BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
----------eêf----------
LÊ XUÂN TÂM
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG HỘ HUYỆN QUẾ VÕ - TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ MINH HIỀN
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính bản thân tôi, được sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Minh Hiền. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là t
133 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2449 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu phát triển kinh tế nông hộ huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Tác giả
Lê Xuân Tâm
LỜI CẢM ƠN
Trước hết với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Minh Hiền, người đã định hướng, trực tiếp hướng dẫn và đóng góp ý kiến cụ thể cho kết quả cuối cùng để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Kế toán và Quản trị Kinh doanh, Khoa Kinh tế và PTNT, Viện Sau đại học - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân thành cảm ơn ban lãnh đạo UBND huyện Quế Võ - tỉnh Bắc Ninh, phòng Nông nghiệp, phòng Thống kê huyện Quế Võ, cùng các phòng ban chuyên môn của uỷ ban, Chính quyền các xã ( Xã Châu Phong, Xã Mộ Đại, Xã Phương Liễu) và toàn thể các hộ gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi nhất giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ, động viên của tất cả bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và những người thân đã là điểm tựa về tinh thần và vật chất cho tôi trong suốt thời gian học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Tác giả
Lê Xuân Tâm
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt v
Danh mục bảng vi
Tài liệu tham khảo viii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQ
Bình quân
CC
Cơ cấu
CNH - HĐH
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
HTX
Hợp tác xã
DT
Diện tích
dt
Dựa theo
KHKT
Khao học kỹ thuật
NN - BBDV
Nông nghiệp, buôn bán dịch vụ
NN - Ngành nghề
Nông nghiệp, ngành nghề
NS
Năng suất
SL
Sản lượng
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TMDV
Thương mại dịch vụ
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
SXKD
Sản xuất kinh doanh
TNTT
Thu nhập thực tế
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
3.1. Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai huyện Quế Võ qua 3 năm 2006 - 2008 31
3.2. Tình hình nhân khẩu và lao động của huyện qua 3 năm 2006 - 2008 34
3.3. Tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện Quế Võ (2006 - 2008) 36
3.4. Kết quả sản xuất kinh doanh một số ngành chính của huyện Quế Võ qua 3 năm 2006 - 2008 38
3.5. Số hộ điều tra được chọn từ các xã đại diện huyện Quế Võ năm 2008 44
4.1. Phân loại các nông hộ huyện Quế Võ qua 3 năm 49
4.2. Diện tích, năng suất một số loại cây trồng chính của huyện qua 3 năm 2006 - 2008 52
4.3. Số đầu gia súc, gia cầm của huyện qua các năm 2006 - 2008 54
4.4. Tình hình nhân khẩu, lao động trong các nhóm hộ điều tra ở 3 xã đại diện của huyện Quế Võ 57
4.5. Tình hình đất đai của các nhóm hộ điều tra ở 3 xã đại diện của huyện Quế Võ năm 2008 60
4.6. Tình hình trang thiết bị của nhóm hộ điều tra ở 3 xã huyện Quế Võ năm 2008 62
4.7. Nhu cầu và khả năng huy động vốn cho SX - KD của các nhóm hộ điều tra của huyện Quế Võ 64
4.8. Các nguồn thu từ sản xuất kinh doanh của các nhóm hộ điều tra ở 3 xã huyện Quế Võ năm 2008 67
4.9. Diện tích, năng suất và giá trị sản lượng một số cây trồng chính của nhóm hộ điều tra ở 3 xã huyện Quế Võ năm 2008 71
4.10. Tình hình chăn nuôi một số con vật chính của các nhóm hộ điều tra ở 3 xã huyện Quế Võ năm 2008 74
4.11. Chi phí sản xuất của các nhóm hộ điều tra của huyện Quế Võ 77
4.12. Kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nhóm hộ điều tra ở ba xã đại diện trong huyên Quế Võ năm 2008 81
4.13. Tình hình thu, chi ở các nhóm hộ điều tra ở 3 xã huyện Quế Võ năm 2008 84
4.14. Nhà ở tiện nghi sinh hoạt của các nhóm hộ điều tra ở 3 xã huyện Quế Võ năm 2008 86
4.15. Ảnh hưởng của các nguồn lực chủ yếu đến kết quả sản xuất kinh doanh của các nhóm nông hộ huyện Quế Võ năm 2008 90
4.16. Ảnh hưởng của hướng sản xuất kinh doanh đến kết quả sản xuất kinh doanh của nông hộ 92
4.17. Ảnh hưởng của chi phí đến kết quả sản xuất của nông hộ điều tra năm 2008 94
4.18. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn của huyện Quế Võ năm 2010 - 2015 102
4.19. Dự kiến cơ cấu một số cây trồng chính của huyện từ (2008 - 2015) 104
4.20. Dự kiến số đầu gia súc, gia cầm của huyện từ (2008 - 2015) 105
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu cho xã hội. Địa bàn chủ yếu của hoạt động sản xuất nông nghiệp là nông thôn, nơi có dân số và lực lượng lao động chiếm đa số. Những năm qua, mặc dù đã có sự chuyển dịch tích cực lực lượng lao động sang các ngành kinh tế khác, song dân số nông thôn vẫn chiếm khoảng 72% tổng dân số và chiếm khoảng 59,5% tổng lao động của cả nước [2].
Trong nền kinh tế tự cung, tự cấp và kinh tế tập trung, do chúng ta không nhận thức đầy đủ những đặc trưng của kinh tế nông hộ nên thành phần này đã không được khuyến khích phát triển. Mối quan hệ giữa kinh tế nông hộ với các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp chậm được giải quyết, nên đã gây ra những tổn thất không nhỏ cho việc phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Với sự phát triển của nền kinh tế, cả nước đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài. Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết 10 năm 1988 của Bộ chính trị khoá VI về đổi mới quản lý cơ chế trong nông nghiệp mà thực chất là trả lại cho nông dân kết quả sản xuất của họ, cho họ quyền làm chủ sản xuất kinh doanh, khẳng định kinh tế nông hộ là thành phần kinh tế cơ bản của nông nghiệp, là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Trong điều kiện đó, kinh tế nông hộ phát triển rất nhanh, người nông dân đã làm chủ trên mảnh đất của mình, các nông hộ tự sản xuất và hoạch toán kinh doanh, họ tự quyết định nên trồng cây gì; nuôi con gì; và tiêu thụ sản phẩm ra sao cho hiệu quả nhất. Vốn tự có của nông hộ được tập trung vào sản xuất, vốn vay phát triển nông hộ được hỗ trợ và mọi nguồn lực của nông hộ được tận dụng tối đa vào sản xuất kinh doanh. Cũng từ đó, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc, bộ mặt nông thôn đã có nhiều chuyển biến tích cực, thu nhập của người dân được tăng lên, đời sống của người dân từng bước được cải thiện.
Nhiều nghiên cứu về kinh tế nông hộ đều cho thấy, nông hộ chính là đơn vị kinh tế - xã hội chủ yếu ở nông thôn. Kinh tế nông hộ không thể tách rời nền kinh tế quốc dân. Khoa học kinh tế nông hộ là nền tảng cho việc xem xét, phân tích, đánh giá và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế nông thôn. Kinh tế nông hộ góp phần làm tăng nhanh lượng sản phẩm cho xã hội. Cụ thể, trước đây chúng ta là một nước thiếu lương thực, thường xuyên phải nhập khẩu, đến nay chúng ta đã căn bản giải quyết được vấn đề này. Tính đến cuối năm 2008 Việt Nam vẫn là quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (sau Thái Lan). Hơn nữa, kinh tế nông hộ còn góp phần sử dụng đầy đủ và có hiệu quả các yếu tố sản xuất, tăng thêm việc làm và tăng thêm thu nhập cho người dân ở nông thôn.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông hộ vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: Phần lớn các nông hộ còn sản xuất nhỏ lẻ, tự cấp, tự túc và kém hiệu quả, đời sống nông dân gặp rất nhiều khó khăn… Vì thế nông hộ và cộng đồng nông thôn đang rất cần sự hỗ trợ kịp thời của chính phủ cũng như các nhà khoa học nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thích hợp nhằm phát triển sản xuất và nâng cao đời sống cho bộ phận dân cư nông thôn.
Huyện Quế Võ - tỉnh Bắc Ninh là một vùng đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng, nhưng lại mang dáng dấp trung du và địa hình bậc thang. Đây là một huyện có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của cả nước, đời sống của nhân dân trong huyện đã có nhiều thay đổi. Tỷ lệ hộ giàu, khá tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm, cho đến nay toàn huyện không còn hộ đói.
Bên cạnh những tác động tích cực thì quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, nông hộ bị mất tư liệu sản xuất, tình trạng lao động nông nghiệp dư thừa và thất nghiệp trong nông thôn ngày càng gia tăng, nông hộ đang trăn trở tìm kiếm sinh kế mới, ảnh hưởng trực tiếp tới định hướng phát triển và thu nhập của nông hộ. Xuất phát từ thực trạng trên chúng tôi tiến hành lựa chọn và nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu phát triển kinh tế nông hộ huyện Quế Võ - tỉnh Bắc Ninh”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế nông hộ của huyện Quế Võ - tỉnh Bắc Ninh từ đó đề xuất những định hướng và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế nông hộ của huyện trong những năm tới.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế nông hộ, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chủ trương CNH - HĐH ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế nông hộ huyện Quế Võ- tỉnh Bắc Ninh.
- Phân tích mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội, thách thức và xu hướng phát triển kinh tế nông hộ ở địa phương trong những năm tới.
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế nông hộ của huyện trong những năm tiếp theo.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tế tình hình phát triển kinh tế nông hộ của huyện Quế Võ thông qua khảo sát các nhóm hộ sản xuất được phân loại theo nghề nghiệp (hộ thuần nông, hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề và hộ nông nghiệp - buôn bán dịch vụ) và theo điều kiện kinh tế của các nông hộ (hộ khá, hộ trung bình và hộ nghèo) trong huyện.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung đến thực trạng, điều kiện sản xuất, tình hình sản xuất, kết quả và hiệu quả sản xuất của các nhóm nông hộ trong huyện. Các thuận lợi, cơ hội cũng như các vấn đề khó khăn, thách thức của các nhóm nông hộ. Từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế nông hộ trong những năm tới.
1.3.2.2. Phạm vi về thời gian
Thực trạng kinh tế nông hộ được mô tả trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Quế Võ, đặc biệt số liệu tập trung trong 3 năm gần đây 2006-2008 và số liệu điều tra nông hộ trong năm 2008, 2009. Các định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế nông hộ trong thời gian tới, đặc biệt tập trung cho giai đoạn 2009 - 2015.
1.3.2.3.Phạm vi về không gian
Phạm vi nghiên cứu trên địa bàn huyện Quế Võ, tập trung khảo sát tại 3 xã đại diện cho các vùng sản xuất khác nhau trong huyện. Đó là xã Châu Phong, Phương Liễu và Mộ Đạo.
2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm về hộ và kinh tế nông hộ
Trong một số từ điển ngôn ngữ học cũng như một số từ điển chuyên ngành kinh tế, người ta định nghĩa về "hộ" như sau: "Hộ là những người cùng chung trong một ngôi nhà, nhóm người đó có chung huyết tộc và là những người làm chung, ăn chung" [College Edition (1989)].
Về phương diện thống kê, Liên hợp quốc cho rằng: "Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung, cùng làm chung và có chung một ngôn ngữ" [25].
Tại cuộc hội thảo Quốc tế về quản lý trang trại tại Hà Lan, các đại biểu nhất trí rằng: "Hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác"[10].
Giáo sư MC. Gee (1989) trường Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng: "Hộ là nhóm người cùng chung huyết tộc hay không cùng chung huyết tộc, ở chung một nhà, ăn chung cùng một mâm cơm và có chung một ngân quỹ".
Trong nghiên cứu "Quá trình đô thị hoá" ở các nước châu Á, giáo sư MC. Gee và các đồng nghiệp đã lưu ý thêm rằng: các thành viên của hộ không nhất thiết phải sống cùng nhà, họ có thể sống khá xa gia đình, nhưng đóng góp vào phần thu nhập của hộ thì họ được coi là một thành viên của hộ. Tuy nhiên đây chỉ là ý kiến thiên về khía cạnh nguồn thu nhập của hộ.
Nhìn từ góc độ khác, các tác giả lại có quan điểm về hộ như sau:
Harris (1989) ở viện nghiên cứu phát triển trường Đại học Tổng hợp Susex (London - Anh) cho rằng: "Hộ là đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động" .
Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: "Hộ là một hệ thống các nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có quan hệ chặt chẽ phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn"[5].
Trên góc độ này, các đại biểu thuộc trường phái "Hệ thống thế giới" (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood (1981 - 1982), Smith (1985), Martin và Bellhel (1987) cho rằng: "Hộ là một nhóm người có chung sở hữu, chung quyền lợi trong mọi hoàn cảnh. Hộ là một đơn vị kinh tế giống như các công ty, xí nghiệp khác".
Nhóm các nhà nhân chủng học (Waller (Áo) 1982, Wood (Mỹ) 1982) cho rằng: "Hộ là một đơn vị đảm bảo quá trình tái sản xuất lao động tiếp theo trong quá trình tổ chức nguồn thu nhập nhằm chi tiêu cho cá nhân và đầu tư cho sản xuất".
