Lời nói đầu
Trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh".
Trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay, để đạt được mục đích đó tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH-HĐH), đất nước CNH-HĐH trước hết phải CNH-HĐH nông thôn.
CNH-HĐH hiện đại hoá nông thôn phải có một nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến: có năng suất lao động cao dựa trên sự chuyên môn hoá và thâm
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu phát triển và quản lý Nhà nước về kinh tế trang trại ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
canh trong sản xuất với trình độ sản xuất và quản lý tiến bộ, có ứng dụng khoa học kỹ thuật - công nghệ hiện đại. Vậy hình thức sản xuất trong nào nông nghiệp đáp ứng được yêu cầu trên? Những hình thức nào là cơ bản?
- Thực tiễn trên thế giới cho thấy CNH-HĐH nông nghiệp (nông thôn) gắn liền với sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại (KTTT) từ thấp đến cao.
- ở nước ta bằng chính sách phát triển nông nghiệp hợp lý sau hơn mười năm đổi mới đã bước đầu hình thành loại hình KTTT một cách tự phát. Đó phải chăng là một hình thức sản xuất nông nghiệp tất yếu - là yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế?
Thấy được "tính thời sự" của vấn đề trên, là sinh viên thuộc chuyên ngành Quản lý kinh tế của Khoa Khoa học Quản lý em xin trình bày đề án môn học của mình với đề tài: "Nghiên cứu phát triển và quản lý Nhà nước về kinh tế trang trại ở nước ta" dưới góc độ thế giới quan và phương pháp luận của quản lý vĩ mô về KTTT. Nội dung của đề án gồm những vấn đề sau:
Chương I: Tổng quan về trang trại và kinh tế trang trại
- Trình bày những khái niệm về KTTT hiện nay, những đặc trưng, tiêu chí nhận dạng, điều kiện hình thành và phát triển KTTT.
Chương II: Cơ sở khoa học về phát triển kinh tế trang trại.
- Đây là phần luận chứng về sự hình thành và phát triển KTTT, đó là cơ sở để thừa nhận và phát triển KTTT trong điều kiện nước ta.
Chương III: Quan điểm và phương hướng phát triển KTTT trong thời kỳ CNH-HĐH ở nước ta.
- Trình bày những quan điểm và phương hướng để phát triển KTTT trong điều kiện đặc thù ở nước ta: Phát triển KTTT vừa phải đặt hiệu quả kinh tế vừa đảm bảo định hướng XHCN.
Chương IV: Quản lý Nhà nước về kinh tế trang trại ở nước ta.
- Trình bày vai trò của Nhà nước về quản lý kinh tế trang trại và các chính sách, công cụ để tiến hành quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Đề án này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PTS. Lê Thị Anh Vân cùng với sự giúp đỡ chỉ bảo của GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn và ý kiến đóng góp của các bạn cùng lớp. Do trình độ có hạn và thời gian hạn chế nên chắc chắn bài viết không tránh khỏi thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn Thầy, Cô và các Bạn đã giúp đỡ để em hoàn thành đề tài này. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết được thành công hơn.
Hà Nội, 20/10/1999
Sinh viên thực hiện
Hà Mạnh Hùng
Chương I
Tổng quan về trang trại
và kinh tế trang trại
Nông nghiệp có vị trí và trai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và ở nước ta nói riêng. Ngay từ Đại hội IV và V của Đảng ta đã có những nhận thức đúng đắn về vấn đề này, song phải đến Đại hội VI (1986) nhận thức này mới "nâng cao ở tầm mới". Kết quả là qua hơn mười năm đổi mới nền nông nghiệp nước ta từ chỗ không đủ tự cung tự cấp, chuyển sang là một trong những nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới và đã xuất khẩu được một số sản phẩm nông nghiệp. Qua đó nông nghiệp nước ta đã góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán và là cơ sở ban đầu cho quá trình CNH-HĐH nước nhà v.v...
