tại khu công nghiệp Điện Nam- Điện Ngọc đã có cách làm mới để tạo việc làm tại nhà cho số l nào động này bằng cách đưa một số công đoạn gia công về các hộ gia đình…Với cách làm này vừa tạo việc làm cho nông dân lớn tuổi, vừa đem lại thu nhập cho họ. “Trung bình mỗi đôi giày may gia công, người làm sẽ được trả công 4.000 đồng/đôi. Bất cứ nông dân nào cũng có thể làm được trong lúc rảnh rỗi. Mỗi ngày làm được 4-5 đôi là đã có thêm được 20-30 ngàn đồng”.
Sử dụng mô hình Nông dân dạy nông dân: Mô hình đào tạo nghề và tạo việc làm cho nông dân của Công ty giày Ricker Việt Nam khá hiệu quả. Công ty này phối hợp với Ban quản lý KCN Điện Nam - điện Ngọc mở các lớp tập huấn kỹ thuật may giày cho 70 nông dân nòng cốt vốn là các trưởng thôn, bí thư đoàn, hội trưởng nông dân, phụ nữ... Các chuyên gia của Công ty hướng dẫn rất kỹ lưỡng và đưa ra những yêu cầu khắt khe về kỹ thuật may giày xuất khẩu. Khi những "nòng cốt" này vững tay nghề, họ sẽ về địa phương truyền nghề lại cho những nông dân có nhu cầu. Với cách dạy nghề dây chuyền như thế, đến nay đã có hàng trăm nông dân học được cách may mũ giày vào đế- công đoạn gia công quan trọng nhất.
Việc đưa một phân đoạn sản xuất ra ngoài cho nông dân thực hiện... đồng nghĩa với việc chấp nhận rủi ro trong trường hợp nông dân làm chưa đạt yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật vốn rất khắt khe đối với việc sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Thế nhưng đây là một cách hiệu quả nhất để tạo việc làm cho những nông dân lớn tuổi bị thu hồi đất nông nghiệp.
2.7.4. Chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết việc làm cho hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá và đô thị hoá ở Việt Nam[13]
Việt Nam là nước có gần 80% số dân sống bằng nông nghiệp và sống ở nông thôn, do vậy, các chính sách về đất đai của Đảng và Nhà nước có ảnh hưởng trực tiệp đến thái độ, tâm trạng, tính tích cực hoạt động của nông dân.
Về vấn đề đất đai, giải pháp đối với hộ nông dân không còn đất sản xuất, cần giải quyết một số chính sách, biện pháp cụ thể sau đây:
Một là, trước tình trạng nông dân thiếu đất sản xuất ngày càng có xu hướng tăng, việc giao đất không chỉ dừng lại ở việc ưu tiên cho người hộ khẩu trong vùng, khu vực, địa phương, mà có thể mở rộng cho các đối tượng nghèo không có ruộng trong cả nước với những biện pháp quản lý chặt chẽ về mặt pháp lý. Đối với vùng đất rừng, đồi núi, tiện đường giao thông, có kết cấu hạ tầng tương đối tốt, nên giao cho hộ nông dân chưa có ruộng đất. Hội Nông dân các cấp tiếp tục vận động hội viên, nông dân nâng cao nhận thức và thi hành luật pháp nói chung và luật đất đai nói riêng. Hội chủ động phối hợp với chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở địa phương để hoà giải, giải quyết các vấn đề mâu thuẫn phát sinh trong nông thôn, nhất là những vấn đề về đất đai.
Hai là, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không sinh sôi nảy nở thêm. Vì vậy, phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có hiệu quả, nâng cao độ phì của đất, bồi bổ đất, để đất ngày càng có hiệu quả kinh tế cao. Phải sử dụng đất tiết kiệm, hạn chế sử dụng đất 2 vụ lúa vào xây dựng khu công nghiệp, đô thị. Quy hoạch khu công nghiệp và đô thị vào đất đồi, bãi đầm lầy (đất địa tô chênh lệch thấp), nơi xa đô thị, xa trung tâm thì mở đường giao thông và chuyển các dịch vụ về gần với nông thôn, nông dân hơn. Thật cần thiết mới sử dụng đến đất tốt, đất trồng cây lương thực.
Quy hoạch sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới cần thông báo sớm, một cách công khai để cho nhân dân được biết. Các cấp uỷ, chính quyền, các đơn vị nhận đất cần phối hợp với các đoàn thể nhân dân, trong đó Hội Nông dân các cấp là nòng cốt để tiến hành các thủ tục cần thiết và tuyên truyền các chủ trương của Đảng, Nhà nước về đất đai, nhằm hạn chế việc khiếu kiện trong nhân dân. Việc thu hồi đất nên theo nguyên tắc: nhu cầu đất đến đâu thì thu hồi đất đến đó. Đền bù, giải phóng mặt bằng theo giá của Nhà nước quy định và tính đến yếu tố giá cả thị trường trong từng thời điểm nhất định, theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân, cho người có đất bị thu hồi.
Ba là, tổ chức tốt việc tái định cư cho hộ nông dân sau khi thu hồi đất đến ở các vùng xen kẽ với các hộ dân trong làng, xã (nếu còn quỹ đất sản xuất), tạo cơ hội cho họ có đất đồi rừng hoặc một phần đất sản xuất của nông dân khác nhường lại, giúp họ yên tâm sản xuất. Các khu tái định cư cũng nên gần làng quê, dòng họ của các hộ nông dân đã sống, gắn bó nhiều đời.
Bốn là, Đối với hộ nông dân không còn đất sản xuất, hoặc ít đất, không đủ để sản xuất ra các sản phẩm bảo đảm cho cuộc sống gia đình, các cấp uỷ, chính quyền các cấp, các đoàn thể nhân dân cần quan tâm, chăm lo, tạo điều kiện cho họ có việc làm mới để có thu nhập ngay trên địa bàn như: chuyển nghề mới, cho họ vào làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp ngay trên mảnh đất họ đã giao cho Nhà nước hoặc trong vùng với phương châm: “Ly nông bất ly hương”. Nhà nước giao cho Hội Nông dân chủ trì phối hợp với các ngành để đào tạo nghề mới miễn phí cho nông dân, để họ có thể chuyển sang lao dộng trong lĩnh vực khác. Cải cách chính sách cho vay vốn ưu đãi để họ chuyển nghề ưu tiên con cái họ về học tập, công ăn, việc làm sau khi ra trường. Hội nông dân cấn phối hợp với chính quyền, các doanh nghiệp được giao đất vận động nông dân dùng tiền đền bù đất tham gia đóng góp cổ phần vào xí nghiệp, nhà máy trên vùng đất của họ trước đây hoặc giúp đỡ, hỗ trợ họ sử dụng vốn hiệu quả, đầu tư sản xuất vào nghề mới. Các hộ nông dân có nhu cầu tới các vùng quê khác, cần có chính sách hỗ trợ trong việc di dân, định canh, định cư. Hội Nông dân Việt Nam, đại diện lợi ích thiết thực của giai cấp nông dân cần tham gia tích cực để vận động, tư vấn, giúp đỡ hội viên, nông dân nói chung và hộ nông dân thiếu đất hoặc không còn đất nói riêng, nhằm tạo cơ hội tốt cho nông dân tham gia tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn .
2.7.5. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho hộ nông dân bị thu hồi đất của Trung Quốc [18]
Trung Quốc là một quốc gia có điều kiện về tự nhiên và nhân văn tương đối giống Việt Nam. Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, với trên 1,3 tỷ dân nhưng gần 70% dân số vẫn còn ở khu vực nông thôn, hàng năm có tới hơn 10 triệu lao động đến độ tuổi tham gia vào lực lượng lao động xã hội nên yêu cầu giải quyết việc làm trở nên gây gắt. Trước đòi hỏi bức bách của thực tế, ngay từ năm 1978, sau khi cải cách và mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc thực hiện phương châm: “ Ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất nhập thành” thông qua chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ công nghiệp Hưng Trấn nhằm phát triển và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở nông thôn, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Coi việc phát triển công nghiệp nông thôn là con đường để giải quyết vấn đề việc làm.