Qua các quan điểm khác nhau về khái niệm "hộ" trên đây, chúng tôi thấy có một số điểm cần chú ý khi phân định hộ:
- Hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc hay không cùng chung huyết tộc.
- Hộ cùng sống chung hay không cùng sống chung trong một mái nhà.
- Có chung một nguồn thu nhập và ăn chung.
- Cùng tiến hành sản xuất kinh doanh.
GS. Frank Ellis trường Đại học Tổng hợp Cambridge (1988) cho rằng: "Kinh tế nông hộ khác với những người làm kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường ở bốn yếu tố: đất đai, lao động, vốn và sự tiêu dùng. Hộ là cơ sở hoạt động của xã hội, giúp cho các tổ chức xác định, đánh giá kinh tế, cùng chung một nguồn vốn, các thành viên cùng sống dưới một mái nhà, ăn chung, mọi người đều hưởng phần thu nhập, mọi quyết định đều dựa trên những thành viên, kinh tế nông hộ là một tổ chức kinh tế của nền kinh tế xã hội. Các nguồn lực như đất đai, tư liệu sản xuất, lao động, vốn được đóng chung; chung một ngân sách, ngủ chung một mái nhà; ăn chung; mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống đều do chủ hộ phát ra".
Mác và Anghen (1962) cho rằng: Kinh tế nông hộ vốn bị hạn chế nên cần được cải tạo thì nó mới có thể phát triển nông nghiệp lên trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Do đó, lúc đầu các ông dự đoán kinh tế nông hộ sẽ hoàn toàn bị xoá bỏ trong điều kiện phát triển công nghiệp. Sau này, với thực tế phát triển kinh tế ở Anh và các nước tư bản khác, Mác đã thấy rằng: Phát triển nông nghiệp không giống như phát triển công nghiệp, kinh tế nông trại gia đình tỏ ra là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp có hiệu quả và "Nông nghiệp hợp lý mâu thuẫn với phát triển kinh doanh chủ nghĩa tư bản"[6].
Traianov đã cho rằng: Hình thức kinh tế nông hộ có khả năng thích ứng và tồn tại trong mọi hình thức sản xuất và ông chú ý đến đặc tính sinh học của cây trồng, vật nuôi cũng như các đặc điểm khác của sản xuất nông nghiệp để hướng tới một sự hợp tác không phải "Vô chủ hoá" hoặc "Tạp chủ hoá" trong nông nghiệp.
Từ những quan điểm trên đây cho thấy: Kinh tế nông hộ là một hình thức kinh tế cơ bản có hiệu quả và tự chủ trong nông nghiệp, được hình thành và tồn tại khách quan, lâu dài, dựa trên cơ sở sức lao động, đất đai và tư liệu sản xuất của gia đình mình là chính. Kinh tế nông hộ là hình thức kinh tế cơ bản có hiệu quả, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, tồn tại, thích ứng và phát triển trong mọi hình thức kinh tế xã hội. Cho đến nay, nhiều học giả đều nhận thấy rằng kinh tế nông hộ không giống như các hình thức kinh tế khác vì:
- Là loại hình kinh tế thích nghi, có lợi thế cũng như những hạn chế bởi các yếu tố đất đai, lao động, tiền vốn và thái độ tiêu dùng của chủ hộ.
- Là đơn vị kinh tế cơ sở vừa sản xuất, vừa tiêu dùng, có sự thống nhất giữa đơn vị kinh tế và đơn vị xã hội. Do đó, nó thực hiện được đồng thời nhiều chức năng mà đơn vị kinh tế khác không có được. Kinh tế nông hộ có khả năng tự điều chỉnh rất cao trong mối quan hệ sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng.
- Là tế bào xã hội mang tính chất đặc thù với điều kiện tự nhiên - kinh tế mỗi nước và mỗi khu vực trên thế giới, phát triển từ thấp đến cao.
- Kinh tế nông hộ tuy là đơn vị kinh tế độc lập nhưng không đối lập với kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, kinh tế nông hộ là một khái niệm chung để chỉ các loại nông hộ có trình độ sản xuất khác nhau từ tự cung, tự cấp đến sản xuất hàng hoá. Kinh tế nông hộ đã có tác dụng to lớn để thúc đẩy nông nghiệp và nông thôn nước ta phát triển.
Tuy nhiên, nông hộ là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tất cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu được thực hiện qua sự hoạt động của nông hộ. Vì vậy, chúng tôi thống nhất khái niệm về nông hộ như sau:
"Hộ nông dân là những hộ có phương tiện kiếm sống dựa trên ruộng đất, sử dụng chủ yếu sức lao động gia đình, trong sản xuất nông hộ luôn nằm trong hệ thống kinh tế rộng lớn hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị trường, hoạt động với mức độ hoàn hảo không cao" (Ellis 1988) [10].
Tóm lại: Kinh tế nông hộ là một thực thể lâu dài, là sự ra đời của một chủ thể kinh tế ở nông thôn. Trong một thời gian dài, kinh tế nông hộ có tác động to lớn đối với sự phát triển kinh tế của xã hội.
Từ những khái niệm trên đây chúng tôi thống nhất những vấn đề kinh tế cơ bản của nông hộ đó là:
- Nông hộ là đơn vị hoạt động của xã hội, làm cơ sở cho phân tích kinh tế nông hộ và nông thôn.
- Các nguồn lực (đất đai, vốn sản xuất, tư liệu sản xuất, sức lao động) được góp thành một nguồn vốn chung của mọi thành viên trong gia đình, cùng chung một ngôn ngữ.
- Cùng sống chung dưới một mái nhà, ăn chung, mọi người đều hưởng phần thu nhập và mọi quyết định đều dựa trên ý kiến chung của các thành viên là người lớn tuổi trong gia đình.
2.1.2. Đặc trưng của kinh tế nông hộ
Kinh tế nông hộ là hình thức kinh tế rất đa dạng ở mỗi quốc gia, mỗi vùng và mỗi địa phương. Vì vậy, để chọn hướng đi đúng đắn cho nó thì chúng ta phải hiểu được những đặc trưng sau đây của thành phần kinh tế này:
a. Có sự thống nhất về lợi ích trong nông hộ: Đây là đặc trưng bao trùm nhất của kinh tế nông hộ. Bởi vì, mọi thành viên trong nông hộ đều làm việc với tính tự giác cao, tự chủ, tự nguyện và đều phấn đấu hết sức mình cho lợi ích kinh tế của bản thân, của gia đình và xã hội. Song lợi ích kinh tế không những phụ thuộc vào sự thống nhất hành động các thành viên trong gia đình, mà còn phụ thuộc vào môi trường kinh tế ở mỗi quốc gia, vấn đề huy động các nguồn lực (đất đai, tư liệu sản xuất và lao động).
- Về động cơ hành động: Đó là những đạo luật, chính sách của Nhà nước nhằm đảm bảo cho việc huy động các nguồn lực có thuận lợi hay không.Việc huy động các nguồn lực do các chủ hộ liên kết với nhau và do đạo luật, chính sách của mỗi quốc gia quy định.
- Sự đa dạng hoá các loại hình kinh tế nông hộ chính là việc thể hiện khả năng huy động các nguồn lực nhằm đạt lợi ích kinh tế cao hơn. Cho nên, vấn đề huy động các nguồn lực ở các nông hộ đều phải đảm bảo lợi ích kinh tế do thoả mãn của bản thân các chủ hộ và sự bảo trợ của pháp luật Nhà nước.
- Sự hoàn thiện về pháp luật, chính sách nhằm giải phóng các nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi cho các nông hộ phát huy tiềm năng của mình trong việc khai thác các nguồn lực. Đây là vấn đề thể hiện chủ trương, đường lối, chính sách mà mỗi quốc gia phải nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện.
Từ những đặc trưng này cho thấy: Việc chuyển đổi kinh tế nông hộ cần phải tôn trọng quá trình vận động của nó, như Anghen nói: "Cần để cho nông dân suy nghĩ trên luống cày của họ"[4]. Nhà nước phải kịp thời đưa ra những văn bản về đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với sự phát triển kinh tế nông hộ ở mỗi giai đoạn lịch sử, nhằm thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội.
b. Sản xuất kinh tế nông hộ gắn liền với điều kiện tự nhiên: Không như các ngành kinh tế khác, việc sản xuất của nông hộ gắn liền với điều kiện tự nhiên như: đất đai, thời tiết, khí hậu…cộng với đối tượng của sản xuất nông nghiệp lại là các sinh vật sống. Chính các yếu tố này đã xác định phương hướng sản xuất của mỗi vùng, mỗi địa phương. Sự thay đổi của mỗi yếu tố đó kéo theo cả phương hướng sản xuất cũng như đầu tư cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi, nhà kho, nhà xưởng, mà cơ sở hạ tầng này không phải ngày một ngày hai mà nông hộ thay đổi được. Các yếu tố này đã tạo nên tính mùa vụ trong nông nghiệp, tạo ra cách thức sản xuất ở mỗi vùng, mỗi khu vực, mỗi quốc gia.
Vì vậy, việc đầu tư lựa chọn phương hướng sản xuất để phát triển kinh tế đòi hỏi người chủ nông hộ phải am hiểu sâu sắc về khí hậu, thời tiết của vùng mình, địa phương mình. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật sống: cây trồng, vật nuôi nên luôn phải tuân thủ những quy luật sinh học vốn có của nó về sản xuất. Phát triển kinh tế không thể thay đổi quy luật đó được mà phải dựa vào nó để xây dựng quy trình sản xuất cho thích hợp với từng cây trồng, vật nuôi. Hơn nữa người sản xuất phải tâm huyết, phải thật sự am hiểu những đặc tính sinh học về sản phẩm của mình và phải gắn bó với nó. Trong sản xuất nông nghiệp có sự đan xen giữa hai quá trình tái sản xuất kinh doanh của con người và tài sản xuất tự nhiên của cây trồng, vật nuôi tạo nên tính thời vụ trong nông nghiệp. Do đó, chủ nông hộ phải biết bố trí sản xuất sao cho thích hợp nhằm giảm bớt tính thời vụ trong nông nghiệp.
c. Nông hộ vừa là đơn vị kinh tế vừa là đơn vị tiêu dùng nông sản: Trong nông hộ có sự thống nhất giữa đơn vị kinh tế và đơn vị xã hội, do vậy nông hộ đồng thời thực hiện hài hoà được các chức năng mà các đơn vị kinh tế khác không thể có được. Kinh tế nông hộ có khả năng tự điều chỉnh rất cao trong mối quan hệ sản xuất - trao đổi - phân phối và tiêu dùng.
d. Kinh tế nông hộ tuy là đơn vị kinh tế độc lập nhưng không đối lập với kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước:
Kinh tế nông hộ có khả năng dung nạp nhiều quy mô sản xuất lớn, vừa và nhỏ khác nhau đồng thời biến động linh hoạt. Nó có khả năng dung nạp trình độ khoa học khác nhau từ đơn sơ đến hiện đại, phù hợp với yêu cầu từng loại hộ, cho phép sử dụng chi phí thấp để sản xuất ra nông sản và dịch vụ nông nghiệp.
Từ những đặc trưng trên mà trong sản xuất nông nghiệp người ta không thể áp dụng máy móc theo kiểu sản xuất công nghiệp mà mọi hoạt động phải xuất phát từ đặc điểm của nó. Để kinh tế nông hộ phát triển tốt thì:
- Người nông dân phải làm chủ trên mảnh đất của mình thì họ mới thấu hiểu mảnh đất ấy và suốt đời họ gắn bó với nó, họ yên tâm đầu tư, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả.
- Người nông dân phải thực sự am hiểu với nghề nông, phải nhiệt tình, chịu khó học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm để quyết định mọi hành động và đề ra phương hướng sản tối ưu cho gia đình.
Tóm lại: Kinh tế nông hộ là thực thể tồn tại bền vững trong xã hội, việc sản xuất của nó khác hẳn với các ngành kinh tế khác, phát triển và gia tăng thành phần kinh tế này chính là sự thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Vì vậy, cần tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế nông hộ phát triển, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.1.3. Vai trò và vị trí của kinh tế nông hộ
Quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng tổng hợp của các ngành, các thành phần kinh tế. Kinh tế nông hộ cũng là yếu tố đặc trưng thúc đẩy xã hội phát triển. Bởi vì, kinh tế nông hộ được coi là tế bào của kinh tế xã hội trong nông thôn, nó có sắc thái riêng về kinh tế, nhân văn và xã hội. Do đó, sự tồn tại và phát triển của kinh tế nông hộ quyết định sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội nông thôn.
* Kinh tế nông hộ là tế bào của xã hội: Kinh tế nông hộ là một thực thể, tồn tại bền vững trong xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển, vì kinh tế nông hộ có những đặc điểm sau:
- Các thành viên trong nông hộ gắn bó chặt chẽ với nhau bằng mối quan hệ huyết thống và hôn nhân.
- Về kinh tế, các thành viên gắn bó với nhau dựa trên quan hệ bình đẳng về sở hữu tài sản, quan hệ phân phối các nguồn thu nhập và chi tiêu.
- Về quản lý và phân công lao động, khác với ngành kinh tế khác là trong kinh tế nông hộ người quản lý cũng là người lao động.