Tuy nhiên, các đơn vị sản xuất trong nông nghiệp chủ yếu là "kinh tế hộ" và các "nông, lâm trường" đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý với trình độ sản xuất, quản lý và khoa học kỹ thuật thấp kém không đáp ứng được với yêu cầu của nền sản xuất hàng hoá, hơn nữa là trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay. Thực tế đó đã xuất hiện tự phát một hình thức sản xuất mới: "Kinh tế trang trại" - Thể hiện tính tất yếu của quy luật kinh tế khách quan. Việc tìm hiều, lý giải đúng khái niệm về "kinh tế trang trại" đặc trưng , tiêu chí nhận dạng và quá trình hình thành là một vấn đề mang tính cấp bách, là cơ sở nhận thức luận đầu tiên về KTTT, để nắm bắt được quy luật kinh tế của nó qua đó vận dụng vào điều kiện thực tiễn ở nước ta.
I- Trang trại và kinh tế trang trại.
1. Trang trại là gì?
Ngày nay trong điều kiện kinh tế thị trường, ngôn ngữ các nước đều có những ngôn từ để chỉ các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trước kinh tế thị trường (ví dụ: Tiếng Anh có farm, farm stead, farm home..), khi chuyển sang tiếng Việt được dịch là "trang trại" hay "nông trại".
Về trang trại là gì? Hiện nay ở nước ta cũng còn nhiều quan điểm chưa đông nhất, tuy nhiên có thể đưa ra các khái niệm sau:
- Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất của các hộ gia đình nông nghiệp, được hình thành trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh tế thị trường.
- "Trang trại" là thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích ruộng đất đủ lớn với qui mô gia đình là chủ yếu trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
2. Một số khái niệm về kinh tế trang trại.
Nói đến KTTT là nói mặt kinh tế của trang trại. Ngoài mặt kinh tế còn có thể nhìn nhận trang trại từ mặt xã hội và mặt môi trường.
Về mặt xã hội; trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó diễn ra các quan hệ xã hội đan xen nhau: quan hệ giữa các thành viên của hộ trang trại, quan hệ giữa hộ trang trại và những người lao động thuê ngoài...
Về mặt môi trường, trang trại là một không gian sinh thái, trong đó diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng có ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái trong vùng.
Trong nghiên cứu và quản lý người ta thường chú trọng mặt kinh tế vì mặt kinh tế chứa đựng những nội dung cơ bản, cốt lõi của trang trại. Nhưng cho tới nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất về khái niệm "kinh tế trang trại".
- Theo PGS.PTS Lê Trọng thì :" Kinh tế trang trại, hay kinh tế nông trại, lâm trại, ngư trại", là một hình thức tổ chức cơ sở của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hiệp tác và phân công lao động xã hội, bao gồm một số người lao động nhất định để tiến hành hoạt động kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và được Nhà nước bảo vệ.
- Còn PGS.PTS. Hoàng Việt đưa ra khái niệm: "Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) có mục đích là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tập trung đủ lớn với phương thức tổ chức quản lý sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường. Trong bài giảng về loại hình tổ chức kinh tế trang trại ở lớp QLKT 38B, GVC.PTS. Mai Văn Bưu cho rằng: Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức hoạt động có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá theo nhu cầu của thị trường có sự tập trung ruộng đất và tiền vốn tới mức độ nhất định do chủ hộ tổ chức quản lý có sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và tiếp cận thị trường cao hơn kinh tế hộ và thấp hơn doanh nghiệp.
Qua các khái niệm trên có thể rút ra những điểm chung cơ bản như sau về KTTT.
+ Là một hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp (hay trong nền sản xuất xã hội).
+ Có mục đích là sản xuất hàng hoá (hoạt động kinh doanh), thường được khẳng định bằng tỷ trọng hàng hoá sản xuất hoặc giá trị hàng hoá sản xuất trong một thời kỳ nhất định.
+ Đảm bảo điều kiện nhất định về các yếu tố sản xuất: vốn, đất, lao động...
+ Chuyên môn hoá (hiệp tác và phân công lao động xã hội) với phương thức tổ chức tiến bộ và áp dụng khoa học kỹ thuật cào vao trong sản xuất.
Do một số ý kiến chưa đồng nhất nên việc phân loại, nhận dạng và khi nghiên cứu về quan điểm phương hướng phát triển trang trại không tránh khỏi những cách thức đánh giá khác nhau.
