Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------------///----------------
Đào Thị Ngọc Ánh
NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI, KHẢ NĂNG PHÂN HỦY DDT
VÀ SINH LACCASE CỦA CHỦNG NẤM SỢI PHÂN LẬP TỪ ĐẤT
Ô NHIỄM HỖN HỢP THUỐC TRỪ SÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------------///----------------
Đào Thị Ngọc Ánh
NGH
117 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2569 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu phân loại, khả năng phân hủy DDT và sinh Laccase của chủng nấm sợi phân lập từ đất ô nhiễm hỗn hợp thuốc trừ sâu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
IÊN CỨU PHÂN LOẠI, KHẢ NĂNG PHÂN HỦY
DDT VÀ SINH LACCASE CỦA CHỦNG NẤM SỢI
PHÂN LẬP TỪ ĐẤT Ô NHIỄM HỖN HỢP THUỐC TRỪ SÂU
Chuyên ngành : Sinh học thực nghiệm
Mã số : 60.42.30
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Đặng Thị Cẩm Hà
Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lời Cảm Ơn !
Trong quá trình nghiên cứu vừa qua, tôi gửi lời cảm ơn chân thành và
sâu sắc đến sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của PGS.TS. Đặng Thị Cẩm Hà,
và các anh chị trong nhóm nghiên cứu Công nghệ sinh học xử lý khử độc các
chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, phòng Công nghệ Sinh học Môi trường,
đặc biệt là Ths. Nguyên Bá Hữu, KS. Đàm Thúy Hằng, KS.Nguyễn Nguyên
Quang, KS. Nguyễn Quang Huy.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học, Khoa Sinh-Kỹ
thuật nông nghiệp – Trường đại học Sư phạm – Đại Học Thái Nguyên và lãnh
đạo Viện Công nghệ sinh học, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã tận
tình dạy dỗ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học và thực hiện
luận văn này.
Bên cạnh đó, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình và bạn bè
đã tạo điều kiện động viên giúp đỡ tôi cả về vật chất và tinh thần để tôi có thể
hoàn thành bản luận văn này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2009
Đào Thị Ngọc Ánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
2,4-D 2,4,- dichlorophenoxyacetic acid
2,4,5-T 2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid
2,3,7,8-TCDD 2,3,7,8-Tetraclorodibenzo-p-dioxin
ABTS 2,2'-azino-bis(3-ethylbenzthiazoline-6-sulphonic acid)
bp Base pair
DDE Dichlorodiphenyldichloroethylene
DDD Dichlorodiphenyldichloroethane
DDT Dichloro - Trichloroethane Diphenyl
DNA Deoxyribonucleic acid
EC Enzyme Commission
EPA U.S. Environmental Protection Agency
HCH Hexacyclohexan
Lac Laccase
LB Luria - Bertani
LiP Lignin peroxidase
MnP Manganese peroxidase
PAH Polycyclic aromatic hydrocarbon
PCB Polychlorinated biphenyl
PCR Polymerase Chain Reaction
POP Persistent Organic Pollutant
RBBR Remazol brilliant blue R
RNA Ribonucleic acid
rRNA Ribosomal ribonucleic acid
X-gal 5-bromo-4-chloro-3-indodyl- β galactosidase
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 4
PHẦN I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 6
1 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT LÝ HÓA CỦA DDT 6
1.1 Cấu trúc của DDT 6
1.2 Tính chất lý hóa của DDT 6
2 ẢNH HƢỚNG ĐẾN MÔI TRƢỜNG VÀ SỨC KHỎE CON NGƢỜI
CỦA DDT 7
2.1 Ảnh hƣởng đến môi trƣờng 7
2.2 Ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời 9
3 TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM DDT 11
3.1 Nguồn gốc phát sinh 11
3.2 Tình trạng ô nhiễm DDT trên thế giới 13
3.3 Tình trạng ô nhiễm DDT ở Việt Nam 14
4 CÁC PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ Ô NHIỄM DDT 16
4.1 Các phƣơng pháp cơ, hóa lý 16
4.1.1 Phương pháp chôn lấp, cô lập 16
4.1.2 Phương pháp đốt có xúc tác 17
4.1.3 Phương pháp phân hủy bằng kiềm nóng 17
4.2 Phƣơng pháp phân hủy sinh học 18
5 PHÂN HỦY SINH HỌC DDT 20
5.1 Khả năng phân hủy DDT bởi vi sinh vật 20
5.1.1 Loại clo bởi quá trình khử 21
5.1.2 Khoáng hoá DDT bởi nấm thủy phân lignin 22
5.1.3 Phân hủy DDT bởi vi khuẩn trong điều kiện hiếu khí 23
5.2 Các điều kiện môi trƣờng ảnh hƣởng đến phân hủy sinh học DDT và
các dẫn xuất của DDT 26
6 LACCASE 27
6.1 Định nghĩa 27
6.2 Cấu trúc phân tử của laccase 28
6.3 Cơ chế xúc tác của laccase 30
6.4 Tính chất hóa sinh của laccase 32
6.5 Sự phân bố và một số vi sinh vật sinh laccase 33
6.6 Gene mã hóa laccase 34
6.7 Ứng dụng của laccase 36
6.8 Lignin peroxidase và Mangan peroxidase 37
6.8.1 Lignin peroxidase 37
6.8.2. Mangan peroxidase 38
7 PHÂN LOẠI VI SINH VẬT 39
7.1 Phân loại theo phƣơng pháp truyền thống 39
7.2 Phân loại bằng phƣơng pháp xác định và so sánh trình tự gene mã hóa
18S Rrna 39
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
7.2.1 Một số phương pháp phân loại bằng sinh học phân tử 39
7.2.2 Phân loại dựa vào trình tự gene mã hoá 18S rRNA 40
PHẦN II VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 42
1 VẬT LIỆU 42
1.1 Nguyên liệu 42
1.2 Hóa chất 42
1.3 Thiết bị 42
1.4. Môi trƣờng nuôi cấy 43
2 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 45
2.1 Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của các chủng nấm sợi 45
2.2 Sàng lọc khả năng sinh Lac, LiP, MnP 45
2.3 Nghiên cứu khả năng phân hủy DDT của chủng FNA1 45
2.4 Phƣơng pháp xác định hoạt tính enzyme 46
2.4.1 Xác định hoạt tính laccase 46
2.4.2 Xác định hoạt tính LiP 47
2.4.3 Xác định hoạt tính MnP 47
2.5 Khảo sát các điều kiện môi trƣờng ảnh hƣởng đến khả năng phát triển
và sinh laccase của chủng FNA1 48
2.6 Xác định một số tính chất hóa sinh của laccase thô 49
2.7 Phân loại nấm sợi dựa vào xác định và so sánh trình tự gen mã hóa
18S rRNA 50
2.7.1 Tách DNA tổng số từ nấm sợi 50
2.7.2 Nhân đoạn gen bằng kỹ thuật PCR 51
2.7.3 Gắn sản phẩm PCR vào vectơ và biến nạp vào E.coli 53
2.7.4 Tách chiết DNA plasmid 53
2.7.5 Kiểm tra plasmit mang sản phẩm PCR mong muốn 54
2.7.6 Điện di kiểm tra DNA tổng số 55
2.6.8 Xây dựng cây phát sinh chủng loại 55
2.6.7 Xác định trình tự đoạn gene mã hóa 16S rRNA 55
PHẦN 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 56
1 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI KHUẨN LẠC VÀ CUỐNG SINH
BÀO TỬ CỦA CÁC CHỦNG FNA1, FNA2, FNA3 56
2 SÀNG LỌC KHẢ NĂNG SINH TỔNG HỢP Lac, LiP, MnP 57
3 KHẢ NĂNG PHÂN HỦY DDT CỦA CHỦNG FNA1 59
4 CÁC ĐIỀU KIỆN MÔI TRƢỜNG ẢNH HƢỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG
SINH TRƢỞNG VÀ SINH TỔNG HỢP LACCASE CỦA CHỦNG FNA1 64
4.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ, pH môi trường nuôi cấy, nồng độ NaCl 64
4.1.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ 64
4.1.2 Ảnh hưởng của pH môi trường nuôi cấy 65
4.1.3 Ảnh hưởng của nồng độ NaCl 67
4.2 Ảnh hưởng của nồng độ DDT và nồng độ glucose 68
4.2.1 Ảnh hưởng của nồng độ DDT 68
4.2.2 Ảnh hưởng của nồng độ glucose 69
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
4.3 Ảnh hưởng của các chất cảm ứng 71
4.3.1 Guaiacol, veratyl alcohol, CuSO4 71
4.3.2 Các chất ô nhiễm khác 72
4.4 Ảnh hưởng của chất hoạt động bề mặt 74
4.5 Ảnh hưởng của nguồn carbon, nitơ và môi trường thay thế 76
4.5.1 Ảnh hưởng của nguồn carbon 76
4.5.2 Ảnh hưởng của nguồn nitơ 78
4.5.3 Ảnh hưởng của môi trường thay thế 80
5 MỘT SỐ TÍNH CHẤT CỦA LACCASE THÔ 81
5.1 pH tối ưu và độ bền pH 81
5.1.1 pH tối ưu 81
5.1.2 Độ bền pH 83
5.2 Nhiệt độ thích hợp cho hoạt động của laccase và độ bền nhiệt 84
5.2.1 Nhiệt độ thích hợp cho hoạt động của laccase 84
5.2.2 Độ bền nhiệt 85
6 PHÂN LOẠI CHỦNG NẤM SỢI FNA1 BẰNG PHƢƠNG PHÁP SO
SÁNH TRÌNH TỰ ĐOẠN GEN MÃ HÓA 18S rRNA 86
6.1 Tách chiết DNA tổng số 86
6.2 Nhân đoạn gen 18S rRNA bằng kỹ thuật PCR 87
6.3 Tách dòng gen 18S rRNA trong vectơ pTZ57R/T 88
6.4 So sánh trình tự đoạn gen mã hóa 18S rRNA của chủng FNA1 91
KẾT LUẬN 94
KIẾN NGHỊ 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC 103
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
MỞ ĐẦU
DDT (Dichloro - Trichloroethane Diphenyl) là một trong những thuốc
trừ sâu tổng hợp đƣợc biết đến nhiều nhất. DDT đƣợc tổng hợp đầu tiên vào
năm 1874, nhƣng thuộc tính thuốc trừ sâu của DDT thì cho đến 1939 mới
đƣợc khám phá. Vào những năm đầu của Chiến tranh Thế giới thứ II, DDT
đƣợc sử dụng với lƣợng lớn để kiểm soát muỗi truyền bệnh sốt rét, bệnh sốt
phát ban, và các bệnh do côn trùng khác trong cả quân đội lẫn dân cƣ. DDT
trở thành loại thuốc trừ sâu phổ biến sử dụng trong nông nghiệp. Chúng có
mặt ở khắp mọi nơi, trong không khí, đất, nƣớc do một lƣợng lớn đã đƣợc giải
phóng ra khi phun trên các cánh đồng và rừng để diệt muỗi và côn trùng.
Ngày nay DDT đã bị cấm sử dụng do tính độc của nó nhƣ có khả năng
gây ung thƣ tiềm tàng, gây đột biến và gây ô nhiễm môi trƣờng nghiêm trọng.
Để bảo vệ môi trƣờng và sức khỏe con ngƣời, cần phải xử lý khử độc DDT
trong môi trƣờng đất cũng nhƣ trong các môi trƣờng khác. DDT ở trong đất
có thể giảm đi do sự bay hơi, sự xói mòn đất, sự hấp thu của động vật, thực
vật và sự phân hủy sinh học của các vi sinh vật có sẵn trong đất nhƣng với
thời gian tƣơng đối lâu.
Trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, đã có một số phƣơng pháp khử độc
khác nhau đƣợc nghiên cứu và áp dụng. Trong đó phƣơng pháp xử lý sinh học
nhờ các vi sinh vật và hệ enzyme do chúng tiết ra là một hƣớng đi mới có
nhiều triển vọng. Hệ enzyme sử dụng trong xử lý sinh học chủ yếu là các
enzyme ngoại bào, chúng có khả năng phá vỡ các liên kết trong các hợp chất
hữu cơ hoặc xúc tác chuyển hóa chúng thành các chất ít độc hơn và các dạng
dễ bị phân hủy hơn. Nhóm enzyme có vai trò lớn trong quá trình phân hủy
DDT cũng nhƣ các chất thuộc POPs khác gồm có laccase (Lac), mangan
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
peroxidase (MnP) và lignin peroxidase (LiP), trong đó laccase có vai trò quan
trọng và đang bắt đầu đƣợc quan tâm nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam.
Tại Nhóm nghiên cứu Công nghệ sinh học xử lý khử độc các chất ô
nhiễm hữu cơ khó phân hủy (Persistent Organic Pollutants – POPs), phòng
Công nghệ Sinh học Môi trƣờng, Viện CNSH, Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam đã có những nghiên cứu bƣớc đầu về khả năng phân hủy DDT,
DDD, DDE và sinh enzyme ngoại bào Lac, MnP, LiP [4,5,6]. Để làm rõ bản
chất sinh học và khả năng sinh enzyme của các chủng nấm sợi phân lập từ đất
ô nhiễm DDT phục vụ cho các nghiên cứu ứng dụng enzyme ngoại bào vào
xử lý các chất ô nhiễm khó phân hủy POPs, chúng tôi đã thực hiện đề tài với
tên là: “Nghiên cứu phân loại, khả năng phân hủy DDT và sinh laccase
của chủng nấm sợi phân lập từ đất ô nhiễm hỗn hợp thuốc trừ sâu”.
Nội dung bao gồm:
1. Phân loại và định tên chủng nấm sợi dựa vào đặc điểm hình thái và
trình tự đoạn gene mã hoá 18S rRNA.
2. Nghiên cứu khả năng phân hủy DDT của chủng nấm sợi FNA1.
3. Nghiên cứu khả năng sinh laccase của chủng nấm sợi FNA1.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
PHẦN I TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT LÝ HÓA CỦA DDT
1.1 Cấu trúc của DDT
DDT là một trong các thuốc diệt côn trùng, chúng là một nhóm các hợp
chất hữu cơ có hai vòng thơm và có chứa Clo, bao gồm 14 hợp chất hữu cơ,
trong đó: 71% là p,p,- DDT, 14.9% là o,p,- DDT, 0.3%p,p,- DDD, 0.1% là
o,p
,
-DDD, 4% là p,p
,
- DDE, 0.1% là o,p
,
-DDE, sản phẩm khác là 3.5% (Hình
1.1).
p-p DDT p-p DDE p-p DDD
o-p DDT o-p DDE o-p DDD
Hình 1.1. Công thức cấu tạo của một số đồng phân DDT
1.2 Tính chất lý hóa của DDT
Tất cả các đồng phân của DDT đều là dạng tinh thể màu trắng, không
mùi, không vị, có công thức tổng quát là C14H9Cl5, khối lƣợng phân tử là
354.5. Nhiệt độ nóng chảy khoảng 108.5 - 1090C, áp suất bay hơi là 2.53 x10-
5
Pa (1.9 x10
-7mmHg) tại 200C. DDT tan ít trong nƣớc (1g/l) nhƣng có khả
năng giữ nƣớc, tan tốt trong các hợp chất hữu cơ đặc biệt là mỡ động vật. Khả
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
năng hoà tan của DDT trong nƣớc là thấp (hệ số hấp phụ cao) nên DDT có xu
hƣớng bị hấp phụ trong cặn bùn, đất đá, trầm tích. Điều này có vai trò đặc biệt
trong phân hủy sinh học DDT. Một số đặc tính cơ bản của DDT và các đồng
phân đƣợc trình bày ở phụ lục 1 [59].