- Về tài sản và tư liệu sản xuất, họ sử dụng mọi tài sản mình có phục vụ cho sản xuất và đời sống của gia đình.
- Trong lĩnh vực phân phối, mọi người đều bàn bạc dân chủ, công khai và đều hưởng quyền lợi thoả đáng.
Các ưu điểm trên đây thực sự là tiền đề vững chắc cho kinh tế nông hộ và thúc đẩy tăng trưởng trong nông nghiệp, nông thôn.
Mặc dù khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nông trại gia đình với nghề nông hợp lý, song Mác cũng không tuyệt đối hoá tính chất bền vững của kinh tế tiểu nông. Mác nhận thấy rằng đối với nghề nông hợp lý thì hoặc phải có "Bàn tay của những người làm tiểu nông sống bằng lao động của chính mình" hoặc có "Sự kiểm soát của những người có cùng lao động với nhau". Đồng thời bàn về vấn đề này, Anghen cũng thận trọng cho rằng: "Cần để cho nông dân suy nghĩ trên luống cày của họ" và cũng khẳng định: "Khi giai cấp vô sản được nắm chính quyền một cách tuyệt đối không được tước đoạt những người tiểu nông dù bằng bất kỳ hình thức nào như buộc phải làm đối với những người chủ đất lớn"[4].
* Kinh tế nông hộ là thành phần kinh tế cơ bản thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp nông thôn. Kinh tế nông hộ không chỉ thể hiện bằng sự bền vững của nó trong cộng đồng kinh tế xã hội, mà còn là thành phần chủ yếu cung cấp nông sản hàng hoá cho xã hội và thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Về mặt cung cấp nông sản phẩm: Cho tới nay, ngay cả các nước phát triển, kinh tế nông hộ vẫn là thành phần chủ yếu cung cấp nông sản cho xã hội. Cụ thể:
Mỹ là nước có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao nhưng với 1,94 triệu nông trại đã cung cấp cho xã hội lượng nông sản hàng hoá chiếm tới 56,2% trong tổng số [23].
Hunggari: Sản phẩm hàng hoá của nông trại gia đình chiếm tới 60% tổng sản phẩm hàng hoá trên thị trường nông thôn.
Đối với nước ta, kinh tế nông hộ quy mô còn nhỏ, phân tán, lượng vốn ít, song cũng đã cung cấp cho xã hội gần 95% sản lượng thịt, 90% sản lượng trứng và 93% sản lượng rau quả tươi [23].
- Thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn: Một động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất của nông hộ là lợi ích kinh tế của gia đình, cùng các thành viên trong gia đình họ. Kinh tế phát triển, người nông dân có điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và cuộc sống gia đình họ, đồng thời không những thúc đẩy nông nghiệp phát triển mà còn làm cho bộ mặt nông thôn cũng ngày càng thay đổi.
Giờ đây kinh tế nông hộ đã nâng cao được đời sống của người dân, góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển, từng bước đổi mới bộ mặt nông nghiệp, nông thôn nước ta.
2.1.4. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế nông hộ
Khi nghiên cứu kinh tế nông hộ và các đặc điểm sản xuất nông nghiệp Mác và Anghen khẳng định: "Ngay ở nước Anh công nghiệp hoá hình thức lãi suất không phải là các nông trại mà là các nông trại gia đình thực tế không dùng lao động làm thuê" [4]. Lênin cũng chỉ ra rằng: "Cải tạo tiểu nông không phải tước đoạt họ, mà phải tôn trọng lợi ích cá nhân của họ, khuyến khích họ liên kết với nhau một cách tự nguyện để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của chính họ"[24].
Alexander Vasilevich Choyanov nhà kinh tế học Liên Xô (1920) đã có kết luận: "Hình thức kinh tế nông hộ có khả năng thích ứng và tồn tại trong mọi phương thức sản xuất".
Causky cho rằng: "Nông nghiệp không phát triển cùng một kiểu với Công nghiệp. Nông trại nhỏ gia đình sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn nông trại lớn TBCN. Nông hộ vẫn tồn tại và phát triển ngay trong lòng CNTB". Từ những quan điểm trên đây chúng tôi thấy rằng: Kinh tế nông hộ là một thực thể khách quan trong xã hội, là thành phần kinh tế cơ bản của nông nghiệp nông thôn nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung; là hình thức kinh tế cơ bản, tự chủ trong nông nghiệp, được hình thành và tồn tại một cách khách quan lâu dài dựa trên cơ sở sử dụng sức lao động gia đình là chính.
Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là hình thức tổ chức kinh tế cơ bản của nông nghiệp nông thôn, các thành viên trong nông hộ gắn bó chặt chẽ với nhau bằng hôn nhân và dòng máu dựa trên cơ sở huyết thống. Về mặt kinh tế, các thành viên trong nông hộ gắn bó chặt chẽ với nhau trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối hàng hoá mà cốt lõi là quan hệ lợi ích kinh tế. Đồng thời các nông hộ có khả năng duy trì tái sản xuất giản đơn, do có các tư liệu sản xuất. Tối đa hoá lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của nông hộ, quá trình tập trung hoá ruộng đất vào một số người bị hạn chế, nông dân có thể vượt qua những áp lực của thị trường bằng việc sử dụng lao động gia đình. Sản xuất nông nghiệp thường không hấp dẫn cho đầu tư thành tư bản nông nghiệp, nông dân có khả năng đa dạng hoá các hoạt động kinh tế ở hộ.
Do thống nhất về mọi mặt kinh tế nên các thành viên trong hộ rất thống nhất về hành động, họ đều làm hết sức mình để đem lại lợi ích cao nhất cho gia đình mình. Mỗi nông hộ đều có tài sản như: ruộng đất, công cụ, trâu bò. Các thành viên trong nông hộ cùng sử dụng nên hiểu được đặc tính của tài sản, vì thế họ sử dụng có hiệu quả, chăm sóc, bảo quản tốt hơn. Trong kinh tế nông hộ, quan hệ giữa người quản lý và người trực tiếp lao động gắn bó chặt chẽ với nhau, cho nên thông tin xử lý nhanh, kịp thời, quyết định sản xuất đúng đắn và có tính thuyết phục cao.
Về quan hệ phân phối hàng hoá, các thành viên trong nông hộ cùng làm, cùng ở, cùng ăn dưới sự sắp xếp của chủ hộ. Mặt khác, người nông dân vốn là người làm ăn riêng lẻ, tư hữu bao đời nay, tư tưởng lợi ích cá nhân ăn sâu vào họ, cho nên việc thừa nhận và phát triển kinh tế nông hộ rất phù hợp với họ. Trong nền kinh tế thị trường, xuất phát từ những đặc trưng của kinh tế nông hộ, mặt khác kinh tế nông hộ có khả năng dung nạp nhiều quy mô sản xuất lớn, vừa và nhỏ, có khả năng dung nạp trình độ khoa học khác nhau từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với nhu cầu từng loại, từng kiểu hộ nên đã cho phép chi phí sản xuất thấp trong sản xuất và dịch vụ.
Chính những ưu thế và đặc điểm trên đây mà kinh tế nông hộ trải qua những thăng trầm, tồn tại và phát triển bền vững, khách._. quan trong cộng đồng nông thôn.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về phát triển kinh tế nông hộ như Chỉ thị 100 CT/TW về khoán sản phẩm đến nhóm người lao động (11/1981), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4/1988), các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và gần đây nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ra đời đã thừa nhận và khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nông hộ trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp và phát triển nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, nước ta đang trên con đường CNH- HĐH đất nước, chuyển mạnh sang kinh tế sản xuất hàng hoá, kinh tế nông hộ đang tiếp xúc với kinh tế nông trại của các nước kinh tế phát triển cao là hoàn toàn phù hợp. Trong điều kiện kinh tế thị trường với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN thì kinh tế nông hộ phát triển là điều tất yếu của xã hội, phù hợp với quy luật tiến hoá của xã hội.
2.1.5. Chủ trương - chính sách của Đảng và Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung và kinh tế nông hộ nói riêng
Dưới sự tác động của chính sách kinh tế mới, đặc biệt là chính sách phát triển kinh tế nông hộ, nông nghiệp nước ta trong những năm gần đây đã có sự khởi sắc. Vì vậy, việc tìm hiểu bản chất của hiện tượng kinh tế nông hộ và vai trò những chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp là một vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Với hơn 70% dân cư làm nông nghiệp và phụ thuộc vào nông nghiệp, sống chủ yếu ở các vùng nông thôn. Do đó, để đạt được mục tiêu phát triển và sự thành công trong lĩnh vực nông nghiệp thì vị trí của kinh tế nông hộ đóng một vai trò hết sức trọng yếu. Đương nhiên điều đó chỉ có thể đạt được khi Đảng và Nhà nước có chính sách đúng đắn, có khả năng khai thác nội lực của các nông hộ một cách có hiệu quả.
Trong thời gian xây dựng hợp tác xã nông nghiệp theo mô hình tập thể trước đây, kinh tế nông dân bị xem nhẹ và được coi là: "Kinh tế phụ". Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nông hộ.
Thời kỳ 1955 - 1959 Miền Bắc cải cách ruộng đất nên đã hình thành kinh tế nông hộ dưới chế độ mới. Thời kỳ 1981 - 1987 thực hiện khoán 100, quyền tự chủ của kinh tế nông hộ đã được quyết định ít nhiều song vẫn bị mô hình tập thể hoá chi phối.
Ngày 05 - 04/ 1988 Nghị quyết 10 của Bộ chính trị bàn về: "Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp", coi hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, đã tạo ra động lực to lớn thúc đẩy kinh tế nông hộ phát triển [16].
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IXvà thứ X tiếp tục đề ra những chủ trương phát triển 5 thành phần kinh tế và 3 chương trình kinh tế lớn cùng với hàng loạt các chính sách khác nhằm thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn nói chung và kinh tế nói riêng phát triển như:
- Chính sách về ruộng đất.
- Vấn đề đầu tư và tín dụng cho nông nghiệp - nông thôn.
- Mở rộng lưu thông nông sản hàng hoá.
- Chính sách giá cả nông phẩm.
- Chính sách thuế nông nghiệp.
- Vấn đề phí, lệ phí cùng các khoản thu khác.
- Chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ và chính sách xã hội nông thôn….[14].
2.2. Quá trình phát triển kinh tế nông hộ trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Quá trình phát triển kinh tế nông hộ trên thế giới
Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, cùng với sự biến đổi của xã hội, cho đến nay kinh tế trang trại nhỏ và vừa, sử dụng sức lao động gia đình là chính vẫn tỏ ra là hình thức có ưu thế hơn cả.
2.2.1.1. Quá trình phát triển kinh tế nông hộ ở các nước châu Âu
Ở châu Âu thế kỷ XVIII với sự phát triển của CNTB đã xuất hiện hai loại hiện tượng mới: Dân số tăng nhanh dẫn đến sự tăng nhu cầu về công nghệ phẩm, làm phát triển công nghiệp và thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Trước cuộc cách mạng công nghiệp này, đã có cuộc cách mạng nông nghiệp và chính cuộc cách mạng đó đã thúc đẩy sự tăng dân số và nhu cầu công nghiệp hoá. Khi công nghiệp phát triển nó đã tác động tích cực đối với nông nghiệp. Đứng trước sự biến động lớn của xã hội, những luật lệ mới được ban bố để thay thế những đạo luật cũ, những tàn tích tỏ ra lạc hậu, kìm hãm sự phát triển nông nghiệp hàng thế kỷ của chế độ phong kiến. Đạo luật mới đã khởi động tinh thần hăng say của người nông dân, nhanh chóng thúc đẩy nông nghiệp phát triển, khai thác triệt để những tiềm năng chứa ẩn trong nông nghiệp, tăng nhanh sản phẩm cho xã hội. Cũng từ đây kinh tế trang trại ra đời, nhiều chủ trang trại sau khi phá vỡ vỏ bọc tự cấp, tự túc, khép kín của người tiểu nông vươn lên sản xuất sản phẩm cho xã hội, tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh, khai thác nông nghiệp không chỉ đối với người nông dân mà nhiều nhà tư bản cũng đổ xô kiếm lời trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt là cuối giai đoạn thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi nền công nghiệp cơ khí và khoa học phát triển đã sản xuất ra hàng loạt những máy móc, động cơ cũng như các phương tiện năng lượng và phân hoá học, tạo điều kiện cho nông nghiệp khai thác triệt để các tài nguyên nông nghiệp, với những thành tựu khoa học mới từ công nghiệp.
Mặt khác do đặc trưng của kinh tế nông hộ, do sản xuất nông nghiệp không giống kiểu sản xuất công nghiệp, mặc dù đứng trước dự cạnh tranh ồ ạt lao vào khai thác sản xuất nông nghiệp thì sức chịu dẻo dai của nền kinh tế nông hộ lại chịu tính ưu việt của nó. Thực tế đã chứng minh, các đại điền trang, đại tư sản có mặt đã lâm vào khủng hoảng và có nguy cơ bị diệt vong, nhường chỗ cho các cơ sở kinh doanh nông nghiệp của các trang trại gia đình. Trang trại gia đình đóng vai trò to lớn trong sản xuất nông nghiệp, là lực lượng chủ yếu sản xuất ra các nông sản đáp ứng các nhu cầu của con người. Cụ thể là: Ở Pháp gần 1 triệu trang trại gia đình với 5% lao động nông nghiệp đã sản xuất ra khối lượng nông sản gấp 2,2 lần nhu cầu trong nước [Bulletin(1991)].