Từ năm 1978 đến năm 1991, Trung Quốc có tới 19 triệu xí nghiệp Hưng Trấn, thu hút 96 triệu lao động bằng 13,8% lực lượng lao động ở nông thôn, tạo ra giá trị tổng sản lượng 1.162 tỷ Nhân Dân Tệ chiếm 60% giá trị sản phẩm khu vực nông thôn, 1/3 giá trị sản lượng công nghiệp, 1/4 GDP cả nước. Nhờ phát triển công nghiệp nông thôn mà tỷ trọng lao động nông nghiệp đã giảm từ trên 70% năm 1978 xuống dưới 50% năm 1991. Bình quân trong 10 năm từ 1980 đến 1990, mỗi năm các xí nghiệp Hưng Trấn của Trung Quốc thu hút khoảng 12 triệu lao động dư thừa từ nông nghiệp .
Từ thực tiễn phát triển công nghiệp và giải quyết việc làm ở nông thôn Trung Quốc thời gian qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
– Thực hiện chính sách đa dạng hoá và chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông thôn, khuyến khích nông dân đầu tư dài hạn phát triển sản xuất nông nghiệp và mở mang các hoạt động phi nông nghiệp. Đây là nhân tố quan trọng nhất tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu hút lao động vào các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp khác nhau ở nông thôn.
– Tạo môi trường thuận lợi để công nghiệp nông thôn phát triển. Vào giai đoạn đầu của quá trình CNH – HĐH nông thôn, nhà nước thực hiện bảo hộ sản xuất hàng trong nước, hạn chế ưu đãi đối với doanh nghiệp công nghiệp nhà nước, qua đó tạo ra sân chơi bình đẳng hơn cho doanh nghiệp nông thôn.
– Nhà nước thực hiện chính sách hạn chế di chuyển lao động giữa các vùng nên lao động bị bó chặt ở nông thôn. Việc hạn chế di chuyển lao động giữa các vùng đã làm cho các doanh nghiệp ở nông thôn có vị trí độc quyền
trong việc trả lương, khai thác về lương giữa nông thôn và thành thị cũng như những chênh lệch về năng suất lao động giữa sản xuất nông nghiệp và các doanh nghiệp phi nông nghiệp nông thôn.
PHẦN 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Vài nét về Khu công nghiệp Phố Nối B – Hưng Yên
Vị trí địa lý: Nằm kề cận phía nam Quốc lộ 5, bên trục đường 39A, cách trung tâm Hà Nội 32 km, cách cảng Hải Phòng 70 km.
Tổng diện tích mặt bằng 340 ha thuộc địa phận các xã: Nghĩa Hiệp, Liêu Xá (Yên Mỹ) và Dị Sử (Mỹ Hào).
Sự hình thành:
- Ban đầu, năm 2004 UBND tỉnh cấp phép hoạt động cho Công ty Phát triển hạ tầng Dệt May Phố Nối - Tổng Công ty Dệt May Việt Nam làm chủ đầu tư với quy mô diện tích giai đoạn I là 25 ha. Thi công chủ trên xã Nghĩa Hiệp.
- Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định điều chỉnh KCN Phố Nối B lên 155 ha nằm trên diện tích các xã: Nghĩa Hiệp, Liêu Xá (Yên Mỹ) và Dị Sử (Mỹ Hào).
- Năm 2007, KCN này tiếp tục được điều chỉnh từ 155 ha lên 260 ha, vẫn nằm trên địa bàn 4 xã như trên.
- Năm 2008, KCN Phố Nối B – Hưng Yên đã được điều chỉnh diện tích lên 340 ha, gồm 2 KCN là: KCN dệt may Phố Nối B với 120 và KCN Thăng Long II với 240 ha, được đặt trên địa bàn 2 huyện và 4 xã nêu trên.
3.2. Đặc điểm xã Nghĩa Hiệp:
3.2.1. Vị trí địa lý
- Phía Đông giáp xã Liêu Xá và xã Ngọc Long
- Phía Tây giáp huyện Mỹ Hào Quốc lộ 5
- Phía Nam giáp xã Giai Phạm
- Phía Bắc giáp xã Dị Sử, huyện Mỹ Hào
3.2.2. Điều kiện tự nhiên
Nhìn vào Bảng 3.1 ta thấy, tổng diện tích tự nhiên của xã là 322,79 ha, trong đó: đất nông nghiệp 152,21 ha chiếm 47,15%, đất phi nông nghiệp 168,97 ha chiếm 52,35 ha, đất chưa sử dụng của xã là 1,61 ha chiếm 0,5%.
Bảng 3.1: Đất đai của xã Nghĩa Hiệp
ĐVT: ha
STT
Loại đất
Số lượng
Cơ cấu
Tổng diện tích đất tự nhiên
322,79
100,00
I
Đất nông nghiệp
152,21
47,15
1
Đất trồng cây hàng năm
140,71
92,44
2
Đất trồng cây lâu năm
3,00
1,97
3
Đất nuôi trồng thủy sản
8,50
5,58
II
Đất phi nông nghiệp
168,97
52,35
1
Đất chuyên dùng
125,48
74,26
Đất phát triển công nghiệp
78,49
62,55
2
Đất ở
28,06
16,61
3
Đất phi nông nghiệp khác
15,43
9,13
III
Đất chưa sử dụng
1,61
0,50
(Nguồn: Ban thống kê – xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên)
Trong cơ cấu đất nông nghiệp, diên tích đất trồng cây hàng năm là chủ yếu, với 140,71 ha chiếm 92,44%; đất nuôi trồng thủy sản 8,5 ha chiếm 5,58%, diện tích này chủ yếu là các trang trại mới chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Trong diện tích đất nông nghiệp của xã, diện tích đất chuyên dung khá lớn 125,48 ha chiếm 74,26%, phần lớn diện tích đất chuyên dung là đất phát triển công nghiệp với 79,48 ha chiếm 62,55% diện tích đất chuyên dung.
3.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội
3.2.3.1. Dân số và lao động
Nhìn vào bảng 3.2 ta thấy: cho tới năm 2007, toàn xã có 4.806 khẩu, trong đó: nam 2.290 khẩu chiếm 47,65%, nữ 2.516 khẩu chiếm 52,35%. Tỷ lệ nữ cao hơn nam khá nhiều 4,7%.
Bảng 3.2: Nhân khẩu và lao động của xã Nghĩa Hiệp năm 2007
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Số lượng
Cơ cấu
I
Tổng dân số
Người
4.806
100,00
Nữ
Người
2.516
52,35
Nam
Người
2.290
47,65
II
Tổng lao động
Lao động
2.265
100,00
Nữ
Lao động
1.177
51,96
Nam
Lao động
1.088
48,04
1
Lao dộng nông nghiệp
Lao động
1.615
71,30
2
Lao động phi nông nghiệp
Lao động
650
28,70
III
Tổng số hộ
Hộ
1.185
100,00
1
Hộ nông nghiệp
Hộ
800
67,51
2
Hộ khác
Hộ
385
32,49
IV
Một số chỉ tiêu phân tích
1
Bình quân nhân khẩu của hộ
người/hộ
4,06
2
Bình quân lao động của hộ
lao động/hộ
1,91
3
Bình quân lđ phi nông nghiệp/ hộ
lao động/hộ
0,55
(Nguồn: Ban thống kê – xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên)
Tổng lao động của xã 2.265 lao động, trong đó: nam 1.088 chiếm 48,04%, nữ 1.177 chiếm 51,96%. Lao động của xã chủ yếu là lao động nông nghiệp 1.615 lao động, chiếm 71,30%, lao động phi nông nghiệp của xã cũng khá nhiều 650 lao động chiếm 28,70%.
Toàn xã có 1.185 hộ, trong đó: hộ nông nghiệp là chủ yếu với 800 hộ, chiếm 67,51%, các nhóm hộ khác (hộ phi nông nghiệp) 385 hộ chiếm 32,49%.
Nhìn vào các chỉ tiêu, ta thấy: Bình quân nhân khẩu/hộ 4,06 người/hộ, trong khi đó bình quân lao động/ hộ 1,91%. Điều này có nghĩa, một lao động phải làm ra của cải vật chất để nuôi mình và nuôi thêm hơn 2 người nữa (nếu coi những người không thuộc tuổi lao động là không làm ra của cải ).
Bình quân lao động phi nông nghiệp/ hộ rất thấp chỉ có 0,55 người/ hộ. Nghĩa là cứ 2 hộ thì mới có hơn 1 lao động phi nông nghiệp.
3.2.3.2. Tình hình kinh tế
Nhìn vào bảng 3.3. ta thấy: tổng giá trị sản xuất của xã Nghĩa Hiệp năm 2007 đạt 39 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng kinh tế 14%.
