bộ giáo dục và đào tạo
trường đạI học nông nghiệp Hà nội
----------------------------
nguyễn thị bích ngọc
Nghiên cứu phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty Cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao
luận văn thạc sĩ kinh tế
Chuyên ngành : kinh tế nông nghiệp
Mã số : 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học : TS. Bùi bằng đoàn
Hà Nội - 2008
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và hoàn toàn chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị
118 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nào.
Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Bích Ngọc
Lời cảm ơn
Quá trình học tập và thực hiện đề tài tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập thể. Tôi xin được bày tỏ sự cám ơn sâu sắc nhất tới tất cả cá nhân và tập thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi học tập và nghiên cứu.
Trước hết, với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn thày TS. Bùi Bằng Đoàn người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, Khoa Sau đại học đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, các phòng ban chức năng đã tạo điều kiện cho tôi trong việc thu thập số liệu và những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu luận văn .
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới gia đình, đồng nghiệp và bạn bè những người đã luôn bên tôi giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2008
Tác giả
Nguyễn Thị Bích Ngọc
Mục lục
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt v
Danh mục bảng vi
Danh mục biểu đồ viii
Danh mục các chữ viết tắt
BQ
Bình quân
CC
Cơ cấu
CNH - HĐH
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CSH
Chủ sở hữu
DT
Doanh thu
ĐVT
Đơn vị tính
GT
Giá trị
NXB
Nhà xuất bản
SL
Sản lượng
TĐPTBQ
Tốc độ phát triển bình quân
TSCĐ
Tài sản cố định
UBND
Uỷ ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
danh mục bảng
STT
Tên bảng
Trang
2.1. Số doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam 9
3.1. Diện tích nguyên liệu của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 36
3.2. Tình hình chế biến rau quả của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 37
3.3. Tình hình trang bị TSCĐ của Công ty qua 3 năm (2005 - 2007) 39
4.1. Biến động vốn của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 49
4.2. Cơ cấu vốn của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 50
4.3. Nguồn hình thành vốn của Công ty giai đoạn 2003- 2007 53
4.4. Tình hình lao động của Công ty Công ty giai đoạn 2003- 2007 56
4.5. Nguồn nguyên liệu để sản xuất công nghiệp của Công ty giai đoạn 2003- 2007 60
4.6. Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo thị trường của Công ty giai đoạn 2003- 2007 63
4.7. Sản lượng ngành nông nghiệp của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 66
4.8. Sản lượng ngành công nghiệp của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 68
4.9. Doanh thu, lợi nhuận ngành công nghiệp của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 69
4.10. Doanh thu, lợi nhuận kinh doanh khác của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 71
4.11. Kết quả sản xuất kinh doanh Công ty giai đoạn 2003- 2007 73
4.12. So sánh kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn 2003- 2007 74
4.13. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn 2003- 2007 76
4.14. So sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 77
4.15. Kết hợp điểm mạnh - điểm yếu, cơ hội - nguy cơ 81
4.16. Dự kiến kế hoạch sản xuất kinh doanh giai đoạn 2008 - 2012 (Các chỉ tiêu về tài chính) 83
4.17. Dự kiến nguyên liệu và sản phẩm ngành công nghiệp giai đoạn 2008 - 2012 84
4.18. Dự kiến cơ cấu thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty giai đoạn 2008 - 2012 (dự kiến tỷ lệ % theo doanh thu) 87
4.19. Kế hoạch lao động của Công ty giai đoạn 2008 - 2012 94
Danh mục biểu đồ
STT
Tên biểu đồ
Trang
3.1. Công suất thực hiện qua các năm 38
4.1. Biến động vốn của Công ty giai đoạn 2003- 2007 50
4.2. Cơ cấu vốn của Công ty giai đoạn 2003- 2007 51
4.3. Cơ cấu nợ phải trả của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 54
4.4. Cơ cấu lao động của Công ty Công ty giai đoạn 2003- 2007 57
1. Mở đầu
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ phát triển CNH - HĐH đất nước các doanh nghiệp có vị trí hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất cho xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động và trực tiếp biến đổi thành tựu khoa học thành những kết quả hữu ích trong cuộc sống. Không chỉ có thế, doanh nghiệp còn có một trọng trách lớn lao khi phảiF đi tiên phong trong công cuộc đổi mới đất nước.
Những năm gần đây, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo...
Nền kinh tế mở là động lực tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp vươn lên tự khẳng định mình, nhưng cũng đầy rẫy những thách thức đang đặt ra trước mắt, đặc biệt nói đến kinh tế thị trường là nói đến sự cạnh tranh khốc liệt “thương trường là chiến trường”. Do vậy mỗi doanh nghiệp phải tự lực cánh sinh, tự tìm ra con đường đi của riêng mình, năng động, linh hoạt trong kinh doanh để tồn tại, phát triển và khẳng định vị thế của mình. Đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp là yêu cầu cấp bách hiện nay, doanh nghiệp phải quan tâm đến tất cả các khâu từ cung ứng đầu vào, quá trình sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm và nó bị chi phối bởi nhiều đặc điểm, điều kiện khác nhau. Vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp để phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt hạn chế là việc làm thường xuyên và rất cần thiết. Phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ có tác động tích cực không chỉ cho nền kinh tế mà còn đối với cả các khía cạnh văn hóa, xã hội của đất nước.
Công ty cổ phần thực phẩm xuất xuất khẩu Đồng Giao là doanh nghiệp sản xuất, chế biến và kinh doanh các mặt hàng rau quả, nông sản khép kín. Doanh nghiệp là một trung tâm chế biến rau quả lớn, có dây chuyền sản xuất hiện đại, doanh nghiệp có sản phẩm được thị trường trong nước và ngoài nước biết đến. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có những thuận lợi về cạnh tranh vì có vùng nguyên liệu tương đối ổn định trên thị trường nội địa. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ của Công ty cũng rất ổn định và ngày càng được mở rộng ở rất nhiều nước trên thế giới và khu vực. Một số năm qua, sản xuất kinh doanh của Công ty đã đạt được những kết quả khả quan.
Tuy nhiên, đứng trước quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Công ty không những chịu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước mà còn phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, để có thể phát triển bền vững, yêu cầu doanh nghiệp phải có sự nghiên cứu toàn diện nhằm trả lời các câu hỏi: Tình hình phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty diễn ra như thế nào? Những nhân tố nào đã ảnh hưởng đến phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty? Những giải pháp nào đặt ra cho phát triển sản xuất kinh doanh?
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung
Đánh giá đúng thực trạng phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty một cách có hiệu quả .
Mục tiêu cụ thể
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận về sản xuất kinh doanh và phát triển sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh thực phẩm xuất khẩu.
+ Đánh giá thực trạng phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển sản xuất kinh doanh tại Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao một cách có hiệu quả.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh thực phẩm xuất khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất kinh doanh để đưa ra giải pháp cho Công ty.
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu lý luận, thực trạng, yếu tố ảnh hưởng và giải pháp để phát triển sản xuất kinh doanh trong Công ty.
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu tại Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao
- Phạm vi thời gian:
+ Thời gian nghiên cứu:
Số liệu thứ cấp: : Lấy số liệu trong giai đoạn 2003 - 2007 (5 năm)
Số liệu sơ cấp: Tập trung vào năm 2007.
Sau khi nghiên cứu, phân tích, đánh gía thực trạng sản xuất kinh doanh tại Công ty, từ đó đưa ra định hướng và các giải pháp đề xuất cho sản xuất kinh doanh đến năm 2012.
+ Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 11/2007 đến tháng 10/2008
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
2.1 Phát triển các doanh nghiệp ở Việt Nam trong cơ chế thị trường
2.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp
Khái niệm doanh nghiệp: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức năng sản xuất, mua bán hàng hoá hoặc làm dịch vụ, nhằm thoả mãn nhu cầu con người và xã hội, và thông qua hoạt động hữu ích đó kiếm lời.
Nếu căn cứ vào hình thức sở hữu vốn thì doanh nghiệp có 2 loại đó là doanh nghiệp một chủ sở hữu và doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu.
Đối với doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu (2 người trở lên) chia làm 2 loại đó là công ty (đối nhân, đối vốn) và hợp tác xã. Công ty cổ phần là một công ty đối vốn trong đó các thành viên (cổ đông) có cổ phiếu và chỉ chịu trách nhiệm đến hết giá trị những cổ phần của mình có [34].
Vai trò của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp ngày càng thể hiện rõ vai trò của mình, đó là:
+ Đóng góp vào việc tăng trưởng nền kinh tế.
Chủ trương của Đảng về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi để phát huy mọi nguồn lực trong xã hội. Đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp (1999) ra đời (có hiệu lực năm 2000), số lượng doanh nghiệp đăng ký hoạt động kinh doanh tăng đáng kể. Với số lượng doanh nghiệp ngày càng đông đảo đã tạo ra một khối lượng hàng hóa, dịch vụ hết sức phong phú, đóng góp đáng kể cho GDP của cả nước. Doanh nghiệp góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế, đặc biệt trong việc phát triển ngành nghề truyền thống, thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn. Sự đóng góp của các doanh nghiệp ngày càng tăng chứng tỏ môi trường đầu tư kinh doanh nước ta đã cải thiện đáng kể. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trở nên có hiệu quả. Năng lực về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý của doanh nghiệp được nâng lên. Đội ngũ doanh nghiệp dần trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, thích ứng với cơ chế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Doanh nghiệp là lực lượng quan trọng góp phần lớn vào ngân sách nhà nước. Ngoài việc đóng góp vào ngân sách nhà nước các doanh nghiệp còn đóng góp một phần không nhỏ thông qua các tổ chức hoạt động từ thiện, giúp đỡ các gia đình chính sách, đóng góp cho các địa phương xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tôn tạo, cải tạo công trình văn hóa...
+ Góp phần giải quyết vấn đề lao động - việc làm, tăng thu nhập.
Hiện nay trên 70% lao động xã hội của đất nước đang sống ở khu vực nông thôn. Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp, do nền kinh tế phát triển chậm. Thu nhập của dân cư nông thôn lại chủ yếu phụ thuộc vào nền nông nghiệp thuần nông, mà trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh nhưng nếu không có công nghiệp chế biến thì không thể làm giàu. Kết quả điều tra của các nhà nghiên cứu cho thấy, thu nhập của vùng dân cư có các doanh nghiệp phát triển gấp 4 lần thu nhập của các vùng dân cư thuần nông. Do đó việc phát triển doanh nghiệp là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hóa thu nhập của các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp ở các vùng trong nước.
Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm giải quyết vấn đề lao động - việc làm, xem đây là một trong những mục tiêu kinh tế - xã hội cơ bản của sự phát triển. Biện pháp cơ bản giải quyết vấn đề lao động - việc làm là động viên, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Do sự phát triển của doanh nghiệp cho phép thu hút ngày càng nhiều lao động tham gia vào quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Qua đó đã góp phần tạo nên việc làm và đa dạng hoá các loại hình công việc trong nông thôn, tạo thêm những ngành nghề với trình độ kỹ thuật và công nghệ cao hơn, góp phần nâng cao trình độ lao động trong nông thôn, đồng thời phân bổ lại lao động nông nghiệp nông thôn, từng bước cải thiện đời sống nông thôn, tăng thu nhập và xoá đói giảm nghèo.
+ Góp phần thu hút vốn.
Vốn là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, nó có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng doanh nghiệp. Nhưng thực tế hiện nay đang có một nghịch lý là hầu hết các doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng trong khi đó vốn nhàn rỗi trong dân cư còn rất lớn chưa phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Trong tình hình đó, với đặc điểm hình thành của các doanh nghiệp là gắn liền với các điều kiện thực tế của các dân cư nên dễ tiếp xúc trực tiếp với các nguồn vốn này để huy động vốn hoặc chính người chủ sở hữu vốn đầu tư vốn để trực tiếp kinh doanh Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp đã huy động ngày càng nhiều vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh điều đó thu hút một lượng vốn nhàn rỗi từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn trong xã hội và góp phần sử dụng hiệu quả đồng vốn dư thừa .
+ Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH.
Các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các doanh nghiệp ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các doanh nghiệp ở thành thị cũng góp phần làm cho tỷ trọng dịch vụ tăng thêm và làm cho tỷ trọng khu vực nông nghiệp thu hẹp lại trong cơ cấu kinh tế quốc dân, làm dịch chuyển từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ thuần nông sang một nền kinh tế đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại, thể hiện trên các mặt:
* Cơ cấu thành phần kinh tế: Chuyển hướng theo đúng các quy luật của cơ cấu kinh tế hàng hóa theo định hướng XHCN, các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, phát huy được tiềm năng cho tăng trưởng đất nước, các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, củng cố lại, kinh doanh có hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
* Cơ cấu ngành: Phát triển nhiều ngành, nghề đa dạng và phong phú theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Thực tế những năm qua cơ cấu kinh tế ở nước ta thay đổi theo hướng tiến bộ, tỷ trọng giá trị nông nghiệp giảm liên tục, còn tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng lên, trong đó có sự đóng góp của doanh nghiệp.
* Cơ cấu vùng, lãnh thổ: Các doanh nghiệp được phân bổ rộng khắp trên mọi vùng lãnh thổ cả vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay, các doanh nghiệp vẫn chủ yếu tập trung ở thành thị. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính sách.
Nhiệm vụ của doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bên cạnh những vai trò của mình thì các doanh nghiệp còn có các nhiệm vụ sau:
+ Thực hiện nghĩa vụ nôp thuế cho ngân sách nhà nước. Nhiệm vụ này một mặt thể hiện nhiệm vụ đóng góp vào ngân quỹ cho hoạt động quản lý của nhà nước, phục vụ trở lại cho xã hội, mặt khác nó còn là sự bồi hoàn trở lại cho xã hội khi doanh nghiệp sử dụng những cơ sở vật chất phúc lợi cho xã hội. Song song với nhiệm vụ đó, doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm bảo toàn vốn mà nhà nước giao phó.
+ Đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hoá theo đúng tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền, thực hiện nhiệm vụ này là một đòi hỏi hợp lý của người tiêu dùng, nó thể hiện thái độ tôn trọng quyền lợi người tiêu dùng.
+ Bảo đảm việc thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh cũng như quá trình phát triển sản xuất của doanh nghiệp không gây tàn phá môi trường xã hội.. Đây là nhiệm vụ vô cùng bức thiết, thực tiễn cho thấy, nếu không tôn trọng triệt để nhiệm vụ này sẽ ảnh hưởng khôn lường tới môi trường điều này gây thiệt hại cho ngân quỹ phát triển của đất nước.
+ Tôn trọng các chế độ báo cáo thống kê, tài chính, kế toán thống nhất theo các báo biểu và định kỳ quy định của nhà nước nhằm thực hiện tốt công tác thống nhất hoá, tiêu chuẩn hoá việc xác định tính toán các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật- xã hội của quốc gia. Đi đôi với nhiệm vụ này, mỗi doanh nghiệp cần phải chấp hành tốt chế độ kiểm tra tài chính của nhà nước.
+ Tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế đã ký kết với các đơn vị khác, mọi sự vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho cơ quan, đơn vị khác phải được bồi thường thoả thuận theo pháp luật.
+ Đảm bảo các điều kiện làm việc, quyền lợi của người lao động, tạo mọi điều kiện để người lao động làm việc trong doanh nghiệp ngày càng được nâng cao tri thức, nghề nghịêp. Tôn trọng chế độ thù lao lao động tối thiểu được nhà nước ban hành [30].
2.1.2 Thực trạng phát triển các doanh nghiệp ở Việt Nam trong cơ chế thị trường
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp là yếu tố quan trọng quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như : cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Có thể nói vai trò của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội thực tế cho thấy số lượng doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển rất nhanh.
Kể từ sau khi các luật về đăng ký kinh doanh được ban hành và sửa đổi như: Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Đầu tư trực tiếp của nước ngoài, Luật Hợp tác xã và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp đã đi vào cuộc sống, hoạt động trong khu vực doanh nghiệp có nhiều thay đổi, môi trường thông thoáng hơn, sản xuất kinh doanh sôi động hơn, vai trò của doanh nghiệp được ghi nhận và có nhiều tiến bộ. Cụ thể số doanh nghiệp đang hoạt động của các năm gần đây như sau:
Bảng 2.1. Số doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam
Số doanh nghiệp đang hoạt động
31/12/2004
31/12/2005
31/12/2006
Tổng số
91756
112950
131318
A. Chia theo khu vực kinh tế
1.Khu vực doanh nghiệp nhà nước
4597
4086
3706
2.Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh
84003
105167
123392
Trong đó:
- Hợp tác xã
5349
6334
6219
- Doanh nghiệp tư nhân
29980
34646
37323
- Công ty hợp danh
21
37
31
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
40918
52505
63658
- Công ty cổ phần
7735
11645
16161
3. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
3156
3697
4220
B. Chia theo ngành
1. Nông, lâm, thủy sản
2369
2429
2399
2. Công nghiệp
23192
27701
30786
3. Xây dựng
12315
15252
17783
4. Thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng
40047
49386
57621
5. Vận tải, bưu chính, viễn thông
5351
6754
7695
6. Các ngành dịch vụ khác
8481
11428
15034
Nguồn: Trang web của Tổng cục thống kê
Kết quả trên cho ta thấy: Số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động trong các ngành kinh tế tính đến 31/12/2006 là 131318 doanh nghiệp, so với năm 2004 tăng 39562 doanh nghiệp. Trong đó:
- Doanh nghiệp nhà nước có 3706 doanh nghiệp, giảm 891 doanh nghiệp so với năm 2004.
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 123392 doanh nghiệp, tăng 39389 doanh nghiệp so với năm 2004.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 4220 doanh nghiệp, tăng 1064 doanh nghiệp so với năm 2004.
Về mặt số lượng, doanh nghiệp tăng chủ yếu ở khu vực ngoài quốc doanh, tiếp đó là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp nhà nước giảm do tổ chức sắp xếp lại và cổ phần hoá chuyển qua khu vực ngoài quốc doanh.
Trong các ngành kinh tế, ngành xây dựng 17783 doanh nghiệp, tăng 5468 doanh nghiệp so với năm 2004. Ngành công nghiệp (gồm công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến và sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước) 30768 doanh nghiệp, tăng 7576 doanh nghiệp so với năm 2004. Ngành thương nghiệp 57621 doanh nghiệp, tăng 17574 doanh nghiệp so với năm 2004. Doanh nghiệp tập trung ở một số vùng trọng điểm như : Vùng Đông Nam bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Tóm lại số doanh nghiệp trong những năm gần đây ngày một tăng lên và đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc tạo ra tổng sản phẩm trong nước. Cùng với số doanh nghiệp tăng lên, các yếu tố sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Lao động, nguồn vốn, tài sản và kết quả sản xuất kinh doanh như: Doanh thu, nộp ngân sách cũng tăng lên đang kể.
2.2 Phát triển sản xuất kinh doanh vừa là mục tiêu, vừa thể hiện vị thế của doanh nghiệp
2.2.1 Mục tiêu và động lực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mục tiêu và động lực của các doanh nghiệp là phấn đấu để đạt được tối đa hoá lợi nhuận. Trước sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo nên tiền đề trong việc sản xuất nhiều của cải vật chất cho xã hội, mở rộng và đa dạng hoá các mặt hàng, dịch vụ. Việt Nam trở thành thành viên của WTO tạo điều kiện tham gia thị trường toàn cầu sẽ là động lực cho các doanh nghiệp phấn đấu nhiều hơn nữa để tồn tại và phát triển.
Trước bối cảnh đó, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra cho mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khắt khe sản xuất không thể với bất kỳ giá nào, phải bán được những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường cần và chấp nhận được chứ không phải bán những gì mà mình có, trước sức ép của thị trường đã buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng nguyên tắc và có hiệu quả.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá tình tái sản xuất trải qua các giai đoạn T - H -...SX...- H - T. Doanh nghiệp dùng tiền mua vật tư thiết bị, công nghệ (giai đoạn dự trữ), kết hợp với sức lao động (giai đoạn sản xuất) tạo ra hàng hoá, bán hàng hoá đi thu tiền (giai đoạn lưu thông) với mục đích thu được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra ban đầu.
Như vậy quá trình sản xuất kinh doanh chính là sự phối hợp toàn diện, thống nhất của nhiều giai đoạn, kết quả thực hiện của mỗi giai đoạn đều ảnh hưởng đến kết quả của cả quá trình. Qua quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh, hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại bao gồm nhiều mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, ở bất kỳ phạm vi nào, các nhà sản xuất đều tìm cách huy động và kết hợp các yếu tố đầu vào sao cho chi phí ở mức nhỏ nhất và giá trị sản phẩm sản xuất là cao nhất. Mọi quá trình sản xuất đều liên quan mật thiết đến 2 yếu tố cơ bản đó là chi phí và kết quả thu được từ chi phí đó [20].
Vậy sản xuất kinh doanh là toàn bộ họat động của con người để tạo ra sản phẩm hữu ích có thể là vật chất hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và xuất khẩu thu lợi nhuận. Những sản phẩm vật chất và dịch vụ tạo ra có thể bán trên thị trường, trong cơ chế thị trường tất cả các sản phẩm làm ra đều là hàng hoá. Sản xuất là nguồn gốc của thu nhập và lợi nhuận của các đơn vị sản xuất kinh doanh sản phẩm của mình trên thị trường [14]. Để đạt được mục tiêu đã định, các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để cho doanh nghiệp mình phát triển. Phát triển được coi như quá trình biến chuyển của xã hội, phát triển theo khái niệm chung nhất là việc nâng cao hạnh phúc của người dân, bao hàm nâng cao các chuẩn mực sống, cải thiện các điều kiện giáo dục, sức khoẻ, sự bình đẳng và các cơ hội...Ngoài ra việc bảo đảm các quyền về chính trị và công dân là những mục tiêu rộng hơn của phát triển [10]. Có thể hiểu phát triển là quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Do đó phát triển là nhu cầu cố hữu của mỗi cá nhân, tập thể, địa phương, tầm quốc gia, trong đó đặc biệt quan trọng là các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp. Vì vậy phát triển nói chung, phát triển sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp nói riêng vừa là yêu cầu vừa là động lực, mục tiêu cho mọi thời kỳ, giai đoạn khác nhau.
Trong sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp, phát triển đó là sự gia tăng về quy mô, chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo yêu cầu phát triển ổn định, bền vững.
Như vậy, có thể hiểu phát triển sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp là sự gia tăng về số lượng và chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo yêu cầu phát triển ổn định, bền vững.
Tuỳ thuộc vào mục tiêu, đặc điểm mà nội dung của phát triển được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Phát triển sản xuất kinh doanh ổn định, bền vững cho doanh nghiệp không thể tách rời sự đảm bảo về lợi ích của các bên liên quan: Nhà nước, địa phương, doanh nghiệp và người lao động. Lợi ích đưa lại không chỉ có lợi ích kinh tế mà bao gồm cả lợi ích xã hội, môi trường...lợi ích xét cả về trước mắt và lâu dài.
Vậy để phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải nghiên cứu đầy đủ, tổng hoà các mối quan hệ về kinh tế - xã hội - môi trường, quan hệ bên trong, bên ngoài, các yếu tố kinh tế, phi kinh tế trong đó lợi ích của doanh nghiệp, người lao động đặc biệt quan tâm.
Nghiên cứu phát triển sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp là phải trả lời được những cơ hội, thách thức, những yếu tố liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đưa ra được những giải pháp để phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển doanh nghiệp.