2 ẢNH HƢỚNG ĐẾN MÔI TRƢỜNG VÀ SỨC KHỎE CON NGƢỜI
CỦA DDT
2.1 Ảnh hƣởng đến môi trƣờng
DDT [ 1,1,1-trichloro-2,2-bis-(p-chlorophenyl)ethane] đã đƣợc tổng
hợp vào năm 1874, nhƣng mãi đến 1930, Bác sĩ Paul Muller (Thụy Sĩ ) mới
xác nhận DDT là một hóa chất hữu hiệu trong việc trừ sâu rầy và từ đó đƣợc
xem nhƣ là một thần dƣợc và không biết có ảnh hƣởng nguy hại đến con
ngƣời. Khám phá trên mang lại cho ông giải Nobel về y khoa năm 1948 và
DDT đã đƣợc sử dụng rộng rãi khắp thế giới cho việc khử trùng và kiểm soát
mầm mống gây bệnh sốt rét. Nhƣng chỉ hai thập niên sau đó, một số chuyên
gia thế giới đã khám phá ra tác hại của DDT trên môi trƣờng và sức khỏe
ngƣời dân. Do đó, tại Hoa Kỳ từ năm 1972 DDT đã bị cấm sử dụng hẳn. DDT
bị nhiễm vào môi trƣờng không khí, nƣớc, đất trong suốt quá trình sử dụng,
DDT có mặt ở nhiều vị trí ô nhiễm khác nhau, sau đó có thể tiếp tục bị lan
truyền và gây ô nhiễm môi trƣờng. Đặc biệt trong đất, nó giữ nƣớc thành các
phần tử rắn và trở thành dạng bền vững (EPA 1986) và đƣợc EPA Hoa Kỳ
xếp vào danh sách các loại hóa chất phải kiểm soát vì có nguy cơ tạo ra ung
thƣ cho ngƣời và động vật [59]. DDT, DDE (1,1-dichloro-2,2-bis(p-
chlrophenyl)ethylene), DDD (1,1-dichloro-2,2-bis(p-chlrophenyl)ethylene)
cũng có thể đƣợc thải vào không khí khi chúng bay hơi từ đất và nƣớc nhiễm
độc. Một lƣợng lớn DDT đã đƣợc thải vào môi trƣờng nhƣ đi vào không khí,
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
đất và nƣớc thông qua quá trình tƣới, phun trên các diện tích sản xuất nông
nghiệp và rừng để diệt côn trùng và muỗi [59].DDT và các đồng phân bị
ngấm vào mạch nƣớc ngầm khi nó đƣợc sử dụng để diệt côn trùng ở gần các
cửa sông .v.v. Trong đất, DDT có thể suy giảm nhờ quá trình bốc hơi, quá
trình quang phân và quá trình phân hủy sinh học (hiếu khí và kị khí) nhƣng
những quá trình này xảy ra rất chậm tạo ra sản phẩm là DDD và DDE có độ
bền tƣơng tự nhƣ DDT. DDD cũng đƣợc sử dụng nhƣ là một loại thuốc trừ
sâu, còn DDE chỉ đƣợc tìm thấy trong môi trƣờng nhiễm bẩn do sự phân hủy
sinh học của DDT.
Quá trình bốc hơi, phân hủy DDT, DDD, DDE có thể đƣợc lặp lại
nhiều lần và kết quả là DDT, DDD, DDE đƣợc tìm thấy ở cả những nơi rất xa.
Những hợp chất hóa học này có thể đƣợc phát hiện ở đầm lầy, tuyết và động
vật ở vùng Bắc Cực & Nam Cực, rất xa so với nơi chúng đƣợc sử dụng, DDT,
DDD, DDE cuối cùng ở trong đất một thời gian dài, hầu hết bị phân hủy chậm
thành DDD và DDE thƣờng là bởi hoạt động của các vi sinh vật. Chu kỳ bán
hủy của những hợp chất này trong khí quyển khi bay hơi đƣợc ƣớc tính 1,5- 3
ngày. DDT ở trong đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nhiệt độ, loại đất, độ ẩm
v.v. ở những vùng nhiệt đới DDT bay hơi dễ hơn và vi sinh vật cũng phân
hủy nó nhanh hơn. DDT ở đất ẩm bị phân hủy nhanh hơn ở đất khô. Chúng
làm giảm giá trị của đất và khi bị phân hủy DDT đƣợc chuyển thành DDE
trong cả điều kiện hiếu khí và kị khí. Những hợp chất này có thể bốc hơi trong
không khí hoặc lắng đọng lại ở các vị trí khác nhau và có độc tính rất cao.
Chúng ở sâu trong đất, thấm qua đất và vào các mạch nƣớc ngầm. Trên bề
mặt nƣớc, DDT sẽ liên kết các phần tử ở trong nƣớc, lắng xuống và có thể
lắng đọng trong các trầm tích.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Gần đây DDT là một trong 12 hoá chất đƣợc các nhà khoa học thế giới
xếp vào hạng chất ô nhiễm khó phân hủy (POPs). Năm 1998, đại diện của hơn
92 quốc gia trên thế giới đã tụ họp tại Montreal đã bàn thảo về các biện pháp
nhằm cấm sản xuất và sử dụng các hoá chất trên vì lý do tác hại của chúng do
sự tích luỹ lâu dài trong không khí, lòng đất và nguồn nƣớc, kết tụ vào các mô
động vật- nguồn thực phẩm chính của loài ngƣời [7]. DDT tích trữ một lƣợng
lớn ở trong cá và các động vật biển (ví dụ: hải cẩu, cá heo). Tính độc của
DDT đã đƣợc biết đến thông qua các nghiên cứu rất kỹ lƣỡng ở trên các vi
sinh vật, động vật không xƣơng sống ở dƣới nƣớc, cá, lƣỡng cƣ, động vật
không xƣơng sống ở trên cạn và các loài động vật có vú khác (chuột hang, thỏ
v.v.). Trong các động vật này, DDT đƣợc tìm thấy một lƣợng lớn trong các
mô mỡ và sẽ tiếp tục di chuyển đến những cơ quan khác. Ngƣỡng độc của
DDT và các đồng phân của nó đã xác định thông qua chỉ số LC50 (LC50 là
liều gây chết 50% mẫu sinh vật thí nghiệm) ở một số loài động vật thí nghiêm
là: LD50 ở lợn khoảng 1.000mg DDT/kg [12], LD50 ở thỏ là 300mg DDT/kg
và 4.000-5.000 mg DDD/kg [12]. DDT ở trong đất cũng có thể đƣợc hấp thụ
bởi một số thực vật hoặc trong cơ thể con ngƣời khi ăn các thực vật đó [57].
2.2 Ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời
Những nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra đƣợc tác hại của DDT và các
hợp chất có liên quan tới một số loài và việc sử dụng nó đã bị cấm hoặc giảm
trên nhiều nƣớc do những hậu quả độc hại của nó. Nhƣng các số liệu về ảnh
hƣởng trên con ngƣời vẫn chƣa đƣợc biết đến nhiều. Các nghiên cứu về sự
ảnh hƣởng trên ngƣời đƣợc nghiên cứu trên các công nhân làm việc trong các
nhà máy có sản xuất DDT. Các nghiên cứu khác cũng cho những kết quả có
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
giá trị nhƣng do những hạn chế của các nghiên cứu về dịch tễ học nên chƣa
xác định đƣợc những nguyên nhân gây bệnh từ chúng.
Con ngƣời bị nhiễm DDT thông qua nhiều cách khác nhau đó là phơi
nhiễm trực tiếp và gián tiếp. Phơi nhiễm trực tiếp, có thể xảy ra qua phổi hoặc
qua da. Nhiễm gián tiếp xảy ra khi ăn các thực phẩm nhƣ ngũ cốc, rau đậu đã
bị nhiễm DDT, cũng nhƣ tôm cá sống trong vùng bị ô nhiễm, DDT sẽ đi vào
cơ thể qua đƣờng tiêu hoa và tích tụ theo thời gian trong các mô mỡ và gan
của con ngƣời.
Nguồn lây nhiễm DDT chính là ở trong thịt, cá, gia cầm và các sản
phẩm từ sữa. Nếu ngƣời ăn các loại lƣơng thực thực phẩm đƣợc phun DDT và
ăn kéo dài thì có nhiều nguy cơ dẫn tới ngộ độc mãn tính, sinh con quái thai.
Mức độ tối thiểu mà con ngƣời có thể chịu đựng và không gây hại là 285
mg/kg. DDT có tác động rõ rệt lên hệ thống thần kinh ngoại biên, gây nên sự
rối loạn hệ thống thần kinh, ức chế các enzyme chức năng đòi hỏi sự dịch
chuyển các ion dẫn đến tê liệt. Những ngƣời bị nhiễm một lƣợng lớn gây ngộ
độc cấp tính, dễ bị kích động, bị rùng mình và gây tai biến mạch máu não.
Chúng cũng gây nên sự đổ mồ hôi, đau đầu, buồn nôn, chóng mặt. Những ảnh
hƣởng nhƣ trên cũng có thể xuất hiện khi hít DDT ở trong không khí hoặc hấp
thụ một lƣợng lớn qua da [59].
Đối với những ngƣời bị nhiễm DDT ở mức độ thấp (20 mg/ngày) - ví
dụ nhƣ những ngƣời làm việc trong các nhà máy sản xuất DDT, sẽ xuất hiện
những biến đổi nồng độ enzyme có trong gan và trong máu. Nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra rằng DDT, DDE, DDD có thể gây bệnh ung thƣ, mà trƣớc tiên là
ung thƣ gan, cũng có thể là ung thƣ vú, ung thƣ tuỷ [59]. Những nghiên cứu
của Garabrant và cộng sự 1992 ở một nhóm công nhân của các nhà máy sản
xuất thuốc hóa học giữa năm 1948 đến năm 1971 đã phát hiện ra DDT có thể
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
gây ung thƣ tủy và dẫn đến tử vong vào năm 1953- 1988 [59]. Bên cạnh đó nó
cũng gây nên một số bệnh ung thƣ khác nhƣng vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu kỹ
nhƣ: ung thƣ tuyến tiền liệt, ung thƣ tinh hoàn, ung thƣ máu, ung thƣ dạ con
v.v.
Trẻ con bú sữa mẹ hay sữa tƣơi bị nhiễm độc DDT trực tiếp qua sự
hiện diện của DDT trong sữa tƣơi hay gián tiếp vì thức ăn của ngƣời mẹ. Tệ
hại hơn nữa, nhiều bà mẹ đã bị sảy thai trong vùng ảnh hƣởng của DDT. Ở
nƣớc ta, đã có một số công trình nghiên cứu và rút ra nhận xét là tất cả các bà
mẹ dù có tiếp xúc hay không tiếp xúc trực tiếp với DDT đều có lƣợng DDT
trong sữa mẹ rất cao. Vì DDT xâm nhập vào cơ thể chủ yếu qua đƣờng tiêu
hóa, cao hơn rất nhiều lần so với liều lƣợng cho phép của OMS (0.05ppm),
của Liên Xô (0.14ppm) và của Hungari (0.13ppm) [53].
3 TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM DDT
3.1 Nguồn gốc phát sinh
DDT (1,1,1-trichloro-2,2-bis (p-chlorophenyl) ethane) đã đƣợc tổng
hợp lần đầu tiên vào năm 1873 bởi nhà khoa học ngƣời Đức Othmar Ziedler.
Tuy nhiên, phải đến 1939 nhà hoá học Thuỵ Sỹ- Paul Hermann Muller mới
khám phá các đặc tính để diệt trừ côn trùng của DDT, chúng có thể phá huỷ
nhanh chóng hệ thần kinh của côn trùng. Năm 1948, Paul Muller đã đƣợc trao
giải thƣởng Nobel về sinh - y học về khám phá này. DDT có hiệu quả chống
lại rận, bọ chét, và muỗi mang các mầm bệnh sốt phát ban, dịch hạch, sốt rét,
và sốt vàng .v.v. DDT đã đƣợc dùng rất rộng rãi hơn 20 năm và đƣợc xem là
nhân tố chính trong việc gia tăng sản lƣợng lƣơng thực thế giới và ngăn chặn
bệnh tật từ côn trùng.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
DDT đƣợc tạo thành từ phản ứng của trichloroethanol với chlorobenzen
(Hình 1.2). Tên thƣơng mại hoặc các tên khác của DDT bao gồm Anofex,
Cesarex, Chlorophenothane, Dadelo, p,p-DDT,
dichlorodiphenyltrichloroethane, Dinocide, Didimac, Digmar, ENT 1506,
Genitox, Guesapon, Guesarol, Gexarex, Gyrol, Hildit, Ixodex, Kopsol,
Neocid, OMS 16, Micro DDT 75, Pentachlorin, Rukseam, R50 và Zerdane.
Hình 1.2. Tổng hợp DDT từ trichloroethanol và chlorobenzen
DDT là loại thuốc hóa học diệt côn trùng đƣợc sử dụng rộng rãi từ
chiến tranh thế giới lần thứ II trên khắp thế giới và hàng triệu tấn đƣợc sản
xuất, sử dụng trƣớc đây hiện đang còn lƣu giữ trong đất và sẽ tiếp tục phân
tán trong môi trƣờng. Một lƣợng lớn DDT đã đƣợc giải phóng vào không khí,
đất và nƣớc khi sử dụng để diệt côn trùng, muỗi ở các địa điểm nhạy cảm nhƣ
cửa sông [59].