* Ngành nông nghiệp:
+ Trồng trọt giá trị sản xuất đạt 10,53 tỷ đồng, chiếm 27% tổng giá trị sản xuất. Diện tích gieo trồng lúa của xã là 375 mẫu, được gieo trồng cả hai vụ mùa và chiêm, tổng sản lượng lúa của 2 vụ đạt 15.795 tấn lương thực. Sản lượng hoa màu của xã quy đổi đạt hơn 100 tấn.
+ Chăn nuôi: Tổng đàn trâu bò của xã có 65 con, đàn lợn có 3270 con, gia cầm có 6430 con. Sản lượng cá đạt 24.840 kg. Tổng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi của xã ước tính khoảng 4.510 triệu đồng.
Bảng 3.3: Cơ cấu kinh tế của xã Nghĩa Hiệp năm 2007
ĐVT: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
Giá tị sản xuất
Cơ cấu
1
Nông nghiệp
10,53
27,00
2
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
12,09
31,00
3
Thương mại và dịch vụ
16,38
42,00
Tổng giá trị sản xuất
39,00
100,00
(Nguồn: Ban thống kê – xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên)
* Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: giá trị sản xuât đạt 12,09 tỷ đồng chiếm 31% tổng giá trị sản xuất của xã. Đến nay, xã đã có 13 doanh nghiệp vào hoạt động, thu hút 607 lao động của địa phương vào làm việc. Các ngành nghề chủ yếu của xã là làm cốt mũ, đậu phụ, xay sát, mộc, nề, gò, hàn.
* Thương mại và dịch vụ: giá trị sản xuất đạt 16,38 tỷ đồng chiếm 42% tổng giá trị sản xuất. Năm 2007 toàn xã có 314 hộ làm thương mại dịch vụ, trong đó: 97 hộ kinh doanh thương mại, 142 hộ kinh doanh dịch vụ nhà ở, 75 hộ dịch vụ ăn uống và dịch vụ khác.
3.3. Phương pháp nghiên cứu:
3.3.1. Xác định địa điểm nghiên cứu:
Đề tài chúng tôi sẽ chọn xã Nghĩa Hiệp để điều tra nghiên cứu vì:
Thứ nhất: Ban đầu KCN Phố Nối B thu hồi đất chủ yếu ở đây, sau đó mở rộng quy hoạch thì mới thu hồi đất ở xã khác. Nói cách khác, đây là nơi khởi nguồn của KCN Phố Nối B. Vì vậy, có thể quan sát rủi ro sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm của hộ nông dân toàn diện hơn.
Thứ hai: Những hộ nông dân ở đây bị mất đất nhiều, họ không chỉ mất cho KCN Phố Nối B mà còn mất cho nhiều doanh nghiệp mọc quanh đó. Nên cùng họ chịu ảnh hưởng của cả KCN và các doanh nghiệp. Vì vậy, họ sẽ chịu nhiều rủi ro hơn
Mặc dù đề tài chọn điểm nghiên cứu là xã Nghĩa Hiệp, nhưng chúng tôi vẫn tiến hành quan sát ở các xã khác để nhìn nhận tốt hơn về vấn đề nghiên cứu.
3.3.2. Xác định đối tượng nghiên cứu:
* Những hộ bị thu hồi đất nông nghiệp giao cho KCN Phố Nối B – Hưng Yên và tập trung chủ yếu vào những hộ nông dân bị mất đất ở xã Nghĩa Hiệp
* Những hộ đại diện cho nhóm hộ không bị thu hồi để làm cơ sở so sánh
3.3.3. Thu thập tài liệu
3.3.3.1. Thu thập tài liệu thứ cấp
Thu thập thông tin thứ cấp sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
Thông tin lý luận về rủi ro, quản lý rủi ro, lý luận về rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp
Thông tin về tình hình thu hồi đất giao cho khu công nghiệp của cả nước, của Hưng Yên và của Khu công nghiệp Phố Nối B.
Thông tin về rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm và các biện pháp giảm thiểu rủi ro của Việt Nam và thế giới
Thông tin khác có liên quan tới nghiên cứu của đề tài.
3.3.3.2. Thu thập tài liệu sơ cấp
a. Chọn mẫu điều tra
Trong đề tài này, chúng tôi tiến hành điều tra 120 hộ đại diện ở xã Nghĩa Hiệp trong đó:
- Chọn ra 30 hộ bị mất ít đất (dưới 30%)
- Chọn ra 30 hộ bị mất ở mức trung bình (từ 30% đến dưới 50% )
- Chọn ra 30 hộ bị mất đất nhiều (từ 50% trở lên)
- Chọn ra 30 hộ không bị mất đất, việc chọn này dùng để làm cơ sở so sánh với những hộ bị mất đất.
Việc đề tài chọn mẫu theo tiêu chí hộ mất đất dưới 30%, từ 30% đến 50% và trên 50% là dựa trên sự quan sát thực tế ở địa phương trong nước đã phân loại và đặc biệt là căn cứ vào thực tế của địa phương. Đó là: hộ mất đất dưới 30%, tuy có bị mất đất, nhưng diện tích bị mất nhỏ, ít ảnh hưởng tới phương án sản xuất hiện tại của hộ, và việc điều chỉnh quy mô sản xuất của hộ không khó; hộ mất đất từ 30% đến 50%, loại hộ này mất khá nhiều đất, ảnh hưởng nhiều đến phương án sản xuất hiện tại của hộ, việc điều chỉnh phương án sản xuất của hộ theo quy mô diện tích bị giảm là khó; hộ bị mất đất trên 50%, loại hộ này bị mất phần lớn diện tích đất sản xuất, kinh doanh hiện có, việc điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh của hộ theo quy mô diện tích còn lại rất khó, hộ đứng trước nguy cơ lớn phải chuyển đổi phương án sản xuất kinh doanh ,… Tóm lại, việc chọn mẫu của đề tài như trên, là căn cứ vào sự khác biệt trong ảnh hưởng của việc mất đất đối với hộ.
Trong quá trình chọn mẫu điều tra, đề tài sẽ chú ý nhiều đến việc đưa các hộ nghèo theo tiêu chí phân loại của địa phương để điều tra, nhằm tạo ra cái nhìn toàn diện hơn về rủi ro của các hộ dân do bị mất đất.
b. Tổ chức điều tra
Điều tra hộ thông qua phiếu phỏng vấn
Nội dung của phiếu phỏng vấn nhằm làm rõ các nội dung sau:
+ Thông tin cơ bản về hộ: nhân khẩu, lao động, việc làm, văn hóa,….
+ Tình hình tài sản của hộ và điều kiện sống của hộ
+ Thông tin về thu nhập của hộ
+ Thông tin về thực trạngmất đất của hộ
+ Thông tin về rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ.
+ Thông tin khác có liên quan tới đề tài
Phỏng vấn trực tiếp: đề tài sẽ tiến hành phỏng vấn trực tiếp người dân bị thu hồi đất theo các đối tượng đã phân loại của đề tài, phỏng vấn người dân không bị thu hồi đất, cán bộ xã nơi KCN nằm trên.
Thảo luận nhóm: đề tài sẽ tiến hành phân nhóm các hộ dân và tiến hành thảo luận nhóm, nhằm thu thập chính xác hơn, đầy đủ hơn các thông tin về rủi ro của hộ.
3.3.4. Phương pháp phân tích đánh giá
3.3.4.1. Phương pháp xử lý thông tin
Số liệu thu thập được xử lý bằng chương trình Excel
3.3.4.2. Phương pháp thống kê
Nghiên cứu sử dụng các phương pháp của thống kê: phân tổ, số tuyệt đối, số bình quân, phương pháp so sánh, mô tả,…nhằm:
- Mô tả các thông tin chung về hộ như: đất đai, nhân khẩu – lao động và thu nhập của hộ.
- Mô tả thực trạng rủi ro sử dụng tiền, rủi ro sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất.
- Mô tả thực trạng rủi ro sử dụng tiền, rủi ro việc làm của hộ nông dân không bị thu hồi đất.
- So sánh rủi ro sử dụng tiền và rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất so với hộ nông dân không bị thu hồi đất.
- So sánh rủi ro việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất theo tiêu trí trước khi bị thu hồi đất và sau khi bị thu hồi đất.
3.3.4.3. Phương pháp phân tích SWOT
Là việc phân tích dựa trên điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của địa phương, của nhóm hộ để tiến hành phân tích. Việc nhìn nhận điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức sẽ được tham khảo rộng qua các chuyên gia, qua so sánh với tình hình chung trong nước và qua việc nhận xét của người dân địa phương.