2.2.2 ý nghĩa của việc phát triển sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp
Phát triển sản xuất kinh doanh là nhu cầu bản thân mỗi doanh nghiệp. Thông qua quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh sẽ đáp ứng nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ cho xã hội, mục tiêu của các doanh nghiệp là tìm kiếm sự chênh lệch giữa kết quả và chi phí (chính là lợi nhuận). Trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp muốn đạt được lợi nhuận tối đa người ta cần phải quan tâm tới các biện pháp phát triển sản xuất kinh doanh. Phát triển sản xuất kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu, là mục tiêu của doanh nghiệp và mọi nền kinh tế vì:
- Phát triển sản xuất kinh doanh là nguồn gốc để tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp, từ đó cải thiện đời sống của công nhân viên trong doanh nghiệp, làm nghĩa vụ cho ngân sách nhà nước, tái sản xuất mở rộng và tăng thêm nhu cầu phúc lợi trong phạm vi doanh nghiệp.
- Nhu cầu của con người về sản phẩm hàng hoá ngày càng cao, do đó phát triển sản xuất kinh doanh sẽ đáp ứng cho người tiêu dùng những sản phẩm tốt về chất lượng, đa dạng về chủng loại và đẹp về mẫu mã.
- Sản xuất kinh doanh là khâu trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, do đó phát triển sản xuất kinh doanh sẽ làm tăng GDP của cả nước.
Phát triển sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp luôn coi đó là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, có ý nghĩa sống còn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
2.3 Những nội dung cơ bản phản ánh sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục đích là sản xuất và cung cấp những sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp cần đẩy mạnh quá trình phát triển sản xuất kinh doanh nó bao hàm cả sự tăng lên về quy mô và chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nội dung tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, quy mô họat động có tính chất quyết định tới mức độ tăng trưởng của một doanh nghiệp, nó thể hiện sự gia tăng về vốn, lao động, khối lượng và chủng loại sản phẩm. Đây là các yếu tố chính, tiên quyết có ý nghĩa quyết định tới quá trình sản xuất kinh doanh. Các yếu tố này tăng lên cả số tuyệt đối và tương đối thể hiện quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng. Quy mô hoạt động được thể hiện:
Một là quy mô vốn. Muốn cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, có kết quả, doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu tư vào các giai đoạn khác nhau trong quá trình đó. Do đó vốn được coi là yếu tố quan trọng của mọi quá trình đầu tư và là điều kiện cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Người xưa đã nói: “có bột mới gột nên hồ”. Vốn chính là yếu tố vật chất đầu tiên mà bất cứ quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần đến. Người ta dùng vốn để mua sắm máy móc, thiết bị, mua nguyên vật liệu, thuê nhân công... Vốn tham gia vào tất cả các khâu từ khâu dự trữ, đến sản xuất và lưu thông.
Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời. Doanh nghiệp làm ăn có lãi thì vốn đầu tư phải được bảo toàn và phát triển đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu.
Để sử dụng có hiệu quả các loại vốn doanh nghiệp cần phải tính toán, cân nhắc, sử dụng tiết kiệm, linh hoạt để tăng mức doanh lợi nhằm phát triển sản xuất kinh doanh.
Hai là quy mô lao động. Trong các yếu tố cấu thành nên giá trị sản phẩm, lao động là yếu tố năng động nhất. Lao động đã sáng tạo ra giá trị thặng dư. Lực lượng lao động tác động đến quá trình sản xuất trên 2 mặt đó là số lượng lao động và chất lượng lao động. Trong đó số lượng lao động tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh thể hiện qua số lao động và thời gian lao động tham gia vào các hoạt động của doanh nghiệp, chất lượng lao động thể hiện qua trình độ tay nghề, ý thức tinh thần trách nhiệm của người lao động và được thể hiện qua năng suất. Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ tiến bộ rất nhanh, đòi hỏi doanh nghiệp phải áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tự động hóa máy móc thiết bị vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, đi đôi với việc tăng năng suất lao động thì chất lượng lao động không ngừng nâng lên, đòi hỏi người lao động phải có trình độ văn hoá, có tri thức, nắm bắt được khoa học kỹ thuật, trình độ lành nghề, phải thường xuyên nâng cao trì._.nh độ thì mới có thể điều khiển máy móc trang thiết bị hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, phục vụ nhu cầu sản xuất hàng hoá để xuất khẩu.
Ba là khối lượng sản phẩm sản xuất. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra có ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Sản phẩm sản xuất ra càng nhiều thì khả năng doanh thu sẽ càng lớn, lợi nhuận càng cao khi đó thể hiện sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra đã được xã hội thừa nhận. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra tăng hay giảm nó phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, tình hình tổ chức tiêu thụ sản phẩm, việc ký kết hợp đồng tiêu thụ đối với khách hàng, việc giao hàng và vận chuyển thanh toán tiền hàng.
Bốn là chủng loại sản phẩm sản xuất. Mỗi doanh nghiệp có thể sản xuất ra nhiều loại sản phẩm khác nhau với giá cả và giá trị sử dụng khác nhau. Tuy nhiên mỗi mặt hàng đều có tác dụng nhất định đối với mỗi người tiêu dùng. Việc đa dạng hoá sản phẩm sản xuất không chỉ giúp cho người tiêu dùng thoả mãn sự lựa chọn khi mua hàng mà còn giúp cho doanh nghiệp tránh được những rủi ro về tài chính trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Muốn phát triển sản xuất kinh doanh bên cạnh sự sự tăng lên về quy mô thì sự tăng lên về chất lượng hoạt động của doanh nghiệp còn có ý nghĩa quyết định tới sự tăng trưởng ổn định và bền vững trong mỗi giai đoạn hoạt động của doanh nghiệp. Vì như chúng ta đã biết bất kỳ hoạt động nào khi đầu tư cũng đều phải quan tâm tới hiệu quả. Quá trình sản xuất kinh doanh nếu chỉ quan tâm về mặt quy mô thì quá trình đó sẽ không được bền vững và chưa chắc đã mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh giữ vị trí quan trọng cho quá trình phát triển của doanh nghiệp, chất lượng hoạt động được thông qua các nội dung chính như lợi nhuận thu được, thị trường tiêu thụ sản phẩm, công nghệ sản xuất, thương hiệu sản phẩm. Cụ thể nội dung này được thể hiện:
Thứ nhất là lợi nhuận. Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là chỉ tiêu cụ thể nhất, rõ ràng nhất thể hiện sự phát triển sản xuất kinh doanh, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá chất lượng của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, khẳng định khả năng cạnh tranh, bản lĩnh của doanh nghiệp trong nền kinh tế vốn dĩ đầy bất trắc và khắc nghiệt. Lợi nhuận còn là nguồn tích luỹ cơ bản để tái đầu tư và đầu tư mở rộng tại doanh nghiệp. Lợi nhuận là nguồn cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Thứ hai là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thị trường là yếu tố không thể thiếu được của nền sản xuất hàng hóa. Sự xuất hiện và phát triển của thị trường không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Theo quan điểm của kinh tế học thì “Thị trường là tổng thể của cung và cầu đối với một loại hàng hoá cụ thể”. Định nghĩa này xuất phát trên cơ sở là tổng số cung và tổng số cầu về một loại hàng hoá trên thị trường vận động theo những quy định riêng và điều tiết thị trường thông qua quan hệ cung cầu.
Trong nền cơ chế thị trường, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các chủ thể kinh doanh lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy mô cũng như hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Sự vận động và phát triển của thị trường còn phụ thuộc vào các yếu tố như pháp luật về kinh doanh, các chính sách và chiến lược kinh tế, các vấn đề về môi trường tự nhiên - xã hội.
Thứ ba là thương hiệu sản phẩm. Hàng hoá có thương hiệu thường thuận lợi hơn trong việc thâm nhập thị trường và thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Thương hiệu có thể là hình tượng về một doanh nghiệp, hoặc hình tượng về một loại hoặc một nhóm hàng hoá dịch vụ trong con mắt khách hàng, hoặc là các dấu hiệu để phân biệt hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác, của quốc gia này với các quốc gia khác. Thương hiệu tạo ra sự nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng với hàng hoá mà họ được tiếp cận. Hàng hoá có thương hiệu tạo cho khách hàng tin tưởng vào chất lượng, yên tâm và tự hào khi sử dụng sản phẩm, dễ thu hút khách hàng mới, dễ xâm nhập thị trường mới và phân phối sản phẩm dễ dàng hơn.
Đối với doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu sản phẩm là tạo dựng cho được hình ảnh tốt về sản phẩm của doanh nghiệp tại thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu.
Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm và chịu trách nhiệm bảo hộ thương hiệu cho sản phẩm của doanh nghiệp. Các hành vi như làm hàng giả, hàng nhái, sử dụng trái phép thương hiệu đã được đăng ký sẽ bị xử lý theo pháp luật. Nhà nước cũng sẽ lên tiếng bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp khi thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp bị xâm phạm trên thị trường quốc tế.
Thứ tư là công nghệ. Đây là hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin.
Hiện nay chúng ta đang chứng kiến những thay đổi to lớn trong các doanh nghiệp do tác động ngày càng mạnh của khoa học công nghệ. Sự phát triển của doanh nghiệp được thể hiện thông qua quá trình nắm bắt và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, vì các sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao sẽ thắng thế trong các cuộc cạnh tranh. Vì vậy doanh nghiệp phát triển được phải tạo được thế mạnh trên thị trường bằng những sản phẩm có năng lực làm thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng về số lượng, chất lượng, kiểu dáng, tính thẩm mỹ của sản phẩm và quan trọng hơn là phải có năng lực thoả mãn người tiêu dùng cao hơn, nhưng sản xuất với chi phí thấp hơn các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh.
2.4 Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Bộ máy quản trị
Bộ máy quản trị đóng vai trò then chốt trong các hoạt động của doanh nghiệp. Đây chính là bộ phận xác định hướng sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp một cách đúng đắn. Bằng con mắt nhìn nhận của người quản lý, họ có thể dự báo được xu hướng của thời đại, đánh giá được tình hình và đưa ra một hoạch định chiến lược trong từng thời kì phát triển của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là vấn đề tất yếu không thể tránh khỏi, một doanh nghiệp muốn phát triển thì phải chiến thắng trong cạnh tranh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp khai thác và thực hiện phân bổ các nguồn lực sản xuất. Tài năng của các nhà quản trị quyết định đến sự thành đạt của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của bộ máy phụ thuộc lớn vào trình độ chuyên môn của từng cá nhân trong bộ máy.
+ Lực lượng lao động
Trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, lực lượng lao động luôn giữ vai trò chủ đạo, khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển, lao động còn mang tính giản đơn thì hầu hết các hoạt động sản xuất đều do con người thực hiện. Khi các tiến bộ khoa học được áp dụng, các máy móc thiết bị hiện đại được đưa vào vận hành sản xuất thì đòi hỏi trình độ tay nghề của lao động phải nâng lên để đáp ứng nhu cầu đó. Việc áp dụng khoa học kĩ thuật công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh là yếu tố rất quan trọng để tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh trạnh trên thị trường.
Một đơn vị sản xuất kinh doanh mà lực lượng lao động có trình độ chuyên môn tốt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, họ chính là người tạo ra các sản phẩm mới và thực hiện các chiến lược phát triển của đơn vị để đạt được mục tiêu đã đề ra.
+ Yếu tố nguyên liệu
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục bình thường thì nguyên liệu được dùng trong quá trình sản xuất là yếu tố không thể thiếu được. Với đặc thù của Công ty cổ phẩn thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao là sản xuất, chế biến và kinh doanh các mặt hàng rau quả, nông sản khép kín. Để đảm bảo đủ về mặt số lượng và chất lượng nguyên liệu cho sản xuất thì doanh nghiệp phải chú trọng đến các hộ sản xuất vì các hộ này đã chủ yếu cung cấp nguyên liệu phục vụ cho doanh nghiệp chế biến rau quả. Muốn gắn kết vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến thì cần phải tạo mối quan hệ chặt chẽ với người sản xuất nguyên liệu với nhà máy thông qua hình thức hợp đồng như hợp đồng về đầu tư ban đầu cho sản xuất nguyên liệu, hợp đồng mua nguyên liệu gắn với gía cả cụ thể và những biến động gía khi rủi ro xẩy ra với người sản xuất nguyên liệu. Bên cạnh đó cần chú trọng đến các chính sách giá thu mua nguyên liệu, chính sách hỗ trợ như vay vốn, phân bón, đầu tư cơ sở hạ tầng.