Khái niệm của PGS.PTS. Hoàng Việt cho rằng: Tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hay quyền sử dụng của một người chủ độc lập. Điều này có nghĩa là các hình thức tổ chức sản xuất tập trung trong nông nghiệp dựa trên sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể như các nông, lâm trường quốc doanh, các hợp tác xã nông nghiệp thì không thuộc khái niệm "trang trại - kinh tế trang trại". Như vậy tất yếu sẽ dẫn tới việc phân loại trang trại và các thành phần kinh tế của trang trại khác nhau. Ví dụ như trên thì chỉ có thể phân loại trang trại gồm: Trang trại gia đinh và trang trại tư bản tư nhân thuộc thành phần kinh tế tương ứng là kinh tế tư nhân và tư bản tư nhân.
Trong điều kiện kinh tế thị trường trang trại đầy đủ những đặc điểm trong các khái niệm nêu trên. Tuy ở mỗi nước, mỗi giai đoạn cụ thể, tuỳ theo đặc điểm và trình độ phát triển cụ thể của nền kinh tế mà những đặc điểm trên có biểu hiện ở những mức độ khác nhau. ở nước ta nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng đang trong bước chuyển từ trình độ tự cung, tự cấp sang trình độ sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. Do vậy, trong các trang trại ở nước ta những đặc điểm của trang trại nêu trong khái niệm trên nhìn chung chưa thật rõ nét như ở các nước có trình độ sản xuất hàng hoá cao trong nông nghiệp. Mặt khác sự quá độ của nền kinh tế (từ trình độ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá) quy định tính đa dạng về lực lượng sản xuất. Tính đa dạng (sự không đồng đều) về trình độ của lực lượng sản xuất, một mặt, dẫn tới hình thức tổ chức khác nhau về sản xuất, mặt khác còn dẫn tới sự không thuần nhất về trình độ sản xuất trong mỗi hình thức tổ chức sản xuất. Do đó trang trại nước ta cũng không thể thuần nhất khi nêng nông nghiệp nước ta đang thời kỳ quá độ.
II- Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại và tiêu chí nhận dạng trang trại .
1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại.
a. Mục đích chủ yếu của kinh tế trang trại là sản xuất nông sản hàng hoá theo nhu cầu của thị trường.
Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trước kinh tế thị trường mặc dù được tổ chức để sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lơns hơn so với hình thức sản xuất phân tán, sang mục đích chủ yếu vẫn là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của những chủ nhân của chúng. Còn kinh tế trang trại thì ngay từ khi ra đời đã mang tính hàng hoá và càng ngày tính chất và trình độ sản xuất hàng hoá của nó càng được nâng cao. Các trang trại gia đình đều đi lên từ hệ thống nông dân khi kinh tế hộ phá vỡ vỏ bọc tự túc vốn có. Như vậy quá trình hình thành và phát triển của trang trại gia đình là quá trình nâng cao hay mở rộng tính chất và trình độ sản xuất hàng hoá của trang trại, đồng thời cũng là quá trình thu hẹp tính chất sản xuất trực tiếp tự cấp, tự túc vốn có của kinh tế nông hộ.
Đặc trưng về mục đích của sản xuất hàng hoá là đặc trưng quan trọng nhất của KTTT bởi vì mục đích sxhh chi phối và ảnh hưởng rất lớn, thậm chí quyết định tới đặc trưng khác của KTTT.
Đặc trưng về mục đích sản xuất hàng hoá của trang trại có thể được biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu sau:
+ Giá trị sản lượng hàng hoá (nông, lâm, thuỷ sản) được tạo ra trong một năm của trang trại.
+ Tỷ suất hàng hoá của trang trại.
b. Hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành trên cơ sở các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng đất và tiền vốn được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá.
+ Trong nông nghiệp cũng như các ngành sản xuất vật chất khác, sản xuất hàng hoá chỉ có thể được thực hiện khi các yếu tố sản xuất được tập trung với quy mô nào đó. Trong trang trại sản xuất hàng hoá, do đó chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất... được tập trung với quy mô cần thiết (đủ lớn).
c. Trang trại có cách thức tổ chức và quản lý sản xuất tiến bộ trên cơ sở chuyên môn hoá lao động sản xuất thâm canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, hạch toán kinh doanh và thường xuyên tiếp cận thị trường.
Đặc trưng về tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất của trang trại thể hiện rất rõ sơ với kinh tế nông hộ, nhất là hộ tự cung, tự cấp.
d. Chủ trang trại là người có ý ch, có năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Chỉ với những nhân tố chất trên chủ trang trại mới có thể tổ chức quản lý hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường. Về cơ bản những tổ chức trên không có ở chủ nông hộ sản xuất tự cung, tự cấp.
e. Các trang trại đều có thể mướn lao động .