Đầu năm 1960, nhà hoạt động ngƣời Mỹ Rachel Carson đã xuất bản
cuốn sách Silent Spring khẳng định DDT là nguyên nhân của bệnh ung thƣ và
nguy hại đến sinh sản của chim do làm mỏng lớp vỏ trứng. Cuốn sách đã gây
ra sự phản đối kịch liệt của công chúng và sự kiện này đã dẫn đến lệnh cấm
sử dụng DDT trong nông nghiệp ở Mỹ. Tiếp theo trong những năm 1970 và
1980, DDT đã bị cấm sử dụng trong nông nghiệp ở hầu hết các nƣớc phát
triển do ảnh hƣởng nguy hại của nó đối với môi trƣờng. Mặc dầu vậy, DDT
vẫn đƣợc sử dụng rộng rãi trong một số quốc gia đang phát triển.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
3.2 Tình trạng ô nhiễm DDT trên thế giới
Do tác hại của DDT trên môi trƣờng và sức khỏe ngƣời dân tại Hoa Kỳ
từ năm 1972 DDT đã bị cấm sử dụng hẳn. Tuy nhiên, đến nay hóa chất này
vẫn còn gây tác hại ở những vùng nông nghiệp đã sử dụng và những vùng
quanh nơi sản xuất ra DDT trƣớc đây. Hiện tại DDT vẫn còn ngƣng tụ nơi
thềm lục địa vùng Palos Verdas (ngoài khơi vùng biển Los Angeles) vì nhà
máy sản xuất ra DDT Montrose Chemical.co tại Torrance đã thải DDT vào hệ
thống cống rãnh thành phố vào năm 1971. Việc xử lý ô nhiễm DDT cho vùng
này ƣớc tính vào khoảng 300 triệu USD [7].
Cho đến nay ở Mỹ do lợi ích về kinh tế nên vẫn sản xuất DDT để xuất
cảng qua Phi châu và các nƣớc Á châu trong đó có Việt Nam. DDT là một
loại thuốc sát trùng công hiệu mạnh, đặc biệt quan trọng trong việc kiểm soát
bệnh sốt rét nên vẫn đƣợc sử dụng rộng rãi ở các nƣớc đang phát triển bất
chấp nguy cơ gây hại tiềm tàng và lâu dài của nó.
Sự tích tụ nhiều nhất của DDT và các hợp chất có liên quan ở biển phía
Tây của Trung Quốc. ở các bờ biển khác, lƣợng tích tụ của DDT cũng rất lớn
nhƣ: vịnh Bengal, biển Arabian, biển bắc Trung Quốc v.v.Từ năm 1980-1983,
có rất nhiều phân tích về sự tích tụ DDT ở trong các trầm tích biển ở EPA
[54]. Hàm lƣợng trung bình của DDT, DDE, DDD là: 0.1, 0.1, 0.2 g/kg
(trọng lƣợng khô). Hàm lƣợng DDT và các sản phẩm chuyển hóa của các mẫu
trầm tích đƣợc phân tích ở đáy sông ở vịnh River tại Washington: 0.1-234
g/kg. Sự tích trữ của DDT, DDE, DDD và tổng lƣợng DDT ở đáy trầm tích
từ sông San Joaquen và các nhánh sông của nó ở California-1992 lần lƣợt
là:1.4 - 115, 0.7 - 14, 0.4 - 39, 2.2 - 170 (ng/l) [45]. Trong đó Orestinba Creat
có hàm lƣợng DDT cao hơn hẳn so với các vị trí khác. Ở Canada, tổng lƣợng
DDT lắng đọng trên bề mặt trầm tích ở 8 hồ khác dọc ngang lục địa vào
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
khoảng 9.7g/kg. Iwata et al (1993) đã thu thập và phân tích 68 ví dụ về hàm
lƣợng DDT ở nƣớc bề mặt từ một vài đại dƣơng (18 khu vực) đã nêu lên
những ảnh hƣởng chủ yếu do sự lắng đọng khí quyển từ tháng 4/1989-8/1990.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy sự có mặt của DDT trong các mẫu
trầm tích với nồng độ cao do DDT đƣợc vận chuyển từ khu vực bị ô nhiễm
đến Bắc cực và Nam cực. Tổng lƣợng DDT ở đại dƣơng New Zealand và
Ross Iland, Antarctica giữa tháng 1 và tháng 3 (1990) là: 0.40 và 0.81 pg/m3
[14, 33]. Vùng Gulf của Mexico (1977) chứa trung bình 34pg/m3 DDT với tỉ
lệ 10-78pg/m3 [13]. Lƣợng DDT cao nhất đƣợc tìm thấy ở gần khu vực nơi
mà DDT vẫn đƣợc sử dụng, ví dụ ở bờ biển Arabian của ấn Độ. Các khu vực
mà lƣợng DDT trong không khí cao là eo biển Malacca, bờ biển phía nam
Trung Quốc, vịnh Mexico.
3.3 Tình trạng ô nhiễm DDT ở Việt Nam
DDT đƣợc dùng lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1949 để phòng ngừa
bệnh sốt rét. Tuy nhiên, số lƣợng thuốc DDT đƣợc dùng chỉ có 315 tấn trong
năm 1961 và giảm xuống còn 22 tấn trong năm 1974. Từ năm 1957 đến 1990,
tổng số lƣợng thuốc DDT nhập cảng chỉ có 240.422 tấn. Mặc dù việc sử dụng
thuốc DDT đã bị cộng đồng quốc tế ngăn cấm từ năm 1992, việc nhập cảng
và sử dụng DDT ở Việt Nam vẫn tiếp tục cho đến năm 1994. Trong khoảng từ
năm 1992 đến năm 1994, số lƣợng thuốc DDT nhập cảng từ Nga lên đến
423.358 tấn Tuy không có số liệu chính xác về số lƣợng DDT đang đƣợc sử
dụng ở Việt Nam, nhƣng tin tức trong nƣớc cho biết thuốc này vẫn còn đang
đƣợc sử dụng rộng rãi đặc biệt ở vùng châu thổ sông Cửu Long vì là vùng có
nhiều sông rạch và nhiều muỗi mồng [8].
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Tại một kho dã chiến chứa DDT những năm 1967 – 1968 ở Hà Tĩnh
vẫn còn một lƣợng tồn dƣ lớn hóa chất này. Khối lƣợng thuốc DDT ở kho này
ƣớc tính khoảng 4- 5 tấn. Hiện nay số thuốc DDT đã nằm phơi lộ trên mặt
đất, một phần thuốc có thể bị phân hủy song phần lớn vẫn còn đó, chúng có
thể khuếch tán vào không khí gây ô nhiễm môi trƣờng và phân rã ngấm vào
đất và các mạch nƣớc ngầm gây ô nhiễm đất và nƣớc trong khu vực. Nghệ An
là một trong những tỉnh còn tồn lƣu một lƣợng tƣơng đối lớn hóa chất bảo vệ
thực vật, hiện tại tỉnh có 25 điểm tồn lƣu hóa chất chất bảo vệ thực, trong đó
mới có 5 điểm đƣợc xử lý. Phần lớn những điểm tồn lƣu hóa chất chất bảo vệ
thực đều nằm gần, hoặc nguy hiểm hơn là nằm lọt trong khu dân cƣ. Một kết
quả điều tra khác ở tỉnh Nghệ An cho thấy, DDT vẫn còn trong một nhà kho
từ năm 1965 đến năm 1985. Nồng độ của DDT thay đổi từ 3.38 đến 960.6
mg/kg trong các mẫu đất và từ 0.00012 đến 0.00168 mg/l trong các mẫu
nƣớc. Trong nhiều năm liên tiếp, mùi thuốc DDT nồng nặc bay xa đến 600
mét. Đã có 25 ngƣời chết vì ung thƣ, và 22 trƣờng hợp dị thai đƣợc ghi nhận
[8].
Do sự nguy hiểm của các chất POP nói chung và hóa chất bảo vệ thực
vật nói riêng đối với sức khỏe con ngƣời và môi trƣờng, các nƣớc trên thế
giới cũng nhƣ Việt Nam đã và đang tích cực tiến tới loại trừ và cấm sử dụng
hoàn toàn các chất POP. Cụ thể là Công ƣớc Stockholm về các chất hữu cơ ô
nhiễm khó phân hủy ra đời và 172 quốc gia đã tham gia ký kết, trong đó có
Việt Nam. Ở nƣớc ta công ƣớc Stockholm chính thức có hiệu lực kể từ ngày
14/5/2004. Tham gia công ƣớc này, Việt Nam sẽ xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật để quản lý an toàn hóa chất, giảm thiểu và tiến tới loại bỏ các
chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ. Đồng thời, phòng ngừa, kiểm soát và xử
lý an toàn đối với các chất này, tiến tới kiểm soát, xử lý và tiêu hủy hoàn toàn
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
các kho thuốc bảo vệ thực vật, những hóa chất rất độc hại đã bị loại bỏ, còn
tồn lƣu.
4 CÁC PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ Ô NHIỄM DDT
DDT là chất có tính độc hại cao, bền vững cao đối với quá trình phân
hủy tự nhiên. Một khi đã phát thải vào môi trƣờng, chất này có thể tồn tại
trong thời gian dài và có thể di chuyển đi xa khỏi nguồn phát thải ban đầu nhờ
gió, nƣớc hay nhờ vào các loài động vật di cƣ. Ngoài ra DDT có thể đƣợc hấp
thụ dễ dàng vào các mô mỡ và tích tụ trong cơ thể của các sinh vật sống, nồng
độ chất này trở nên cao hơn theo chiều tăng của chuỗi thức ăn, đặc biệt là
trong các loài sinh vật lớn và sống lâu. Chính vì những tính chất này mà việc
loại bỏ, tiêu hủy DDT cũng nhƣ các chất bảo vệ thực vật trong danh mục cấm
khác ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách không chỉ riêng ở nƣớc ta mà
còn là vấn đề quan tâm của nhiều nƣớc trên thế giới.
Tùy điều kiện địa hình, tính chất, quy mô của vùng ô nhiễm; tùy điều
kiện kinh phí để áp dụng các quy trình xử lý khác nhau, có thể xử dụng các
phƣơng pháp nhƣ phƣơng pháp hóa lý; phƣơng pháp bao vây, cô lập nguồn ô
nhiễm; hay phƣơng pháp sinh học v.v.
4.1 Các phƣơng pháp cơ, hóa lý
Có rất nhiều phƣơng pháp hóa lý đƣợc sử dụng để loại bỏ các chất ô
nhiễm khó phân hủy. Đối với ô nhiễm DDT thì các phƣơng pháp thƣờng đƣợc
sử dụng là chôn lấp, cô lập; phân hủy bằng kiềm nóng và phƣơng pháp đốt có
xúc tác.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
4.1.1 Phương pháp chôn lấp, cô lập
Với cấu trúc vòng thơm, DDT rất khó phân hủy trong tự nhiên nên biện
pháp chôn lấp chất thải nguy hại đƣợc áp dụng rộng rãi ở nhiều nƣớc trên thế
giới. Một số nƣớc sử dụng biện pháp chôn lấp cô lập và xi măng hóa chất thải
có độc tính cao ở dạng lỏng hoặc rắn. Phƣơng pháp này đòi hỏi phải chuẩn bị
hố chôn lấp đảm bảo kỹ thuật, không bị rò rỉ, bền vững trong thời gian dài,
địa điểm chôn lấp phải xa khu dân cƣ, không gần mạch nƣớc ngầm.
4.1.2 Phương pháp đốt có xúc tác
Đây là phƣơng pháp vô cơ hoá chuyển clo hữu cơ thành CO2, H2O và
Cl
-
. Clo hữu cơ nếu tiếp xúc với kim loại đồng nung đỏ đều bị đồng lấy mất
clo (tạo thành CuCl2) và chúng bị phân huỷ tiếp theo thành CO2 và nƣớc cùng
với các dẫn xuất khác không độc, hoặc ít độc hơn (Hình 1.3).
DDT CO2 + H2O + CuCl2
Hình 1.3. Phƣơng pháp đốt có xúc tác
Công nghệ thiêu đốt cũng đã đƣợc sử._. dụng trên thế giới, phƣơng pháp
xử lý này tƣơng đối triệt để song giá thành lại cao và có khả năng gây ô nhiễm
thứ cấp bởi các sản phẩm phụ tạo trong quá trình vận hành.
Các phƣơng pháp vật lý khác nhƣ sử dụng tia bức xạ, tia cực tím, hay
áp suất cao cũng mang lại hiệu quả nhất định trong xử lý ô nhiêm DDT.
4.1.3 Phương pháp phân hủy bằng kiềm nóng
Cu / 600-700
0
C
O2 (không khí)
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Khi xử lý DDT với dung dịch NaOH 20% nóng, xảy ra phản ứng
dehydroclorua hoá tạo nên một olefin. Olefin đƣợc sinh ra bị polime hoá cho
sản phẩm rắn. Sản phẩm rắn này đƣợc tách ra dễ dàng và cho vào bao nilon
rồi chôn vùi dƣới đất.
Mặc dù làm sạch DDT có thể đƣợc tiến hành bằng nhiều biện pháp nhƣ
đã nêu ở trên, nhƣng nhƣợc điểm của các công nghệ đốt và hóa học là gây ô
nhiễm thứ cấp. Chính vì vậy mà xu hƣớng sử dụng các phƣơng pháp hóa lý
ngày càng giảm.
4.2 Phƣơng pháp phân hủy sinh học
Ngày nay do có những hiểu biết sâu sắc về tác hại của DDT nên các
nhà khoa học và công nghệ Việt Nam đang nghiên cứu tìm ra các giải pháp để
có thể làm giảm lƣợng DDT còn sót lại trong đó biện pháp xử lý sinh học
đang đƣợc quan tâm nhiều bởi tính ƣu việt của nó là không tạo ra ô nhiễm thứ
cấp cho môi trƣờng. Phân hủy sinh học đã đƣợc các nhà khoa học trên thế
giới nghiên cứu và áp dụng trong những năm gần đây và cũng đạt đƣợc khá
nhiều thành tựu [63].
Quá trình làm sạch sinh học có thể thực hiện ở quy mô lớn nhỏ khác
nhau, có thể sử dụng thực vật hay vi sinh vật và ở điều kiện hiếu khí hoặc kị
khí. Việc tẩy độc bằng phân hủy sinh học có thể đƣợc tiến hành riêng rẽ hoặc
kết hợp với các phƣơng pháp khác, sau vài tháng hoặc vài năm các chất ô
nhiễm có thể đƣợc hoàn toàn loại bỏ.
Phân hủy sinh học (Bioremediation) thƣờng bao gồm các phƣơng pháp
sau: Kích thích sinh học (augmentation) và làm giàu sinh học (stimulation).
+ Kích thích sinh học (Biostimulation): là quá trình thúc đẩy sự phát
triển và hoạt động trao đổi chất của tập đoàn vi sinh vật bản địa có khả năng
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
sử dụng các chất độc hại thông qua việc thay đổi các yếu tố môi trƣờng nhƣ:
pH, độ ẩm, nồng độ O2, chất dinh dƣỡng .v.v.