Hoạt động sản xuất và thu mua nguyên liệu có quan hệ chặt trẽ với nhau, việc cung ứng phải kịp thời đầy đủ nhằm đáp ứng được công suất nhà máy. Nếu hoạt động này không diễn ra nhịp nhàng sẽ dẫn đến ngừng trệ cho sản xuất, đây là một trong những đặc điểm quan trọng giữa cung ứng và sản xuất, khi đầu ra của nông nghiệp là đầu vào của công nghiệp. Đối với ngành công nghiệp chế biến nói chung và Công ty cổ phần xuất khẩu Đồng Giao nói riêng thì công tác sản xuất nguyên liệu của Công ty đóng vai trò hết sức quan trọng bởi có nguyên liệu thì nhà máy mới có thể hoạt động và tạo ra sản phẩm. Để các cây nguyên liệu phát huy vai trò tích cực trong sản xuất công nghiệp nói chung và công nghiệp chế biến nói riêng thì cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, cơ quan nhà nước các chính quyền địa phương đối với doanh nghiệp. Có như vậy việc gắn kết sản xuất với công nghiệp chế biến với đạt hiệu quả cao. Đối với sản xuất nông nghiệp cần giải quyết tốt đồng thời khâu sản xuất và cung ứng.
+ Cơ sở vật chất kĩ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật là phương tiện sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với quá trình phát triển cơ sở hạ tầng, quá trình tăng năng suất lao động, ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm. Cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố tạo ra tiềm năng tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh.
Trong thực tiễn các doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, trang thiết bị máy móc lạc hậu không thể tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường cả về giá thành và chất lượng nên quá trình sản xuất kinh doanh ở các đơn vị đó thường không phát triển và có chiếu hướng đi xuống và dẫn đến phá sản. Ngược lại những doanh nghiệp được chuyển giao công nghệ sản xuất, trang thiết bị sản xuất hiện đại, nắm bắt được yếu tố kỹ thuật, có thể tăng năng suất lao động và tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt, có thế cạnh tranh so với sản phẩm của các đơn vị khác thì luôn luôn có sự phát triển trong sản xuất kinh doanh và những doanh nghiệp đó thường thành đạt.
Trong sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất ngày càng hiện đại điều đó mang tính chất quyết định tới sự sống còn của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tìm ra hướng đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ đúng thời điểm, phù hợp sẽ là tiền đề cho phát triển sản xuất kinh doanh.
+ Chủ trương và chính sách.
Chủ trương và chính sách của nhà nước có tính định hướng và ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó tác động đến các yếu tố kinh tế - chính trị - xã hội. Đây là vấn đề mang tính vĩ mô như chính sách thuế, tài khoá, tài chính tín dụng, xuất nhập khẩu.... Những chính sách này có thể tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn cho sự phát triển của sản xuất kinh doanh, nó có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các cơ quan quản ký nhà nước phải làm tốt các công tác như dự báo, điều tiết các hoạt động đầu tư... Chính sách đúng đắn của Nhà nước sẽ thúc đẩy mạnh mẽ tới quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
+ Hoạt động Marketing
Thông qua các hoạt động marketing doanh nghiệp nắm bắt được cơ cấu, chủng loại, chất lượng, giá cả sản phẩm cần sản xuất và cung ứng cho thị trường, giúp doanh nghiệp phán đoán và định hướng lập kế hoạch cho việc sản xuất kinh doanh.
+ Mạng lưới truyền thông và nắm bắt thông tin
Trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật thì công nghệ thông tin đang góp phần làm thay đổi bộ mặt sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường thông tin được coi là đối tượng kinh doanh cần thiết tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp cần có nhiều thông tin về hàng hoá, nhu cầu thị trường, đối thủ cạnh tranh, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội... Mạng lưới truyền thông giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được các thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ, bí mật để xử lý, phân tích và ra quyết định đúng đắn. Nhiều doanh nghiệp đạt được thành công nhờ nắm bắt các thông tin cần thiết kịp thời, làm cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định hướng kinh doanh và xây dựng các chiến lược dài hạn cho sản xuất.
2.5 Các chính sách cho phát triển doanh nghiệp - thực tiễn và kinh nghiệm
2.5.1 Thế giới
ở Mỹ áp dụng hình sự hoá các chế tài trong luật chống độc quyền nên môi trường kinh doanh trong nước Mỹ được coi là trật tự, khá ổn định. Nhờ đó một số doanh nghiệp của Mỹ đã đạt tới tầm cỡ thống trị, thao túng, khống chế, kiểm soát một số ngành sản xuất kinh doanh xuất khẩu trên thị trường thế giới. Để có môi trường kinh doanh, cạnh tranh như vậy, chính sách của Mỹ trong lĩnh vực này nhằm vào 4 mục tiêu kinh tế quan trọng nhất:
Trước hết, bảo vệ và duy trì cạnh tranh là mục tiêu trọng tâm bằng cách không cho phép độc quyền, cấm cạnh tranh không lành mạnh và loại bỏ hành động phân biệt và kết cấu về giá.
Thứ hai là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bằng cách cấm những hình thức kinh doanh, cạnh tranh thiếu công bằng, mang tính lừa dối.
Thứ ba là bảo vệ những hãng kinh doanh với quy mô nhỏ mà hoạt động độc lập, tránh khỏi sức ép kinh tế do sự canh tranh của các hãng lớn gây ra.
Thứ tư là nhằm điều chỉnh nhiều hơn tới các các yếu tố chính trị và xã hội có liên quan so với vấn đề kinh doanh và kinh tế.
Còn Singapore là một quốc gia có nền kinh tế phát triển, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của doanh nghiệp được xếp ở thứ bậc cao là nhờ Chính phủ Singapore thực hiện chính sách tự do hoá thương mại và đầu tư rất sớm (1966-1973). Mà then chốt là Chính phủ thực thi chiến lược hướng về xuất khẩu như dồn mọi nỗ lực vào việc tiếp cận và phát triển thị trường nước ngoài, hỗ trợ phát triển các nhà xuất khẩu (1979-1984), xúc tiến xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ (1985-1990). Từ năm 1991 đến nay, Singapore thực thi chính sách “quốc tế hoá nội địa”, mục tiêu là biến Singapore thành một trung tâm thương mại quốc tế lớn.
Quan điểm về xây dựng chính sách cạnh tranh của Singapore là đặt các doanh nghiệp tại Singapore (không phân biệt trong nước, ngoài nước, sở hữu) trong môi trường cạnh tranh quốc gia bình đẳng, theo kiểu chọn lọc tự nhiên, Nhà nước không bảo hộ. Nhưng Nhà nước ưu tiên đầu tư cho doanh nghiệp ở các ngành quan trọng phát triển bằng cổ phần lớn của Nhà nước, khi các doanh nghiệp này đủ mạnh trong cạnh tranh xuất khẩu thì Nhà nước bán cổ phiếu cho dân. Nhà nước Singapore còn chú trọng phát triển các tập đoàn kinh tế thương mại tổng hợp theo mô hình của Nhật Bản và Hàn Quốc. Các tập đoàn kinh tế thương mại tổng hợp có nhiều ưu thế trong cạnh tranh xuất khẩu do có thế lực rất lớn, có mục tiêu cụ thể là cầu nối giữa thị trường trong nước và ngoài nước. Ưu thế của các tập đoàn kinh tế thương mại tổng hợp thể hiện ở chỗ sử dụng đội ngũ chuyên gia tinh thông nghiệp vụ và kiến thức kinh doanh quốc tế, có quy mô và tiềm lực tài chính lớn, năng động vì nắm giữ một lượng thông tin khổng lồ, kịp thời đưa ra các giải pháp khi thị trường có biến động, có đủ khả năng đầu tư tạo lập một ngành công nghiệp lớn hoặc thống trị một ngành, một thị trường lớn.
Nhà nước Singapore rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực với quan điểm là: “mọi cố gắng bằng không khi dân không được giáo dục đào tạo một cách bài bản và chuẩn mực”. Vì vậy, chính sách của Chính phủ tập trung vào giải quyết vấn đề sử dụng thiết bị, phương tiện một cách có hiệu quả nhất chứ không nhất thiết phải ào ạt đầu tư, hiện đại hoá các phương tiện thiết bị khi chưa đồng bộ với lực lượng sử dụng nó.
Mặt khác Chính phủ Singapore cón rất chú trọng chính sách lao động và tiền lương. Việc tuyển dụng lao động và đề bạt cân nhắc căn cứ vào năng lực và chuyên môn thực sự chứ không dựa vào tiêu chuẩn bằng cấp hoặc là con ông cháu cha. Càng cán bộ cao cấp càng phải được đào tạo bắt buộc và thường xuyên. Lập quỹ tiết kiệm Trung ương (CPF) để thực hiện trợ cấp xã hội trên cơ sở bắt buộc các doanh nghiệp đóng góp 25% thu nhập, người lao động đóng 20% thu nhập vào quỹ và được hưởng lãi suất cao, khi về hưu mỗi người có khoản tiền từ 500.000 đến 1.000.000 USD để chi dùng cá nhân [3]. Chính sách này đã tạo cho người lao động Singapore hết lòng với nhà nước và doanh nghiệp, tạo động lực lớn phát triển kinh tế đất nước và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.5.2 ở Việt Nam
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước luôn nhấn mạnh vị trí đặc biệt quan trọng cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đã có nhiều chủ trương, chính sách đổi mới cơ chế quản lý trong doanh nghiệp, phát huy triệt để vai trò chủ động của doanh nghiệp, phấn đấu đưa sản xuất kinh doanh của nước ta trở thành ngành sản xuất hàng hoá và hướng tới xuất khẩu.
Thời gian qua Việt Nam đã có nhiều chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp và các chương trình phát triển doanh nghiệp nhỏ vừa và vừa. Chính phủ và Đảng ta tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đổi mới quản lý kinh tế như chính sách một giá, đảm bảo tự do lưu thông, tiêu thụ trên thị trường cả nước, thương mại hoá vật tư, từng bước xác lập vai trò tự chủ trong phát triển sản xuất kinh doanh.
Đổi mới quản lý trên lĩnh vực phát triển sản xuất kinh doanh đó đã đáp ứng đúng tâm tư, nguyện vọng đông đảo của các doanh nghiệp, bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hoá gắn với xuất khẩu, từng bước thâm nhập thị trường nhiều nước. Đảng và Nhà nước đã quyết định 4 vấn đề trọng yếu:
Một là, đặt sự phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình CNH - HĐH đất nước. Coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu.
Hai là, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế trong các doanh nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, gắn sản xuất với thị trường, mở rộng sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Bốn là, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trung ương Đảng đã đề ra phương hướng, giải phát cụ thể như: Đổi mới doanh nghiệp, cải tiến cơ cấu kinh tế, kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
3. Đặc điểm của công ty và phương pháp nghiên cứu
3.1 Đặc điểm của Công ty
3.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao là một doanh nghiệp sản xuất, chế biến và kinh doanh các mặt hàng rau quả, nông sản trực thuộc Tổng công ty rau quả nông sản. Trụ sở của Công ty đặt tại Phường Trung Sơn - Thị xã Tam Điệp - Tỉnh Ninh Bình
Tên giao dịch quốc tế: Donggiao JOINSTOCK FOODSTUFF EXPORT COMPANY.
Tên viết tắt: Doveco.