Trên thực tế các trang trại hầu như đều thuê mướn lao động. Ngay với trang trại gia đình, do nhu cầu về lao động thường vượt quá khả năng lao động của gia đình, nhất là vào thời vụ nên các trang trại đều có thuê mướn lao động bên ngoài. Số lượng lao động thuê mướn phụ thuộc vào laọi hình và quy mô của từng trang trại.
2. Tiêu chí nhận dạng trang trại.
Để xác định một cơ sở sản xuất nông nghiệp có phải là trang trại hay không cần phải có tiêu chí nhận dạng. Tiêu chí nhận dạng phải thoả mãn các yêu cầu chủ yếu sau:
- Phải hàm chứa được những đặc trưng cơ bản của trang trại, yêu cầu này nhằm đảm bảo tính chính xác của việc nhận dạng và xác định trang trại.
- Đơn giản và dễ vận dụng khi nhận dạng trang trại.
Tiêu chí nhận dạng trang trại cần xét ở hai mặt: định tính và định lượng. Mặt định tính hàm chứa những đặc trưng cơ bản của KTTT. Mặt định lượng bao gồm những chỉ tiêu biểu hiện về mặt lượng của các đặc trưng đó. Để đơn giản và dễ vận dụng cần kết hợp hai mặt định tính và định lượng của tiêu chí nhận dạng vơí nhau. Nhằm thoả mãn những yêu cầu trên, tiêu chí nhận dạng chỉ nên đề cập tới những đặc trưng cơ bản nhất, dễ nhận biết nhất với những chỉ tiêu về mặt lượng cần thiết và vừa đủ để nhận dạng và xác định được trang trại, không nên đề cập tới tất cả các đặc trưng với các chỉ tiêu biểu hiện cụ thể về mặt lượng làm cho việc nhận dạng trở nên phức tạp. "Vừa đủ" ở đây được hiểu là những đặc trưng của các trang trại và các chỉ tiêu biểu hiện về mặt lượng của các đặc trưng thì có nhiều, song tiêu chí nhận dạng chỉ nên đề cập đến những đặc trưng cơ bản nhất với những chỉ tiêu biểu hiện chủ yếu đủ làm căn cứ để xác định được một đơn vị sản xuất cơ sở nông nghiệp có phải là trang trại hay không. Như vậy tiêu chí nhận dạng cơ bản gồm các chỉ tiêu sau:
- Giá trị sản lượng tạo ra trong một năm.
- Diện tích ruộng đất (nếu là trồng trọt) hay số lượng gia súc, gia cầm (nếu là chăn nuôi).
- Quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Trong các chỉ tiêu trên, chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá là chỉ tiêu chủ yếu (chỉ tiêu trực tiếp), các chỉ tiêu còn lại là chỉ tiêu bổ sung (các chỉ tiêu gián tiếp) các chỉ tiêu trên kết hợp lại đủ để nhận dạng trang trại, vì khi đó chúng phản ánh trực tiếp đặc trưng của trang trại là sản xuất hàng hoá và đặc trưng về các yếu tố sản xuất đồng thời phản ánh gián tiếp các đặc trưng khác của KTTT. Song khi vận dụng các tiêu chí nhận dạng trang trại với các chỉ tiêu nêu trên cần sử dụng các chỉ tiêu một cách linh hoạt tuỳ theo từng trường hợp cụ thể như: theo hướng sản xuất kinh doanh cụ thể vì hướng sản xuất kinh doanh khác nhau thì các chỉ tiêu nêu trên khác nhau. Theo các vùng cụ thể vì điều kiện về các yếu tố sản xuất và do đó là quy mô sản xuất hàng hoá của trang trại ở các vùng có sự khác nhau, thậm chí khác nhau rất nhiều.
III- Các điều kiện để hình thành và phát triển kinh tế trang trại.