3.3.4.4. Các chỉ tiêu phân tích
* Tỷ lệ diện tích của từng loại đất đai: là tỷ lệ phần trăm của từng loại đất so tổng số đất đai.
- Tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp là tỷ lệ phần trăm của đất nông nghiệp so với tổng diện tích đất.
- Tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là tỷ lệ phần trăm của đất nông nghiệp bị thu hồi so với tổng đất nông nghiệp.
* Bình quân diện tích đất đai của hộ là tỷ lệ giữa tổng lượng đất đai chia cho tổng số hộ
- Bình quân diện tích đất đất nông nghiệp còn lại của hộ là tỷ lệ giữa lượng đất nông nghiệp còn lại chia cho tổng số hộ
- Bình quân diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là tỷ lệ giữa lượng đất nông nghiệp bị thu hồi chia cho tổng số hộ
* Lượng tiền đền bù đât đai =
Trong đó: - Pi là giá đền bù cho một đơn vị diện tích loại đất i
- Bi là diện tích loại đất i bị thu hồi
* Bình quân nhân khẩu của hộ là tỷ lệ giữa tổng nhân khẩu chia cho tổng số hộ
* Bình quân lao động của hộ là tỷ lệ giữa tổng lao động chia cho tổng số hộ.
* Tổng thu nhập của hộ là tổng cộng toàn bộ các nguồn thu nhập của hộ
* Thu nhập bình quân của hộ là tỷ lệ giữa tổng thu nhập chia cho tổng số hộ
- Thu nhập bình quân từ nông nghiệp của hộ là tỷ lệ giữa tổng thu nhập từ nông nghiệp chia cho tổng số hộ
- Thu nhập bình từ hoạt động phi nông nghiệp của hộ là tỷ lệ giữa tổng thu nhập từ phi nông nghiệp chia cho tổng số hộ.
* Tỷ lệ hộ gặp rủi ro là tỷ lệ phần trăm giữa số hộ gặp rủi ro so với tổng số hộ
* Tỷ lệ rủi ro sử dụng tiền đền bù là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền bị rủi ro so với tổng số tiền sử dụng.
- Tỷ lệ rủi ro trong việc đã sử dụng tiền đền bù đúng mục đích là tỷ lệ phần trăm giữa lượng tiền bị thiệt hại do rủi ro trong việc đã sử dụng tiền đền bù đúng mục đích gây ra so với tổng lượng tiền đền bù đã sử dụng
- Tỷ lệ rủi ro trong việc đã sử dụng tiền đền bù chưa đúng mục đích là tỷ lệ phần trăm giữa lượng tiền đền bù đã sử dụng chưa đúng mục đí._.g bị mất việc từ 3-6 tháng, chiếm 15% và chiếm 9,84% tổng số lao động của nhóm hộ; có 3 lao động bị mất việc trên 6 tháng, chiếm 7,5% và chiếm 4,92% tổng số lao động của nhóm hộ. Như vậy, tỷ lệ lao động bị mất việc từ 3 tháng đến 6 tháng của nhóm hộ rất cao. Đặc biệt hơn tỷ lệ lao động bị mất việc trên 6 tháng rất cao so với 2 nhóm hộ còn lại. Điều đó phần nào cho ta hình dung được tình trạng thất nghiệp của hộ do bị mất nhiều đất. Để có cái nhìn rõ hơn về rủi ro của các hộ bị mất đất chúng ta tìm hiểu rủi ro việc làm của nhóm hộ không mất đất.
4.3.2. So sánh rủi ro việc của nhóm hộ điều tra
4.3.2.1. Rủi ro việc làm của hộ mất đất – hộ không mất đất
Nhìnvào bảng 4.7 chúng ta thấy: Bình quân hộ gặp rủi ro của nhóm hộ mất đất là 26 hộ, chiếm 86,67%, trong khi cùng chỉ tiêu này ở nhóm hộ không mất đất chỉ là 13 hộ, chiếm 43,33%.
Bảng 4.7: So sánh rủi ro việc làm
của nhóm hộ mất đất và nhóm hộ không mất đất
STT
Chỉ tiêu
Hộ mất đất
Hộ không mất đât
Số lượng
Cơ cấu
Số lượng
Cơ cấu
A
Tổng số hộ điều tra
30,00
100,00
30
100,00
1
Số hộ gặp rủi ro
26,00
86,67
13
43,33
2
Số hộ không gặp rủi ro
4,00
13,33
17
56,67
II
Tổng số lao động của hộ
60,67
100,00
63
100,00
1
Số lao động không gặp rủi ro
30,67
50,55
48
76,19
2
Số lao động gặp rủi ro
30,00
49,45
15
23,81
III
Mức độ của rủi ro
1
Mất việc dưới 1 tháng
11,33
37,78
3
20,00
2
Mất việc từ 1- 3 tháng
12,67
42,22
11
73,33
3
Mất việc từ 3 - 6 tháng
4,67
15,56
1
6,67
4
Mất việc trên 6 tháng
1,33
4,44
0
-
(Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra)
Ta thấy số hộ gặp rủi ro của loại hộ bị mất đất cao gấp hai lần của hộ không mất đất. Số lao động gặp rủi ro của nhóm hộ bị mất đất 30 lao động, chiếm 49,45%; trong khi đó số lao động gặp rủi ro của nhóm hộ không mất đất chỉ có 15 lao động, chiếm 23,38%. Như vậy, số tuyệt đối thì số lao động gặp rủi ro của nhóm hộ mất đât gấp hai lần của nhóm hộ không bị mất đất; nhưng số tương đối lại gấp hơn hai lần.
Về mức độ rủi ro: bình quân lao động mất việc dưới 1 tháng của nhóm hộ bị mất đất 11,33 lao động, chiếm 37,78% và chiếm 21,97% tổng số lao động của nhóm hộ này; cùng chỉ số này ở nhóm hộ không mất đất là 3 lao động, chiếm 20% số lao động gặp rủi ro và chiếm 4,76% tổng lao động của nhóm hộ này. Về số tuyệt đối lao động bị mất việc của nhóm hộ bị mất đất nhiều hơn của hộ không mất đất hơn 8,33 lao động; còn về tỷ lệ hơn 12,96%. Số lao động bị mất việc từ 1-3 tháng của hộ bị mất đất 12,67 lao động, và chiếm 42,23% và chiếm 20,88% tổng số lao động; cùng chỉ tiêu này ở hộ không mất đất là 11 lao động, chiếm 17,46%. Về cả số tuyệt đối và số tương đối, chỉ tiêu này của nhóm hộ bị mất đất đều cao hơn của nhóm hộ không mất đất. Bình quân lao động bị mất việc từ 3-6 tháng của nhóm hộ bị mất đất là 4,67 lao động, chiếm 15,56% và chiếm 7,70% tổng lao động của nhóm hộ; cùng chỉ tiêu này ở nhóm hộ không mất đất là 1 lao động, chiếm 1,59%. Bình quân lao động bị mất việc trên 6 tháng của nhóm hộ bị mất đất 1,33 lao động, chiếm 4,40% và chiếm 2,20% tổng số lao động của nhóm hộ này; chỉ tiêu này ở nhóm hộ không mất đất là 0.
Tóm lại, thông qua những phân tích trên ta thấy, nhóm hộ bị mất đất gặp rủi ro về việc làm lớn hơn rất nhiều hộ không mất đất. Nói cách khác, do việc mất đất đã làm cho các hộ nông dân gặp rủi ro về việc làm, tăng tỷ lệ thất nghiệp cho lao động của họ. Theo dõi bảng 4.7 ta thấy tỷ lệ mất việc từ 3 tháng trở xuống gần 40%; tỷ lệ mất việc từ 3-6 tháng của nhóm hộ bị mất đất cao hơn 5 lần tỷ lệ này của nhóm hộ không bị mất đất.
4.3.2.2. Rủi ro việc làm trước và sau khi mất đất của nhóm hộ mất đất
Nhìn vào bảng 4.8 ta thấy: trước khi mất đất, số hộ gặp rủi ro là 34 hộ, chiếm 37,78%; sau khi mất đất, số hộ gặp rủi ro là 78, chiếm 86,67% tăng gấp hơn 2 lần so với trước khi mất đất.