+ Làm giàu sinh học (Bioaugmentation): sử dụng tập đoàn các vi sinh
vật bản địa đã đƣợc làm giàu hoặc vi sinh vật sử dụng các chất độc hại từ nơi
khác, thậm chí vi sinh vật đã đƣợc cải biến về mặt di truyền đƣa vào các địa
điểm ô nhiễm.
+ Sử dụng thực vật (phytoremediation): sử dụng thực vật, hệ enzyme
của thực vật và các quá trình phức tạp khác nhằm hấp thu hoặc chuyển hóa
các chất ô nhiễm.
Kích thích sinh học hiện là khuynh hƣớng đƣợc sử dụng rộng rãi trong
xử lý ô nhiễm theo phƣơng pháp phân hủy sinh học. Đôi khi ngƣời ta cũng kết
hợp hai biện pháp để có thể tăng cƣờng sự phân hủy sinh học. Song song với
việc bổ sung các chủng vi sinh vật nuôi cấy có khả năng phân hủy chất ô
nhiễm, ngƣời ta cũng tạo điều kiện tối ƣu cho tập đoàn vi sinh vật hoạt động.
Nhƣ vậy, cùng với hoạt động của tập đoàn vi sinh vật bản địa và hoạt động
của vi sinh vật ngoại lai sẽ tăng cƣờng hiệu quả của quá trình xử lý.
Hiện nay, tại Viện Công nghệ Sinh học đã tiến hành một số nghiên cứu
về khả năng phân hủy dầu, các chất độc hại khác nhƣ dioxin, 2,4-D,
hydrocacbon thơm đa nhân (PAH) v.v. bằng công nghệ phân hủy sinh học và
đã mang lại những hiệu quả khả quan [2]. Đối với DDT, những nghiên cứu
bƣớc đầu về khả năng phân hủy bằng vi sinh vật cũng đang bắt đầu đƣợc
nghiên cứu để góp phần khử độc DDT ở một số địa phƣơng bị ô nhiễm [5].
Ngoài ra trên thế giới việc ứng dụng hệ enzyme ngoại bào của vi sinh
vật vào xử lý ô nhiêm đã có nhiều nghiên cứu, đây cũng là hƣớng có nhiều
triển vọng do rút ngắn đƣợc thời gian xử lý và hiệu quả xử lý cao hơn so với
khử độc bằng phân hủy sinh học thông thƣờng. Những nghiên cứu bƣớc đầu
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
về hệ enzyme ngoại bào ứng dụng vào xử lý khử độc đã đƣợc tiến hành tạo cơ
sở cho việc thiết kế công nghệ xử lý các chất ô nhiễm hóa học trong tƣơng lai
[4,5,6]. Hệ enzyme ngoại bào đƣợc quan tâm là hệ enzyme xúc tác với các đại
diện là laccase (oxidoreductase), mangan peroxidase và lignin peroxidase
(peroxidase). Đây là những enzyme có khả năng phân hủy nhiều loại chất ô
nhiễm hữu cơ có cấu trúc đa vòng thơm khác nhau do tính đặc hiệu cơ chất
không cao. Trong đó laccase đƣợc tập trung nghiên cứu, enzyme này xúc tác
quá trình oxy hóa các hợp chất phenolic mạnh nhất trong nhóm enzyme phân
hủy lignocellucose, laccase đƣợc ứng dụng rộng rãi trong công nghệ tẩy độc
các hợp chất phenol, các dẫn xuất clo biphenyl, các loại thuốc nhuộm và các
loại nƣớc thải v.v.
5 PHÂN HỦY SINH HỌC DDT
5.1 Khả năng phân hủy DDT bởi vi sinh vật
Các nhà khoa học cũng đã phân lập và nghiên cứu nhiều chủng vi sinh
vật có khả năng phân hủy DDT và các sản phẩm chuyển hóa của nó. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng số lƣợng các vi sinh vật có khả năng phân hủy DDT
tại các vùng ô nhiễm nhiều hơn so với các vùng không ô nhiễm. Các loài vi
sinh vật trong vùng ô nhiễm có xu hƣớng thích nghi, sau đó thay đổi cấu trúc
về di truyền để hƣớng đến việc phân hủy DDT. Các vi sinh vật tiềm năng
tham gia vào quá trình phân huỷ sinh học DDT chủ yếu là vi khuẩn, vi nấm.
Các vi sinh vật này chuyển hoá DDT thông qua quá trình khử loại clo, vi nấm
thủy phân và vi khuẩn phân huỷ chlorobiphenyl thực hiện cắt vòng DDT
trong điều kiện hiếu khí. Ngoài ra vi sinh vật phân huỷ DDT có thể đƣợc thiết
kế chuyển gene dựa trên các kỹ thuật di truyền phân tử và đƣa vào vùng đất
nhiễm. Hiện nay, có tới hơn 300 loài vi sinh vật có khả năng phân hủy DDT
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
đã đƣợc nghiên cứu, danh sách dƣới đây đƣa ra một vài đại diện của vi khuẩn,
một số loài nấm và xạ khuẩn ( Phụ lục 2) [20, 29, 48].
Cơ chế của quá trình phân hủy sinh học DDT và đồng phân của nó có
thể là nhờ quá trình cắt vòng hoặc loại khử clo. Các vi sinh vật có khả năng
chuyển hóa DDT và các đồng phân của nó (o,p,-DDT, p,p,-DDT) thành dạng
bớt độc hơn, không độc hoặc chuyển hóa hoàn toàn thành CO2. Các cơ chế
tấn công DDT bởi vi sinh vật đã đƣợc công bố cho thấy DDT đƣợc loại clo
bởi quá trình khử dẫn đến DDD. Vi khuẩn và nấm sợi phân huỷ DDT chủ yếu
theo cơ chế này. Một con đƣờng khác phân huỷ sinh học ở điều kiện hiếu khí
đã đƣợc mô tả có sự tham gia của vi khuẩn phân huỷ chlorobiphenyl [15, 42].
5.1.1 Loại clo bởi quá trình khử
Dƣới các điều kiện khử, quá trình loại clo bởi quá trình khử là cơ chế
chủ yếu của quá trình chuyển hoá sinh học các đồng phân o,p´-DDT và p,p´-
DDT của DDT thành DDD (Fries 1969). Phản ứng diễn ra bởi sự thay thế
chlorin mạch thẳng bằng nguyên tử hydro. Một số vi sinh vật chuyển hoá
DDT thành DDD đã đƣợc công bố bao gồm Escheria coli, Enterobacter
aerogenes, Enterobacter cloacae, Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas
aeruginosa, Pseudomonas putida, Bacillus sp., “Hydrogenomonas” và một
số nấm nhƣ Saccharomyces cerevisiae, Phanerochaete chrysosporium,
Trichoderma [29,48]. Rochkind-Dubinsky và cộng sự đã phát triển các điều
kiện khử loại trong các bình nuôi cấy. Các cơ chế khử loại clo với sự chuyển
tiếp các kim loại và phức kim loại đóng vai trò chất khử (Hollinger & Schraa
1994). Trong hầu hết các trƣờng hợp các quá trình có sự tham gia của vận
chuyển điện tử đơn, loại ion clo, và tạo gốc alkyl. Sự chuyển tiếp phức hệ kim
loại trong vi sinh vật có kết hợp với các trung tâm hoạt động của các phân tử
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
vận chuyển điện tử. Ở E. coli, khử loại clo của DDT cần FAD và các điều
kiện kỵ khí, trong khi đó ở E. aerogenes là cytochrom oxidaza [29].
Con đường chuyển hoá DDT bởi vi khuẩn theo cơ chế loại khử clo
Trƣớc tiên DDT bị phân hủy tạo DDMS, quá trình phân hủy tiếp theo
sẽ là quá trình loại Cl tạo DDNU,sau đó sẽ là quá trình oxy hoá tạo DDOH,
DDOH bị oxy hoá tiếp thành DDA và loại carbon thành DDM, DDM có thể
đƣợc chuyển hoá tạo DBP hoặc tách một vòng thơm tạo p-chlorophenylaxetic
acid (PCPA). Trong điều kiện kị khí DBP không thể chuyển hóa xa hơn nữa
(Hình 1.4) [29].
Hình 1.4. Con đƣờng chuyển hoá DDT bởi vi khuẩn trong điều kiện kị khí theo
cơ chế loại khử clo
5.1.2 Khoáng hoá DDT bởi nấm thủy phân lignin
Nấm thủy phân lignin có khả năng phân huỷ nhiều loại chất hữu cơ bền
vững trong môi trƣờng tự nhiên trong đó có DDT. Aust 1990 chỉ ra rằng
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
khoáng hoá DDT xảy ra đồng thời với quá trình sinh ligninaza. Khi DDT
đƣợc bổ sung vào giống nấm thủy phân lignin quá trình khoáng hoá bắt đầu
ngay lập tức nhƣng nếu thí nghiệm bắt đầu từ giống là bào tử thì sự phân huỷ
và hoạt tính thủy phân lignin xảy ra đồng thời sau 4 ngày.
Con đường phân hủy DDT bởi loài nấm trắng Phanerochaete
chrysosporium
Sự phân hủy DDT bởi nấm đảm trắng P. chrysosporium đƣợc biết đến
trong công trình nghiên cứu của Aust và cộng sự [15]. Bumpus và Aust đã
miêu tả sự phân hủy của DDT sau 30 ngày nuôi cấy (trong điều kiện thiếu N),
có khoảng 50% DDT đã đựơc chuyển hoá, trong đó 10% đƣợc khoáng hoá,
phần còn lại đƣợc chuyển hoá thành dicofol, FW-152 và bị phân hủy tạo
DBP. Tiếp đó là phản ứng phá vòng tạo CO2. Quá trình này đƣợc điều khiển
bởi hệ enzyme ligninase. Dicofol đƣợc tạo thành sau pha lag, DDD đƣợc tạo
thành sau pha suy tàn trên đó sẽ bị phân hủy bởi hệ enzyme ligninase khác.
Trong trƣờng hợp này DDE không đƣợc phát hiện. Trong quá trình khoáng
hoá DDT thì tinh bột và cenlulose là nguồn C tốt hơn so với nguồn C khác
(muối cacbornate) kể cả đƣờng (Hình 1.5)
5.1.3 Phân hủy DDT bởi vi khuẩn trong điều kiện hiếu khí
Kỹ thuật làm giàu vi sinh vật đã đƣợc sử dụng trong đó một hợp chất có
cấu trúc tƣơng tự đã đƣợc dùng thay thế DDT. Một số chủng vi khuẩn đã thể
hiện khả năng phân huỷ DDT theo các cơ chế mới. Chủng B-206 sinh ra các
chất trung gian phenol từ DDT, DDD, và DDE, tuy nhiên không có sản phẩm
cắt vòng nào đƣợc tạo ra [42]. Nadeau 1994 thông báo về chủng Alcaligenes
eutrophus A5 chuyển hoá các đồng phân o,p´-và p,p´-DDT. Aiskable 1997 đã
phân lập đƣợc vi khuẩn Gram dƣơng từ đất nhiễm DDT ở New Zealand theo
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
phƣơng pháp làm giàu trên môi trƣờng khoáng chứa biphenyl, DDT, DDD và
DDE nhƣ là nguồn cacbon [42].
Hình 1.5. Con đƣờng phân hủy DDT bởi loài nấm trắng P. chrysosporium
Một trong các con đƣờng phân hủy DDT đƣợc nghiên cứu khá kỹ trên
đối tƣợng vi khuẩn Alcaligenes eutrophus A5, dƣới đây là cơ chế phân hủy
thực hiện bởi vi khuẩn này.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Con đường phân hủy DDT bởi vi khuẩn Alcaligenes eutrophus A5
Chủng Alcaligenes eutrophus A5 có khả năng chuyển hoá cả o,p
,
- và
p,p
,
-DDT. DDT bị oxy hoá bởi enzym dioxygenase tạo ra một dẫn xuất
dihydrodiol- DDT và trải qua qúa trình phá vỡ vòng ở vị trí meta. Tiếp đó là
một loạt các phản ứng trung gian tạo sản phẩm cuối cùng là 4- chlorobenzoic
acid (Hình 1.6).
Hình 1.6. Con đƣờng phân hủy DDT bởi Alcaligenes eutrophus A5
Sản phẩm cắt vòng màu vàng
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
5.2 Các điều kiện môi trƣờng ảnh hƣởng đến phân hủy sinh học DDT
và các dẫn xuất của DDT
Các yếu tố môi trƣờng ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của vi sinh vật.
Đặc biệt các yếu tố môi trƣờng tại vùng phân lập có tác động lớn đến sự phát
triển của vi sinh vật tại đó. Ở những vùng nhiệt đới, DDT bay hơi dễ hơn và
vi sinh vật cũng phân hủy các chất ô nhiễm này nhanh hơn, DDT ở đất ẩm bị
phân hủy nhanh hơn ở đất khô. Trong quá trình xử lý môi trƣờng thì vấn đề
này càng đóng vai trò quan trọng và quyết định hiệu suất xử lý. Các yếu tố
nhƣ nhiệt độ, độ pH môi trƣờng, nồng độ muối, nồng độ chất độc, các chất
hoạt động bề mặt v.v. đóng vai trò quyết định trong quá trình phân hủy,
chuyển hóa và khoáng hóa DDT.
Trong tự nhiên không chỉ tồn tại một loại chất ô nhiễm thuộc
hydrocacbon thơm đa nhân mà thƣờng chúng tồn tại dƣới dạng hỗn hợp. Do
đó việc nghiên cứu khả năng phân hủy hỗn hợp DDT là điều cần thiết để xem
ảnh hƣởng qua lại của chúng trong hỗn hợp cũng nhƣ nồng độ hỗn hợp của
các chất ô nhiễm. Sự tồn tại của DDT có thể thúc đẩy hoặc ức chế quá trình
phân hủy sinh học hoặc gây độc cho vi sinh vật.
Các yếu tố quan trọng khác là nguồn dinh dƣỡng bao gồm C, N, P có
sẵn trong môi trƣờng hay bổ sung thêm. Việc bổ sung các chất thêm nhƣ
nguồn cacbon cũng tạo điều kiện tăng khả năng phân hủy sinh học của các
chủng vi sinh vật phân hủy chất độc theo cơ chế đồng trao đổi chất, một số
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
chất thƣờng đƣợc bổ sung nhằm kích thích thêm quá trình phân hủy chất độc
có thể kể đến glucose, acetate, pyruvate. Các muối N đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong quá trình xử lý bằng phƣơng pháp phân hủy sinh học, việc
bổ sung nguồn muối này đã làm tăng tốc độ phân hủy DDT. Nguồn N có thể
thêm vào cả dạng vô cơ và hữu cơ [23]. Phốtpho cũng là một nguồn dinh
dƣỡng cần thiết để tăng cƣờng quá trình phân hủy sinh học các chất ô nhiễm.