2.2.1.2. Quá trình phát triển kinh tế nông hộ ở châu Á
Cũng như các nước trên thế giới, kinh tế trang trại ở các nước châu Á được ra đời, hình thành và phát triển khá lâu, song quy mô sản xuất còn nhỏ bé. Ở Đài Loan, giá trị nông sản do nông trại tạo ra tăng 22 lần, sản lượng ngư nghiệp tăng 7,5 lần (1952 - 1981). Các trang trại gia đình ở Malaixia năm 1992 sản xuất ra 4,6 tấn dầu cọ chiếm 59% sản lượng dầu cọ của thế giới, xuất khẩu cho 40 nước trên thế giới. Ở hầu hết các nước châu Á chủ yếu phát triển các loại hình kinh tế trang trại kết hợp với các loại hình nông thôn và loại hình trang trại thuần nông, với quy mô trang trại nhỏ hơn nhiều so với các nước châu Âu, châu Mỹ [8].
a. Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở Thái Lan
Thái Lan là một nước có nền nông nghiệp phát triển, đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, chất lượng xuất khẩu gạo của Thái Lan cũng rất cao, đáp ứng nhu cầu của phần lớn khách hàng trên thế giới. Để trở thành một nước có nền nông nghiệp phát triển, Chính phủ Thái Lan đã có những chính sách rất cụ thể nhằm phát triển kinh tế nông thôn nói chung và kinh tế nông hộ nói riêng.
Về vấn đề đầu tư: Thái Lan đã đầu tư một lượng vốn lớn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi… tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển nông nghiệp. Bên cạnh đó, Thái Lan còn xây dựng một loạt các hệ thống dịch vụ nhằm cung cấp thông tin, vật tư, thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của các hộ và nông trại.
Về chính sách tín dụng: Thái Lan đã hướng dẫn nông dân tự thu hút vốn, đồng thời Chính phủ Thái Lan còn ưu tiên cung cấp tín dụng qua các tổ chức của Chính phủ.
Về thị trường: Thái Lan mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, giúp nông dân tiếp cận với thị trường bằng cách xây dựng các hệ thống đại lý…Nhờ vậy, nông dân Thái Lan có thể biết được các thông tin thị trường một cách nhanh chóng, chính xác, điều này đã giúp họ hạn chế được tình trạng ép cấp, ép giá của tư thương và các tổ chức trung gian.
Ngoài ra, Chính phủ Thái Lan còn có chính sách bình ổn giá để bảo vệ lợi ích của nông dân. Trong thời kỳ "Cách mạng xanh", Chính phủ cho phép nhập khẩu phân bón và một số vật tư khác mà không tính thuế [8].
b. Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở Đài Loan
Đài Loan là khu vực có nền kinh tế phát triển, đặc biệt sau cải cách ruộng đất, kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Đài Loan phát triển rất mạnh.
Để phát triển kinh tế nông hộ, Đài Loan đã lập ra một tổ chức có tên gọi là: “Nông phục hồi", tổ chức này đứng ra lập kế hoạch, chỉ đạo sản xuất, cố vấn phát triển và làm khâu trung gian chuyển giao kỹ thuật cho nông dân. Để thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế nông hộ nói riêng. Đài Loan đã tiến hành các biện pháp:
- Tiến hành cải cách ruộng đất, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, thực hiện "Người làm có ruộng". Sau cải cách tỷ lệ tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp đạt 5,3% một năm và liên tục tăng suốt 15 năm.
- Tiến hành cuộc: "Cách mạng xanh", đây là cuộc cách mạng về giống và đã tạo được nhiều giống mới có năng suất cao. Trong khi đó, Chính phủ Đài Loan lại cố định mức thuế nông nghiệp, làm cho sản xuất của nông dân mang lại lợi nhuận cao hơn, nông hộ phấn khởi và càng tích cực sản xuất.
- Không ngừng phát triển kinh tế hợp tác xã và các hiệp hội ở nông thôn, tiến hành công nghiệp hoá nông thôn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập. Mặt khác lại tiến hành điện khí hoá và chuyện môn hoá sản xuất, mở rộng thị trường với nước ngoài.
Qua thực hiện các biện pháp trên, kinh tế nông hộ của Đài Loan đã phát triển vượt bậc [8].
c. Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở Trung Quốc
Trung Quốc là một nước đông dân nhất thế giới, với trên 1,50 tỷ người, trong đó có hơn 900 triệu người là nông dân. Chính vì vậy, việc giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm là một yêu cầu hết sức cấp thiết. Để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc rất quan tâm đến vấn đề kinh tế nông hộ. Coi việc phát triển kinh tế nông hộ là vấn đề phát triển hàng đầu của đất nước. Nhờ có chủ trương đúng và bước đi thích hợp nên trong vòng 15 năm trở lại đây, kinh tế nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc đã thu được những thành tựu hết sức to lớn.
Để đưa kinh tế nông hộ phát triển, Trung Quốc đã hướng vào 3 mũi nhọn sau: đưa ra các chính sách, đầu tư, và tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật.
Trung Quốc đã xác định 8 quan điểm phát triển kinh tế nông thôn nói chung và kinh tế nông hộ nói riêng như sau:
+ Cải cách nông thôn phải tiếp tục ổn định cơ chế khoán hộ, không ngừng hoàn thiện cơ chế kinh doanh 2 tầng, kết hợp giữa thống nhất và phân tán, tích cực phát triển hệ thống dịch vụ xã hội hoá, hướng dẫn nông dân phát triển kinh tế theo con đường giàu có chung.
+ Xây dựng kinh tế phải thực sự đặt nông nghiệp lên vị trí hàng đầu, không được coi nhẹ vị trí cơ sở của nông nghiệp.
+ Xây dựng và chấp hành chính sách nông thôn, phải đảm bảo lợi ích vật chất và quyền lợi dân chủ về chính trị của nông dân.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phải kiên trì chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật và giáo dục, chấn hưng nông nghiệp…
+ Phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn phải tôn trọng quy luật giá trị.
+ Phải khống chế sự gia tăng nhân khẩu, khai thác hợp lý tài nguyên…
+ Phải tăng cường tổ chức cơ sở Đảng, làm hạt nhân tăng cường công tác chính trị tư tưởng, kiên trì xây dựng đời sống văn minh về vật chất và tinh thần.
+ Chỉ đạo công tác nông thôn phải kiên trì đưòng lối quần chúng, xuất phát từ tình hình thực tế để chỉ đạo một cách thích hợp, hiệu quả, không vi phạm ý nguyện của quần chúng và thái độ chủ quan, giáo điều, dập khuôn.
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn, nhờ có sự thành công của chính sách đổi mới, bộ mặt nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc đã thay đổi hoàn toàn, từ một nước thiếu đói thành một nước phát triển. Ngày nay, Trung Quốc trở thành một nước mạnh kinh tế, vững về an ninh chính trị [8].
2.2.2. Qúa trình phát triển kinh tế nông hộ ở Việt Nam.
2.2.2.1. Sơ lược quá trình phát triển kinh tế nông hộ ở Việt Nam
Quá trình phát triển kinh tế nông hộ ở nước ta gắn liền với quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trải qua các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, kinh tế nông hộ ở nước ta có thời kỳ tưởng như không thể tồn tại được do các yếu tố chủ quan và khách quan, song kinh tế nông hộ vẫn thể hiện sức sống dẻo dai của nó. Đại bộ phận kinh tế nông hộ còn lạc hậu, thuần nông, tự cấp, tự túc. Giờ đây với đầy sinh lực, kinh tế nông hộ đang góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển nông nghiệp và nông thôn nói riêng, nền kinh tế xã hội ở nước ta nói chung.
Sau cải cách ruộng đất ở Miền Bắc (1956) đa số hộ nông dân đều có đất, họ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Ở giai đoạn này, sản xuất nông hộ hoàn toàn mang tính cá thể.
Giai đoạn 1960 - 1980: ở thời kỳ này, các HTX sản xuất nông nghiệp đựơc thành lập, các hộ nông dân góp đất của mình vào HTX, họ cũng trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng theo hình thức hợp tác. Họ thực hiện các công việc do ban quản trị, tổ, đội của HTX điều hành và được hưởng thù lao theo phân phối của HTX. Với hình thức như vậy, kinh tế nông hộ được coi là "Kinh tế phụ" và tồn tại khá lâu. Đến những năm 1980 do thực trạng sản xuất nông nghiệp và kinh tế HTX có những khó khăn, kinh tế nông hộ chưa phát triển, Nghị quyết TW VI (9/1979) đã ra đời và xác định: "Những vấn đề về kinh tế - xã hội cấp bách" nhằm đề ra giải pháp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Tiếp sau đó, ngày 13/11/1981 Chỉ thị 100 - CT/TW về "Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp" ra đời, tạo cho nền kinh tế của các nông hộ được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kinh tế hộ gia đình phát triển và trở thành một đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn. Sau một thời gian thực hiện chỉ thị 100 CT/TW bắt đầu bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn đề ra. Do đó, từ những năm 1986 - 1987 sản lượng nông nghiệp bắt đầu sững lại và giảm sút (sản lượng lương thực quy thóc năm 1986 là 18.379 triệu tấn, năm 1987 giảm còn 17.562 triệu tấn (số liệu tổng cục thống kê)). Nền kinh tế tiếp tục trì trệ, khủng hoảng. Vấn đề đặt ra là phải xem lại các chính sách nông nghiệp mà trước hết là chính sách về ruộng đất, vì ruộng đất là mối quan tâm hàng đầu của người nông dân. Để khắc phục những hạn chế của Chỉ thị 100, trên cơ sở thực tế ở nhiều địa phương, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị ngày 05/4/1988 ra đời với nội dung quan trọng là: Hoàn thiện và nâng cao cơ chế khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Từ đó kinh tế hộ nông dân ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.
Có thể nói rằng, với sự ra đời của Nghị quyết VI Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9/1979) mà nội dung cơ bản là: Hộ nông dân thực sự được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh trên ruộng đất được giao và trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn đã làm thay đổi chính sách ruộng đất của nước ta, tạo điều kiện cho kinh tế nông hộ phát triển. Chính sự phát triển kinh tế nông hộ ở nước ta trong những năm qua là yếu tố quyết định thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển.
Giai đoạn 1986 - 2000, thời kỳ này sản xuất nông nghiệp liên tục phát triển, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng khá cao, lương thực bình quân theo đầu người tăng liên tục từ 324kg (1990) lên 440kg (2000). Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu cũng không ngừng tăng như cà phê, chè búp, mủ cao su, hạt điều… đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản tăng lên nhanh chóng [21].
Giai đoạn 2000-2006, đây là giai đoạn có bước chuyển biến rõ nét từ sản xuất tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá, hình thành được các vùng sản xuất hàng hoá tập trung với quy mô lớn bằng giống mới năng suất, chất lượng cao cho nông nghiệp đối với cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả (trong đó tập trung phát triến mạnh cây ăn quả ôn đới), các sản phẩm trong chăn nuôi để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác.
Quá trình đổi mới, sản xuất nông nghiệp ở Việt nam đã hình thành các vùng chuyên canh tập trung sản xuất với quy mô lớn như: Sản xuất lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, các vùng sản xuất rau và hoa chất lượng cao … Các vùng sản xuất các hàng hoá này có tỷ suất hàng hoá khá cao, chất lượng một số sản phẩm ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Tóm lại, trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2006) kinh tế nông hộ đã thực sự phát triển, nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật so với các thời kỳ trước, rõ nét nhất là: Sản xuất lương thực tăng nhanh, đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc gia, từ một nước nhập khẩu gạo trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới.
Những thành tựu đó đã tạo ra thế và lực mới để đưa nông nghiệp nước ta vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới, theo hướng sản xuất hàng hoá với tốc độ cao và vững chắc, góp phần đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2.2.2. Thực trạng và xu hướng phát triển kinh tế nông hộ ở nước ta
Phát triển kinh tế hộ ở Việt Nam đã được nhiều tác giả, cơ quan chức năng nghiên cứu và công bố. Ở đây chúng tôi không bàn nhiều về những vấn đề về quá khứ mặc dù còn rất nhiều sai lầm, khuyết điểm - mà chúng tôi chỉ nêu lên những kết quả đạt được vàg những tồn tại kinh tế hộ trong giai đoạn từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị đến nay.
* Những thắng lợi đã đạt được
+ Kinh tế nông hộ thực sự trở thành đơn vị kinh tế cơ sở, một thành phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế nông thôn. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của kinh tế hộ. Về cơ bản đã giải quyết vấn đề: "An toàn lương thực" trên phạm vi quốc gia và trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.
+ Một bộ phận lớn hộ nông dân có thu nhập ngày càng tăng, đời sống vật chất, văn hoá - xã hội ở nông thôn từng bước được cải thiện, kinh tế nông hộ trở nên đa dạng hơn, nhiều hộ chuyển sang ngành nghề dịch vụ và công nghiệp nông thôn, đa dạng hoá nhiều loại hình tổ chức sản xuất và hợp tác trong nông nghiệp theo hướng tiến bộ.