Bảng 4.8: So sánh rủi ro việc làm trước khi mất đất và sau khi mất đất
của nhóm hộ mất đất
STT
Chỉ tiêu
Hiện nay
Trước khi có KCN
Số lượng
Cơ cấu
Số lượng
Cơ cấu
A
Tổng số hộ điều tra
90
100,00
90
100,00
1
Số hộ gặp rủi ro
78
86,67
34
37,78
2
Số hộ không gặp rủi ro
12
13,33
56
62,22
II
Tổng số lao động của hộ
182
100,00
167
100,00
1
Số lao động không gặp rủi ro
92
50,55
115
68,86
2
Số lao động gặp rủi ro
90
49,45
52
31,14
III
Mức độ của rủi ro
1
Mất việc dưới 1 tháng
34
37,78
28
53,85
2
Mất việc từ 1- 3 tháng
38
42,22
21
40,38
3
Mất việc từ 3 - 6 tháng
14
15,56
3
5,77
4
Mất việc trên 6 tháng
4
4,44
0
-
(Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra)
Tổng số lao động trước khi mất đất là 167 lao động, trong đó, gặp rủi ro là 52 lao động, chiếm 31,14%. Sau khi mất đất, tổng số lao động là 182 lao động, tăng 15 lao động, số lao động gặp rủi ro là 90, chiếm 49,45%, tăng so với trước khi mất đất 18,31%.
Xét mức độ rủi ro:
Mất việc dưới 1 tháng: ước khi mất đất có 28 lao động, chiếm 53,85% và chiếm 16,77% tổng số lao động; chỉ tiêu này sau khi mất đất là 34 lao động, chiếm 37,78% và chiếm 18,68% tổng số lao động. Chỉ tiêu này sau khi mất đất có tăng 4 lao động so với trước mất đất, đây là vấn đề cần giải quyết. Tuy nhiên, nếu nhìn vào số tương đối ta thấy trước khi mất đất, tỷ lệ này xét trên số lao động gặp rủi ro cao hơn so với sau khi mất đất. Điều đó phần nào cho ta thấy được tình hình mất đất đã ảnh hưởng mạnh tới chuyển đổi ngành nghề của hộ nông dân, do đó đã thay đổi phần nào tỷ lệ thất nghiệp thuần nông vốn có của hộ trước khi mất đất. Tuy nhiên nếu xét trên tổng lao động của hộ thì tỷ lệ này sau khi mất đất tăng 1,91%. Điều này phần nào cho ta thấy được việc do mất đất đã làm tăng tỷ lệ thất nghiệp cho lao động của hộ.
Mất việc từ 1-3 tháng: ước khi mất đất có 21 lao động, chiếm 43,38% và chiếm 12,57% tổng số lao động lúc đó; sau khi mất đất có 38 lao động, chiếm 42,22% và chiếm 20,88%. Chỉ tiêu này sau khi mất đất tăng so với trước khi mất đất cả số tuyệt đối và số tương đối. Điều này, cho ta thấy tác động của việc mất đất đã làm cho lao động của hộ thất nghiệp từ 1-3 tháng nhiều hơn, cụ thể tăng 8,31% trong tổng số lao động, về số tuyệt đối thì tăng 13 lao động.
Mất việc từ trên 3 tháng đến 6 tháng: Trước khi mất đất chỉ có 3 lao động gặp rủi ro, chiếm 5,77% số lao động gặp rủi ro và chiếm 1,8% trong tổng số lao động lúc đó. Sau khi mất đất số lao động gặp rủi ro này là 14 lao động, chiếm 15,56% và chiếm 7,69% tổng số lao động của hộ. Như vậy, sau khi mất đất, số lao động mất việc từ 3-6 tháng của hộ tăng rất nhiều so với trước mất đất, cụ thể tăng 5,89% trong tổng số lao động của hộ. Điều này, chứng tỏ mất đất có tác động mạnh tới thất nghiệp của lao động trong hộ bị mất đất.
Mất việc trên 6 tháng: Trước khi mất đất không có lao động nào, sau khi mất đất có 4 lao động, chiếm 4,44% và chiếm 2,2% tổng số lao động.
Tóm lại, qua việc phân tích tình trạng thất nghiệp của nhóm hộ bị mất đất, theo tiêu chí trước và sau khi mất đất, chúng ta thấy: do việc mất đất đã làm tăng tỷ lệ thất nghiệp cho lao động của hộ lên khá cao. Đặc biệt làm cho tỷ lệ thất nghiệp từ 3-6 tháng tăng 5,89%; đáng chú ý hơn cả là đã làm xuất hiện tỷ lệ lao động thất nghiệp trên 6 tháng 2,2%.
4.3.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro việc làm của hộ bị mất đất
Qua bảng 4.9 ta thấy: tổng số hộ bị mất đât điều tra là 90, trong đó có 78 hộ, chiếm 86,67%. Tổng số lao động của nhóm hộ là 182 lao động, trong đó 90 lao động gặp rủi ro, chiếm 49,45%.
Xét về nguyên nhân gây ra rủi ro cho lao động của hộ:
Có 36 lao động gặp rủi ro do doanh nghiệp, chiếm 40%. Trong đó: 18 lao động do doanh nghiệp không tuyển dụng, chiếm 50%, 10 lao động bị doanh nghiệp sa thải, chiếm 27,78%, 8 lao động là do những lý do khác (doanh nghiệp chưa đi vào hoạt động, doanh nghiệp thiếu việc làm nên phải tạm thời nghỉ,….), chiếm 22,22%.
Có 51 lao động gặp rủi ro do lao động của hộ gây ra, chiếm 56,67%. Trong đó: 12 lao động đã quá 35 tuổi(tuổi mà các doanh nghiệp ít tuyển dụng), chiếm 23,53%; 23 lao động chưa được đào tạo nghề, chiếm 45,10%; 4lao động do ốm đau, bệnh tật, tai nạn,…(những lý do bất khả kháng), chiếm 7,84%; những lý do khác(công việc gia đình, cá nhân, tâm lý lao động, …) có 12 lao động chiếm 23,53%.
Có 18 lao động gặp rủi ro từ phía chính quyền địa phương, chiếm 20%. Trong đó: 5 lao động gặp rủi ro là do chính quyền địa phương chưa định hướng việc làm, chiếm 27,78%; 7 lao động gặp rủi ro do chính quyền chưa giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, chiếm 38,89%; 6 lao động là do những lý do khác từ phía chính quyền địa phương, chiếm 33,33%.
Như vây, phần lớn lý do gây ra rủi ro cho lao động của hộ là từ chính họ.
Chúng ta tiếp tục quan sát bảng 4.9 để có cái nhìn rõ hơn về nguyên nhân gây ra rủi ro việc làm đối với hộ nông dân bị mất dất ở đây:
* Hộ mất ít đất:
Tổng số lao động của hộ là 59 lao động, trong đó có 21lao động gặp rủi ro, chiếm 35,59%. Nguyên nhân gây ra rủi ro của loại hộ này cụ thể như sau:
Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: làm cho 8 lao động gặp rủi ro, chiếm 38,11% số lao động gặp rủi ro và chiếm 13,56% tổng số lao động của hộ. Trong đó có 5 lao động do doanh nghiệp không tuyển dụng chiếm 62,50% số lao động gặp rủi ro do doanh nghiệp gây ra và chiếm 23,81% số lao động gặp rủi ro của hộ; 2 lao động bị doanh nghiệp sa thải, chiếm 25% và chiếm 9,52% số lao động gặp rủi ro của hộ; có 1 lao động là do những nguyên nhân khác, chiếm 12,50 và chiếm 4,76% số lao động gặp rủi ro của hộ.
Nguyên nhân từ phía lao động của hộ: làm cho 14 lao động gặp rủi ro, chiếm 66,67% số lao động gặp rủi ro của hộ và chiếm 27,45% tổng số lao động của hộ. Trong đó, có 3 lao động lớn hơn 35 tuổi(tuổi hơi cao so với mức tuyển dụng của doanh nghiệp), chiếm 21,43% và chiếm 14,29% số lao động gặp rủi ro của hộ; có 6 lao động chưa được đào tạo nghề
Nguyên nhân từ phía chính quyền địa phương: có 4 lao động gặp rủi ro do chính quyền địa phương, chiếm 19,05% lao động gặp rủi ro và chiếm 6,78% tổng số lao động của hộ. Trong đó, 1 lao động không được định hướng việc làm, chiếm 25% và chiếm 4,76% số lao động gặp rủi ro; có 2 lao động bị rủi ro là do chính quyền không giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, chiếm 50% và chiếm 9,52% số lao động gặp rủi ro; Những lý do khác từ chính quyền địa phương làm cho 1 lao động gặp rủi ro, chiếm 25% và chiếm 4,76% số lao động gặp rủi ro.