Nó đƣợc sử dụng để tăng sinh khối tế bào, thƣờng bổ sung muối gốc PO4
3-
.
Nitơ và Phốtpho thƣờng bổ sung dƣới dạng muối (NH4)2HPO4. Hơn nữa,
phốtpho nhƣ là một chất đệm pH để tạo pH thích hợp cho hoạt động của vi
sinh vật nhằm tăng hoạt tính sinh học của chúng, do vậy làm tăng khả năng
sống sót của vi sinh vật trong các môi trƣờng có điều kiện khác nhau.
Ngoài ra tốc độ phân hủy các hợp chất hydrocacbon thơm đa nhân còn
bị ảnh hƣởng mạnh bởi các chất hoạt động bề mặt. Chất hoạt động là một sản
phẩm rất có giá trị đối với công nghệ sinh học và nó đã đƣợc ứng dụng rất
rộng rãi đối với nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Đối với đất bị nhiễm
độc, các chất hoạt động bề mặt có thể làm tăng khả năng phân hủy, nó phụ
thuộc vào thời gian phân hủy và số lần các chất hoạt động bề mặt bám vào bề
mặt chất độc [36].
Bên cạnh đó quá trình phân hủy sinh học của vi sinh vật còn phụ thuộc
vào bản thân các vi sinh vật, phƣơng thức mà các vi sinh vật chuyển cơ chất
qua màng tế bào. Ngoài cơ chế phân hủy DDT và dẫn xuất của DDT bởi các
enzyme nội bào tức là phải chuyển các chất độc qua màng tế bào thì cơ chế
xúc tác phân hủy DDT bằng các enzyme ngoại bào cũng đã đƣợc quan tâm.
Trong đó ba enzyme ngoại bào LiP, MnP thuộc nhóm peroxidase và Lac
thuộc nhóm oxidoreductase hiện nay đƣợc quan tấm nhiều nhất.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
6 LACCASE
6.1 Định nghĩa
Laccase (p- benzenediol:oxygen oxidoreductase, E.C.1.10.3.2) thuộc
nhóm enzyme oxidase, cụ thể là polyphenol oxidase. Trong phân tử có chứa 4
nguyên tử đồng có khả năng oxy hóa cơ chất sử dụng phân tử oxy làm chất
nhận điện tử. Khác với phần lớn các enzyme khác, laccase có phổ cơ chất rất
đa dạng, bao gồm diphenol, polyphenol, các dẫn xuất phenol, diamine, amine
thơm, benzenethiol, PCB, dioxin và cả các hợp chất vô cơ nhƣ iot. Các loại
enzyme laccase tách chiết từ các nguồn khác nhau rất khác nhau về mức độ
glycosyl hóa, khối lƣợng phân tử và tính chất động học [35].
6.2 Cấu trúc phân tử của laccase
Một loài sinh vật có thể có nhiều dạng isozyme của laccase, các dạng
isozyme này khác nhau về trình tự acid amine và một số tính chất về động học
xúc tác. Nấm có thể tạo ra nhiều dạng isozyme laccase khác nhau cả về mức
độ glycosyl hóa và cả thành phần các gốc carbonhydrate. Trametes versicolor
có 5 dạng isozyme chỉ khác nhau về thành phần carbonhydrate, thành phần
carbonhydrate của chúng thay đổi từ 10 – 45% so với khối lƣợng của thành
phần protein. Phân tử laccase thƣờng là monomeric protein, chỉ một số là
oligomeric protein, có khối lƣợng phân tử dao động trong khoảng 60 – 90 kD.
Phần lớn laccase của nấm có bản chất là glycoprotein với hàm lƣợng
carbonhydrate chiếm khoảng 10 – 25% [34].
Tuy vậy, tất cả laccase đều giống nhau về cấu trúc trung tâm xúc tác
với 4 nguyên tử đồng. Những nguyên tử đồng này đƣợc chia thành 3 nhóm:
loại 1 (T1), loại 2 (T2) và loại 3 (T3), chúng khác nhau về tính chất hấp thụ
ánh sáng và thế điện tử. Các nguyên tử đồng T1 và T2 có tính chất hấp phụ
điện tử và tạo thành phổ điện tử mạnh, trong khi cặp nguyên tử đồng T3
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
không tạo phổ hấp thụ điện tử, và có thể đƣợc hoạt hóa khi liên kết với anion
mạnh.
Phân tử laccase thông thƣờng bao gồm 3 tiểu phần chính (vùng) A, B,
C có khối lƣợng tƣơng đối bằng nhau, cả ba phần đều có vai trò trong quá
trình xúc tác của laccase. Vị trí liên kết với cơ chất nằm ở khe giữa vùng B và
C, trung tâm một nguyên tử đồng nằm ở vùng C và trung tâm ba nguyên tử
đồng nằm ở bề mặt chung của vùng A và C. Trung tâm đồng một nguyên tử
chỉ chứa 1 nguyên tử đồng T1, liên kết với một đoạn peptide có 2 gốc
histidine và 1 gốc cystein. Liên kết giữa nguyên tử đồng T1 với nguyên tử S
của cystein là liên kết đồng hóa trị bền và hấp thụ ánh sáng ở bƣớc sóng 600
nm, tạo cho laccase có màu xanh nƣớc biển đặc trƣng. Trung tâm đồng 3
nguyên tử có nguyên tử đồng T2 và cặp nguyên tử đồng T3. Nguyên tử đồng
T2 liên kết với 2 gốc histidine bảo thủ trong khi các nguyên tử đồng T3 thì tạo
liên kết với 6 gốc histidine bảo thủ (Hình 1.7, 1.8) [35].
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Hình 1.7. Hình ảnh không gian ba chiều của laccase từ M. albomyces
Tiểu phần A, B, C đƣợc kí hiệu đỏ, xanh lục và xanh lá cây
Hình 1.8. Trung tâm hoạt động của laccase
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
6.3 Cơ chế xúc tác của laccase
Laccase là enzyme oxy hóa khử có khả năng oxy hóa diphenol và các
hợp chất có liên quan, sử dụng oxy phân tử làm chất nhận điện tử. Khác với
phần lớn các loại enzyme khác, laccase có phổ đặc hiệu cơ chất khá rộng. Sự
phù hợp của các cơ chất đối với laccase quyết định bởi hai nhân tố chính. Thứ
nhất là sự phù hợp giữa cơ chất và nguyên tử đồng T1, thứ hai là sự phụ thuộc
vào sự chênh lệch giữa thế oxy-hóa khử giữa cơ chất và enzyme. Các đại
lƣợng này phụ thuộc cấu trúc hóa học của cơ chất. Thế oxy hóa khử của
laccase dao động trong khoảng 0,4 đến 0,8 V [9]. Cơ chất khử bị mất một
điện tử nhờ xúc tác laccase thƣờng tạo thành một gốc tự do, gốc tự do không
bền này tiếp tục bị oxy hóa nhờ xúc tác bởi chính laccase đó hoặc tiếp tục các
phản ứng không cần xúc tác enzyme nhƣ hydrate hóa, phân ly hoặc polymer
hóa.
Trung tâm nguyên tử đồng một nguyên tử (T1) là nơi diễn ra phản ứng
oxy hóa cơ chất. Cơ chất chuyển một điện tử cho nguyên tử đồng T1, biến
nguyên tử đồng T1 (Cu2+) trở thành dạng Cu+, hình thành phân tử laccase có
cả 4 nguyên tử đồng đều ở trạng thái khử (Cu+). Một chu kỳ xúc tác liên quan
đến sự vận chuyển đồng thời 4 electron từ nguyên tử đồng T1 sang cụm
nguyên tử đồng T2/T3 qua cầu tripeptide bảo thủ His-Cys-His. Phân tử oxy
sau đó oxy hóa laccase dạng khử, tạo thành hợp chất trung gian peroxy, và
cuối cùng bị khử thành nƣớc (Hình 1.9).
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Hình 1.9. Cơ chế xúc tác của laccase
Ngoài ra cơ chế xúc tác có thể xảy ra theo một trong các cơ chế sau. Cơ
chế đơn giản nhất có thể diễn ra khi các cơ chất bị oxy hóa trực tiếp bởi trung
tâm hoạt động do 4 nguyên tử đồng đảm nhiệm. Tuy nhiên, các phần tử cơ
chất thƣờng có cấu tạo cồng kềnh hoặc có thế khử quá lớn, vì vậy chúng
không thể tiếp cận đƣợc trung tâm phản ứng của phân tử laccase. Trong
trƣờng hợp này cần một hợp chất hóa học trung gian (mediator). Hợp chất hóa
học này có thể tiếp xúc với trung tâm phản ứng của laccase và bị laccase oxy
hóa thành dạng gốc tự do [52]. Sau đó mediator ở dạng oxy hoá nhận một điện
tƣ̉ của cơ chất và trở thành khƣ̉, tiếp tục tham gia vào chu kỳ xác tác. Ngƣợc lại,
laccase sau khi cho mediator một điện tƣ̉ thì trở thành dạng khƣ̉, và sau đó bị oxy
hoá thành dạng oxy hoá và tiếp tục tham gia vào chu kỳ xúc tác tiếp theo (Hình
1.10). Các mediator thƣờng phù hợp cho laccase là 3-Hydroxyanthranillic acid
(HAA), 2,2'-azino-bis(3-ethylbenzthiazoline-6-sulphonic acid) (ABTS), N-
hydroxybenzo-trialzone (HBT), N-hydroxyphtaimide (HPI), violuric acid ( VLA)
v.v [52]. Sƣ̣ tham gia của mediator đã làm tăng phổ cơ chất xúc tác và tính không
đặc hiệu cơ chất của laccase.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Hình 1.10. Các kiểu xúc tác của laccase
A. Chu kỳ xúc tác không có sự tham gia của các mediator
B. Chu kỳ xúc tác với sự tham gia của các mediator
Các chất ức chế của laccase thƣờng là các ion nhỏ nhƣ azide, cyanide,
fluoride. Các ion này sẽ liên kết vào trung tâm đồng 3 nguyên và cản trở các
dòng điện tử đi đến các nguyên tử này. Các chất ức chế laccase khác là
ethylenediaminetetraacetic acid (EDTA), acid béo, tropolone, acid kojic và
acid coumaric, nhƣng chúng chỉ có tác dụng ức chế ở nồng độ cao hơn. Các
hợp chất chứa sulfhydryl nhƣ L-cystein, dithiothreitol và thioglycolic acid
cũng đƣợc coi là các chất ức chế laccase.
6.4 Tính chất hóa sinh của laccase
Hoạt tính xúc tác của enzyme đƣợc đặc trƣng bởi hằng số Michaelis -
Menten (Km). Hằng số này của laccase dao động trong một giới hạn khá
rộng, trong khoảng 2 – 500µM phụ thuộc vào nguồn gốc enzyme và cơ chất.
Giá trị Km thấp nhất đối với cơ chất là syringaldazine (một dạng dimer của
hai phân tử 2,6-dimethoxyphenol liên kết với nhau bằng cầu nối azide). Ái lực
đối với oxy thì ít phụ thuộc vào enzyme hơn và chỉ dao động trong khoảng 20
- 50µM.
A
B
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Laccase hoạt động tối thích trong khoảng pH 4 – 6 đối với cơ chất
phenolic. Khi tăng pH sang vùng trung tính hoặc vùng kiềm thì hoạt tính của
laccase bị giảm, nguyên nhân do anion nhỏ là ion hydroxide đã ức chế
laccase. Mặt khác, tăng pH còn làm giảm thế oxy hóa khử của các cơ chất
phenolic do đó cơ chất phenolic dễ bị oxy hóa bởi laccase hơn. Do vậy, hoạt
tính laccase ở các pH khác nhau là kết quả của hai tác dụng đối lập của pH là
sự tăng chênh lệch thế oxy hóa khử laccase – cơ chất và tác dụng ức chế trung
tâm đồng ba nguyên tử của ion hydroxide. Đối với các cơ chất không phải
phenolic nhƣ ABTS thì phản ứng oxy hóa không liên quan đến sự vận chuyển
ion và do đó pH tối thích nằm trong khoảng 2 – 3. Ngƣợc lại, tính bền của
laccase cao nhất trong khoảng pH kiềm nằm trong khoảng 8 – 9.
Nhiệt độ bền của laccase dao động đáng kể, phụ thuộc vào nguồn gốc
của vi sinh vật. Nhìn chung, laccase bền ở 30 – 50oC và nhanh chóng mất
hoạt tính ở nhiệt độ trên 60oC. Laccase bền nhiệt nhất đƣợc phân lập chủ yếu
từ các loài thuộc prokaryote ví dụ, thời gian bán hủy của laccase của
Streptomyces lavendulae là 100 phút ở 70oC và của protein cotA từ loài
Bacillus subtilis là 112 phút ở 80oC. Thời gian bán hủy của laccase có nguồn
gốc nấm thƣờng là nhỏ hơn 1 giờ ở 70oC và dƣới 10 phút ở 80oC [9,35,43,55].
6.5 Sự phân bố và một số vi sinh vật sinh laccase
Laccase là enzyme rất phổ biến trong tự nhiên, chúng đƣợc tìm thấy ở
thực vật, nấm, một số vi khuẩn và côn trùng. Laccase lần đầu tiên đƣợc phát
hiện đầu tiên ở cây Rhus vernicifera. Việc nghiên cứu laccase trên đối tƣợng
thực vật và nấm đảm rất phổ biến. Laccase từ nấm đƣợc nghiên cứu và khảo
sát rất kỹ đặc biệt là laccase từ nấm đảm Basidomyces. Ngoài ra các các loài
nấm nhƣ Ascomyces, Deuteromyces, basidomyces và các loài nấm có khả
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
năng phân hủy ligincellulose nhƣ Agaricus bisporus, Botrytis cinerea,
Chaetomium themophilum, Coprius cinereus, Neurospora crassa, Phlebia
radiate, Pleurotus ostrotus ostreatus, Pycnoporus cinnabarius, Trametes
versicolor [35]. Tuy nhiên, các nghiên cứu này trên các đối tƣợng nấm sợi, xạ
khuẩn và vi khuẩn lại không nhiều. Một số vi sinh vật có khả năng sinh
laccase đƣợc miêu tả ở phụ lục 3 [21,25,38,44,56,60].
6.6 Gene mã hóa laccase
Trong vài thập kỷ gần đây, gene sinh tổng hợp laccase đã bắt đầu đƣợc
nghiên cứu. Cho đến nay đã có hơn 100 gene sinh tổng hợp laccase đƣợc đánh
giá và so sánh. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung trên đối tƣợng vi sinh vật.
Năm 1998 gene laccase đầu tiên đƣợc phân lập và giải trình tự từ nấm đảm
Neurospora crassa và nấm sợi Aspergillus nidulans. Tuy nhiên các gene
tƣơng ứng với các protein laccase hoàn chỉnh mới chỉ có khoảng 20 gene,
phần lớn trong số đó là từ nấm đảm [9,32,35,44,60] ( Phụ lục 4).