Tiền thân của Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao là Nông trường quốc doanh Đồng Giao được thành lập ngày 16/12/1955. Quá trình phát triển của Công ty gồm 4 giai đoạn:
Giai đoạn từ 1955đ1975, đây là giai đoạn Nông trường mới được thành lập sản xuất gặp nhiều khó khăn, phương hướng sản xuất liên tục thay đổi, với diện tích đất tự nhiên là vùng đất đồi miền trung du rất thuận lợi cho việc phát triển trồng cây công nghiệp như: mía, chè, cà phê, lạc, vừng... đặc biệt phù hợp với sự phát triển của cây dứa.
Đến cuối tháng 12 năm 1956 tổng số cán bộ công nhân đã lên tới 1200 người tập trung vào nhiệm vụ duy nhất là khai hoang. Trong những ngày khai hoang vất vả này, Nông trường đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh Ninh Bình. Mỗi ngày có hàng trăm người từ các xã lân cận của huyện Yên Mô, huyện Nho Quan được điều đến Nông trường để khai hoang vỡ đất. Đến cuối năm 1957, hơn 2000 ha rừng hoang vu mọc đầy lau lách đã được thay bằng những cánh đồng bằng phẳng rộng mênh mông chạy dài từ đồi vải (xã Đông Sơn) đến Trại ngọc Dốc Giang (giáp tỉnh Thanh Hoá).
Một loại cây phát triển trên diện tích lớn nhất, có tuổi thọ cao nhất đi suốt hơn 30 năm xây dựng Nông trường đó là cây cà phê. Mùa xuân năm 1957 những cây phà phê mít đầu tiên được trồng ở Đội Ghềnh. Sau 7 năm trồng mới cà phê (1957-1963) tổng diện tích cà phê lên tới 1317 ha.
Sự xuất hiện của cây dứa vào năm 1972 là một dấu ấn lịch sử báo hiệu sự ra đời của một thời kỳ làm ăn lớn. Với những ưu thế và hiệu quả kinh tế của cây dứa vào những năm 1973, 1974 đã mở ra hướng đi và cách làm ăn mới cho những năm sau này. Bò thịt, bò giống và cung cấp phân bón cho cây trồng từ 12000 – 15000 tấn mỗi năm. Ngành chăn nuôi bò năm nào cũng thu được lãi lớn và trở thành ngành sản xuất chính của Nông trường.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các loại vật nuôi, cây trồng, các ngành sản xuất dịnh vụ cũng được hình thành, tạo cho Nông trường một thế cân bằng, toàn diện và bề thế. Năm 1961 xưởng chế biến cà phê ra đời. Đến năm 1965 Đồng Giao được Bộ Nông trường trang bị cho 1 nhà máy hiện đại có năng suất cao hơn đó là thiết bị của Cộng hoà liên bang Đức. Đầu năm 1965 đội máy kéo, ô tô đã được trang bị 20 đầu máy các loại và 20 xe ô tô. Năm 1966 toàn bộ đường trục chính của Nông trường đã được rải đá cấp phối với chiều dài 30 km.
Giai đoạn từ 1975đ1990, đây là giai đoạn đất nước đã hoàn toàn giải phóng cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng hậu quả do chiến tranh để lại, cuộc khủng hoảng kinh tế ở Đông Âu và sự cấm vận của Mỹ, đặc biệt với việc sản xuất trong chế độ bao cấp nên sản xuất của công ty không phát triển.
Tính đến hết năm 1974 cây dứa đã tròn 3 năm làm bạn với đất của người Đồng Giao. Diện tích trồng 65 ha, năm 1973 vụ dứa đầu tiên thu được 26 tấn, năm 1974 thu 84 tấn, năm 1975 thu 300 tấn, năm 1975 Nông trường đưa diện tích trồng dứa lên 220 ha.
Cây có duyên nợ lâu đời nhất ở Đồng Giao đã một thời được mệnh danh là “Nữ hoàng đen ", qua bao đạn bom, bão táp, mưa sa, bão lửa vẫn gắn bó với đất của người Đồng Giao tự khẳng định giá trị kinh tế của mình. Đến nay đã xuất hiện loài cây ăn quả mới, cây dứa “Nữ hoàng vàng” đã hiện diện cùng "Nữ hoàng đen”.
Đối với cây dứa, Nông trường đã ưu tiên diện tích cho việc phát triển, tốc độ trồng mới mỗi năm từ 120-150 ha, có những năm tốc độ trồng mới 300 ha. Đến năm 1990 diện tích dứa đã lên tới trên 800 ha. Sản lượng dứa tăng dần qua các năm, nhiều diện tích đạt năng suất 42 tấn/ha. Đây là thời kỳ ổn định và khởi sắc nhất đối với cây dứa. Trong khi đó ở một số Nông trường khác lao đao vì cây dứa, thậm trí có Nông trường phải phá huỷ toàn bộ diện tích dứa.
Trước sự phát triển ngày càng tăng cả về mặt diện tích và sản lượng dứa quả, vấn đề đặt ra là phải chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu như thế nào để nâng cao hiệu quả kinh tế cho cây dứa. Ngày 2/4/1977 tại Đại hội Đảng bộ Nông trường lần thứ 12 nhất trí cao đề nghị với nhà nước cho xây dựng nhà máy đông lạnh dứa xuất khẩu. Có thể nói đây là Đại hội khai sinh ra nhà máy đông lạnh dứa xuất khẩu của Nông trường. Ngày 22/3/1978 nhà máy đông lạnh dứa đã được nhà nước phê duyệt với quy mô, công suất 5.000 tấn dứa đông lạnh/năm. Ngày 4/6/1978 lễ khởi công, sau 6 tháng xây dựng với sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của chuyên gia Nhật Bản nhà máy đã hoàn thành và đi vào hoạt động.
Cùng với sự phát triển cây dứa, sự hình thành nhà máy đông lạnh xuất khẩu dứa đã đưa vị trí cây dứa trở thành vị cứu tinh của Đồng Giao. Từ đây dứa đông lạnh xuất khẩu trở thành sản phẩm hàng hoá chủ yếu có giá trị kinh tế cao. Những kiện dứa đông lạnh xuất khẩu mang nhãn hiệu Đồng Giao được xuất đi nhiều nước trên thế giới. Tổng sản phẩm sản suất ra trong 12 năm (1979-1990) là 11.332 tấn. Sản phẩm sản xuất ra đến đâu đều xuất khẩu hết và có lãi, kim ngạch xuất khẩu đứng đầu ngành chế biến rau quả. Tốc độ sản xuất dứa đông lạnh năm sau cao hơn năm trước. Năm 1979 đạt 498 tấn, năm 1984 đạt 650 tấn, năm 1986 đạt 1035 tấn, năm 1990 đạt 2000 tấn.
Đối với cây cà phê, Nông trường đã khôi phục lại vườn ươm cà phê, đẩy nhanh tốc độ trồng mới, thay đổi cơ cấu giống, đưa giống cà phê Chè Cutara một của Cu ba để thay thế dần cà phê chè Tiphica. Đến năm 1977 tổng diện tích cà phê đạt 488 ha. Nhưng giống cà phê mới cũng không thích nghi với thời tiết, đất đai sinh trưởng phát triển kém, năng suất thấp, càng đầu tư càng thua lỗ. Đến năm 1985 cây cà phê bị xoá sổ, dành diện tích đất để trồng dứa.
Cũng trong thời gian này, Nông trường triển khai thực hiện Quyết định 25, 26/CP của Hội đồng Bộ trưởng về cải tiến phương pháp khoán mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động”.
Giai đoạn từ 1990 đ 2000, trong giai đoạn này Nông trường đã hai lần đổi tên cho phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và cũng phù hợp với xu hướng mở cửa, hội nhập của nền kinh tế đất nước.
Ngày 25/12/1991 Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô Viết chính thức bị giải tán và sụp đổ hoàn toàn. Thị trường truyền thống dứa đông lạnh của Nông trường bị mất dần. Nông trường Đồng Giao bước vào thời kỳ của những thử thách gay go và quyết liệt. Tình hình ấy đặt ra cho Nông trường những câu hỏi lớn: Làm thế nào để giải quyết đầu ra cho sản phẩm dứa đông lạnh khi thị trường truyền thống mất dần, khi nhà máy dứa đông lạnh xuất khẩu đang hoạt động có hiệu quả, lấy cây gì thay cho cây dứa đang ổn định và phát triển trên diện tích hơn 1000 ha. Trong thời kỳ này đời sống cán bộ công nhân viên chức cực kỳ khó khăn, tưởng chừng Công ty không tồn tại được.
Năm 1993, theo Quyết định số 78/NN-TCCB-QĐ của Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Nông trường đổi tên thành “Xí nghiệp nông - công nghiệp Đồng Giao”
Trong năm này Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm cho phép Xí nghiệp xây dựng mới một nhà máy đồ hộp chế biến rau quả với công suất 1500 tấn/năm trên diện tích xưởng đông lạnh mở rộng. Cuối năm 1993 dây chuyền đồ hộp đã đi vào sản xuất và sản xuất có hiệu quả, từ đó việc tiêu thụ nguyên liệu dứa quả lại được ổn định, sản phẩm sản xuất ra trong 7 năm 1994 đến năm 2000 là 6600 tấn, trong đó dứa hộp chiếm 85%, rau quả khác chiếm 15%.
Nhiệm vụ sản xuất chính trong giai đoạn này là sản xuất nông nghiệp và chế biến công nghiệp từ nguồn nguyên liệu sẵn có như: sản xuất dứa đóng hộp, dứa đông lạnh và các loại nước hoa quả.
Năm 1997, theo Quyết định số 3193/NN-TCCB-QĐ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Xí nghiệp đổi tên thành “Công ty thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao”.
Năm 1998, sau khi đi nghiên cứu thị trường rau quả thế giới và thăm quan vùng nguyên liệu dứa quả Cayen của Thái Lan và Trung Quốc. Công ty đã xin ý kiến Tổng công ty rau quả Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đưa giống dứa Cayen về trồng ở Đồng Giao vì giống dứa Cayen cho năng suất cao (năng suất đạt 60 tấn/ha) gấp 3 lần giống dứa Queen, đồng thời sản phẩm dứa quả lại phù hợp với thị hiếu của thị trường thế giới. Tháng 10 năm 1998 Công ty đã mua chồi giống Cayen đưa về trồng, cuối năm 1998 đã trồng được 20 ha, năm 1999 trồng được 114 ha. Năng suất dứa Cayen bình quân thu trong năm 1999 đạt 45 tấn/ha, nhiều diện tích đạt 50-55 tấn/ha. Chồi giống dứa Cayen trở thành hàng hoá đặc biệt mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ kết quả năng suất sau vụ thu hoạch đầu tiên và những năm tiếp theo đã khẳng định cây dứa Cayen rất phù hợp với điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu ở Đồng Giao. Và là cây cho hiệu quả kinh tế cao nhất từ trước đến nay được trồng trên đất Đồng Giao. Nhiều hộ trồng dứa Cayen đã có thu nhập cao, nhiều diện tích thu nhập đạt 50 triệu đồng/ha/năm gấp 5 lần so với dứa Queen. Toàn bộ diện tích trồng mía và dứa Queen dần từng bước được thay vào trồng dứa Cayen. Đến năm 2000 tổng diện tích dứa Cayen trong Công ty là 370 ha, sản lượng dứa 5726 tấn tăng gấp 3 lần so với năm 1997.
Quy mô sản xuất trong giai đoạn này là phát triển trồng dứa (Cayen và Queen), trồng mía và các loại cây ăn quả như: dưa chuột, vải,... làm nguyên liệu cho dây chuyền chế biến đồ hộp xuất khẩu.
Giai đoạn từ 2000 đến nay. Nhiệm vụ sản xuất chính trong thời gian này là sản xuất nông nghiệp và chế biến công nghiệp từ nguồn nguyên liệu sẵn có như: sản xuất đồ hộp (dứa ,dưa chuột, ngô ngọt...), nước cô đặc, nước chưa cô, Furee, lạnh IQF, nước quả tự nhiên và các dịch vụ khác...
Năm 2001, Công ty đổi mới dây chuyền thiết bị nâng công suất lên 10000 tấn/năm, đạt doanh thu 30,5 tỷ đồng.