Bảng 4.9: Nguyên nhân gây ra rủi ro việc làm của nhóm hộ mất đất
STT
Chỉ tiêu
Tổng số
Hộ mất ít đất
Hộ mất đất TB
Hộ mất nhiều đất
Số lượng
Cơ cấu
Số lượng
Cơ cấu
Số lượng
Cơ cấu
I
Tổng số lao động của hộ
182
59
32,42
62
34,07
61
33,52
1
Số lao động không gặp rủi ro
92
38
64,41
33
53,23
21
34,43
2
Số lao động gặp rủi ro
90
21
35,59
29
46,77
40
65,57
II
Nguyên nhân gây ra rủi ro
1
Từ phía doanh nghiệp
36
8
38,10
10
34,48
18
45,00
a
Doanh nghiệp không tuyển dụng
18
5
62,50
5
50,00
8
44,44
b
Doanh nghiệp sa thải
10
2
25,00
3
30,00
5
27,78
c
Doanh nghiệp phá sản
0
0
-
0
-
0
-
d
Những lý do khác
8
1
12,50
2
20,00
5
27,78
2
Từ phía lao động của hộ
51
14
66,67
17
58,62
20
50,00
a
Do lớn tuổi (> 35 tuổi)
12
3
21,43
4
23,53
5
25,00
b
Do chưa được đào tạo nghề
23
6
42,86
10
58,82
7
35,00
c
Do ốm đau, bệnh tật, tai nạn,…
4
1
7,14
0
-
3
15,00
d
Những lý do khác
12
4
28,57
3
17,65
5
25,00
3
Từ phía chính quyền địa phương
18
4
19,05
6
20,69
8
20,00
a
Chưa có định hướng việc làm cho người dân
5
1
25,00
1
16,67
3
37,50
b
Chưa giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp
7
2
50,00
3
50,00
2
25,00
c
Những lý do khác
6
1
25,00
2
33,33
3
37,50
(Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra)
* Hộ mất đất trung bình:
Tổng số lao động của hộ 62 lao động, số lao động gặp rủi ro 29 lao động, chiếm 46,77%.
Xét các nguyên nhân gây ra rủi ro cho lao động của hộ:
Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: có 10 lao động gặp rủi ro, chiếm 34,48% và chiếm 16,13% tổng số lao động của hộ. Trong đó: có lao động do doanh nghiệp không tuyển dụng, chiếm 50% và chiếm 8,06% tổng số lao động của hộ; 3 lao động bị doanh nghiệp sa thải chiếm 30% và chiếm 4,84% tổng số lao động của hộ; 2 lao động bị rủi ro là do những lý do khác từ phía doanh nghiệp, chiếm 20% và chiếm 3,23 tổng số lao động của hộ.
Nguyên nhân từ phía lao động của hộ: Có 17 lao động gặp rủi ro, chiếm 58,62% số lao động gặp rủi ro và chiếm 27,42% tổng số lao động của hộ. Trong đó: 4 lao động trên 35 tuổi, chiếm 23,53% và chiếm 6,45% tổng lao động của hộ; có 10 lao động gặp rủi ro do chưa được đào tạo nghề, chiếm 58,82% và chiếm 16,13% tổng số lao động của hộ; Những lý do khác từ phía lao động của hộ có 3 lao động gặp rủi ro, chiếm 17,65% và chiếm 4,84% tổng số lao động của nhóm hộ.
Nguyên nhân từ phía chính quyền địa phương: có 6 lao động gặp rủi ro, chiếm 20,69% số lao động gặp rủi ro và chiếm 9,68% tổng số lao động của nhóm hộ. Trong đó: 1 lao động chưa được định hướng việc làm chiếm 16,67% và chiếm 1,61% tổng số lao động; 3 lao động bị rủi ro là do chính quyền địa phương chưa giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, chiếm 50% và chiếm 4,84% tổng số lao động của nhóm hộ; 2 lao động bị rủi ro là do những lý do khác từ chính quyền địa phương, chiếm 33,33% và chiếm 3,23% tổng số lao động của nhóm hộ.
*Hộ mất nhiều đất:
Tổng số lao động của nhóm hộ 61lao động, số lao động gặp rủi ro 40 lao động, chiếm 65,57%. Xét các nguyên nhân gây ra rủi ro xảy ra đối với lao động của nhóm hộ:
Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: số lao động gặp rủi ro do doanh nghiệp gây ra 18 lao động, chiếm 45% và chiếm 29,51% tổng số lao động của nhóm hộ. Trong đó: 8 lao động gặp rủi ro do doanh nghiệp không tuyển dụng, chiếm 44,44% nguyên nhân từ phía doanh nghiệp và chiếm 13,11% trong tổng số lao động của nhóm hộ; 5 lao động bị doanh nghiệp sa thải chiếm 27,78% nguyên nhân từ phía doanh nghiệp và chiếm 8,20% trong tổng số lao động của nhóm hộ; 5 lao động gặp rủi ro là do các lý do khác từ phía doanh nghiệp, chiếm 27,78% và chiếm 8,20% tổng lao động của hộ.
Nguyên nhân từ phía hộ: có 20 lao động gặp rủi ro do nhóm nguyên nhân này, chiếm 50% số lao động gặp rủi ro và chiếm 32,79% tổng số lao động của nhóm hộ. Trong đó: 5 lao động trên 35 tuổi, chiếm 25% và chiếm 8,20% tổng lao động của nhóm hộ; 7 lao động chưa được đào tạo nghề, chiếm 35% và chiếm 11,47% tổng lao động của nhóm hộ; ốm đau, bệnh tật đã làm cho 3 lao động của nhóm hộ này gặp rủi ro, chiếm 15% và chiếm 4,92% tổng số lao động của nhóm hộ; 5 lao động là do những lý do khác gây ra rủi ro như: tâm lý chán nản, đợi chờ công việc,…, chiếm 25% và chiếm 8,20% tổng lao động của nhóm hộ.
Nguyên nhân từ phía chính quyền địa phương: có 8 lao động gặp rủi ro do nguyên nhân từ phía chính quyền địa phương, chiếm 20% số lao động gặp rủi ro và chiếm 13,11% tổng số lao động của nhóm hộ. Trong đó: 3 lao động bị rủi ro là do chính quyền địa phương chưa có định hướng việc làm, chiếm 37,50% và chiếm 4,92% tổng lao động của nhóm hộ; 2 lao động gặp rủi ro do chính quyền địa phương chưa giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, chiếm 25% và chiếm 3,28% tổng số lao động của nhóm hộ; các lý do khác của chính quyền địa phương đã là cho 3 lao động của nhóm hộ gặp rủi ro, chiếm 37,5% và chiếm 4,29% tổng lao động của nhóm hô.
Tóm lại, lao động của hộ bị mất đất gặp rủi ro việc làm rất nhiều (49,45% tổng số lao động). Nguyên nhân lớn nhất từ phía hộ và lao động của hộ (56,675% tổng số nguyên nhân), tiếp đó là do doanh nghiệp(40% tổng số nguyên nhân), chính quyền địa phương là nhóm nguyên nhân ít gây ra rủi ro nhất(8,89% tổng số nguyên nhân). Trong số 3 nhóm hộ điều tra, nhóm mất nhiều đất gặp rủi ro nhiều nhất(65,57% tổng số lao động của nhóm hộ), tiếp đến là nhóm mất trung bình(46,77% tổng lao động của nhóm hộ), cuối cùng là nhóm mất ít đât (35,59% tổng lao động của nhóm hộ). Điều này chứng tỏ mất càng nhiều đất thì càng tăng tỷ lệ thất nghiệpcho lao động của hộ, nếu không có những giải pháp điều chỉnh hợp lý.
4.4. Một số giải pháp giảm thiểu rủi ro
4.4.1. Giải pháp cho người dân
* Trau dồi thông tin, kiến thức
Tích cực học hỏi, trau dồi những kiến thức mới về rủi ro, về ngành nghề của mình đã, đang và sẽ đầu tư. Việc trau dồi kiến thức sẽ giúp hộ có cái nhìn tôt hơn về về rủi ro của các ngành nghề mình sẽ tham gia đầu tư. Từ đó sẽ có những sự chuẩn bị trước cho những rủi ro có thể xảy ra đối với mình. Đặc biệt việc trau dồi kiến thức sẽ giúp cho hộ hiểu được mình nên sử dụng tiền đền bù như thế nào cho hợp lý, tránh tình trạng sử dụng không đúng mục đích và giúp cho hộ có thể đối mặt với rủi ro tốt hơn khi chúng xảy ra.