Đối với nấm đảm và thực vật bậc cao, các gene laccase thƣờng có
nhiều intron. Số lƣợng intron trong mỗi gene thƣờng từ 8 – 13 đoạn, mỗi đoạn
có kích thƣớc khoảng 50 – 90 nucleotit. Ngoài ra cũng có những gene laccase
chỉ có một intron nhƣ Neurospora crassai, ngƣợc lại Pleurotus ostreatus lại
có đến 19 đoạn intron. Các gene điển hình mã hóa protein laccase thƣờng có
kích thƣớc khoảng 500 – 600 axit amin.
Ở nhiều chủng nấm trong bộ gene chứa nhiều gene mã hóa sinh tổng
hợp laccase. Trametes villosa chứa ít nhất 5 gene mã hóa cho laccase,
Coprinus cinereus chứa ít nhất 8 gene và Rhizoctonia solani, Pleurotuss
sajor-caju chứa ít nhất là 4 gene mã hóa laccase. Tuy nhiên các gene này nằm
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
ở các allen khác nhau trên nhiễm sắc thể và các trình tự bảo thủ liên quan đến
vị trí liên kết với các nguyên tử đồng lại đồng thời cũng có mặt trong các gene
mã hóa các enzyme oxidase chứa nhiều nguyên tử đồng khác, chính những
điều này đã gây khó khăn trong việc phân lập và xác định chính xác số gene
mã hóa cho laccase.
Sự biểu hiện của gene sinh tổng hợp laccase phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện môi trƣờng. Với mỗi chủng khác nhau thì đòi hỏi điều kiện môi
trƣờng thích hợp cho sinh tổng hợp laccase khác nhau. Nhƣ môi trƣờng giàu
nitơ làm tăng quá trình sinh tổng hợp laccase ở chủng Pleurotus sajor-caju,
nhƣng chủng Lentinula edodes lại có khả năng sinh tổng hợp laccase t ốt hơn
trên môi trƣờn g có hàm lƣợng nitơ thấp . Đồng và các ion kim loại khác nhƣ
Hg
2+
, Mg
2+
, Cd
2+
và một số hợp chất vòng thơm đƣợc xem là những nhân tố
hoạt hóa mạnh quá trình sinh tổng hợp laccase. Quá trình hoạt hóa gene sinh
tổng hợp laccase bởi các ion kim loại hoặc các hợp chất phenol chƣ́ng minh là
đƣợc điều khiển bởi một trình tự điều hòa của vùng promoter của gene
[32,35].
Gene mã hóa sinh tổng hợp laccase đã đƣợc chuyển vào nhiều đối
tƣợng khác nhau nhƣ Escherichia coli, Saccharomyces cerevisiae, Aspergillus
niger, A. nodulan, A. oryzae, cây thuốc lá v.v. Trong nghiên cứu mới nhất
(2009) Xiaoshu Shao và cộng sự đã chỉ ra rằng, hoạt tính của laccase từ
Shigella dysenteriae đƣợc biểu hiện trong Escherichia coli (Wlac) tăng từ
24,4 UI/mg lên 52,9 UI/mg sau khi thay thế hai axit amin Glu 106 bằng Phe
106 trong chuỗi xoắn anpha (WlacS). Với kỹ thuật đột biến xóa đoạn trong
chuỗi xoắn anpha t ừ Leu 351 đến Gly 378 (WlacD), hoạt tính enzyme tăng
3,5 lần so với laccaseWlac). Đồng thời cả hai WlacS và WlacD đều bền nhiệt
hơn Wlac [60].
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Trình tự gene mã hóa laccase có thể chia thành 3 nhóm chính là
Ascomycete, Basidomycete và thực vật bậc cao. Tuy nhiên các nghiên cứu về
gene mã hóa laccase ở prokaryote hiện nay không nhiều.
6.7 Ứng dụng của laccase
Phƣơng pháp oxy hóa sinh học nhờ enzyme đƣợc xem là phƣơng pháp
khả quan có thể thay thế các phƣơng pháp oxy hóa hóa học do chúng rất thân
thiện với môi trƣờng và đặc biệt là do phản ứng bởi enzyme thƣờng rất đặc
hiệu và có hiệu suất cao. Laccase là một trong các loại enzyme oxy hóa đƣợc
ứng dụng khá phổ biến trong các ngành công nghiệp do chúng có phổ cơ chất
rộng và sử dụng chất nhận điện tử cuối cùng là oxy phân tử chứ không phải
cần các chất nhận điện tử đắt tiền khác nhƣ NAD(P)+. Laccase đƣợc sử dụng
trong một số ngành nhƣ công nghiệp dệt nhuộm, công nghiệp hóa mỹ phẩm,
hóa thực phẩm, dƣợc phẩm v.v. Laccase có tiềm năng cao trong công nghệ
nano sinh học để tạo các biosensor có độ nhạy cao. Ngoài ra còn đƣợc sử
dụng trong phân hủy các hợp chất lignincellulose và xử lý các chất ô nhiễm
khó phân hủy [11,17,35,52,58].
Laccase rất hữu hiệu trong việc tham gia xúc tác phân hủy các chất độc
thông qua quá trình oxy hóa đặc biệt là các chất phức tạp, không tan. Laccase
có thể tham gia phân hủy các hợp chất phenol là chất thải của các quá trình
sản xuất khác nhau nhƣ hóa dầu, sản xuất các hợp chất hữu cơ v.v. Laccase
đƣợc cố định trên các vật liệu mang và hệ thống xúc tác laccase - mediator tỏ
ra hiệu quả trong việc chuyển hóa các chất ô nhiễm chứa phenol và các hợp
chất dẫn xuất clo phenol khác nhƣ các hợp chất hydrocarbon thơm đa nhân
(polycyclic aromatic hydrocarbon – PAH), polychlorinated biphenyl (PCB) từ
ngành công nghiệp dầu mỏ, thuốc nổ._.màu xanh)
Kênh 1, 2, 3: DNA plasmit của các dòng khuẩn lạc màu trắng
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
M 1 2
Hình 3.32 Sản phẩm PCR từ DNA plasmit với cặp mồi EF4f và fung5r
Kênh M: Marker 1kb
Kênh 1, 2: Sản phẩm PCR kiểm tra dòng 1 và 3
1 2 C
Hình 3.33 DNA plasmit mang gen 18S rRNA của chủng FNA1
Kênh 1, 2: DNA plasmit sau khi làm sạch
Kênh C: Đối chứng
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
6.4 So sánh trình tự đoạn gen mã hóa 18S rRNA của chủng FNA1
Trình tự đoạn gen 18S rRNA (534 nucleotid) của chủng FNA1 đã đƣợc
xác định, kết quả đƣợc trình bày ở hình 3.34. Trình tự đoạn gen mã hoá 18S
rRNA của chủng FNA1 đƣợc đăng ký trên Genbank với mã số GQ906535.
So sánh với các trình tự gen 18S rRNA của các chủng vi nấm đã công
bố trên các ngân hàng dữ liệu Genbank, EMBL cho thấy chủng FNA1 có mức
tƣơng đồng cao với các chủng vi nấm thuộc ngành nấm nang Ascomycetes,
ngành phụ Pezizomycotina, chi Aspergillus. Dựa trên cơ sở so sánh mức độ
tƣơng đồng một phần trình tự gen mã hóa 18S rRNA chủng FNA1 với một số
chủng vi nấm đại diện, sử dụng phần mềm Clustal X để xây dựng cây phát
sinh chủng loại để thấy rõ đƣợc mối quan hệ phát sinh chủng loại của chủng
nấm sợi FNA1(Hình 3.35).
Nhƣ vậy, dựa trên các đặc điểm hình thái khuẩn lạc, bào tử và so sánh
một phần trình tự gen mã hóa 18S rRNA của chủng FNA1 thì ch ủng này
thuộc chi Aspergillus và đƣợc đặt tên là Aspergillus sp. FNA1.
GGAAGGGGTGTATTTATTAGATAATCTGTGCTCCTTCTTCGAGCTCCTTGGTGATTCATAA
TAACTTAACGAATCGCATGGCCTTGCGCCGGCGATGGTTCATTCAAATTTCTGCCCTATCAACTTTC
GATGGTAGGATAGTGGCCTACCATGGTGGCAACGGGTAACGGGGAATTAGGGTTCGATTCCGGA
GAGGGAGCCTGAGAAACGGCTACCACATCCAAGGAAGGCAGCAGGCGCGCAAATTACCCAATCC
CGACACGGGGAGGTAGTGACAATAAATACTGATACGGGGCTCTTTTGGGTCTCGTAATTGGAAT
GAGTACAATCTAAATCCCTTAACGAGGAACAATTGGAGGGCAAGTCTGGTGCCAGCAGCCGCGG
TAATTCCAGCTCCAATAGCGTATATTAAAGTTGTTGCAGTTAAAAAGCTCGTAGTTGAACCTTGGG
TCTGGCTGGCCGGTCCGCCTCACCGCGAGTACTGGTCCGGCTGGACCTTTCCTTCTGGGGAACCT
CATGGCCTTCACTGGCTGTGGGGGGAACCAGGGACTTTTACA
Hình 3.34 Trình tự đoạn gen mã hóa 18S rRNA của chủng FNA1
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
Hình 3.35 Cây phát sinh chủng loại của chủng Aspergillus sp. FNA1
Nấm thuộc chi Aspergillus có nhiều chủng có khả năng phân hủy
DDT hay các chất có cấu trúc tƣơng tự. Aspergillus conicus làm biến đổi
55,1% bis(4-chlorophenyl)acetic acid (DDA) thành các sản phẩm hòa tan
trong nƣớc chƣa xác định và chƣa chiết tách đƣợc. Aspergillus niger và
Penicillium brefeldianum chuyển hóa lần lƣợt 12,4 và 24,6% DDT thành
các sản phẩm không xác định và hòa tan trong nƣớc. Aspergillus niger
Aspergillus sp. FNA1
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
phân hủy 4, 4’-dichlorobenzophenone (DBP) thành 4-chlorobenzophenone
và methylated 4-chlorobenzophenone [47]. Các minh chứng trên cho thấy
vai trò rất qua n trọng của nấm sợi , đặc biệt là các đại diện của chi
Aspergillus trong phân hủy sinh học DDT và các sản phẩm trong chu trình
khoáng hóa DDT .
Trên cây phát sinh chủng loại cho thấy chủng Aspergillus sp. FNA1
có quan hệ gần gũi với một số chủng nhƣ Aspergillus sp. FNA4,
Aspergillus sp. FNA33, Aspergillus sp. FBH11, đây đều là các chủng có
khả năng phân hủy các chất thuộc POPs. Đặc biệt 2 chủng Aspergillus sp.
FNA4, Aspergillus sp. FNA33 là 2 chủng đƣợc phân lập cùng địa điểm ô
nhiễm với chủng FNA1, các chủng này có khả năng phân hủy lần lƣợt
94,48 % hỗn hợp DDT trong 14 ngày và 88 % HCH, trong khi chủng
FNA1 phân hủy 97,23 % DDT; 97,19 DDD; và 92,69 % DDE trong 7 ngày
nuôi cấy. Cả 3 chủng FNA4, FNA33 và FBH11 đều đƣợc mô tả là có khả
năng sinh laccase, chủng FNA4 sinh laccase với hoạt tính 15,4 U/l, chủng
FNA33 là 4,3 U/l [3,4,5], chủng FBH11 có độ tƣơng đồng 98 % đƣợc phân
lập từ đất ô nhiễm thuốc diệt cỏ/dioxin sinh laccase với hoạt tính cao. Một
số chủng nấm sợi thu ộc chi Aspergillus đƣợc công bố là có khả năng sinh
enzyme ngoại bào là Aspergillus terreus LD-1 và Aspergillus nidulans.
Chủng Aspergillus tereus sinh ra hai loại enzyme ngo ại bào là MnP và
Laccase trong điều kiện kiềm (pH từ 11 đến 12.5), hoạt tính enzyme trung
bình của hai loại enzyme này là 0,384 U/mg [40].
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
KẾT LUẬN
1. Dựa trên các đặc điểm hình thái khuẩn lạc, bào tử và so sánh một phần
trình tự gen mã hóa 18S rRNA, chủng nấm sợi FNA1 đƣợc xác định thuộc
chi Aspergillus và đƣợc đặt tên là Aspergillus sp. FNA1. Trình tự đoạn gen
mã hóa 18S rRNA của chủng Aspergillus sp. FNA1 đƣợc đăng ký trên
Genbank với mã số GQ906535.
2. Cả 3 chủng FNA1, FNA2 và FNA3 đều có khả năng sinh laccase và MnP,
chủng FNA1 không sinh LiP. Trên môi trƣờng sàng lọc, hoạt tính laccase
lần lƣợt là 5,4; 2,9; 3,3 (U/l), hoạt tính MnP lần lƣợt là 26,9; 6,05; 13,4
(U/l), hoạt tính LiP của FNA2 và FNA3 là 4,15 và 2,07 (U/l).
3. Aspergillus sp. FNA1 phân hủy DDT theo cơ chế đồng trao đổi chất, sau 7
ngày nuôi cấy chủng này loại bỏ DDE, DDD và DDT lần lƣợt là 92,69 %,
97,19 % và 97,23 % so với mẫu đối chứng.
4. Aspergillus sp. FNA1 phát triển tốt nhất ở 37oC, pH 5, nồng độ NaCl 0,1
%, nồng độ DDT 200 ppm, ngoài ra còn phát triển tốt trên môi trƣờng chứa
2,4-D, 2,4,5-T, pyren, phenanthren, anthracene và dịch chiết. Chủng FNA1
không phát triển trên nguồn carbon là lactose và cellulose, phát triển yếu
trên nguồn nitơ là urê.
5. Aspergillus sp. FNA1 sinh tổng hợp laccase trong điều kiện 30oC, pH 5,
nồng độ NaCl 0,1 %, glucose 0,1 %, CuSO4 1 mM và nguồn chất ô nhiễm
là DDT, nguồn carbon là saccharose, nguồn nitơ là NaNO3 và KNO3.
6. Môi trƣờng thích hợp nhất để Aspergillus sp. FNA1 sinh tổng hợp laccase
là môi trƣờng Czapek nghèo có bổ sung Tween 80 0,2 %, hoạt tính laccase
đạt 2608,3 U/l sau 1 ngày nuôi cấy.
7. Laccase từ chủng FNA1 có pH tối ƣu 1,5, nhiệt độ tối ƣu 50oC, bền trong
khoảng pH 4 – 5 và nhiệt độ dƣới 50 oC.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
KIẾN NGHỊ
1. Nghiên cứu các gen chức năng tham gia quá trình phân hủy DDT và gen
mã hóa laccase.