Để KTTT hình thành và phát triển cần phải có những điều kiện cần thiết về cơ bản gồm những điều kiện sau:
1. Những điều kiện về môi trường pháp lý.
a. Có sự tác động tích cực và phù hợp của Nhà nước. Sự tác động của Nhà nước thông qua định hướng, khuyến khích và hỗ trợ về tổ chức, kỹ thuật và kinh tế đối với trang trại.
b. Có quỹ ruộng đất cần thiết và có chính sách để tập trung cho những người có khả năng và điều kiện phát triển KTTT.
c. Có sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến nông sản. Đây là điều kiện cực kỳ quan trọng vì có ảnh hưởng rất lớ, trong nhiều trường hợp còn có ảnh hưởng quyết định tới sự hình thành và phát triển KTTT.
d. Có sự phát triển nhất định của kết cấu hạ tầng kỹ thuật, trước hết là hệ thống đường giao thông.
e. Có sự hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hoá.
g. Có sự phát triển nhất định của các hình thức liên kết kinh tế trong nông nghiệp.
h. Có môi trường pháp lý thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của KTTT trước hết là sự công nhận địa vị pháp lý của các trang trại trong hệ thống nông nghiệp, tiếp đến là tạo hành lang và khuôn khổ pháp lý phù hợp cho KTTT.
2. Các điều kiện về phía trang trại.
a. Chủ trang trại phải có ý chí và quyết tâm làm giàu từ nghề nông. Đây là điều kiện chủ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc hình thành và phát triển KTTT.
b. Chủ trang trại phải có sự tích luỹ nhất định về kinh nghiệm sản xuất, có tri thức và năng lực nhất định về tổ chức sản xuất kinh doanh.
c. Phải có sự tập trung tới quy mô nhất định về các yếu tố vật chất của sản xuất, trước hết là ruộng đất và tiền vốn.
d. Quản lý sản xuất của trang trại phải dựa trên cơ sở hạch toán và phân tích kinh doanh .
Chương II
Cơ sở khoa học về phát triển
kinh tế trang trại
I- Kinh tế trang trại - tính đặc thù trong sản xuất nông nghiệp.
1. Sản xuất nông nghiệp với quy mô sản xuất hợp lý.
Đặc điểm của nông nghiệp khác với công nghiệp là phải tác động vào những vật sống (cây trồng, vật nuôi) nên không phù hợp với hình thức sản xuất tập trung quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động làm thuê tập trung. Từ cuối thế kỷ 17, Anh là nước đi vào công nghiệp hoá sớm nhất thế giới, có quan niệm cho rằng: Trong nền kinh tế hàng hoá TBCN, nông nghiệp cũng phải xây dựng các xí nghiệp tập trung quy mô lớn như các xí nghiệp công nghiệp. Vì vậy thời gian đó đã có chủ trương thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất, xây dựng các xí nghiệp nông nghiệp tư bản có qui mô lớn với hy vọng sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ. Nhưng ngược lại hiệu quả sản xuất (năng suất) của các xí nghiệp có quy mô lớn lại thấp hơn các mô hình sản xuất có quy mô nhỏ hơn. ở nước ta chính bởi tập trung sản xuất quy mô lớn như nông, lâm trường và hợp tác xã trong thời kỳ bao cấp trước đây đã dẫn tới năng suất lao động thấp, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế.
Nhưng nếu sản xuất với qui mô nhỏ quá thì sao? Đó là hình thức sản xuất sẽ không đáp ứng được về yêu cầu về các yếu tố sản xuất "đủ lớn" vốn, đất, lao động, trình độ chuyên môn hoá ... dẫn đến năng suất thấp (như đã nêu ở chương trước) mà đại biểu là kinh tế hộ với hạn chế của nó (sẽ trình bày cụ thể ở phần II)
Như vậy: Hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi một quy mô hợp lý trong điều kiện tự nhiên về địa lý, không gian, thời gian cụ thể
2. Tính ưu việt của hình thức sản xuất trang trại trong nông nghiệp.
KTTT mà chủ yếu là KTTT gia đình xuất phát từ kinh tế hộ do đó tính tự chủ trong sản xuất rất cao. Người chủ trang trại vừa là người quản lý vừa là người lao động trực tiếp vào các yếu tố sản xuất, tính linh hoạt trong lao động bởi đặc điểm tác động vào vật sống (cây trồng vật nuôi) được đáp ứng. Mặt khác lao động trong trang trại gồm cả lao động làm thuê và lao động chính (lao động của người trong gia đình) ở các trang trại gia đình làm cho "hiệu quả quản lý" trong sản xuất hơn hẳn các hình thức sản xuất khác dẫn tới năng suất lao động cao hơn.