* Những tồn tại lớn trong kinh tế nông hộ ở Việt Nam
Nguồn lực của nông hộ có quy mô nhỏ, ruộng đất ít, manh mún, lao động dư thừa, thiếu vốn sản xuất và điều quan trọng là mất cân đối, phân bố không đều giữa các vùng, làm cho sự phân hoá giữa các vùng chênh lệch rất lớn, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Việc ra quyết định sản xuất trong nông hộ còn rất chênh lệch và nhìn chung vẫn ở trình độ thấp.
Trong nông thôn, đặc biệt là nông thôn miền Bắc, miền Trung, hợp tác xã là tổ chức ảnh hưởng lớn đến hoạt động của kinh tế. Từ những vấn đề trên, các nội dung đặt ra đối với kinh tế nông hộ Việt Nam hiện nay là:
+ Nghèo đói: Theo Ngân hàng thế giới (2009) đây là vấn đề đầu tiên đặt ra với kinh tế nông hộ nước ta vì: Năm 2008 trung bình cả nước chúng ta có 14,8% hộ nghèo.
+ Sản xuất của nông hộ nhìn chung vẫn còn mang tính tự cấp, tự túc, nhỏ lẻ, năng suất thấp, không ổn định.
+ Thất nghiệp: Thực tế chúng ta dư thừa khoảng 20 - 30% lực lượng lao động, nông nghiệp là túi chứa lao động, hàng năm hơn 80% lao động tăng thêm bổ sung cho lao động nông nghiệp [9].
+ Thất học: Trình độ văn hoá ở các nông hộ còn rất thấp, suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu nước sinh hoạt…
* Xu hướng phát triển kinh tế nông hộ ở nước ta
Ngày nay, kinh tế nông hộ chịu tác động của nhiều yếu tố. Trước hết là sự tác động của công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sự phát triển của khoa học công nghệ và áp dụng khoa học kỹ thuật, bản thân ngành nông nghiệp đã thúc đẩy kinh tế nông hộ phát triển theo xu hướng khác nhau. Cơ chế thị trường cùng với nó là quy luật cung, cầu cũng chi phối sự phát triển của kinh tế nông hộ. Hiện nay kinh tế nông hộ phát triển theo xu hướng sau đây:
Thứ nhất: Kinh tế nông hộ ngày càng phát triển đa dạng. Nếu trước kia hầu hết các nông hộ ở dạng thuần nông, thì ngày nay bên cạnh hộ thuần nông xuất hiện ngày càng nhiều hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề, kiêm dịch vụ hoặc chuyên làm ngành nghề - dịch vụ với quy mô lớn. Trong những hộ thuần nông cũng xuất hiện những mô hình đa dạng như: mô hình VAC, mô hình nông, lâm kết hợp lúa - vịt, mô hình rau hoa cao cấp… Sự phát triển đa dạng của các nông hộ góp phần khai thác mọi tiềm năng của hộ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn, tạo ra sự phát triển năng động, phong phú trong nông thôn.
Thứ hai: Ngày càng nhiều hộ chuyển sang sản xuất hàng hoá. Trước kia do thị trường chưa phát triển, mỗi hộ nông dân phải sản xuất ra hầu hết những nhu yếu phẩm cần thiết, nên nền kinh tế nông hộ mang nặng tính tự cấp, tự túc. Ngày nay thị trường mở rộng, nông hộ đã biết phát huy lợi thế so sánh, tiến hành sản xuất các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh trên thị trường nhằm tăng thêm lợi ích, do đó đã thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hoá. Quá trình này diễn ra cùng với việc đổi mới khoa học công nghệ, áp dụng những tiền bộ khoa học trong sản xuất, góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh.
Thứ ba: Ngày càng xuất hiện nhiều trang trại gia đình. Đây thật sự là nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuât hàng hoá, hiện đại hoá nông nghiẹp, nông thôn, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh trang trại gia đình cũng xuất hiện những trang trại quy mô lớn. Những trang trại này, một mặt có tác động tích cực đẩy mạnh sản xuất theo hướng hàng hoá, mặt khác cũng làn nảy sinh các vấn đề cần giải quyết như: Tình trạng nông thôn không còn đất hoặc thiếu đất phải đi làm thuê gây mất ổn định về lâu dài. Vì vậy, cần phải có những chính sách cụ thể nhằm phát huy tính tích cực và hạn chế tiêu cực của xu hướng này.
Thứ tư: Xu hướng phân hoá trong kinh tế hộ. Thực hiện chính sách khuyến khích nông hộ phát triển đã thực sự tạo ra động lực thúc đẩy nông hộ khai thác hết mọi tiềm năng để phát triển kinh tế. Mặt khác cũng làm gia tăng mức độ phân hoá giàu nghèo trong nông thôn. Thực tế cho thấy, nếu đầu tư dàn trải thì sẽ không phát huy được nội lực, không khai thác được lợi thế của từng vùng, của từng địa phương và của từng nhóm hộ để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nếu ngược lại thì phải chấp nhận sự phân hoá. Ở đây Nhà nước cần có chính sách thích hợp, vừa khuyến khích làm giàu chính đáng nhằm đảm bảo phát triển kinh tế nhanh chóng, đồng thời hạn chế bớt sự phân hoá giàu nghèo, tăng cường phúc lợi xã hội và đẩy nhanh các biện pháp xoá đói, giảm nghèo.
3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Quế Võ là một huyện thuộc đồng bằng trung du Bắc Bộ, nằm ở phía đông của tỉnh Bắc Ninh, dọc theo quốc lộ 18, cách thị xã Bắc Ninh khoảng 12 km về hướng tây, cách thủ đô Hà Nội 45km về phía Tây - Nam. Với tổng diện tích đất tự nhiên là 17.769 ha, Quế Võ tiếp giáp với 2 tỉnh và 2 huyện trong tỉnh. Phía đông giáp tỉnh Hải Dương, phía Bắc giáp huyện Yên Dũng - tỉnh Bắc Giang; phía tây giáp thành phố Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh; phia Nam giáp huyện Gia Bình. Quế Võ có 3 con sông bao bọc (sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình) với 68 km đê trung ương và địa phương, 22 km quốc lộ 18. Ở vị trí này, Quế Võ khá thuận lợi trong giao thông hàng hoá, dịch vụ và phát triển kinh tế, có điều kiện tiếp cận nhanh với tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho công cuộc công nghịêp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của huyện. Quế Võ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa được chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa đông thì khô và lạnh, bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, khí hậu trong mùa lạnh và hanh, nhiệt độ thấp, thường ít mưa, lượng mưa chỉ chiếm gần 20% tổng lượng mưa cả năm. Mùa hè thì nóng, ẩm, có mưa lũ từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa trung bình năm từ 1.500 - 1.700mm, chủ yếu tập trung vào 6, 7, 8. Nhiệt độ trung bình năm từ 26 - 27oC, số giờ nắng từ 1.340 đến 1.800 giờ/ năm, độ ẩm không khí trung bình từ 80 - 85%. Nhìn chung, khí hậu rất thuận lợi cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng nên hệ thống cây trồng vật nuôi đa dạng. Tuy nhiên , bên cạnh những thuận lợi thì sự thay đổi bất thường của khí hậu cũng gây khó khăn không ít cho phát triển sản xuất. Trong đó phải kể đến rét, sương muối ở mùa đông và mưa bão ở mùa mưa.
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
3.1.2.1. Đất đai và tình hình sử dụng đất đai
Tình hình phân bố đất đai của huyện năm 2006 tổng diện tích đất tự nhiên của Quế Võ là: 17.074,63 ha, nhưng đến năm 2007 và 2008 chỉ còn 16.074,63 ha, giảm đi 10.000 ha. Nguyên nhân của việc giảm đất tự nhiên là do thành phố Bắc Ninh được mở rộng về phía đông nên số diện tích 10.000ha này Nhà nước giao cho Thành phố Bắc Ninh quản lý 3 xã đó là Vân Dương, Nam Sơn và Nhân Hòa.
Nhìn bảng 3.1 chúng tôi thấy: Đất nông nghiệp năm 2006 của huyện là: 10.897,66 ha chiếm 63,82% tổng diện tích đất tự nhiên. Năm 2008 diện tích này chỉ còn 10681,84 ha, chiếm 62,58% tổng diện tích đất tự nhiên. Tốc độ phát triển bình quân là 99,00%, có nghĩa là đất nông nghiệp từ năm 2006 - 2008 đã giảm bình quân mỗi năm là 1,00%. Nguyên nhân giảm là do: Một phần diện tích đất tự nhiên bị cắt trả lại cho thành phố Bắc Ninh, đây là nguyên nhân chủ yếu nhất. Mặt khác, còn có những nguyên nhân và lý do khác nhau như: Xây dựng khu công nghiệp 2 Quế Võ, chuyển đất nông nghiệp sang đất xây dựng cho nên, đất nông nghiệp qua 3 năm đều giảm.
Từ thực tế, chúng tôi thấy đất đai của huyện ngày càng bị thu hẹp nên các nông hộ cần nhận thức đúng đặc điểm, vai trò và giá trị của đất. Các ngành chức năng của huyện cần đẩy mạnh cộng tác quy hoạch, lập kế hoạch sử dụng đất, ổn định phát triển dân số để đảm bảo phát triển kinh tế của huyện ổn định và bền vững.
Bảng 3.1. Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai huyện Quế Võ qua 3 năm 2006 – 2008
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
So sánh (%)
S/lượng
CC (%)
S/lượng
CC (%)
S/lượng
CC (%)
2007/2006
2008/2007
Bình quân
* Tổng diện tích đất tự nhiên
ha
17074,63
100,00
17069,63
100,00
17069,63
100,00
99,97
100,00
99,99
I. Đất nông nghiệp
ha
10897,66
63,82
10738,70
62,91
10681,84
62,58
98,54
99,47
99,00
1. Đất canh tác
ha
9794,64
89,88
9763,71
90,92
9706,77
90,87
99,68
99,42
99,55
2. Đất cây trồng lâu năm + vườn
ha
643,51
5,91
570,12
5,31
571,78
5,35
88,60
100,29
94,26
3. Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
ha
459,51
4,22
404,87
3,77
403,29
3,78
88,11
99,61
93,68
II. Đất lâm nghiệp
ha
232,36
1,36
257,90
1,51
315,94
1,85
110,99
122,50
116,61
- Đất có rừng trồng
ha
232,36
257,90
315,94
110,99
122,50
116,61
III. Đất chưa sử dụng và đồi trọc
ha
2494,39
14,61
2423,74
14,20
2365,91
13,86
97,17
97,61
97,39
IV. Đất chuyên ding
ha
3450,22
20,21
3649,29
21,38
3705,94
21,71
105,77
101,55
103,64
1. Đất nhà ở
ha
692,09
20,06
774,89
21,23
777,63
20,98
111,96
100,35
106,00
2. Đất thuỷ lợi
ha
1541,47
44,68
1644,34
45,06
1657,88
44,74
106,67
100,82
103,71
3. Đất xây dựng cơ bản
ha
198,31
5,75
199,32
5,46
203,94
5,50
100,51
102,32
101,41
4. Đất chuyên dùng khác
ha
1018,35
29,52
1030,74
28,24
1066,49
28,78
101,22
103,47
102,23
* Một số chỉ tiêu phân tích
ha
- Đất NN/khẩu NN
ha
0,078
0,071
0,070
- Đât canh tác/khẩu NN
ha
0,070
0,069
0,070
- Đất NN/lao động NN
ha
0,178
0,169
0,160
- Đất canh tác/lao động NN
ha
0,160
0,154
0,153
(Nguồn: Phòng Thống kê huyện Quế Võ)
3.1.2.2. Tình hình nhân khẩu và lao động
Theo số liệu thống kê của phòng thống kê huyện Quế Võ ở bảng 3.2. Năm 2008 dân số của Quế Võ là 151.692 người, so với năm 2006 dân số của huyện tăng 2312 người, với tốc độ tăng bình quân một năm là 1,31%. Quế Võ là một huyện thuần nông, nên số khẩu nông nghiệp của Quế Võ chiếm tỷ lệ khá lớn. Năm 2006 số khẩu nông nghiệp là 139.384 khẩu, chiếm 90,2%. Qua điều tra chúng tôi thấy số khẩu nông nghiệp của huyện có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số nhân khẩu của huyện, chẳng hạn năm 2008 vẫn là 90,2%. Nguyên nhân của sự giảm này là do đã có một số hộ thuần nông đã chuyển sang ngành nghề hay dịch vụ. Cụ thể, năm 2006 số hộ thuần nông của huyện là 31.334 hộ, chiếm 93,04% tổng số hộ của huyện, đến năm 2008 số hộ thuần nông của huyện chỉ còn 30770 hộ, giảm 564 hộ và chỉ chiếm 88,39% tổng số hộ của huyện. Số hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề tăng từ 1,526 hộ năm 2006 lên 3.190 hộ năm 2008. Như vậy, bình quân mỗi năm số hộ thuần nông của huyện giảm 1,31% và số hộ nông nghiệp - buôn bán dịch vụ tăng bình quân mỗi năm là xấp xỉ 60,52%. Chính nguyên nhân này đã dẫn tới số khẩu nông nghiệp giảm và khi khẩu nông nghiệp giảm xuống sẽ kéo theo số lao động nông nghiệp giảm.