2. Nghiên cứu khả năng phân hủy sinh học các loại thuốc trừ sâu khác của
chủng FNA1, đồng thời nghiên cứu khả năng sử dụng enzyme ngoại bào
trong việc loại bỏ thuốc nhuộm màu và phân hủy các chất ô nhiễm.
3. Tối ƣu các điều kiện lên men để sản xuất laccase với lƣợng lớn.
4. Tiếp tục nghiên cứu các đặc tính hóa sinh của laccase từ chủng FNA1.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Lê Trần Bình, Phan Văn Chi, Nông Văn Hải, Trƣơng Nam Hải,
Lê Quang Huấn, 2003. áp dụng các kỹ thuật phân tử trong nghiên cứu tài
nguyên sinh vật Việt Nam. Nxb KH&KT Hà Nội: 325- 329
2. Hoàng Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Đƣơng Nhã, Đặng Thị Cẩm Hà, 2004. Nấm
sợi phân hủy hydrocarbon thơm đa nhân phân lập từ cặn dầu thô của giếng
khai thác dầu, Vũng Tàu. Tạp chí Công nghệ Sinh học, số I(tập 2): 255-
264.
3. Hoàng Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Thanh Thủy, Ngô Xuân Quý, Nghiêm Xuân
Trƣờng, Nghiêm Ngọc Minh, Đặng Thị Cẩm Hà (2004) Khả năng phân
hủy 2,4-D và dibenzofuran của chủng nấm sợi FDN20. Tạp chí công nghệ
sinh học 2 (4): 517-528
4. Trần Thị Nhƣ Hòa, Nghiêm Ngọc Minh, Đặng Thị Cẩm Hà (2008), “Phân
loại hai chủng vi sinh vật từ đất nhiễm chất diệt cỏ/dioxin khử độc trong
bioreactor hiếu khí”, Tạp chí công nghệ sinh học, tập(số), trang.
5. Nghiêm Ngọc Minh, Vũ Mạnh Chiến, Đặng Thị Cẩm Hà (2006), “Nghiên
cứu phân loại và khả năng sử dụng DDT của chủng XKNA21 đƣợc phân
lập từ đất ô nhiễm DDT”, Tạp chí công nghệ sinh học, 4(2), 257-264
6. Nguyễn Nguyên Quang, Đặng Thị Cẩm Hà (2009), “Phân lập, phân loại và
khả năng phân hủy DDT, DDD, DDE của một số chủng vi sinh vật”, Tạp
chí công nghệ sinh học, đang in.
7. Mai Thanh Truyết. Ô nhiễm thuốc sát trùng: DDT.
8. Mai Thanh Truyết, Nguyễn Minh Quang. Phát triển và môi trường bền
vững ở Việt Nam.
Tài liệu Tiếng Anh
9. Adinarayana Kunamneni et al (2008), “Engineering and Application of
fungal laccase for organic synthesis”, Microbial Cell Factories.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
10. Aislabie J, Davison A D, Boul H L, Franzmann P D, Jardine D R, and
Karuso P (1999), “Isolation of Terrabacter sp. Strain DDE-1, Which
metabolizes 1,1-dichloro-2,2-bis (4-chlorophenyl) ethylene when induced
with biphenyl”, Appl and Environ Microbiol, 65, pp. 5607-561.
11. Andrea Zille (2005), Laccase reactions for textile applications, Doctor
thesis, University of Minho, Italia
12. Ben- Dyke R., Sanderson D., Noakes D., (1970), ”Acute toxicity data for
pesticides”, World Rev Pestic Cont, 9, pp.119- 127.
13. Bidleman T., Christensen E., Billings W. et al., (1981). Atmospheric
transport of organochlorines in the North Atlantic gyre, J. Mar Res 39,
pp.443- 464.
14. Bononi, V. L. R., Machado, K. M. G., Matheu, D. R. (2005),
“Ligninolytic enzymes production and Remazol Brilliant Blue R
decolorization by tropical Brazilian Basidiomycetes fungi”, Brazilian
journal of microbiology 36, pp.246-252.
15. Bumpus and Aust (1987), “Biodegradation of DDT [1,1,1- trichloro - 2,2-
bis (4-chlorophenyl) ethane] by the white rot fungus Phanerochaete
chrysosporium”, Appl Environ Microbiol, 53(9), pp.2001–2008.
16. Christiane Galhaup, Harald Wagner Barbara, Hinterstoisser and Dietmar
Haltrich (2002), “Increased production of laccase by the wood-degrading
basidiomycete Trametes pubescens”, Enzyme and Microbial Technology,
30(4), pp.529-536.
17. Crawford, D.L. and Crawford, R.L. (1978), “Microbial degradation of
lignocellulose the lignin component”, Appl. Env. Microbiol, 31(5),
pp.714-717.
18. D. A. Wood (1980), “Production, Purification and Properties of
Extracellular Laccase of Agaricus bisporus”, Journal of General
Microbiology 117, pp.327-338.
19. Gerd J. Mander, Huaming Wang, Elizabeth Bodie, Jens Wagner, Kay
Vienken, Claudia Vinuesa, Caroline Foster,
Abigail C. Leeder, Gethin
Allen, Valerie Hamill, Giselle G. Janssen, Nigel Dunn-Coleman, Marvin
Karos, Hans Georg Lemaire, Thomas Subkowski, Claus Bollschweiler,
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
Geoffrey Turner, Bernhard Nüsslein, and Reinhard Fischer (2006), “Use
of Laccase as a Novel, Versatile Reporter System in Filamentous Fungi”,
Applied and Environmental Microbiology, 72(7), pp.5020-5026.
20. Giraud, Guiraud P., Kadri M., Blake G., Steiman S., (2001),
“Biodegradation of phenanthrene and fluoranthene by fungi isolated from
an experimental constructed wetland for wastewater treatment”, Wat.
Res., 35(17), pp.4126-4136.
21. Gladys Alexandr, Igor B. Zhulin (2000), “Laccases are widespread in
bacteria”, Trend in Biotechnology, 18(2), pp.41-42.
22. Gochev, V. K., A. I. Krastanov (2007), “Isolation of Laccase Producing
Trichoderma Spp”, Bulg. J. Agric. Sci., 13, pp.171-176
23. Guarro Josep, Josepa Gene, và Alberto M. Stchigel. Developments in
Fungal Taxonomy. Unitat de Microbiologia Spain.
24. Hans E. Schoemaker, Klaus Piontek (1996), “On the interaction of lignin
peroxidase with lignin”, Pure & Appl. Chem, 68(11), pp.2089-2096.
25. Harald Claus (2003), “Laccase and their occurrence in prokaryotes”,
Arch Microbiol, 179, pp.145-150.
26. Hestbjerg Helle, Willumsen Pia Arentsen, Christensen Mette, Andersen
Ole and Jacobsen Carsten Suhr (2003), “Bioaugmentation of tar-
contaminated soils under field conditions using Pleurotus ostreatus refuse
from commercial mushroom production”. Environmental Toxicology and
Chemistry 22(4), pp.692-98.
27. Hirofumi Hirai , Sawako Nakanishi, Tomoaki Nishida (2004), “Oxidative
dechlorination of methoxychlor by ligninolytic enzymes from white-rot
fungi”, Chemosphere, 55(4), pp.641-645
28. Hongman Hou, Jiti Zhou, Jing Wang, Cuihong Du, Bin Yan (2004),
“Enhancement of laccase production by Pleurotus ostreatus and its use
for the decolorization of anthraquinone dye”, Process Biochemistry,
39(11), pp.1415-1419
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
29. J.M. Aislabie, N.K.Richards, H.L.Boul (1997), “Microbial degradation of
DDT and its residues- a review”, New Zealand Journal of Agricultural
Research, pp.271- 275.
30. Jan D. V. E., Gabriela F. D., Anneke K. – W., Eric S (2000), “Analysis of
the dynamics of fungal communities in soil via fungal – specific PCR of
soil DNA followed by denaturing gradient gel electrophoresis”, Journal of
Microbiological Methods, 43, pp.133 – 151.
31. Johnson B. Thomas and Jack O. Kennedy (1973), “Biomagnification of p,
p'-DDT and Methoxychlor by Bacteria”, Appl Environ Microbiol, 26(1),
pp.66-71.
32. José Renato P . Cavallazzi, Catarina M. Kasuya, Marcos A. Soares,
(2005), “Screening of inducers for laccase production by Lentinula edodes
in liquid medium”, Brazillan Journal of Microbiology 36, pp.383-387.
33. Kizhekkedathu Narayanan Niladevi, Parukuttyama Prema (2005),
“Mangrove Actinomyces as the source of Ligninolytic Enzymes”
Actinomycestologica, 19, pp.40 –47.
34. Klaus Piontek, Matteo Antorini, Thomas Choinowski Crystal (2002),
“Structure of a Laccase from the FungusTrametes versicolor at 1.90-Å
Resolution Containing a Full Complement of Coppers”, The Journal of
Biological Chemistry, 277,pp.37663-37669.
35. Laura-Leena Kiiskinen (2005), “Characteration and heterologuos
production of novel laccase from Melanocarpus albomyces”, Doctor
Thesis, Helneski University of Technology.
36. Lucier G.W., Trischer A. M., Van den Heuvel J.P., et al., (1992),
“Organohalogen compounds: Extended abstracts of 12th Intern. Symp. On
dioxins and related compounds”, Tampere: Finish Institute of occupational
heath, 10, pp.3-6.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
37. M. Enriqueta Arias, María Arenas, Juana Rodríguez, Juan Soliveri,
Andrew S. Ball, and Manuel Hernández (2003), “Kraft Pulp
Biobleaching and Mediated Oxidation of a Nonphenolic Substrate by
Laccase from Streptomyces cyaneus CECT 3335”, Applied and
Environmental Microbiology, 69(4), pp.1953-1958.
38. Marie-Francois Hullo, Ivan Moszer, Antoine Danchin and Isabelle
Martin-verstraete (2001), “Cot A of Bacillus subtilis is a copper-depedent
laccase”. Journal of Bacteriology, pp.5426-5430.
39. Marièlle Bar (2001), “Kinetics and physico-chemical properties ò white-
rot fungal laccases”, doctor thesis.
40. Mario Scherer, Reinhard Fischer (2001), “Molecular characterization of a
blue-copper laccase, TILA, of Aspergillus nidulans”, FEMS Microbiology
Letters, 199, pp.207-213.
41. Nadeau Lloyd J, Sayler Gary S and Spain J C (1998), “Oxidation of
1,1,1-trichloro-2,2-bis(4-chlorophenyl)ethane (DDT) by Alcaligenes
eutrophus A5”, Archives of Microbiology, 171(1), pp.44-49.
42. Nadeau, L. J.; Menn, F- M.; Breen, A.; Sayler, G.S., (1994). “Aerobic
degradation of DDT by Alcaligenes eutrophus A5”, Applied and
environmental microbiology 60: 51- 55.
43. O. V. Morozova, G. P. Shumakovich, M. A. Gorbacheva, S. V. Shleev,
and A. I. Yaropolov (2007), ““Blue” Laccases”, Biochemistry (Moscow),
72(10), pp.1136-1150.
44. P. Sharma, R. Goel, N. Capalash (2007), “Bacterial laccase”, World J
Microbiol Biotechnol, 23, pp.823-832.
45. Pereira W., Domagalski J., Hostettler F., et al., (1996), “Occurrence and
accumulation of pesticides and organic contaminants in river sediment,
water and clam tissues from the San Joaquin River and tributaries,
California”, Environ Toxicol Chem, 15(2), pp.172- 180.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
46. PJ Collins, MJJ Kotterman, JA Field and ADW Dobson (1996),
“Oxidation of Anthracene and Benzo[a]pyrene by Laccases from
Trametes versicolor”, Appl. Environ. Microbiol.,62(12), pp.4563-4567.
47. R V Subba-Rao and M Alexander (1985) “Bacterial and fungal
cometabolism of 1,1,1-trichloro-2,2-bis(4-chlorophenyl)ethane (DDT) and
its breakdown products”, Applied and Environmental Microbiology
49(3), pp.509-516.
48. Rochkind- Dubinsky, M.L.; Sayler, G.S.; Blackburn, J.W., 1987.
Microbiological decomposition of chlorinated aromatic compounds.
Microbiology series, vol. 18, New York, Marcel Dekker: pp. 153- 162.
49. S. Sadhasivam, S. Savitha, K. Swaminathan, Feng-Huei Lin (2008),
“Production, purification and characterization of mid-redox potential
laccase from a newly isolated Trichoderma harzianum WL1”, Process
Biochemistry 43, pp.736–742.
50. S. Tagger, C. Périssol, G. Gil, G. Vogt and J. Le Petit (1998)
“Phenoloxidases of the white-rot fungus Marasmius quercophilus isolated
from an evergreen oak litter (Quercus ilex L.)”, Enzyme and Microbial
Technology, 23(6), pp.372-379.
51. Sambrook J., Russell D.W. (2001), Molecular Cloning. A Laboratory
Manual, 3rd ed. Cold Spring Harbor Laboratory Press, Cold Spring
Harbor, NY.
52. Sergio Riva (2006), “Laccases: Blue enzymes for green chemistry”,
Trends in Biotechnology, 24(5), pp.219-226.
53. Shah, M. M.; Barr, D. P.; Chung, N.; Aust S.D., (1992),“ Use of white rot
fungi for the degradation of environmental cheicals”, Toxicology letters,
64/65, pp.493- 501.
54. Staples C., Werner A., Hoogheem T., (1985) “Assessment of priority
pollutant concentrations in the United States using STORET database”,
Environ Toxicol Chem 4, pp.131- 142.
55. Susana Rodríguez Couto and José Luis Toca-Herrera (2009), “Lacasses in
the textile industry”, Biotechnology and Molecular Biology Reviews, 1(4),
pp.115-120.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
56. Tereza Skálová et al, (2009), “The structure of small laccase from
streptomyces coelicolor reveals a link between laccase and nitrite
reductases”, Journal of Molecular Biotechnology, 385, pp.1165-1178.
57. The Use and Effectiveness of Phytoremediation to Treat Persistent
Organic Pollutants (2005), Kristi Russell Environmental Careers
Organization.
58. Timothy P.Ruggaber, Jeffrey W. Talley (2006), “Enhancing
Bioremediation with enzymatic Processes”, Practice periodical of
hazardous, toxic, and radioactive waste management.
59. Toxicology profile for DDT, DDE, DDD, pp. 1- 231.
60. Xiaohu Shao et al (2009), “Deletion and site-directed mutagnesis of
laccase from Shigella dysenteriae results in enhanced enzymatic activity
and thermostability”, Enzyme and Microbial Technology, 44, pp.274-280.