Năm 2002, được sự hỗ trợ của Tổng Công ty rau quả nông sản, Công ty thành lập thêm dây chuyền sản xuất dứa cô đặc với công suất 5000 tấn/năm, làm doanh thu tăng lên 39,5 tỷ đồng.
Đến năm 2006 theo Quyết định số 253/QB/BNN-TCCB của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Công ty thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao đổi tên thành “Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao”.
Trong giai đoạn này đây là thách thức lớn đối với Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao. Tình hình trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp bất ổn định về chính trị. Về kinh tế, các biểu hiện tiêu cực của kinh tế thị trường tác động sâu sắc vào mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Mặt khác, thời tiết không thuận lợi cho quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Nhưng với tinh thần quyết tâm, đoàn kết gắn bó vượt mọi khó khăn của tập thể cán bộ công nhân viên. Đồng thời được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Tỉnh uỷ, UBND Tỉnh Ninh Bình, Thị uỷ, UBND Thị xã Tam Điệp và sự hỗ trợ có hiệu quả của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng công ty Rau quả, nông sản, các cơ quan ban ngành cấp trên và các đơn vị xung quanh, đã tạo ra những động lực to lớn thúc đẩy cho Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao xác định bước đi vững chắc trong giai đoạn này.
Từ năm 2006 đến nay Công ty chuyển từ hình thức hoạt động công ty nhà nước thành công ty cổ phần, sau đại hội cổ đông sáng lập mọi hoạt động của công ty vẫn giữ được nhịp độ phát triển, cán bộ công nhân viên yên tâm sản xuất và công tác. Sản ._. cho chế biến xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực như sản phẩm đồ hộp và sản phẩm cô đặc và Puree của Công ty. Chú trọng tới các loại cây trồng cơ bản như dứa nhằm cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến một cách ổn định. Tuyển dụng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ và công nhân có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu về quản lý Công ty theo cơ chế thị trường và công nhân có trình độ thành thạo, có tay nghề cao. Mở rộng các hình thức liên kết trong sản xuất với mục đích là thu hút vốn đầu tư và công nghệ mới. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, chú trọng tới công tác mở rộng thị trường xuất khẩu mới như Trung Quốc, BăngLaĐét, Ixraen. Huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh bằng những cơ chế có hiệu quả nhất.
Bảng 4.16. Dự kiến kế hoạch sản xuất kinh doanh giai đoạn 2008 - 2012 (Các chỉ tiêu về tài chính)
Chỉ tiêu
ĐVT
2008
2009
2010
2011
2012
1.Tổng doanh thu
Triệu đồng
360000
400000
440000
490000
550000
Trong đó: ngành chế biến
Triệu đồng
270000
290000
330000
360000
410000
2.Kim ngạch xuất khẩu
Triệu USD
13,2
14,5
15,2
16,2
18
3.Vốn điều lệ
Triệu đồng
40000
40000
40000
40000
40000
4.Lợi nhuận trước thuế
Triệu đồng
12835
14115
15530
17000
18790
5.Thuế thu nhập doanh nghiệp
Triệu đồng
3590
3952
4348
4760
5261
6.Lợi nhuận sau thuế
Triệu đồng
9245
10163
11282
12240
13529
7.Trích quỹ dự trữ
Triệu đồng
462
508
564
612
676
8.Trích quỹ khen thưởng
Triệu đồng
924
1016
1128
1224
1352
9.Chia lợi tức
Triệu đồng
7859
8639
9590
10404
11501
10.Thu nhập bình quân/tháng
Triệu đồng
3
3,2
3,3
3,4
3,5
Bảng 4.17. Dự kiến nguyên liệu và sản phẩm ngành công nghiệp giai đoạn 2008 - 2012
Đơn vị tính : Tấn
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
2011
2012
I. Nguyên liệu cho chế biến
51229
52669
53796
55192
57269
1. Dứa quả
40108
41500
42500
43500
45500
2. Ngô ngọt
2150
2220
2260
2450
2600
3. Dưa chuột
2439
2315
2151
2143
2000
4. Vải quả
3170
3220
3340
3520
3585
5. Rau quả khác
3362
3414
3545
3579
3584
II. Sản phẩm ngành công nghiệp
21078
21620
22490
23740
24880
1. Đồ hộp
12598
13000
13500
14500
15300
Trong đó: - Dứa
6200
7000
7500
8000
8500
- Ngô ngọt
1000
1080
1200
1320
1450
2. Sản phẩm lạnh
1500
1570
1680
1700
1800
3. Nước quả tự nhiên
430
430
430
430
430
4. Sản phẩm cô đặc và Puree
6050
6100
6300
6500
6700
Trong đó: Dứa
4250
4420
4600
4900
5000
5. Sản phẩm khác
500
520
580
610
650
Cơ sở thực tiễn của định hướng sản xuất kinh doanh giai đoạn 2008 - 2012. Từ thực tế nghiên cứu và khảo sát quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao và nhu cầu thị trường, khả năng sản xuất các dây chuyền thiết bị, chúng tôi nhận thấy sau khi thực hiện cổ phần hoá, Công ty đã thực sự có sự chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt.
Để đạt được mục tiêu đề ra Công ty phải có những giải pháp thiết thực, cụ thể để thực hiện thành công các mục tiêu đã đề ra đó.
4.4 Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao
4.4.1 Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
Tổ chức công tác điều tra, nghiên cứu và phân tích thị trường.
Trong cơ chế thị trường hiện nay công tác điều tra, nghiên cứu và phân tích thị trường ngày càng trở nên quan trọng trong quản lý sản xuất kinh doanh nói chung và tiêu thụ sản phẩm nói riêng đối với mọi Công ty. Nó giúp cho Công ty nắm bắt được giá cả, chủng loại, chất lượng sản phẩm, cơ cấu, sức mua cũng như tình hình cạnh tranh trên thị trường. Thông qua việc nắm bắt nhu cầu thị trường Công ty mới có kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, đồng thời cùng giúp cho Công ty biết được thị trường nào là thị trường quan trọng hiện tại, thị trường nào là thị trường tiềm năng, từ đó xây dựng cơ cấu thị trường và chiến lược về thị trường trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Từ cơ cấu thị trường tiêu thụ Công ty lựa chọn đối tượng giao dịch, phương thức thanh toán để tổ chức sản xuất và tiêu thụ theo phương châm bán những gì thị trường cần chứ không phải bán những gì mình có.
Với cơ cấu thị trường hiện tại cho thấy thị trường chính của Công ty là thị trường xuất khẩu, cơ cấu trên 90% giá trị doanh thu của Công ty là do xuất khẩu đem lại. Trong đó thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty là thị trường Tây Âu chiếm gần 50% tổng doanh thu của năm 2007. Các thị trường khác như Mỹ, Nga tiêu thụ chưa ổn định. Hiện nay Công ty còn đang bỏ ngỏ thị rtường Châu á đặc biệt là thị trường Trung Quốc. Trung Quốc được coi là thị trường tiêu thụ rau quả hàng đầu của Việt Nam với dân số lớn và thị trường gần sát Việt Nam do vậy Công ty nên mở rộng thị trường xuất khẩu cả về chiều rộng lẫn chiều sâu về mặt hàng dứa và vải. Thị trường BăngLaĐét, Ixraen đây cũng là thị trường có nhu cầu nhập khẩu với dung lượng lớn rau quả nhiệt đới, tuy nhiên rau quả hiện nay của Công ty xuất sang BăngLaĐét, Ixraen chưa nhiều do công tác giới thiệu sản phẩm còn hạn chế. Trong những năm tới Công ty có thể coi đây là thị trường tiềm năng của mình về thị hiếu tiêu dùng của BăngLaĐét, Ixraen đối với sản xuất dứa của Công ty là rất lớn.
Đối với thị trường nội địa Công ty mới chỉ khai thác chủ yếu ở thị trường Hà Nội, thị trường khác còn rất ít. Cơ cấu thị trường như hiện nay cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho Công ty khi phụ thuộc vào một số thị trường chủ yếu và thị trường tiêu thụ chưa tương xứng với tiềm năng hiện tại của Công ty. Bên cạnh thị trường xuất khẩu Công ty cần chú ý tới việc mở rộng thị trường nội địa thực tế những năm qua Công ty chưa quan tâm đúng mức đến thị trường trong nước. Trong khi thu nhập của người dân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, các khu đô thị ngày càng cao do vậy Công ty nên khai thác thêm thị trường nội địa ở miền Nam và miền Trung.
Căn cứ vào thực trạng về thị trường tiêu thụ trong thời gian qua và kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty trong thời gian tới để dự kiến cơ cấu thị trường tiêu thụ giai đoạn 2008 - 2012 qua bảng 4.18
Tổ chức tốt công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh vì sản phẩm sản xuất ra có tiêu thụ được thì Công ty mới có doanh thu và lợi nhuận. Để tiêu thụ được sản phẩm thì công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm tới người tiêu dùng lại có ý nghĩa to lớn đối với qúa trình tiêu thụ.
Bảng 4.18. Dự kiến cơ cấu thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty giai đoạn 2008 - 2012 (dự kiến tỷ lệ % theo doanh thu)
Đơn vị tính : %
Thị trường
2008
2009
2010
2011
2012
1.Thị trường xuất khẩu
90
91
92
92
92
- Tây Âu
45
42
41
41
38
- Mỹ
20
18
17
15
12
- Nga
14
15
15
15
14
- Trung Quốc
3
5
6
7
9
- BăngLaĐét
4
6
7
9
12
- Ixraen
4
5
6
7
9
- Thị trường khác
10
9
8
6
6
2.Thị trường nội địa
10
9
8
8
8
- Hà Nội
51
52
52
53
54
- Miền Trung
7
9
10
12
13
- Miền Nam
15
17
18
19
20
- Thị trường khác
27
22
20
16
13
Tổng
100
100
100
100
100
Trong những năm qua Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao chưa thật quan tâm, trú trọng vào công tác quảng cáo giới thiệu sản phẩm. Hoạt động giới thiệu sản phẩm của Công ty chủ yếu mới chỉ thông qua mối quan hệ truyền thống do vậy khách hàng trong những năm qua vẫn duy trì ở khách hàng cũ của Công ty. Vì thế trong những năm tới cần mở rộng, đầu tư cho hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. Việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm có thể liên kết với các nhà phân phối, đại diện thương mại, hiệp hội, Việt Kiều, các tổ chức chuyên nghiên cứu về thị trường quốc tế...
Ngoài ra Công ty có thể sử dụng các hình thức quảng cáo trên mạng, tham gia hội chợ triển lãm để nắm bắt được thông tin về sản phẩm cũng như thị trường tiêu thụ, có cơ hội ký kết các hợp đồng kinh tế mới. Thực hiện công việc này Công ty phải tích cực tham gia các hội chợ triển lãm, tham gia các lễ hội để tranh thủ quảng bá sản phẩm. Bên cạnh đó cũng có thể lựa chọn thêm hình thức quảng cáo trên ti vi, đài, báo chí. Phối hợp chặt chẽ với hiệp hội để tăng cường quảng bá thương hiệu cho riêng mình.. Hiện nay các doanh nghiệp của chúng ta thường là doanh nghiệp vừa và nhỏ vì vậy mối kiên kết để hoạt động chưa chặt chẽ, thống nhất. Hầu như các doanh nghiệp vẫn tự vận động độc lập do đó tham gia vào thị trường thế giới sức cạnh tranh không cao. Để thực hiện liên kết có hiệu quả bản thân Công ty cùng các doanh nghiệp trong hiệp hội phải đoàn kết có sự hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động tìm kiếm, mở rộng và duy trì thị trường trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, Công ty cần lựa chọn các hình thức quảng cáo giới thiệu sản phẩm để thu được hiệu quả cao trong quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Phát triển hệ thống kênh phân phối, kết hợp với các nhà sản xuất khuyếch trương sản phẩm trên thị trường.