KTTT với quy mô sản xuất hợp lý có khả năng thích ứng linh hoạt được với yêu cầu thị trường và hạn chế được nhược điểm của các hình thức sản xuất khác; kinh tế hộ và xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà nguyên nhân cơ bản là do đặc điểm trong sản xuất nông nghiệp không phù hợp hay không còn phù hợp nữa.
Lúc đầu chính Marx cũng cho việc tập trung nông nghiệp thành các xí nghiệp sản xuất quy mô lớn là điều tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá nền nông nghiệp TBCN - nhưng đến tác phẩm cuối cùng, Marx đã viết "ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là xí nghiệp có quy mô lớn mà là các trang trại không dùng lao động làm thuê".
Do đó, KTTT phát huy được đặc thù riêng trong sản xuất nông nghiệp với quy mô hợp lý và linh hoạt làm cho năng suất lao động cao là cơ sở để tồn tại và phát triển KTTT.
II- Sự hình thành và phát triển KTTT là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường.
1. Những hạn chế của kinh tế nông hộ trong sản xuất hàng hoá.
Kinh tế nông hộ có thể được xem xét ở hai giai đoạn sau:
- Giai đoạn thứ nhất: Kinh tế nông hộ mang tính tự cung tự cấp. ở giai đoạn này sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là để thoả mãn nhu cầu của hộ gia đình, nếu có trao đổi thì mục đích vẫn là để thỏa mãn nhu cầu đó.Do vậy ở giai đoạn này chưa thể hiện tính chuyên môn hoà trong sản xuất trình độ quản lý và khoa học công nghệ được ứng dụng còn thấp nghãi là giai đoạn này còn nằm trong phương thức sản xuất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên.
+ Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn kinh tế nông hộ quá trộ lên sản xuất hàng hoá. ở giai đoạn này do năng suất lao động được nanag lên nhờ nâng cao được trình độ quản lý và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nền sản phẩm sản xuất ra có phần dư thừa so với nhu cầu của hộ gia đình. Phần dư thừa này trở thành hàng hoá trên thị trường. Dần dần các gia đình sản xuất hướng về đòi hỏi của thị trường, tính chuyên môn hoá trong trong sản xuất nhờ nhân công lao động xã hội ngày một tăng. Song do đặc điểm của kinh tế nông hộ là sản xuất nhỏ, quy mô về vốn, đất đai, lao động không đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá ngày một phát triển. Từ đó xuất hiện mâu thuẫn - hạn chế của kinh tế nông hộ - hình thức kinh tế mới ra đời kinh tế trang trại.
2. Kinh tế trang trại là kết quả tất yếu của kinh tế hộ gắn với sản xuất hàng hoá là bước tiến bộ mới về tổ chức sản xuất, nông nghiệp của nhân loại.
Như đã trình bày ở trên kinh tế hộ với những hạn chế của nó không đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường. Vậy sự thay thế hình thức sản xuất mới kinh tế trang trại - cơ khí khoa học về tiến bộ trong tổ chức sản xuất như thế nào?
+ Về các yếu tố sản xuất: Đòi hỏi một quá trình tích tụ về vốn, đất, lao động đủ lớn để tiền hành sản xuất ở trình độ chuyên môn hoá để sản xuất hàng hoá.
- Vốn của trang trại phải đảm bảo để tiến hành sản xuất kinh doanh đầy đủ chu kỳ kỳ sản xuất hàng hoá: từ quá trình nghiên cứu thị trường, mua nguyên vật liệu, công cụ lao động, thuê nhân công đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo về cơ cấu vốn cố định và vốn lưu động.
- Đất đai của trang trại đủ lớn về diện tích để tiến hành sản xuất tuỳ theo ngành nghề kinh doanh.
- Lao động có trình đọ văn hoá và chuyên môn có thể tiếp thu được và áp dụng khoa học công nghệ và trong thâm canh, sản xuất nông nghiệp.
+ Có áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sản xuất.
+ Có hạch toán kinh tế trong quá trình sản xuất - kinh doanh với mục tiêu xác định lỗ lãi, lợi nhuận.
+ Quản lý trang trại vừa mang tính sản xuất sản phẩm nông nghiệp vừa mang tính kinh doanh. Quản lý trong đó là một khoa học vừa là một nghệ thuật.
+ Sản xuất - kinh doanh của trang trại linh hoạt theo cơ chế thị trường thông qua cạnh tranh. Một động lực để phát triển sản xuất - phát triển kinh tế.