Cụ thể, năm 2006 tổng số lao động của huyện là 65.361 lao động đến năm 2008 con số này là 69.999 lao động. Như vậy tốc độ tăng bình quân mỗi năm về số lao động toàn huyện là 6,4%. Số lao động nông nghiệp của Quế Võ năm 2006 là 61.064 lao động chiếm 93,43% tổng số lao động của huyện, nhưng đến năm 2008 là 65,086 lao động nông nghiệp nhưng chỉ chiếm 92, 98%. Số lao động ngành nghề và buôn bán dịch vụ tăng khá nhanh, bình quân mỗi năm tăng 13,84%, lao động chuyên ngành nghề dịch vụ chỉ tăng 1,12%. Điều này chứng tỏ rằng các hộ thuần nông muốn tăng thu nhập cho gia đình mình thì phải phát triên thêm ngành nghề phụ, vì nếu chỉ hoạt động trong nông nghiệp thì năng suất lao động sẽ không cao và năng suất lao động cận biên có xu hướng giảm dần, ngoài ra vấn đề rủi ro cao là rất rõ.
Qua một số chỉ tiêu tính toán bình quân chúng tôi thấy, bình quân khẩu/hộ năm 2008 là 4,45 khẩu và số lao động bình quân hộ 2,04 lao động. Đây là một tỷ lệ tương đối phù hợp đối với một huyện nông nghiệp. Bình quân mỗi hộ có 4,45 người, nhưng số lao động lại là 2,04 như vậy số người ăn theo là không lớn lắm. Đó cũng là điều kiện thuận lợi để các hộ trong huyện tăng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng cũng như đầu tư vào các lĩnh vực khác để ngày càng nâng cao đời sống của gia đình cũng như cộng đồng. Để làm được điều này chúng tôi nghĩ, cần phải có định hướng cụ thể của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp để mỗi lao động có thể hoạt động ở vị trí đúng theo năng lực, sở trường của mình, có như vậy năng suất lao động mới cao, mới góp phần làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.
Bảng 3.2. Tình hình nhân khẩu và lao động của huyện qua 3 năm 2006 - 2008
Ch._., hoa chất lượng cao… Cơ cấu cây trồng dự kiến cho năm 2010 và 2015 được thể hiện ở bảng 4.19.
Bảng 4.19. Dự kiến cơ cấu một số cây trồng chính của huyện từ (2008 – 2015)
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2010
Năm 2015
SL (ha)
Cơ cấu (%)
SL (ha)
Cơ cấu (%)
SL (ha)
Cơ cấu (%)
I. Hệ thống sử dụng RĐ
2,15
2,20
2,23
II. Diện tích gieo trồng cây hàng năm
20410
100
20950
100
21350
100
1. Cây lương thực
18258
89,46
17950
85,68
17950
84,07
- Lúa xuân
8747
47,91
8500
47,35
8500
47,35
- Lúa mùa
8561
46,89
8500
47,35
8500
47,35
- Khoai lang
600
3,29
550
3,06
500
2,78
- Ngô
350
1,92
400
2,23
450
2,50
2. Cây thực phẩm
1652
8,09
2250
10,74
2400
11,24
- Khoai tây
1000
60,53
1400
62,22
1500
62,50
- Rau màu, rau sạch
652
39,47
850
37,78
900
37,50
3. Cây công nghiệp
500
2,45
750
3,58
1000
4,68
- Lạc
250
50,00
400
53,33
650
65,00
- Đậu tương
250
50,00
350
46,67
350
35,00
III. Cây lâu năm
230
100
450
100
605
100
- Vải
30
86,96
50
88,89
65
10,74
- Cây khác
200
13,04
400
11,11
540
89,26
(Nguồn: Phòng nông nghiệp huyện Quế Võ)
Thực hiện thâm canh tăng năng suất cây trồng: Do diện tích đất canh tác của huyện có hạn. Bởi vậy, trong những năm tới các hộ không thể tìm kiếm thêm việc làm trên diện rộng, mà phải tạo việc làm theo chiều sâu tức là phải tăng cường đầu tư, chăm sóc và cải tạo để vừa tăng hiệu quả sử dụng đất vừa tăng năng suất cây trồng. Mặt khác, hiện tại các nông hộ đầu tư cho sản xuất chưa cao, có thể tăng đầu tư công lao động, vật tư khác lên nữa để cải tạo đất và đưa năng suất cây trồng lên.
+ Chăn nuôi vẫn chưa được phát triển mạnh, do vậy phải đẩy nhanh phát triển ngành chăn nuôi, bởi hiện nay chúng tôi thấy, Quế Võ đang có thế mạnh trong việc này, ngoài những vật nuôi truyền thống như lợn, gia cầm thì hiện nay Quế Võ đang được đầu tư một khoản rất lớn về cơ sở hạ tầng để chuyển đổi đồng trũng sang nuôi trồng thuỷ sản cũng như phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt với sự tài trợ bằng dự án phát triển bò sữa của ông Lê Bá Thành. Do đó, trong những năm tới các nông hộ nên hướng vào chăn nuôi có quy củ, có tổ chức chứ không phải chăn nuôi tự phát như hiện nay. Làm được như vậy sẽ tận dụng được nguồn lao động kể cả lao động phụ gia đình, đồng thời góp phần làm cân đối cơ cấu ngành nông nghiệp. Dự kiến số đầu gia súc, gia cầm của huyện năm 2010 và 2015 được thể hiện qua bảng 4.20.
Bảng 4.20. Dự kiến số đầu gia súc, gia cầm của huyện từ (2008 - 2015)
Chỉ tiêu
ĐVT
2008
2010
2015
I. Đàn lợn
Con
72.300
80.000
90.000
- Lợn thịt
con
62.260
68.800
78.000
- Lợn nái
con
9.040
11.200
12.000
II. Đàn trâu, bò
con
17.620
18.300
19.600
- Trâu bò cày kéo
con
15.700
15.500
15.500
- Trâu bò thịt
con
1.920
2.800
4.600
III. Đàn gia cầm
con
762.140
842.000
900.000
IV. Cá
ha
430
480
550
( Nguồn: Phòng nông nghiệp - TTCN huyện Quế Võ)
Ngoài ra, huyện cần tìm kiếm và phối hợp với các tổ chức, các nhà trường để đào tạo dạy nghề cho nông dân mà đặc biệt là thanh niên nông thôn để tăng thêm cơ hội có việc làm cho họ, đồng thời góp phần cải tạo cách nghĩ, cách nhìn của người dân về phát triển kinh tế.
4.4.2.2. Tạo vốn
Vốn cho sản xuất là vấn đề được tất cả các ngành kinh tế quan tâm, nó là nhân tố quan trọng quyết định phương hướng và quy mô sản xuất của tất cả các ngành. Qua điều tra thực tế chúng tôi thấy, hầu hết các hộ sản xuất trong huyện đều thiếu vốn, mặc dù các hình thức cho nông hộ vay vốn ở địa phương khá phong phú.
Các mô hình cho kinh tế nông hộ tự do vay vốn phát triển sản xuất của Ngân hàng, mô hình tín dụng ưu đãi người nghèo, tín dụng thông qua hội Phụ nữ... ở Quế Võ đã hình thành. Tuy nhiên, không phải ai có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng là cũng được vay, bởi Nhà nước vẫn còn có quy định rất khắt khe, đặc biệt đối với hộ nghèo vì họ không đủ tiêu chuẩn về nhiều mặt nên rất nhiều hộ nghèo trong huyện đã phải đi vay vốn ở bên ngoài với lãi suất rất cao. Điều này không những ảnh hưởng đến khả năng sản xuất mà nhiều khi nó còn gây ra mất đoàn kết cộng đồng.
Vì vậy, trong những năm tới, để đáp ứng nhu cầu về vốn cho bà con nông dân trong huyện phát triển sản xuất, chúng tôi mạnh dạn nêu ra một số biện pháp như sau:
- Các tổ chức tín dụng cần tìm hiểu cho đúng đối tượng cần vay vốn, nghĩa là đối tượng cho vay vốn của Ngân hàng phải là những hộ thực sự cần vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn đúng mục đích chứ không phải vay vốn để tiêu dùng, cần có biện pháp ưu đãi đối với những nông hộ nghèo.
- Việc dùng tài sản thế chấp cũng như các vật dụng thế chấp của Ngân hàng hiện nay đã hạn chế rất nhiều nhu cầu vốn của hộ, do đó trong những năm tới, các tổ chức tín dụng nên có biện pháp thay đổi cho phù hợp. Hiện nay Nhà nước ta đã có quy định các tổ chức kinh tế có thể thế chấp bằng tính khả thi của dự án, cho nên, Ngân hàng huyện nên áp dụng hình thức này để khuyến khích sản xuất, đồng thời cũng nên mở rộng hình thức tín dụng dài và trung hạn vì đây là nguồn vốn rất quan trọng đối với các dự án sản xuất kinh doanh dài. ngân hàng nên có quy định các hình thức cho vay vốn phù hợp đối với từng loại nông hộ. Chẳng han:
+ Đối với những nông hộ nghèo, do tài sản thế chấp hạn chế vì vậy hình thức tín dụng ở đây là tương trợ, giảm lãi suất, cộng với việc tư vấn sản xuất kinh doanh.
+ Đối với những hộ trung bình: Thì nới rộng hình thức cho vay vốn trung hạn để hộ có điều kiện mạnh dạn mở rộng sản xuất nông nghiệp cũng như ngành nghề - dịch vụ để tăng thu nhập cho người dân.
- Nghiên cứu các biện pháp huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nông thôn để tăng cường vốn vay cho nông hộ cần vốn. Quy mô của Ngân hàng nông nghiệp nông thôn cần mở rộng hơn, vì đây là loại hình Ngân hàn rất ưu ái của Nhà nước ta đối với nông nghiệp nông thôn. Đồng thời cũng cần có các chính sách mềm dẻo để Ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng nông thôn hoạt động theo cơ chế thị trường, có như vậy mới tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và nguồn vốn sẽ được giải ngân nhiều hơn.
- Các cấp lãnh đạo cơ sở và địa phương nên thành lập các mô hình hợp tác xã tín dụng ở ngay mọi địa phương để huy động cũng như hỗ trợ vốn kịp thời cho những người cần vốn, hoặc phát triển các mô hình hợp tác xã tự nguyện để có điểu kiện hỗ trợ nhau về vốn cũng như kỹ thuất.
- Ngoài các tổ chức Ngân hàng, huyện cần phải xây dựng quỹ xoá đói giảm nghèo riêng để hỗ trợ nhiều mặt cho các nông hộ nghèo ở nông thôn. Hiện nay, số hộ nghèo vẫn còn tương đối nhiều ở nông thôn, đặc biệt là ở nông thôn vùng núi, vùng sâu. Vì vậy, việc xoá đói giảm nghèo là một vấn đề chiến lược ở nông thôn Quế Võ nói riêng và cả nước nói chung.
- Biện pháp cuối cùng là thường xuyên tư vấn sản xuất cho tất cả các nông hộ để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Tăng cường khuyến nông cơ sở cũng như tích cực chuyển giao khoa học kỹ thuật để khơi thông suy nghĩ của người dân. Chẳng hạn:
+ Với những hộ khá: Thì tư vấn cho họ mạnh dạn mở rộng và phát triển các loại ngành nghề - dịch vụ mới, hướng mạnh vào các cây trồng, vật nuôi có tính hàng háo và chất lượng cao để sử dụng nguồn vốn trung và dài hạn.
- Với những hộ trung bình: Do đây là nhóm hộ có quy mô đất canh tác lớn nhất cũng như lao động nhiều nhất cho nên các tổ chức tín dụng, ngân hàng nên mở rộng khung vốn trung hạn cho các hộ này để một mặt họ duy trì và mở rộng sản xuất các cây trồng, vật nuôi hiện có, mặt khác giúp họ mạnh dạn tìm kiếm và phát triển các loại ngành nghề - dịch vụ.
- Với nhóm hộ nghèo: Do đây là những hộ sản xuất kém hiệu quả nhất và hướng sản xuất lại không rõ ràng, cho nên biện pháp hỗ trợ vốn cho các nông hộ này là: Ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho vay vốn kèm theo các điểu kiện ràng buộc như: Kết hợp với HTX hướng họ sản xuất những cây con cụ thể hoặc cho vay vốn sản xuất nhưng hỗ trợ về kỹ thuật kèm theo...
4.4.2.3. Giải quyết và điều chỉnh quan hệ ruộng đất
Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của nông hộ, nó đóng vai trò quan trọng quyết định quá trình phát triển sản xuất của nông hộ. Vì vậy, muốn phát triển kinh tế nông hộ cùng với giải pháp về vốn chúng ta cần có biện pháp về ruộng đất. Cụ thể:
- Phải đẩy nhanh quá trình "chuyển điền dồn thửa" tiến tới ổn định ruộng đất. Do ruộng đất của huyện rất manh mún: Bình quân số thửa của các hộ điều tra là từ 8- 10 thửa cho nên vấn đề dồn điền đổi thửa là rất cần thiết. Với những ô thửa lớn, người dân có thể dễ dàng đầu tư thâm canh cũng như áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trên mảnh đất đó, nhưng hiện tại do tư tưởng (có tốt, có xấu, có đất lúa, có đất màu) trong nông dân cho nên ruộng đất của họ vẫn còn manh mún, nhiều thửa. Để làm được điểu này, các cấp lãnh đạo mà trực tiếp là lãnh đạo cấp xã cần nghiên cứu đưa ra những biện pháp hợp lý.