Tích cực trau dồi kiến thức, giúp cho lao động của hộ nhìn nhận tốt hơn về sản xuất kinh doanh của hộ. Đặc biệt, đối với những lao động đi làm thuê cho doanh nghiệp, việc làm này sẽ giúp họ nhìn nhận đúng đắn hơn các vấn đề của doanh nghiệp và các vấn đề liên quan đến quyền lợi của họ khi tham gia làm cho doanh nghiệp, góp phần hạn chế rủi ro đáng tiếc xảy ra.
* Tham gia bảo hiểm: Bảo hiểm sẽ giảm khó khăn và mất mất khi rủi ro xảy ra:
Bảo hiểm y tế sẽ giảm bớt khó khăn cho hộ khi bị ốm đau, bệnh tật.
Bảo hiểm trong sản xuất kinh doanh sẽ giúp hộ hạn chế được sự rụt rè, sợ mất mát,… Từ đó giúp cho hộ yên tâm, mạnh dạn hơn để đầu tư sản xuất kinh doanh, yên tâm áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Tuy nhiên, thông thường bảo hiểm thường hay tốn kém, thủ tục rắc rối đối với hộ nông dân. Vì vậy các công ty bảo hiểm cũng cần xem xét hình thức bảo hiểm của mình sao cho đơn giản, ít tốn kém, quyền lợi rõ rang, thủ tục nhanh chóng,… nhằm khuyến khích hộ dân tham gia.
* Đa dạng hóa sản xuất kinh doanh:
Thực hiện đa dạng hóa sản xuất kinh doanh: để giảm rủi ro các hộ nên đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi; đa dạng hóa sản phẩm sản xuất kinh doanh của hộ để khi gặp rủi ro đối với sản phẩm này thì còn có sản phẩm khác gánh đỡ. Tuy nhiên, bản thân từng hộ cần xác định cơ cấu sản xuất kinh doanh phù hợp với từng điều kiện của mình nhằm tận dụng nguồn lực, phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh.
*Thực hiện liên doanh, liên kết:
Để hạn chế được rủi ro các hộ cần liên doanh, liên kết với nhau, hợp sức lại để giải quyết những khó khăn mà một hộ khó có thể giải quyết. Thực hiện liên doanh liên kết trong sản xuất nông nghiệp của hộ giúp họ giải quyết được các vấn đề máy móc, lao động lúc chính vụ, … Liên doanh liên kết trong các hộ sản xuất phi nông nghiệp sẽ giúp hộ tránh được tình trạng yếu thế do nhỏ bé.
* Đối với lao động của hộ:
Cần tham gia học nghề để tránh tình trạng thất nghiệp hoặc có việc nhưng lương thấp do chưa có tay nghề. Cần phải tích cực làm việc cả trong doanh nghiệp và ở tại hộ để luôn luôn có được công suất tốt nhất cho công việc hiệu quả hơn, từ đó sẽ giảm được phần nào rủi ro đến với mình.
Đối với những lao động đã quá 35 tuổi của hộ, cần phải tham gia các lớp học nghề, các lớp tập huấn,… để có kiến thức trong sản xuất và kinh doanh. Từ đó sẽ tự tạo ra việc làm cho mình, thay đổi ngành nghề, hoặc nhận gia công cho các khâu có thể cho các doanh nghiệp.
4.4.2. Giải pháp đối với chính quyền địa phương
* Tăng cường tuyên truyền, hỗ trợ cho các hộ dân
Tuyên truyền về các loại rủi ro sử dụng tiền đền bù, để họ có thể hiểu và cân nhắc trong việc gia quyết định sử dụng số tiền đền bù của họ, nhằm hạn chế rủi ro.
Tăng cường các hoạt động khuyến nông để trang bị cho hộ những kiến thức, khoa học kỹ thuật trong sản xuất trồng trọt, chăn nuôi. Tăng cường các buổi hội thảo về các lĩnh vực: đời sống, xã hội, … để người dân thêm hiểu biết. Đặc biệt cần tăng cường các buổi hội thảo về tiền đền bù và sử dụng tiền đền bù. Tại các cuộc hội thảo nên giới thiệu những mô hình, cá nhân sử dụng tiền đền bù hiệu quả để người dân tham gia có cơ hội học hỏi, giao lưu, nhằm hạn chế rủi ro.
Tăng cường các hoạt động tuyên truyền về luật lao động(quyền và nghĩa vụ của người lao động và của người sử dụng lao động), nhằm giúp người dân thêm hiểu biết hơn về luật lao động, tránh những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra đối với lao động của hộ
Nếu có thể thì thành lập tổ tư vấn về sử dụng tiền đền bù, tư vấn việc làm, học nghề,…. Cao hơn, có thể thành lập trung tâm tư vấn cho cả vùng.
Cần khuyến cáo cho người dân về rủi ro khi thấy họ có những động thái có thể gây nên rủi ro.
* Phối hợp với các ngành chức năng
Giám sát, quá trình thỏa thuận, trả tiền đền bù của lao động với hộ dân.
Giám sát các hoạt động tuyển dụng lao động của doanh nghiệp, tránh tình trạng hứa suông của các doanh nghiệp.
Giám sát quá trình sử dụng lao động của các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Nhằm tránh hiện tượng, khi cần thì ép lao động làm tăng giờ quá mức, khi không cần thì lao động lại thất nghiệp.
Trên hết là cần giám sát, thẩm định năng lực của các doanh nghiệp trước khi vào địa phương sản xuất kinh doanh. Có như vậy mới giải quyết được tận gốc hiện tượng, doanh nghiệp ảo, doanh nghiệp thu hồi đất để cho thuê.
Phối hợp với các ngành chức năng trưng cầu ý kiến dân về việc quy hoạch khu công nghiệp, lắng nghe những ý kiến của người dân, từ đó cố vấn cho Ủy ban nhân dân tỉnh về việc hoạch định khu công nghiệp. Từ đó có thể tránh được hiện tượng đem “bờ xôi ruộng mật” của nông dân vào làm khu công nghiệp.
Phối hợp với các ngành chức năng để có những ưu tiên nhất định trong việc giải quyết thủ tục hành chính đối với những hộ dân, đặc biệt là những hộ mất đất. Nhất là về các thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký tham gia bảo hiểm,… Bởi với trình độ còn thấp, khi gặp những tình huống khó khăn về thủ tục hành chính, hộ sẽ cảm thấy rắc rối và sẽ rụt rè trong đầu tư.
* Định hướng cho hộ nông dân:
Định hướng và khuyến khích các hộ thành lập các tổ, nhóm, hợp tác xã làm việc theo kiểu mới. Nhằm giúp họ liên kết chặt chẽ với nhau, cùng nhau khắc phục khó khăn, rủi ro có thể xảy ra. Hơn thế nữa, giúp họ có sức mạnh, có uy tín để tham gia ký kết những hợp động lớn. Tuy nhiên để làm được điều đó, ban đầu chính quyền phải đứng ra chịu trách nhiệm, bảo lãnh cho các tổ chức của hộ.
4.4.3. Giải pháp đối với các doanh nghiệp
* Cần phải thực hiện đúng những cam kết về đền bù đất, về tuyển dụng và sử dụng lao động của hộ
* Luôn luôn tìm kiếm cơ hội kinh doanh, chuẩn bị trước các giải pháp cho các tình huống rủi ro có thể xảy ra, nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro về việc làm và thu nhập của lao động của hộ.
* Tích cực đào tạo nghề lao động cho hộ để có những người lao động có tay nghề nhằm phục vụ tốt cho doanh nghiệp và cũng là đảm bảo sự chắn chắn về công việc cho lao động của hộ. Đối với giải pháp này, cần xây dựng những người lao động lòng cốt, từ đó họ sẽ dạy lại những lao động khác.
* Bàn giao những khâu sản xuất có thể cho lao động của hộ
Sau khi đào tạo được đội ngũ nông dân lòng cốt, doanh nghiệp nên kết hợp vớ chính quyền địa phương bàn giao một số khâu sản xuất mà hộ có thể làm được để có thể giải quyết việc làm cho những lao động lớn tuổi trong hộ, tăng thu nhập cho hộ, hạn chế các tệ nạn xã hội.
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Luận đã làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn về rủi ro và quản lý rủi ro. Đặc biệt, luận văn đã làm sang tỏ được rủi ro việc làm và sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp.