3. Quy luật hình thành kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại được hình thành theo hai con đường khác nhau:
Cách thứ nhất, đó là quá trình diễn ra chậm chạp một cách tự phát, lâu dài gắn liền với quá trình tích tụ ruộng đất, chuyển dịch lao động và đô thị hoá nông thôn. Những chủ hộ nông dân làm ăn giỏi dần vươn lên giàu có sẽ mua lại ruộng đất của những nông dân nghèo không biết làm ăn hoặc đã chuyển dịch sang nghề khác để trở thành chủ trang trại- kinh tế trong trang trại ra đời.
Cách thứ hai:Là quá trình hình thành mọt cách nhanh chóng các trang trại dưới tác động của Nhà nước gắn liền với việc thực thi các chính sách tích cực cũng như tiêu cực đối với nông dân. Trên thế giới quá trình hình thành trang trại ở Anh, Đức, Pháp đã diễn ra từ đầu thế kỷ 17 gắn liền vưói việc tước đoạt ruộng đất và bần cùng hoá nông dan gắn với sự ra đời của cả công nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Các trang trại ở Mỹ được hình thành chủ yếu nhờ chính sách khai hoang và nhập cư.
ở nước ta hơn 80% dân số vẫn sống ở nông thôn cộng với tỷ lệ tăng dân số cao ở nông thôn đã làm cho bình quân ruộng đất canh tác đã giảm dưới 1000m2/ nhân khẩu. Đây là mức bình quân vào loại thấp nhất thế giới. Mặt khác, đối với 80% dân số ở nông thôn hiện nay thì ruộng đất vẫn là tài sản quan trọng nhất. Chính vì vậy quá trình tích tụ ruộng đất tự phát để hình thành trang trại ở nước ta sẽ diễn ra theo 2 sắc thái khác nhau là nhanh chóng ở các vùng có điều kiện về đất đai thông qua các chính sách khuyến khích tích cực của nhà nước và ngược lại là quá trình tự phát chậm chạp diễn ra tại những vùng đồng bằng đông dân phụ thuộc vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đô thị hoá . Từ thực tế cho thấy, việc phát triển các trang trại cần tập trung ở các vùng trung du, miền núi và các vùng đất còn hoang hoá và chỉ nên khuyến khích các trang trại vừa và nhỏ phù hợp với trình độ quản lý và điều kiện đất đai của nước ta.
III. Vị trí và vai trò của KTTT trong thời kỳ CNH-HĐH.
1. KTTT góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Kinh tế trang trại với phương thức quản lý và sản xuất tiến bộ khắc phục được tình trạng sản xuất manh muốn, lẻ tẻ bằng cách tạo nên các vùng chuyên môn hoá và thâm canh cao. Năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp tăng lên cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Trong nông nghiệp, KTTT làm phân công lao động, chuyên môn hóa các ngành nghề dẫn đến các sản phẩm đa dạng, hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm ngày một cao. Cơ cấu ngành nghề trong nông nghiệp tự chuyển dịch bởi bàn tay vô hình của thị trường theo hướng hiện đại hóa. Mặt khác trong quá trình phát triển hình thức sản xuất của mình,KTTT làm thay đổi cơ cấu kinh tế thể hiện:
+ Thúc đẩy sự phát triển công nghiệp chế biến và xuất hiện nhiều ngành nghề mới; cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong cơ chế thị trường, nhu cầu thị trường ngày một cao từ đó đòi hỏi sản phẩm nông nghiệp được sản xuất từ trang trại phải được chế biến nhằm đáp ứng thị trường trong và ngoài nước,cũng vì nhu cầu thị trường mà từ đó xuất hiện một số ngành nghề chế biến mới để thoả mãn nhu cầu ngày một phong phú hơn.
+ Xuất hiện và phát triển các ngành dịch vụ ở nông thôn. Trước hết là những ngành dịch vụ phục vụ cho yếu tố đầu vào và đầu ra của trang trại để đảm bảo yếu tố sản xuất của trang trại và tiêu thụ sản phẩm. Về thực chất đây cũng chính là một hình thức chuyên môn hoá.
Trong nền kinh tế quốc dân KTTT góp phần làm tăng trưởng kinh tế trong nông nghiệp dẫn tới tỷ trọng về cơ cấu ngành nông nghiệp giảm dần trong GDP để đáp ứng đòi hỏi của quá trình CNH-HĐH. Cơ cấu lao động trong nông nghiệp cũng giảm dần so với các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ khác.