61. Y. Z. Xiao, Q. Chen, J. Hang, Y. Y. Shi1, Y. Z. Xiao, J. Wu, Y. Z. Hong,
Y. P. Wang (2004), “Selective induction, purification and characterization
of a laccase isozyme genes from Trametes sp. AH28-2 and analyses of
their differential expression”, Applied Microbiology and Biotechnology
71, pp.493-501.
62. Yi Huang, Xi Zhao and Shengji Luan (2007), “Uptake and biodegradation
of DDT by 4 ectomycorrhizal fungi”, Sicence of the total enviroment 358,
pp.235-241.
63. Zaidi R., Baquar. And Imam H. S., (1999), “Factors affecting microbial
degradation of polycyclic aromatic hydrocacbon phenanthrene in the
Caribbean coastal water”, Marine Pollution Bulletin, 38, pp.737- 742.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Đặc tính lý - hóa một số đồng phân của DDT
Đặc tính p,p,-DDT p,p,-DDE p,p,-DDD o,p,- DDT o,p,-DDE o,p-DDD
Khối
lƣợng
phân tử
354.5 318.03 320.05 354.49 318.03 320.05
Màu Tinh thể
bé,bột trắng
Tinh thể bé,
bột trắng
Tinh thể
bé, bột
trắng
Tinh thể
bé, bột
trắng
ND ND
Trạng
thái vật lý
Rắn Rắn Rắn Rắn Rắn ND
Nhiệt độ
sôi
Phân hủy 336 0C 3500C ND ND ND
Khối lƣợng
riêng
d(g/cm
3
)
0.98-0.99 ND 1.385 0.98-0.99 ND ND
Mùi Nhẹ ND ND ND ND ND
Độ tan
trong nƣớc
0.025mg/l
(25
0
C)
ND ND
0.085mg/l
(25
0
C)
0.14mg/l
(25
0
C)
0.1mg/l
(25
0
C)
Độ tan
trong dung
môi hữu cơ
Ít tan trong
etanol, tan
tốt trong
etylete và
acetone
Tan tốt
trong chất
béo và các
dung môi
hữu cơ
khác
ND ND ND
Tan trong
etanol, iso
octan,
cacbon-
tetraclorit
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
Áp suất
bay hơi
1.6x10
-7
20
0
C,torr
6x10
-6
25
0
C,torr
1.35x10
6
25
0
C,torr
1.1x10
-7
20
0
C,torr
6.2x10
-6
25
0
C,torr
1.94x10
6
30
0
C,torr
Phụ lục 2. Các vi sinh vật sử dụng DDT
Phụ lục 3. Vi sinh vật sinh laccase
Nấm đảm Nấm sợi Xạ khuẩn Vi khuẩn
Phanerochaete
chrysosporium
Melanocarpus
albomyces
Streptomyces
lavendulae
Bacillus
licheniformis
Pycnoporus
cinnabarinus
Fusarium
oxysporum
Streptomyces
psammoticus
Bacillus
halodurans
Rhizotonia solani Aspergillus nidulans Streptomyces Thermus
Vi khuẩn Nấm Xạ khuẩn
Alcaligenes eutrophus A5 Nocardia .sp Streptomyces aureofaciens
Arthrobacter. Sp
Phanerochaete
chrysosporium
Streptomyces
viridochromogenes
Bacillus. Sp Trichoderma viridae Streptomyces annamoneus
Cylindrotheca closterium Sacharomyces cerevisiae Streptomyces chromofuscus
Enterobacter aerogenes Fusarium solami
Enterobacter cloacae Aspergillus conicus
Eschrichia coli Aspergillus niger
Klebsiella pneumoneae Leccinum scabrum
Klebsiella pneumoniae Gloeophyllum trabeum
Pseudomonas putida Penicillium brefeldianum
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
viridosporus thermophilus
Trametes villosa Trichoderma
harzianum
Streptomyces
coelicolor
Escherichia coli
Trametes versicolor Aspergillus niger Bacillus subtilis
Pleurotus ostreatus Aspergillus terreus
Lentinula edodes Pholiota spp.
Agaricus bisporus Peniophora spp.
Botrytis cinerea Mauginiella sp.
Phụ lục 4. Gene mã hóa laccase
Tên chủng
Tên gene
laccase
Tên chủng Tên gene laccase
Bacillus subtilis cotA Basidiomycete PM1 lac1
Ceriporiopsis
subvermispora
Ics-1 Podospora anserina lac2
Coprinus cinereus lcc1 Populus euramericana lac90
Cryptococcus
neoformans
CNLAC1 Rhizoctonia solani lcc4
Gaeumannomyces
graminis var. tritici
LAC2 Trametes pubescens lap2
Marasmius
quercophilus
lac1 Trametes trogii lcc1
Myceliophthora
thermophila
lcc1 Trametes versicolor lccI
Neurospora crassa SalI Trametes versicolor lcc2
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
Phlebia radiata lac1 Trametes villosa lcc1
Pleurotus ostreatus poxa1b Trametes villosa lcc2
Pleurotus ostreatus Poxc
Streptomyces
lavendulae
Poxb
Phụ lục 5. Một số kỹ thuật phân loại hiện đại
Thành phần tế bào Phƣơng pháp phân tích
Phạm vi
phân loại
DNA nhiễm sắc thể
Thành phần Bazơ (%G+C) Chi
Biến tính DNA : DNA Loài
Các phần DNA đƣợc cắt bằng enzym giới
hạn Loài và dƣới loài
Đa hình chiều dài các đoạn giới hạn của
RNA riboxom
RNA riboxom
Trình tự nucleotit
Loài, chi
và trên chi Lai DNA : rRNA
Protein
Trình tự axit amin
Loài, chi
và trên chi
So sánh bằng phản ứng huyết thanh
Loài và chi
Các kiểu điện di
Điện di enzym đa vị trí
Các dòng
trong loài
Thành tế bào
Cấu trúc peptidoglucan
Loài và chi
Polysaccharid
Axít teichoic
Màng
Axít béo
Loài và chi
Lipid phân cực
Axít mycolic
Isoprenoid quinones
Các sản phẩm trao
đổi chất
Axít béo Loài và chi
Toàn bộ tế bào
Sắc kí lỏng pyrolysis
Pyrolsis khối phổ
Loài và dƣới loài
Phụ lục 6. Xác định hoạt tính LiP, MnP
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
Xác định hoạt tính enzyme LiP
Thành phần phản ứng:
Thành phần phản ứng Mẫu đối chứng Mẫu thí nghiệm
Đệm kali phosphate PPB (50
mM, pH = 7)
500 µl 500 µl
4-aminoantipyrine, 0,164 mM 50 µl 50 µl
2,4-DCP 3 mM 200 µl 200 µl
Dịch enzyme 200 µl 200µl
H2O2 4 mM 0 µl 50 µl
Nƣớc khử ion 50 µl 0 µl
Phản ứng diễn ra khi cho H2O2 vào hỗn hợp, giá trị OD đo sau 1 phút.
Công thức tính:
E
fpuCM
V
DVODOD
U
610)(
Trong đó:
U: Hoạt độ enzym (U/l)
ε: hệ số hấp thụ, ε510 = 21647 M
-1
cm
-1
Vpu: Tổng thể tích phản ứng (1 ml)
VE: Thể tích enzyme (0,2 ml)
ODM: Giá trị OD đo đƣợc của mẫu thí nghiệm
ODC: Giá trị OD đo đƣợc của mẫu đối chứng
Df: Độ pha loãng
Xác định hoạt tính MnP
Thành phần phản ứng:
Thành phần phản ứng Mẫu đối chứng Mẫu thí nghiệm
Đệm kali phosphate PPB (100
mM, pH = 7)
3 ml 3 ml
MnSO4 0,1 mM 200 µl 200 µl
Phenol đỏ 0,1 mM 300 µl 300 µl
Dịch enzyme 1 ml 1 ml
H2O2 50 mM 0 µl 500 µl
Nƣớc khử ion 500 µl 0 µl
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
Phản ứng diễn ra khi cho H2O2 vào hỗn hợp, sau 1 phút 30 giây dừng phản
ứng bằng cách cho 40 µl NaOH 5M vào 1 ml mẫu, xác định giá trị OD ở bƣớc sóng
610 nm.
Công thức tính:
5,1
10)( 6
E
fpuCM
V
DVODOD
U
Trong đó: U: Hoạt độ enzyme (U/l)
ε: hệ số hấp thụ, ε610 = 4460 M
-1
cm
-1
Vpu: Tổng thể tích phản ứng (5 ml)
VE: Thể tích enzyme (1 ml)
ODM: Giá trị OD đo đƣợc của mẫu thí nghiệm
ODC: Giá trị OD đo đƣợc của mẫu đối chứng
Df: Độ pha loãng
Phụ lục 7. Phƣơng pháp chiết dịch chiết từ đất ô nhiễm
Cân khoảng 10g đất nhiễm chất độc hóa học (1,5DN5) thu nhận từ sân bay
Đà Nẵng đã đƣợc làm khô vào bình tam giác, bổ sung 15g Na2SO4 để tiếp tục làm
khô mẫu. Sau khi mẫu khô hoàn toàn bổ sung 45ml dung môi Methanol : Toluen =
1 : 4 để chất độc khuếch tán ra ngoài, siêu âm mẫu đất 30 phút, đậy nắp và lắc 2 giờ
hoặc hơn, sau đó để lắng, ly tâm tách dịch, bổ sung H2SO4 với tỉ lệ 1 : 1 về thể tích
so với tổng thể tích dung dịch trên để oxy hóa. Khi dung dịch tách làm hai pha thì
dùng phễu chiết để lấy pha trên và bảo quản trong lọ tối màu.
Phụ lục 8. Quy trình biến nạp DNA tái tổ hợp vào tế bào E. coli
Các bƣớc thực hiện theo quy trình và hóa chất của “PCR cloning kit” hãng
Fermentas.
Chuẩn bị tế bào khả biến và môi trường nuôi cấy:
Ngày trước biến nạp: Nuôi 1 khuẩn lạc vi khuẩn E.coli (bất kì chủng nào)
trong môi trƣờng C, lắc 37oC qua đêm.
Ngày biến nạp: Làm ấm môi trƣờng C trong tube ở 37oC ít nhất 20 phút và làm
ấm đĩa thạch LB có bổ sung kháng sinh ampicilin (100 µl/ml) ở 37oC ít nhất 20 phút
trƣớc khi gạt.
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
Quy trình biến nạp:
Bƣớc 1: Bổ sung 150 µl dịch nuôi qua đêm vào 1,5 ml môi trƣờng C đã làm
ấm. Lắc ở 37 oC trong 20 phút.
Bƣớc 2: Ly tâm 6000 vòng trong 4 phút ở 4 oC, loại dịch nổi
Bƣớc 3: Trộn đều tế bào trong 300 µl dung dịch T. Ủ 5 phút trong đá.
Bƣớc 4: Ly tâm 6000 vòng trong 4 phút ở 4 oC, loại dịch nổi
Bƣớc 5: Trộn đều tế bào trong 120 µl dung dịch T. Ủ 5 phút trong đá.
Bƣớc 6: Lấy 2,5 µl sản phẩm ligation vào ống mới làm lạnh trong đá 2 phút.
Bƣớc 7: Bổ sung 50 µl tế bào đã chuẩn bị vào ống chứa sản phẩm ligation trên,
ủ trong đá 5 phút
Bƣớc 8: Gạt ngay ra đĩa LB-ampicillin, có bổ sung thêm X-gal và IPTG. Ủ 37
oC qua đêm.
Phụ lục 9. Hoạt tính laccase
Ảnh hƣởng của nhiệt độ
Nhiệt độ (oC) 28 30 37 42
Hoạt tính (U/l) 7 12.2 10.7 1.3
Ảnh hƣởng pH môi trƣờng nuôi cấy
pH 2 3 4 5 6 7 8 9
Hoạt tính
(U/l)
0 2.6 3.2 111.1 100 3.4 1.4 3.5
Ảnh hƣởngnồng độ NaCl
NaCl % 0 0.1 1 5 10
Hoạt tính 5.8 10.4 2.6 1.4 0.04
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
(U/l)
Ảnh hƣởng của nồng độ DDT
DDT ppm 50 100 200 300
Hoạt tính (U/l) 7 6,6 7,1 6,8
Ảnh hƣởng của nồng độ glucose
Glucose % 0 0,1 0,5 1 2 3
Hoạt tính
(U/l)
0 7,5 6,5 6 0,2 0
Ảnh hƣởng của các chất cảm ứng
Chất cảm ứng guiaiacol veratyl alcohol CuSO4
Hoạt tính (U/l) 7,6 2,9 11
Ảnh hƣởng của chất hoạt động bề mặt
Chất hoạt động bề mặt Tween 80 Nƣớc bồ kết
Hoạt tính (U/l)
1 ngày 2608,3 0,4
2 ngày 0,4 0,5
4 ngày 6,5 3,8
6 ngày 4,8 3,1
Động thái sinh tổng hợp laccase
Ngày 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Hoạt tính
(U/l)
0 2608,3 0,4 2,5 6,5 194,4 4,8 2,6 7,5 6,3 2,25
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
Ảnh hƣởng của nguồn carbon
Carbon Glucose Saccharose lactose Tinh bột Khoai tây Cao malt Cellulose
Hoạt tính
(U/l)
8,6 22,2 1,8 4,3 3,7 1,1 3,3
Ảnh hƣởng của nguồn nitơ
Nitơ NaNO₃+KNO₃ Cao men Cao thịt Đậu tƣơng Urê NH₄NO₃
Hoạt tính
(U/l)
22,2 1,5 1,1 1,7 0,6 0,9
Môi trƣờng thay thế
Môi trƣờng MEG YS SG PG
Hoạt tính (U/l) 11,3 6,2 21,3 5,8
pH tối ƣu
pH 5 4,5 4 3,5 3 2,5 2 1,5 1
Hoạt tính
(U/l)
0,02 3,2 7,5 28,2 503,1 1552,8 2355,6 2802,8 1969,4
Nhiệt độ tối ƣu
Nhiệt độ (oC) 32 40 50 60 70 80 90
Hoạt tính
(U/l)
1354,2 1877,3 2532,4 2307,9 1289,3 914,4 905,1
Đào Thị Ngọc Ánh Luận văn Thạc sĩ Sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
Độ bền pH
pH 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Hoạt tính
(U/l)
650 1075 1472 2100 1825 1416,7 1386 1425 1472 1425
Độ bền nhiệt
Nhiệt độ (oC) 50 60 80 90
Hoạt tính
(U/l)
10 phút 2508 2370.37 1333.333 1370.37
20 phút 2394 1958.333 1120.37 1212.963
40 phút 2453 1287.037 1263.889 1018.519
60 phút 2409 1259.259
1185.185
1074.074
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9308.pdf