Hệ thống kênh phân phối là một trong những công cụ cạnh tranh phi giá cả đầy sức mạnh giúp cho Công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững trên thương trường. Kênh phân phối là yếu tố quan trọng đem đến cho khách hàng những giá trị sản phẩm gia tăng chủ yếu và là cách đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng thông qua những dịch vụ khách hàng. Các dịch vụ này quyết định sự hài lòng của khách hàng, nếu sự hài lòng của khách hàng về sản phẩm của Công ty cao hơn đối thủ cạnh tranh sẽ quyết định khả năng chiếm lĩnh thị trường của mình.
Hệ thồng kênh phân phối hiện nay của Công ty ít được quan tâm thậm trí chưa phát triển hệ thống kênh phân phối theo đúng nghĩa của nó mà chỉ tổ chức kênh phân phối theo kiểu tự nhiên, dựa vào mối quan hệ sẵn có với đối tác, không có mục tiêu phân phối rõ ràng. Do vậy thời gian tới Công ty cần phát triển một hệ thống kênh phân phối có hiệu quả gồm nhiều thành viên tốt, có danh tiếng, có uy tín khi đó vị thế và hình ảnh của Công ty được nâng cao, tạo nên sức mạnh, tài sản vô hình để giành thắng lợi trong cạnh tranh trên thương trường. Để phát triển kênh phân phối Công ty cần thực hiện một số giải pháp sau:
+ Phát triển tổ chức Marketinh dọc. Trong kênh phân phối gồm nhiều thành viên khác nhau (đại diện của Công ty, nhà bán buôn, bán lẻ) các thành viên liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất chặt chẽ, bền vững không bị phá vỡ bởi bất kỳ xung lực nào từ bên ngoài. Đặc biệt Công ty cần khai thác thị trường trong nước ở miền Trung, miền Nam bằng cách thiết lập các đai lý liên kết nhà cung cấp thực phẩm để giới thiệu sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng từ đó tạo điều kiện phát triển sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
+ Trong kênh phân phối người đại diện cho Công ty sẽ giữ vai trò người chỉ huy trong kênh. Tuy nhiên tính thống nhất và sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong kênh sẽ đảm bảo lợi ích của toàn bộ hệ thống kênh và từng thành viên.
+ Công ty cần thường xuyên kiểm tra, giám sát để xử lý kịp thời những mâu thuẫn, xung đột trong kênh. Thường xuyên đánh giá hoạt động của các thành viên trong kênh để có sự quản lý, điều chỉnh kịp thời.
4.4.2 Phát triển vùng nguyên liệu theo hướng ổn định, đảm bảo chất lượng
Như chúng ta đã biết nguyên liệu là yếu tố quyết định trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm. Tiến độ sản xuất nhanh chậm phụ thuộc rất lớn vào việc cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Về mặt này Công ty cần thực hiện các giải pháp theo hướng sau:
Hoàn thiện công tác quy hoạch các vùng nguyên liệu.
Nguyên liệu phục vụ chế biến là một yếu tố hết sức quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Công ty. Qua việc phân tích tình hình cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến cho thấy nguồn nguyên liệu trong Công ty mới đáp ứng được khoảng 60% còn lại Công ty phải ký hợp đồng mua bán bên ngoài. Số nguyên liệu ký hợp đồng với vùng trồng nguyên liệu chỉ thu mua được 30- 40% giá trị sản phẩm, còn lại hợp đồng mua bán nguyên liệu chỉ tập trung vào lúc thời vụ. Để khắc phục hạn chế này Công ty cần chú trọng tới các vùng nguyên liệu trọng điểm như ngô ở Ninh Phúc (Ninh Bình), dứa quả ở nông trường Đông Dư, Thống Nhất (Thanh Hoá), dưa chuột ở Nam Định, vải quả ở Thanh Hà (Hải Dương).
Để đáp ứng được nhu cầu nguyên liệu thường xuyên cung cấp cho Công ty., Công ty cần ứng trước vốn, cung cấp giống, hỗ trợ kỹ thuật, chế độ thưởng phạt với các đối tượng cung cấp nguyên liệu. Đặc biệt Công ty nên ký hợp đồng lâu dài thông qua phòng nông nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất ngay từ đầu vụ, đầu năm, đầu chu kỳ sản xuất để đảm bảo sản lượng cũng như chất lượng, thời gian cung cấp nguyên liệu cho Công ty.
Từng bước cải tiến phương thức thu mua nguyên liệu.
Xây dựng phương thức thu mua nguyên liệu một cách hợp lý nhằm chủ động cung ứng nguyên liệu cho chế biến khi khả năng tự có của Công ty chưa đáp ứng được. Sau khi căn cứ vào kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, căn cứ vào khả năng cung cấp nguyên liệu trong Công ty và hợp đồng ký kết nguyên liệu. Để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cho chế biến Công ty cần tổ chức nghiên cứu tình hình thu mua nguyên liệu, thu thập các thông tin về vùng nguyên liệu và nắm bắt khả năng của từng vùng, sự biến động của giá cả, chất lượng nguyên liệu để xây dựng giá mua hợp lý và linh hoạt. Ngoài ra Công ty cần đội ngũ thu mua nguyên liệu có trình độ và nắm bắt được tình hình diễn biến giá cả, sản lượng, chất lượng nguyên liệu. Từ đó cải tiến phương thức thu mua nguyên liệu như đặt các trạm thu mua tại các vùng nguyên liệu, ký hợp đồng dài hạn về số lượng cho cả năm, từng quý, từng tháng. Hợp tác xã hoặc hộ nông dân cần đăng ký lịch thu hoạch, chủng loại nguyên liệu, sản lượng có thể cung ứng. Tổ chức bố trí đội ngũ làm công tác thu mua, vận chuyển nguyên liệu có kinh nghiệm để hạn chế ở mức tối thiểu phần nguyên liệu bị hư hỏng.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ về giống, kỹ thuật.
Trong những năm qua sản xuất rau quả của Công ty thực sự mang tính thời vụ cao sản xuất của người dân vẫn chủ yếu là theo kinh nghiệm và phương pháp truyền thống chủ yếu là khai thác lợi thế tự nhiên, theo mùa vụ nên vào thời vụ cao điểm của tháng 7, 8, 11, 12 thì lượng nguyên liệu tập trung quá cao dẫn đến khó khăn về lao động, công tác kiểm tra chất lượng, chi phí lưu kho, bảo quản lớn. Để khắc phục những hạn chế trên Công ty cần thực hiện các giải pháp đó là:
+ Về giống: Giống là yếu tố quan trọng đặc biệt có ý nghĩa quyết định đến năng suất, chất lượng do vậy cần tuyển chọn những giống tốt hiện có, lai tạo giống mới, nhập giống tốt của nước ngoài.
+ Về kỹ thuật: Để nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sản lượng đảm bảo nguyên liệu cung cấp thường xuyên liên tục cho công nghiệp chế biến Công ty áp dụng phương pháp khoa học để xử lý cho cây trồng ra hoa, kết quả trái vụ để giảm tình thời vụ đảm bảo nguyên liệu khi hết thời vụ đặc biệt là dứa. Ngoài ra Công ty trồng đan xen gối vụ các loại cây trồng với nhau trong năm một mặt nâng cao độ phì nhiêu đất.
4.4.3 Huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển sản xuất có hiệu quả
Vốn là yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu thiếu vốn sẽ gây khó khăn về tài chính do đó không chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dễ dàng bỏ lỡ các cơ hội trong làm ăn với bạn hàng. Thực tế sản xuất những năm qua nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao mới chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng nguồn vốn kinh doanh của Công ty và hiện tại vốn cổ phần mới có 40 tỷ đồng, do đó hoạt động của Công ty chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay, tỷ suất sinh lời vốn thấp, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Khi hoạt động dựa vào vốn vay sẽ làm giảm đi hiệu quả của Công ty do phải trả lãi. Và nếu hệ thống ngân hàng bị biến động thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Công ty. Vì vậy Công ty cần tăng nhanh nguồn vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên thực hiện được điều này là cả một vấn đề lớn, nó phụ thuộc chủ yếu vào con đường bổ sung từ kết quả sản xuất. Hiện tại Công ty còn đang được Nhà nước miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng từ năm 2008 Công ty bắt đầu phải nộp loại thuế này nên điều kiện bổ sung tăng vốn từ kết quả sản xuất bị hạn chế. Bên cạnh đó doanh nghiệp còn phải chia lãi cổ phần, do vậy để khắc phục hạn chế trên trong thời gian tới Công ty cần thực hiện một số giải pháp sau:
Huy động triệt để nguồn vốn tự có. Tăng nhanh nguồn vốn chủ sở hữu là con đường cơ bản lâu dài của Công ty, nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn kinh doanh và các quỹ. Nguồn vốn kinh doanh được bổ xung bằng cách huy động vốn đóng góp của các cổ đông. Các quỹ được hình thành trên cơ sở phân phối lợi nhuận để lại Công ty. Ngoài ra Công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn. Bằng biện pháp này Công ty có thể thu hút được một khối lượng vốn lớn không thời hạn, tăng nguồn vốn chủ sở hữu và kích thích các lao động làm việc có hiệu quả.
Tích cực khai thác các nguồn vốn trong thanh toán như vốn ứng trước của khách hàng thông qua thu tiền đặt cọc khi ký kết hợp đồng. Công ty sử dụng các phương thức thanh toán chậm trả trong khi thu mua các loại nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, tận dụng nguồn vốn đó quay vòng sản xuất kinh doanh tăng tốc độ luân chuyển của vốn. Mặt khác Công ty cần quản lý chặt chẽ các khoản nợ phải thu và tăng cường thu hồi các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, một số khoản nợ không đòi được Công ty có thể bán cho một số đơn vị khác để thu hồi vốn một cách nhanh chóng.
Huy động vốn thông qua đầu tư liên doanh, liên kết với các bạn hàng và khách hàng. Qua đó Công ty ký kết hợp đồng mua thiết bị hiện đại, tiếp thu công nghệ phù hợp nhu cầu tiêu dùng trước mắt, lâu dài và hoàn trả bằng chính các sản phẩm do thiết bị sản xuất ra.
4.4.4 Nâng cao trình độ người lao động trong Công ty
Ta được biết yếu tố lao động là cơ sở quan trọng quyết định đến việc tạo ra giá trị tăng thêm cho Công ty. Vì vậy khi phát triển sản xuất Công ty phải có các giải pháp phù hợp về nâng cao trình độ lao động đảm bảo yêu cầu chất lượng để hoàn thành nhiệm vụ và cho hiệu quả cao nhất.
Để phù hợp với tình hình phát triển của Công ty trong thời gian tới đòi hỏi cần tiếp tục nâng cao trình độ người lao động. Thực hiện phương châm “mỗi người giỏi một việc, biết nhiều việc”, vì vậy Công ty cần trú trọng đến công tác tuyển dụng, bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động, đặc biệt hiện nay lực lượng lao động có trình độ làm công tác quản lý còn rất mỏng, cán bộ quản lý cần được đào tạo cơ bản, bố trí đúng chuyên môn nghiệp vụ cho từng cán bộ nhằm phát huy hết tính chủ động, sáng tạo trong công việc của mỗi người, thực sự là người năng động, sáng tạo. Công ty cần quan tâm đúng mức đào tạo đội ngũ kế cận về quản lý và kỹ thuật để tránh sự hụt hẫng về cán bộ khi có sự thay đổi về tổ chức. Cần thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ kỹ thuật, cử đi tập huấn, đi thăm quan các cơ sở sản xuất để học tập kinh nghiệm quản lý. Công ty cần có chính sách phù hợp để tạo mọi điều kiện cho người lao động yên tâm làm việc và có khả năng phát huy tối đa khả năng lao động của họ bằng các biện pháp sử dụng các đòn bẩy về kinh tế như tiền lương, tiền thưởng và hỗ trợ kinh phí cho việc học nghề, nâng cao trình độ quản lý ...