Về môi trường sinh thái do sản xuất tự chủ và vì lợi ích thiết thực lâu dài, các trang trại luôn khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trường, trước hết là trong không gian sinh thái trại. Phần lớn các trang trại ở trung du, miền núi đã góp phần quan trọng trong việc trồng rừng, bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, những việc làm này đã góp phần tích cực cải tạo và bảo bệ môi trường sinh thái trên các vùng đất nước.
2. Kinh tế trang trại thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Như chúng ta đã biết CNH-HĐH thực chất là quá trình đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn dựa trên trình độ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng.
KTTT với hình thức sản xuất có hiệu quả kinh tế cao làm cho lực lượng sản xuất ngày một phát triển dưới tác động của các yếu tố sản xuất, trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật v.v... Một mặt trong quá trình CNH-HĐH nông thôn với trình độ của lực lượng sản xuất ngày càng phát triển của mình là một động lực quan trọng để tiến hành CNH-HĐH đất nước Mặt khác CNH-HĐH lại sản sinh ra tiến bộ khoa học kỹ thuật và tác động trở lại để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động hữu cơ trên có thể hiểu là "bàn tay vô hình" có tính dây chuyền đưa CNH-HĐH đến thành công.
3. Tính tất yếu của sự phát triển KTTT trong thời kỳ CNH-HĐH.
a. Kinh tế trang trại là sự phát triển tất yếu của nền nông nghiệp trong quá trình CNH-HĐH.
+ Chính CNH đã đặt yêu cầu khách quan cho phát triển sản xuất nông sản hàng hoá nhằm đáp ứng yếu cầu CNH-HĐH và tạo ra những điều kiện cho kinh tế trang trại hình thành và phát triển. KTTT là một tiến bộ mới về tổ chức sản xuất nông nghiệp chung của xã hội loài người.
b. Kinh tế trang trại là loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp gắn liền với quá trình CNH từ thấp đến cao.
- Trong giai đoạn đầu của CNH, KTTT phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp, sau đso từng bước đi vào sản xuất tập trung chuyên canh lớn.
- ở hầu hết các nước, trang trại là hình thức tổ chức sản xuất giữ vị trí xung kích trong quá trình CNH nông nghiệp, nông thôn và trở thành lực lượng chủ lực khi nền kinh tế phát triển đến giai đoạn cao.
c. Kinh nghiệm của các nước cho thấy những điều kiện cần thiết cho sự hình thành và phát triển KTTT đối với mỗi quốc gia là có nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, hình thành nền kinh tế thị trường. Trong đó các yếu tố sản xuất nông nghiệp đầu vào, đầu ra đều là hàng hoá và có sự tác động của Nhà nước, công nhận và khuyến khích kinh tế trang trại phát triển.
Phát triển KTTT ở các nước đang phát triển trên đường đi lên CNH, trong đó có Việt Nam là phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, là điều cần thiết.
Chương III
Quan điểm và phương hướng phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ
CNH-HĐH nước ta.
I- Những quan điểm cơ bản về phát triển KTTT ở nước ta.
Quan điểm phát triển KTTT xuất phát từ "cơ sở khoa học về phát triển kinh tế trang trại". Coi sự phát triển của KTTT là tất yếu là quy luật kinh tế khách quan và đặc biệt là phát triển KTTT đáp ứng yêu cầu của CNH-HĐH đất nước. Trên cơ sở đó phát triển KTTT cần dựa trên những quan điểm sau đây.
1. Kinh tế trang trài (KTTT) sẽ là loại hình sản xuất cơ sở chủ yếu trong nền nông nghiệp hàng hoá, phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá.
Quan điểm này có vị trí rất quan trọng. Qua đó cho biết vai trò của KTTT đối với sự phát triển của nền nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phát triển như thế nào và hướng nào? Cơ sở khoa học của quan điểm này đã được trình bày ở chương trước có thể tóm tắt lại như sau:
+ KTTT là hình thức sản xuất kinh doanh phù hợp với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
- Tác động vào vật sống (cây trồng, vật nuôi).
- Cho phép người nông dân sử dụng một cách đầy đủ, hợp lý và hiệu quả nhấ nguồn tài nguyên nông nghiệp để sản x._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34996.doc