Đối với hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp Phố Nối B, tỉnh Hưng Yên. Luận văn đã chỉ ra được:
Vể rủi ro sử dụng tiền đền bù
Mức độ rủi ro của nhóm hộ mât đất nghiêm trọng: rủi ro sử dụng tiền của hộ mất đất lên tới 68,20%, tăng so với hộ không mất đất 33,82%. Tiền đền bù của nhóm hộ đa phần bị sử dụng không đúng mục đích với 57,50% tổng tiền đền bù của nhóm hộ. Trong đó, chủ yếu là xây dựng nhà cửa với 37,12% tổng tiền đền bù của sử dụng.
Trong cơ cấu các nhóm hộ điều tra: nhóm hộ mất nhiều đất chịu rủi ro nhiều nhất về cả lao động và sử dụng tiền đền bù. Về rủi ro việc làm: hộ mất nhiều đất có tới 65,57% số lao động gặp rủi ro, hộ mất trung bình 46,67% và hộ mất ít 35,59%. Về rủi ro sử dụng tiền đền bù: hộ mất nhiều đất nhiều nhất với 76,59% số tiền đền bù sử dụng của hộ, kế tiếp là hộ mất trung bình với 56,24% và cuối cùng là hộ mất ít với 44,98%.
Tóm lại, hộ mất đất bị rủi ro nhiều và nghiêm trọng hơn hộ không mất đất. Hộ mất nhiều đất bị rủi ro nặng nề hơn cả.
Rủi ro về việc làm
Tỷ lệ thất nghiệp của hộ mất đất rất cao 49,45%, tỷ lệ này tăng so với chính hộ khi chưa mất đất 18,31% và tăng so với hộ không mất đất 16,79%.
Mức độ rủi ro việc làm của hộ chủ yếu là mất việc từ 3 tháng trở xuống, với 80% số lao động gặp rủi ro.
Trong cơ cấu rủi ro việc làm của các nhóm hộ: hộ mất nhiều đất bị rủi ro nhiều nhất với 65,57% lao động của hộ; tiếp đên là hộ mất đất trung bình, với 46,77% và cuối cùng là hộ mất ít, với 35,59%. Đáng chú ý, tỷ lệ thất nghiệp trên 6 tháng của nhóm hộ mất đất rất cao, với 4,98% tổng lao động của nhóm hộ, cao hơn tỷ lệ này ở các nhóm hộ khác rất nhiều.
Giải pháp giảm thiểu rủi ro cho hộ nông dân:
Đề tài đã nêu lên 3 nhóm giải pháp cụ thể cho lao động của hộ, cho chính quyền địa phương, cho doanh nghiệp.
- Đối với hộ nông dân cần: trau dồi thông tin, kiến thức; tích cực tham gia bảo hiểm; tăng cường liên doanh, liên kết; đa dạng hóa sản xuất kinh doanh.
- Đối với chính quyền địa phương cần: tăng cường tuyên truyền, hỗ trợ cho các hộ nông dân; Phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng; định hướng cho người dân
- Đối với doanh nghiệp cần: thực hiện đúng cam kết với địa phương; luôn luôn tìm kiếm cơ hội kinh doanh; tích cực đào tạo nghề cho lao động; bàn giao những khâu sản xuất có thể cho hộ nông dân.
5.2. Khuyến nghị
5.2.1. Đối với những hộ nông dân bị thu hồi đất.
Đề tài đã nêu ra các giải pháp cho hộ dân. Vì vậy các hộ dân cần phải vận dụng linh hoạt các giải pháp sao cho phù hợp với điều kiện của hộ mình, tận dụng những lợi thế,… để hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. Cần chú ý tới giải pháp nâng cao nhận thức của hộ về rủi ro để có thể sử dụng hiệu quả hơn tiền đền bù của mình, cũng như lường trước được những rủi ro xảy ra để có những giải pháp đề phòng hợp lý
5.2.2. Đối với chính quyền các của tỉnh Hưng Yên
Cần phải phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng và doanh nghiệp, cùng nhau triển khai các giải pháp một cách hiệu quả để hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro cho hộ nông dân. Đáng chú ý là giải pháp giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp và giải pháp tăng cường tuyên truyền cho hộ dân về rủi ro và sử dụng tiền đền bù.
5.2.3. Đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp là nguyên nhân, là trung tâm của những vấn đề xảy ra đối với hộ. Vì vậy doanh nghiệp phải có những giải pháp để hạn chế rủi ro xảy ra cho hộ nông dân nói chung và hộ nông dân bị mất đất đất nói riêng. Do đó, doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc những cam kết về đền bù và sử dụng lao động của địa phương. Cần chú ý hơn đến giải pháp xây dựng lao động nòng cốt và bàn giao một số khâu có thể cho lao động của hộ. Điều này vừa giảm chi phí cho doanh nghiệp, vừa tạo thêm công việc cho lao động của hộ, đặc biệt là lao động đã lớn tuổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Bộ luật dân sự(1995), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Bộ luật lao động(1994), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Đỗ Kim Chung (1997), Bài giảng Kinh tế hộ, ĐH nông nghiệp – Hà Nội
Đỗ Kim Chung(2003), Giáo trình dự án phát triển nông thôn, NXB nông nghiệp Hà Nội
Phạm Thị Mỹ Dung (1994), “Rủi ro trong nông nghiệp và một số biện pháp khắc phục”, Tạp chí lao động và xã hội, số 04, trang 23.
Phạm Thị Mỹ Dung (1996), Phân tích kinh tế nông nghiệp, NXB Nông nghiệp Hà Nội.
Trần Đình Đằng, Đinh Văn Đán (1996), Kinh tế hộ nông dân, NXB Nông nghiệp Hà Nội.
Nguyễn Văn Định (2002), Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê Hà Nội.
Đào Thế Tuấn (1997), Kinh tế hộ nông dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đoàn Thị Hồng Vân (2002): Quản trị rủi ro và khủng hoảng, NXB Thống kê, Hà Nội.
Từ điển Tiếng Việt (1995) NXB từ điển học, Hà Nội.
Từ Tiến Mỹ (1994), “Bảo hiểm mùa màng – một số biện pháp tích cực góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn”, Tạp chí lao động và xã hội, số 04, trang 26.
Vò Ngäc Kú, “VÊn ®Ò ®Êt ®ai vµ vÊn ®Ò ®Êt s¶n xuÊt cña n«ng d©n”, T¹p chÝ Céng s¶n th¸ng 3/2005, tr 43 – 47
Trường Đại học Nông nghiệp I (1998), Nghiên cứu thực trạng rủi ro và xây dựng đề án bảo hiểm cho vải thiều huyện Lục Ngạn – Bắc Giang, Đề tài hợp tác giữa Tổ chức trao đổi nguồn lực Quốc tế với khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn.
Viện Khoa học xã hội Việt nam, Trung tâm nghiên cứu phát triển vụ viện Trung Quốc, Hội thảo Quốc tế - Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, kinh nghiệm của Việt Nam và Trung Quốc
Bùi Thị Minh Nguyệt, Nghiên cứu rủi ro và quản lý rủi ro của hộ nông dân huyện miền núi Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình - Luận văn Thạc sỹ kinh tế, năm 2004
Hoàng Tuấn Lâm, Nghiên cứu tác động của xây dựng khu công nghiệp Bắc Vinh tới việc làm và thu nhập của hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở xã Hưng Đông, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Luận văn Thạc sỹ, năm 2006
Hà Văn cơ, Nghiên cứu thực trạng việc làm và thu nhập của những hộ nông dân bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp ở Thị trấn Trâu Quỳ - Huyện Gia Lâm - Hà Nội, Luận văn tốt nghiệp Đại học – KT48A – ĐH Nông nghiệp Hà Nội
UBND huyện Yên Mỹ, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên năm 2006, 2007.
Phòng tài nguyên và môi trường huyện Yên Mỹ, Báo cáo về tình hình quy hoạch đất đai của huyên Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên tới năm 2010
UBND xã Nghĩa Hiệp, Báo cáo tính hình kinh tế xã hội của xã Nghĩa Hiệp năm 2006, 2007.
Tài liệu tiếng Anh
Gertrud Bucherieder, Frank Heihues, Pham Thi My Dung, Vulnerable livelihoods and coping with Risks in Farm Households in Northem Vietnam, F2.2. Subproject, Upland Prrograms (7/2003 – 6/2006)
Isabel Fischer (2004), Questionnare on Risk Management of Farm Hpuseholds in Northem Vietnam. F2.2. Subproject.
Jock R. Anderson, Jonh L. Dillon (1992), Risk analysis in dryland farming systems, Food and Agriculture Organization of the United Nations, Rome.
III. Website
tienphong.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luanvan...doc