Đội ngũ lao động của Công ty trong thời gian tới cần phát triển theo hướng cán bộ quản lý có trình độ đại học tăng lên, lao động kỹ thuật (trình độ sơ cấp và trung cấp) tăng với tỷ lệ nhanh hơn. Dự kiến số lượng, chất lượng lao động của Công ty giai đoạn 2008 - 2012 như sau:
Bảng 4.19. Kế hoạch lao động của Công ty giai đoạn 2008 - 2012
Chỉ tiêu
ĐVT
2008
2009
2010
2011
2012
1. Số lượng lao động
Người
2330
2370
2400
2420
2450
2. Trình độ lao động
%
100
100
100
100
100
- Đại học và cao đẳng
%
3,5
4,5
6
8
10
- Trung cấp
%
10
11
13
16
17
- Sơ cấp
%
25
27
30
35
37
- Lao động phổ thông
%
61,5
57,5
51
41
36
4.4.5 Mở rộng các hình thức liên kết trong sản xuất
Các hình thức liên kết sản xuất của Công ty hiện nay chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy Công ty nên mở rộng việc liên kết trong sản xuất để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và cung ứng. Hình thức liên kết có thể là:
Liên kết nhóm doanh nghiệp. Công ty cần liên kết với Công ty mía đường Đài Loan, nhà máy đường Lam Sơn... để thực hiện trồng luân canh giữa mía và dứa vào các thời điểm sau khi thu hoạch dứa Công ty trồng mía để tăng giá trị sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Tuy nhiên Công ty cân tính toán các thời điểm trồng luân canh cứ 3 năm trồng dứa, lại 3 năm trồng mía để đảm bảo năng suất cây trồng là độ phì nhiêu của đất.
Liên kết ngang giữa những người sản xuất. Hình thức liên kết là hợp tác xã, tổ, đội sản xuất, tổ dịch vụ, nhóm hộ sản xuất nguyên liệu. Khi có tổ chức đứng ra quản lý những người sản xuất, việc ký kết hợp đồng cũng sẽ tiến hành thuận lợi hơn, nhà máy sẽ yên tâm sản xuất về sản lượng, chất lượng và thời điểm cung cấp nguyên liệu. Bên cạnh đó việc liên kết sản xuất sẽ giúp nhà máy thực hiện rải vụ thu hoạch một cách hiệu quả và quy mô hơn. Để làm được điều này Công ty cần có sự phối hợp, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phòng Nông nghiệp, UBND xã với Công ty. Ngoài ra Công ty cần có hình thức hỗ trợ hợp lý cho các hình thức liên kết.
Việc mở rộng hình thức liên kết cũng là biện pháp quan trọng để tăng diện tích trồng nguyên liệu trong thời gian tới. Bởi việc sản xuất, cung cấp nguyên liệu theo hình thức tập trung sẽ đem lại hiệu quả cao hơn, mà khi sản xuất có hiệu quả thì việc mở rộng quy mô phát triển sản xuất kinh doanh là tất yếu.
5. Kết luận và kiến nghị
5.1 Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Phát triển sản xuất kinh doanh là hướng đi đúng đắn trong chiến lược phát triển kinh tế thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao có thuận lợi là vùng nguyên liệu tập trung, phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty không những phù hợp với xu thế chung mà còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
2. Qua nghiên cứu thực trạng phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty cho thấy quy mô, chất lượng sản xuất kinh doanh không ngừng tăng lên.Tổng vốn sản xuất kinh doanh bình quân qua 5 năm (2003 - 2008) tăng13,61%; sản lượng tiêu thụ bình quân tăng 8,04%; doanh thu tiêu thụ bình quân tăng 15,79%; lợi nhuận bình quân tăng 18,01% (từ 6094,89 tỷ đồng năm 2003 lên 11667,65 tỷ đồng năm 2007). Ngoài ra Công ty đã góp phần tích cực giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
3. Các sản phẩm do Công ty sản xuất hiện nay đang được các thị trường tiêu thụ với số lượng tương đối lớn. Thị trường xuất khẩu chiếm khoảng 90% giá trị doanh thu, trong đó thị trường chính là Tây Âu. Bên cạnh đó còn một số thị trường khác với tỷ lệ tiêu thụ thấp như Mông Cổ, Châu Phi...Thị trường nội địa tiêu thụ khoảng 10% giá trị doanh thu, chủ yếu tập trung ở các thành phố, đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng.
4. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty mới đạt mức độ khiêm tốn, sau thời kỳ cổ phần hoá hiệu quả có tăng tuy nhiên chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của đơn vị. Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất kinh doanh năm 2003 là 5,35%, năm 2007 là 6,22%. Đây là mức tỷ suất lợi nhuận thấp so với tình hình hiện nay. Nguyên nhân cơ bản do tỷ lệ vốn vay cho sản xuất còn lớn, nguyên liệu cung cấp cho chế biến chưa thực sự ổn định, Công ty trú trọng nhiều đến thị trường xuất khẩu, chưa quan tâm đúng mức đến thị trường nội địa, lực lượng lao động quản lý và kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao còn ít.
5. Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao là:
- Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm bằng cách tăng cường tổ chức công tác điều tra, nghiên cứu và phân tích thị trường. Tổ chức tốt công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, phát triển hệ thống kênh phân phối mở rộng thị trường xuất khẩu sang Trung Quốc, Băngladet và Exalen, cần quan tâm đúng mức đến thị trường nội địa.
- Phát triển vùng nguyên liệu theo hướng ổn định, đảm bảo chất lượng thông qua công tác quy hoạch các vùng nguyên liệu trọng điểm như ngô ở Ninh Phúc (Ninh Bình), dứa quả ở nông trường Đông Dư, Thống Nhất (Thanh Hoá), dưa chuột ở Nam Định, vải quả ở Thanh Hà (Hải Dương).
- Huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển sản xuất có hiệu quả bằng việc huy động triệt để nguồn vốn tự có, vốn đầu tư thông qua liên doanh, liên kết, tích cực khai thác các nguồn vốn trong thanh toán.
- Nâng cao trình độ người lao động nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phấn đấu đến năm 2012 có 10% lao động có trình độ đại học và cao đẳng, 54% lao động được đào tạo trung cấp và sơ cấp. Cần đào tạo đội ngũ kế cận có đủ năng lực và trình độ quản lý điều hành Công ty phù hợp với tình hình mới.
- Mở rộng các hình thức liên kết trong sản xuất thông qua nhóm doanh nghiệp hoặc liên kết ngang giữa những người sản xuất nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và cung ứng nguyên liệu trong sản xuất kinh doanh.
5.2 Kiến nghị
Xuất phát từ vấn đề tồn tại trong phát triển sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau:
* Đối với Nhà nước
- Có chính sách bảo trợ hiệp hội ngành hàng chế biến nông sản xuất khẩu hoạt động nhằm giúp các doanh nghiệp trong hiệp hội có điều kiện hợp tác, bảo vệ quyền lợi sản phẩm, thương hiệu. Đồng thời cập nhật và cung cấp kịp thời các thông tin về thị trường để các doanh nghiệp có điều kiện sẵn sàng chuẩn bị sản xuất và cạnh tranh.
- Hỗ trợ xúc tiến thương mại đối với nông sản xuất xuất khẩu để Công ty có điều kiện thuận lợi thâm nhập vào thị trường thế giới.
* Đối với Công ty
- Quy hoạch những vùng nguyên liệu chuyên canh, có chính sách và cơ chế thu mua nguyên liệu phù hợp đảm bảo khuyến khích được sản xuất và ổn định nguồn cung cấp nguyên liệu cho Công ty.
- Củng cố và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật và bộ phận Marketinh để tạo ra chất lượng, hiệu quả lao động cao nhất.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Tất Bình (2003), Phân tích hoạt động doanh nghiệp, NXB Đại học quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Văn Công (1995), Phân tích báo cáo tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh, NXB Thống kê, Hà Nội
Chính sách cạnh tranh của các nước trên thế giới (2007),
Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (2003), Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, Đồng Giao
Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (2004), Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, Đồng Giao
Công ty thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (2005), Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, Đồng Giao
Công ty thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (2006), Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, Đồng Giao
Công ty thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (2007), Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, Đồng Giao
Thái Bá Cẩn (1998), Một số suy nghĩ về quan điểm và phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế trong điều kiện ở nước ta hiện nay, Tạp chí Tài chính tháng 11/1998
Mai Thanh Cúc, Quyền Đình Hà (2005), Giáo trình phát triển nông thôn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
Nguyễn Nguyên Cự, Hoàng Ngọc Bích (1996), Marketing trong nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội
Phạm Vân Đình, Đỗ Kim Chung (1999), Giáo trình kinh tế nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
David Begg (2002), Kinh tế học, NXB Giáo dục, Hà Nội
Nguyễn Thành Độ (1999), Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, NXB Giáo dục, Hà Nội
Phạm Văn Được (1995), Kế toán quản trị và phân tích kinh doanh, NXB Thống kê, Hà Nội
Phạm Văn Dược, Đặng Kim Cương (1999), Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB Thống kê, Hà Nội
Phạm Thị Mỹ Dung, Bùi Bằng Đoàn (1996), Phân tích kinh tế nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
Phạm Thị Mỹ Dung, Bùi Bằng Đoàn (2001), Phân tích kinh doanh, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
Trần Đình Đằng, Bùi Minh Vũ, Hà Văn Khương (2007), Quản trị doanh nghiệp thích ứng với kinh tế thị trường trong giai đoạn phát triển mới ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
Bùi Bằng Đoàn (1995), Đánh giá hiệu quả kinh tế của tiến bộ kỹ thuật về giống lúa ứng dụng vào sản xuất ở một số vùng trọng điểm lúa Đồng bằng sông Hồng, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội
Phạm Thị Gái (1997), Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB Giáo dục, Hà Nội
Nguyễn Thế Khải (2002), Giáo trình phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội
Vũ Trọng Khải (2003), Liên kết 4 nhà năng lực phát triển nông nghiệp hàng hoá, Tạp chí quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn, số1/2003
Phạm Ngọc Kiểm (2003), Từ điển Thống kê doanh nghiệp, NXB Thống kê, Hà Nội
Huỳnh Đức Lộng (2002), Phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp, NXB Thống kê, Hà Nội
Nguyễn Thanh Liêm (2006), Quản trị sản xuất, NXB Tài chính, Hà Nội
Đàm Văm Liệm (2001), Kinh tế phát triển, NXB Thống kê, Hà Nội
N.GREGORY MANKIW (2003), Nguyên lý của kinh tế học, NXB Thống kê, Hà Nội
Nguyễn Pháp (1992), Quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
Đồng Thị Thanh Phương, Nguyễn Đình Hoà, Trần Thị ý Nhi (2007), Giáo trình quản trị doanh nghiệp, NXB Thống kê, Hà Nội
Philip Kotler (2001), Quản trị marketing, NXB Thống kê, Hà Nội, (Vũ Trọng Hùng dịch)
Nguyễn Năng Phúc (2003), Phân tích kinh tế doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội
Đặng Phan Sơn (2003), Thực trạng và biện pháp phát triển sản xuất kinh doanh giống lúa lai tại công ty giống cây trồng và con nuôi Nam Định, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội
Lê Văn Tâm, Ngô Kim Thanh (2004), Giáo trình quản trị doanh nghiệp, NXB Lao động - xã hội, Hà Nội
Tổng Công ty Rau quả nông sản Việt Nam (2007),
Tổng cục thống kê Việt Nam (2007),
Đặng Văn Thanh, Đoàn Xuân Tiên (1998), Kế toán quản trị doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội
Nguyễn Trọng Thế, Nguyễn Hữu Thọ (2007), Quản lý hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp, NXB Lao động xã hội, Hà Nội
Thu hút đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai- Cách tiếp cận bằng ma trận SWOT, Tạp chí Tài chính tháng 3/2007
Trường Đại học tài chính kế toán Hà Nội (2001), Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội
Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thái Hoà (2001), Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội
Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội của Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen thi bich ngoc (nop).doc