+ Về diện tích: Tuỳ từng loại đất có thể đổi cho nhau theo tỷ lệ quy đổi nhất định, ví dụ đất loại một thì một sào bằng 0,8 sào, đất loại xấu thì một sào bằng 1,3: 1,4:1,5 sào... và cách chuyển đổi đồng trũng ở một số xã đã chứng minh điều này.
+ Về địa thế: Cũng nên chuyển đổi để liền vùng, thửa theo tỷ lệ quy đổi nào đó...
Hình thức chuyển đổi này có thể áp dụng dần dần, ở từng địa phương, sau đó cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho người dân. Có như vậy thì người dân mới yên tâm sản xuất và mô hình kinh tế hàng hoá mới hình thành và phát triển được.
- Điều chỉnh lại cơ cấu ruộng đất trong nhóm hộ để hộ nghèo vươn lên trong sản xuất. Qua tìm hiểu thực tế chúng tôi thấy, bình quân đất canh tác của hộ nghèo là rất thấp (bảng 4.5), nguyên nhân là do trong quá trình chia ruộng đất các hộ này tồn đọng sản phẩm từ trước nên bị cắt giảm ruộng đất. Hơn nữa, với quỹ đất dự phòng (đất đấu thầu) họ không được đấu thầu cũng do nguyên nhân trên và điều quan trọng hơn là trong quá trình phát triển sản xuất các hộ này không có vốn, họ đã phải chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình cho các hộ khác. Vì vậy, trong những năm tới các cấp lãnh đạo địa phương nên tìm hiểu kỹ để giúp các hộ nghèo tháo gỡ khó khăn này, để hộ nghèo có cơ hội vươn lên.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho các hộ có khả năng tham gia đấu thầu như nhau, cả đất dự trữ và đất mặt nước đã và chưa sử dụng, để một mặt phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho nông hộ, mặt khác đưa đất đai của huyện vào sử dụng đầy đủ, hợp lý. Tuy nhiên, hình thức đấu thầu cũng nên lâu dài và có thể tái thầu nếu như hết thời hạn nông hộ vẫn có nguyện vọng sử dụng. Làm được như vậy, các nông hộ mới thực sự yên tâm và mạnh dạn đầu tư cho sản xuất.
Nếu như việc "chuyển điền dồn thửa" không thực hiện được thì có thể khuyến khích những hộ có nhu cầu tự nguyện đổi ruộng cho nhau để tạo điều kiện cho việc ứng dụng cơ giới hoá cũng như áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Qua điều tra thực tế chúng tôi thấy ở nông thôn hiện nay đã xuất hiện các mô hình kinh tế theo hướng chuyên môn hóa chăn nuôi hoặc trồng trọt. Những hộ này có thể đổi ruộng cho nhau theo hình thức: hộ chăn nuôi do không có điều kiện nâng cao hệ số sử dụng đất vì thế họ có thể đổi các chân ruộng có khả năng trồng màu cho các hộ khác để những hộ này khai thác tốt hơn những ô ruộng đó và ngược lại.
4.4.2.4. Thị trường tiêu thụ
Hiện nay việc khuyến khích phát triển các ngành nghề cộng với sự phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá thì thị trường trong nông thôn đang ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển sản xuất của nông hộ. Để thị trường nông thôn ngày càng mở rộng cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động cần làm tốt những biện pháp như sau:
- Tạo điều kiện và khuyến khích các nông hộ mở rộng sản xuất ngành nghề và nông nghiệp hàng hóa, đặc biệt là những nông sản hàng hoá có chất lượng cao như: Dưa xuất khẩu, địa liền, khoai tây, gừng... Những sản phẩm này không những đáp ứng nhu cầu trong tỉnh mà còn đáp ứng nhu cầu trong cả trong nước cũng như nước ngoài. Đồng thời Nhà nước cần tạo ra hàng rào bảo vệ cho sản xuất hàng hóa phát triển như: thuế, cấm nhập khẩu...
- Chính quyền các cấp cũng như mỗi nông hộ cần phải có sự hợp tác, mở rộng các kênh thị trường ở những nơi đông dân như thành phố Bắc Ninh, thành phố Hà nội. Đồng thời huy động các nguồn tài trợ cũng như đóng góp trong dân để xây dựng các chợ, HTX tiêu thụ, các trung tâm mua bán, để nông sản hàng hóa quay vòng nhanh chóng.
- Đẩy mạnh công tác dự báo và cung cấp các thông tin thị trường một cách cập nhật để các nông hộ có thể nắm bắt, ứng sử một cách kịp thời, các cơ quan chức năng cũng cấn tìm hiểu, tư vấn sản xuất cho các nông hộ để hướng họ vào loại sản phẩm nào, thị trường nào.
4.4.2.5. Khuyến nông
Khuyến nông là công việc dạy học, huấn luyện, bồi dưỡng, đào tạo cho nông dân biết cách sản xuất, cách tiến hành công việc và cả cách nghĩ trong việc lựa chọn mô hình sản xuất. Mặc dù trong những năm gần đây phòng Nông nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp huyện Quế Võ đã rất nỗ lực trong công tác khuyến nông, song do cán bộ khuyến nông cơ sở còn non kém nên tác dụng của công tác khuyến nông đối với người dân trong huyện chưa cao. Qua điều tra thực tế chúng tôi thấy, đa số các hộ nghèo và phần đông các hộ trung bình kiến thức về khoa học sản xuất nông nghiệp, kinh nghiệm sản xuất, kỹ thuật thâm canh cây trồng cũng như vật nuôi còn rất giản đơn, yếu kém. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hơn nữa, công tác khuyến nông đến từng nhóm hộ là rất cần thiết. Để đẩy mạnh công tác khuyến nông, huyện Quế Võ cần tiến hành các biện pháp như sau:
- Kiện toàn và xây dựng hệ thống khuyến nông từ huyện cho đến xã và đến hộ nông dân.
- Đối với nhóm hộ khá: Khuyến nông nên hướng họ phát triển sản xuất hàng hoá, sản xuất những ngành nghề, những cây, con đòi hỏi đầu tư lớn, kỹ thuật phức tạp, đặc biệt là sản xuất gắn liền với chế biến. Các cây, con mà nhóm hộ này nên phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá là: Lúa tẻ thơm, các cây vụ đông hàng hoá như khoai tây Pháp, dưa Nhật xuất khẩu... lợn hướng nạc, bò sữa, cá chim trắng...
- Đối với những hộ trung bình: Đối với nhóm hộ này là khuyến nông nên xu hướng cho họ vào những giống, cây trồng, vật nuôi mới để phục vụ cho sản xuất hàng hóa chứ không phải tiêu dùng, tư vấn cho họ về các mô hình ngành nghề - dịch vụ, các công thức luân canh mới hướng họ vươn lên thành những hộ có tiềm lực.
- Đối với hộ nghèo: Đây là đối tượng mà khuyến nông cần phải quan tâm và tạo điều kiện hơn cả. Do các hộ này hạn chế về rất nhiều mặt, cho nên khuyến nông đối với họ là: Phổ biến và tuyên truyền những giống cây, con có những đặc tính tốt, dễ thích nghi, yêu cầu đầu tư cũng như kỹ thuật không cao, để họ từng bước đi lên.
4.4.2.6. Xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng cao dân trí
Xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng cao dân trí cho nông hộ đòi hỏi phải có sự đầu tư, trợ giúp của các cấp, các ngành và tiến hành nhiều năm. Tuy nhiên, để hỗ trợ kinh tế nông hộ phát triển thì huyện Quế Võ cần chỉ đạo các ngành Ngân hàng, giao thông, thuỷ lợi tập trung giải quyết trước mắt các bộ phận sau:
- Nâng cấp và xây mới hệ thống giao thông nội đồng, vì đây là những đoạn đường mà nông hộ thường xuyên thực hiện các hoạt động sản xuất, chuyên chở. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy, hiện nay huyện có khoảng 202km đường liên thôn, xã, nhưng không phải tất cả 202km này đều tốt mà có rất nhiều đoạn đường chỉ là đất bình thường, chỉ hoạt động được khi trời khô ráo còn khi trời mưa thi việc vận chuyển, đi lại rất khó khăn. Do đó, những năm tới huyện phải tích vận động sức dân và tổ chức tài trợ khắc để cải tạo, nâng cấp cũng như làm mới hệ thống giao thông ở các thôn xã, có như vậy sản xuất mới có cơ hội và tạo điểu kiện phát triển.
- Nâng cấp, mở rộng hệ thống thuỷ nông: Trong nông nghiệp nước tưới có vai trò quyết định thành công hay thất bại của quá trình sản xuất. Qua điều tra chúng tôi thấy, Quế Võ có 35 trạm bơm tưới, 17 trạm bơm tưới tiêu, 11 trạm bơm tiêu và 493km kênh mương, trong đó đã có nhiều trạm bơm, nhiều km mương đã xuống cấp nghiêm trọng. Do vậy, trong những năm tới, huyện cần nâng cấp và mở rộng hệ thống này bằng cách: Xin kinh phí cũng như huy động nhân dân góp vốn, góp sức xây dựng các trạm bơm tưới, tiêu trọng yếu trong huyện, từng xã, từng địa phương; Đóng góp sức người, góp vốn để tiến hành kiên cố hoá kênh mương từng phần, đặc biệt là hệ thống mương dẫn để nâng cao hiệu quả vận chuyển nước tới các khu đồng.
- Hoàn thành mạng lưới điện và hệ thống thông tin liên lạc.
+ Ngày nay phát triển sản xuất nông nghiệp đều có nhu cầu sử dụng điện khí hoá. Với 32 trạm biến thế lớn, nhỏ và hệ thống đường dây hạ thế đến hầu hết các thông, Quế võ đã cung cấp điện cho 100% số hộ trong huyện. Nhưng do nhu cầu điện cho sản xuất cũng như sinh hoạt ngày càng lớn của dân cư trong huyện, trong những năm tới huyện cần phải từng bước nâng cấp mạng lưới điện để việc cung cấp điện cho nông dân không bị giảm sút, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sản xuất.
+ Về thông tin liên lạc: Do sản xuất hàng hoá trong những năm tới của huyện sẽ phát triển mạnh, đặc biệt là khi sản xuất ngành nghề - dịch vụ phát triển, nhu cầu về thông tin liên lạc của các hộ là rất cần thiết. Do vậy, ngay từ bây giờ, huyện cần từng bước mở rộng và hiện đại hoá hệ thống thông tin liên lạc đến từng thôn, xóm. Cần thiết phải thành lập các tổ chức thương mại - dịch vụ nông thôn, hệ thống truyền thanh, bưu điện để thu nhập cũng như cung cấp các thông tin về khoa học kỹ thuật, về tình hình thị trường, tiến độ sản xuất… Giúp bà con nông dân chủ động hơn trong sản xuất.
- Nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn cho chủ hộ:
Qua điều tra chúng tôi thấy: Trong số các hộ khá, chủ hộ có trình độ tiểu học và trung học cơ sở rất ít, trong khi đó ở hộ nghèo đa số chủ hộ mới đạt trình độ tiểu học, thậm chỉ còn có những chủ hộ mù chữ. Như vậy, có thể nói: đói nghèo gắn liền với việc thiếu kiến thức, cho nên muốn phát triển kinh tế, việc bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao hiểu biết cho chủ hộ là rất cần thiết. Để làm được điều này huyện cần chú ý các vấn đề sau:
+ Trước mắt, những chủ hộ hiện giờ do khó có thể vận động họ bồi dưỡng văn hoá được mà chỉ có cách là dùng các hình thức trình diễn, thí nghiệm thật đơn giản để cho họ có thể tiếp thu được các kỹ thuật đó phục vụ trực tiếp cho sản xuất, sau đó hướng họ vào học tập kinh nghiệm thị trường và tổ chức quản lý sản xuất.
Về lâu dài thì phải chăm lo, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ được đến các trường đào tạo có kiến thức và chuyên môn để họ có thể trở thành những người chủ tài năng sau này, vững vàng trong sản xuất, đưa huyện vươn lên không còn hộ đói, hộ nghèo.
4.4.2.7 Nâng cao hiệu quả và đa dạng hóa các hoạt động của HTX dịch vụ
Hiện nay, các HTX dịch vụ của huyện đang hoạt động kém hiệu quả, chỉ tập trung vào một số dịch vụ như thủy nông, bảo vệ ruộng đồng,… Còn các dịch vụ khác liên quan trực tiếp đến năng suất, chất lượng cây trồng như dịch vụ cây con giống, dịch vụ làm đất, dịch vụ tư vấn kỹ thuật,… thì gần như không hoạt động, hoặc có hoạt động thì hiệu quả hoạt động rất thấp, tỷ lệ dịch vụ không cao. Do các HTX vẫn hoạt động theo phương thức truyền thống, không đổi mới hình thức hoạt động và cung cấp dịch vụ cho phù hợp với nhu cầu thực tế của nông hộ, nên không đáp ứng được nhu cầu cho quá trình sản xuất kinh doanh của nông hộ. Chính vì vậy, các cấp chính quyền của huyện cần đánh giá cụ thể thực trạng hoạt động của các HTX dịch vụ nông nghiệp từ đó tư vấn, hỗ trợ về phương pháp quản lý, cách thức dịch vụ và đa dạng hóa các hoạt động của HTX nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình hội nhập của nông hộ.
4.4.2.8 Tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và mô hình trang trại gia đình
Để tăng nhanh năng suất trên một đơn vị diện tích, bên cạnh việc phát triển diện tích gieo trồng các cây trồng có thế mạnh của huyện như Khoai tây, Sup Lơ và các cây rau màu vụ đông khác, Huyện cần tập trung quy hoạch phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như: vùng sản xuất rau an toàn; sản xuất rau, hoa chất lượng cao trong nhà lưới;…áp dụng kỹ thuật và công thức luân canh phù hợp, từ đó tạo ra những vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa, sản phẩm tạo ra đạt năng suất và chất lượng cao cung cấp cho các KCN và đô thị, tăng sức cạnh tranh các sản phẩm nông sản của huyện.
Trên cơ sở giải quyết các mối quan hệ về đất đai và thực hiện dồn điền đổi thửa, huyện nên tập trung phát triển mạnh mẽ mô hình VAC, mô hình đa canh và trang trại gia đình, nhằm phát triển kinh tế nông hộ và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đặc biệt là những lao động có tuổi trên 35 (đây là những lao động dễ bị tổn thương khi bị mất tư liệu sản xuất, sẽ rất khó khăn cho những lao động này trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp).
Trên cơ sở những định hướng cùng các giải pháp chủ yếu trên chúng tôi tin rằng Quế Võ sẽ thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2010 - 2015.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Kinh tế nông hộ cũng là yếu tố đặc trưng thúc đẩy xã hội phát triển. Kinh tế nông hộ được coi là tế bào của kinh tế xã hội trong nông thôn, nó có sắc thái riêng về kinh tế, nhân văn và xã hội. Do đó, sự tồn tại và phát triển của kinh tế nông hộ quyết định sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội nông thôn.
Quế Võ mặc dù là một huyện nông nghiệp nhưng cũng nằm trong tam giác phát triển khá năng động của đồng bằng sông Hồng. Cùng với sự phát triển của khu vực nông thôn, sự mở rộng nhanh chóng của các khu công nghiệp, khu đô thị đã làm cho nông hộ của Quế Võ cũng có những nét đặc thù riêng trong phát triển.
Lao động bình quân một hộ là 2,4 lao động, trong khi đó nhân khẩu bình quân một hộ là 5,05 nhân khẩu. Như vậy 1 lao động phải nuôi hơn hai người cho nên việc tích luỹ trong nông hộ gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, vấn đề nổi cộm trong các nhóm hộ là tuổi chủ hộ cao, trình độ thấp, số chủ hộ là nữ chiếm đáng kể, sẽ hạn chế rất lớn tới việc ra quyết định trong phát triển kinh tế hộ trong thời kỳ hội nhập. Diện tích đất bình quân một nông hộ là khá thấp biến động từ 0,26 ha đến 0,458 ha và có sự khác nhau giữa các nhóm hộ. Ở nhóm hộ khá và hộ trung bình diện tích bình quân một hộ lớn hơn hộ nghèo. Đất đai của hộ tương đối manh mún, bình quân mỗi hộ là 8 - 10 thửa, đây là điều rất bất lợi cho Quế Võ trong việc quy hoạch vùng sản xuất, cũng như việc áp dụng khoa học kỹ thuật để tăng cường thâm canh. Do vậy muốn nâng cao năng suất lao động phải quy hoạch lại đất đai và tăng cường đầu tư thâm canh. Khả năng huy động vốn thấp, nhiều nhu cầu vốn không được đáp ứng, đặc biệt là ở nhóm các hộ nghèo. Nguyên nhân là do hộ không có khả năng tích luỹ, cộng với việc không có tài sản thế chấp nên không được vay vốn.
Thu nhập từ nông nghiệp của hộ vần chiếm tỷ lệ cao, thể hiện sự mất cân đối trong cơ cấu thu nhập của hộ, không theo kịp quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn huyện theo hướng CNH-HĐH. Giá trị tổng thu bình quân một hộ một năm đạt 23027,69 nghìn đồng, trong đó chủ yếu thu từ sản xuất nông nghiệp chiếm 48,69%, phần còn lại có 17,09% từ các hoạt động buôn bán dịch vụ và ngành nghề và 34,21% từ các nguồn thu khác. Các hoạt động dịch vụ này có xu thế tăng lên cùng với sự mở rộng của các khu công nghiệp. Trong nông nghiệp mặc dù trồng trọt vẫn là ngành sản xuất chính nhưng tỷ trọng ngành chăn nuôi đã được cải thiện dần (chiếm 41,22%). Mặc dù vậy tình hình chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản của huyện phát triển chậm chưa tương xứng với tiềm năng. Vì vậy, trong những năm tới huyện nên hướng dẫn đầu tư cho các hộ phát triển mô hình trang trại chăn nuôi vì mô hình này không tốn nhiều diện tích như trồng trọt và cho hiệu quả kinh tế cao hơn.
Trên địa bàn huyện có nhiều ngành nghề dịch vụ đã và đang phát triển như: Gốm sứ, đan lát, nấu rượu, làm gạch – ngói, làm thuê tại các khu công nghiệp và buôn bán đã được rất nhiều hộ tham gia, đặc biệt là các hộ khá có tiềm lực kinh tế. Chính sự phát triển của ngành nghề dịch vụ này đã giúp các loại hộ có thể tận dụng được lao động mùa vụ và tăng thu nhập cho hộ, bình quân chung một hộ giá trị sản xuất ngành nghề - dịch vụ là 3936,2 nghìn đồng, chiếm 17,09% giá trị sản xuất của hộ.
Phân tích tình hình đầu tư chi phí sản xuất cho các ngành chúng tôi nhận thấy hầu hết các nông hộ của huyện vẫn chưa thoát khỏi công thức truyền thống: Trồng lúa - chăn nuôi lợn, ngành nghề - dịch vụ. Chỉ có nhóm hộ khá là đã mạnh dạn đầu tư cả 3 lĩnh vực, trong đó lĩnh vực ngành nghề - dịch vụ và chăn nuôi chiếm ưu thế hơn so với trồng trọt, điều này thể hiện xu hướng phát triển sản xuất của nhóm hộ này là xu hướng phát triển ngành nghề - dịch vụ chứ không phải thuần nông.
Giá trị tổng thu từ sản xuất kinh doanh bình quân 1 hộ là 23027,69 nghìn đồng/năm, trong đó thu chủ yếu từ ngành trồng trọt chiếm 28,62% và thu khác chiếm 34,21% giá trị tổng thu của nông hộ. Thu nhập thực tế bình quân 1 hộ sau khi đã trừ chi phí là: 15303,7 nghìn đồng/năm. Thu nhập thực tế từ ngành nghề dịch vụ so với trồng trọt tuy có ít hơn, song có xu hướng phát triển rất nhanh. Trong nhóm hộ khá, thu nhập thực tế từ ngành nghề dịch vụ bình quân một hộ là 4900 nghìn đồng, chiếm 23,28% thu nhập thực tế của 1 nông hộ.
Nhóm hộ khá phát triển sản xuất kinh doanh tốt hơn so với hai nhóm hộ còn lại cả về quy mô và cơ cấu ngành nghề, nên giá trị thu, chi, đặc biệt là thu nhập thực tế từ 3 ngành sản xuất này khá tốt, trong đó ngành nghề và các dịch vụ có xu hướng phát triển nhanh hơn.
Do đặc thù là một huyện thuần nông, kinh tế nông hộ còn mang nặng tính độc canh cây lúa, cây công nghiệp, rau màu thực phẩm chưa phát triển, ngành chăn nuôi phát triển chưa cân đối với trồng trọt, ngành nghề, dịch vụ mới hình thành, mang tính tự phát, tiềm năng kinh tế - kỹ thuật của vùng chưa được khai thác, thu nhập từ nông nghiệp của hộ vẫn chiếm tỷ trọng cao, đời sống của một bộ phận nông dân (hộ nghèo) còn không ít những khó khăn. Đây là những vẫn đề đặt ra cho các cấp, các ngành cần nghiên cứu để có các giải pháp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và kinh tế của huyện.
Các vấn đề khó khăn chính trong phát triển kinh tế nông hộ của huyện Quế Võ có thể được tóm tắt đó là: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, thu nhập từ nông nghiệp vẫn là chính, đa số sản xuất ở quy mô nhỏ và chưa phát triển mạnh theo hướng sản xuất hang hóa, đất đai ít và có xu hướng giảm mạnh, manh mún, lao động dư thừa, thiếu vốn và khoa học kỹ thuật, quan hệ hợp tác giữa nông hộ với các tổ chức, hiệp hội và thị trường còn lỏng lẻo và chưa rõ,… Từ đó đề tài đề xuất định hướng và giải pháp tháo gỡ các khó khăn mà nông hộ đang gặp phải trong thời kỳ hội nhập nhằm phát triển kinh tế nông hộ đó là: giải pháp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, giải pháp tạo vốn cho sản xuất kinh doanh, giải quyết và điều chỉnh quan hệ ruộng đất, giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ, xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng cao dân trí, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phát triền mô hình trang trại gia đình, nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX dịch vụ,… Chúng tôi tin rằng, nếu thực hiện tốt những giải pháp trên, huyện Quế Võ sẽ giải quyết được triệt để những khó khăn mà nông hộ đang gặp phải.
5.2. Kiến nghị
- Đối với Nhà nước: Nhà nước cần có các chính sách, chương trình, dự án, khuyến nông, tín dụng… để hỗ trợ cho kinh tế nông hộ phát triển, đặc biệt là những nông hộ nghèo.
- Đối với huyện: Cần lập kế hoạch cụ thể, xác định và đánh giá rõ các nguồn lực của địa pưhơng để có hướng đầu tư cụ thể.
Tăng cường công tác khuyến nông, phát triển mạng lưới tín dụng, đầu tư cơ sở hạ tầng để đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông hộ.
Tăng cường mối quan hệ giữa chính quyền với nông hộ để giải quyết kịp thời, nhanh gọn những vấn đề vướng mắc trong dân.
- Đối với chủ hộ: Thì phải thấm nhuần câu nói: "Trước khi chờ ai cứu tự mình phải cứu mình trước". Cho nên các chủ hộ phải tự mình học hỏi, trau dồi kiến thức, biết chớp lấy những thời cơ tìm ra những hình thức sản xuất phù hợp với gia đình mình…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tổng kết kinh tế - xã hội huyện Quế Võ (2008).
Bùi Chí Bửu (2008), Nghiên cứu, phân tích tình hình kinh tế Việt Nam: Phát triển nông nghiệp ở Việt Nam: Thành tựu và thách thức, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam.
Đỗ Kim Chung (2005), Chính sách và phương thức chuyển giao kỹ thuật tiến bộ trong nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
C. Mac, P. Anghen, tuyển tập, tập 3, NXB Sự thật Hà Nội (2001), trang 200-208.
Mai Thanh Cúc - Quyền Đình Hà (2005), Giáo trình phát triển nông thôn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Nguyễn Tấn Dũng (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, nhiệm vụ hàng đầu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Báo nhân dân).
Thùy Dương (2007), Quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa - tăng sức cạnh tranh của nông sản, Tạp chí Kinh tế nông thôn.
Đầu tư nghiên cứu kinh tế nông hộ tư nhân của Đài Loan, Malaixia, Thái Lan, Trung Quốc (2003).
Lê Xuân Đình (số 7(151)/2008), Bức tranh kinh tế hộ nông dân hiện nay và một số vấn đề đặt ra, Tạp chí Cộng sản.
FRANK ELLIS (1995), Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2005 - 2010) huyện Quế Võ.
Duy Khánh (2008), Kết nối làng nghề truyền thống làm phong phú sản phẩm du lịch, Tạp chí Kinh tế nông thôn.
Kỷ yếu khoa học, Nghiên cứu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn (2002), NXB Nông nghiệp, Hà Nội
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, XI, X.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyên Quế Võ lần thứ XVI.
Nghị quyết 10 NQ/TW của Bộ Chính trị (1988), Về đổi mới công tác quản lý trong nông nghiệp.
Vũ Hữu Ngoạn (2002), Tìm hiểu đường lối kinh tế trong Nghị quyết Đai hội Đảng IX. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
Tạp chí Phát triển kinh tế số 21 tháng 5/2008.
Phát triển kinh tế hộ nông dân trong tình hình hiện nay, Tạp chí Khoa học và Công nghệ (2008).
Số liệu điều tra dân số Việt Nam năm 2008.
Lê Quốc Sử (2001), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng CNH - HĐH từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong thời đại kinh tế tri thức, NXB Thống kê, Hà Nội.
Thực trạng kinh tế hộ nông dân Việt Nam (2008), NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Đoàn Thế Tuấn (2002), Cơ sở khoa học của sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn.
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 17, NXB Chính trị quốc gia (2005).
Đỗ Văn Viện, Bài giảng môn kinh tế hộ nông dân, Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2939.doc