Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chiến lược mở cửa để đưa dần nền kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện cách đây hơn 13 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chính sách mở cửa là chủ trương thu hút vốn đầu tư của nước ngoài và đặc biệt quan trọng là chính sách thu hút vốn trực tiếp của nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.
Thu h
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu nhằm đánh giá khái quát và phân tích tổng thể về đặc điểm, xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
út đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phát triển hàng xuất khẩu không chỉ nhằm tăng thêm vốn cho đầu tư phát triển sản xuất mà còn tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nước nhà những máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần ổn định nền tài chính tiền tệ quốc gia, thúc đẩy kinh tế phát triển …
Chính vì vậy, việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế Việt Nam trước thềm thế kỷ 21. Đồng thời cũng là nhân tố quan trọng để đưa đất nước ta từ một quốc gia nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp, để đưa chủ trương của Đảng ta xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh sớm trở thành hiện thực.
2. Mục đích của đề tài
Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá khái quát và phân tích tổng thể về đặc điểm, xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng, xác định tiềm năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung và của các doanh nghiệp có vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nói riêng. Từ nội dung nghiên cứu về những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá để rút ra những bài học thực tiễn góp phần nhỏ bé vào công cuộc phát triển hàng xuất khẩu của nước nhà. Qua đây làm sáng tỏ quá trình thu hút có kết quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Luận văn phân tích cụ thể môi trường đầu ở nước ta, chủ trương tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước nói chung và xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Qua đó nhằm đưa ra những đề xuất phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng và trình bày trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó có vận dụng lý thuyết kinh tế học hiện đại về đầu tư và xuất nhập khẩu hàng hoá. Dùng phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê và khái quát hoá đối tượng nghiên cứu để đạt được mục tiêu đề ra.
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo…luận văn gồm ba chương:
Chương I: Những lý luận chung về vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Chương III: Các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.
Trong quá trình thực hiện luận văn này em đã luôn nhận được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của TS. Lê Thị Anh Vân; TS. Đào Văn Hải cùng các cô chú công tác tại Vụ Đầu tư - Bộ Thương mại. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cô, các chú. Kính chúc các cô, các chú có sức khoẻ và công tác tốt.
Chương I
Những lý luận chung về vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá
I. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1 Khái niệm.
ã Khái niệm đầu tư.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đầu tư
Có quan niệm cho rằng
Đầu tư theo nghĩa rộng, có thể hiểu là quá trình bỏ vốn (bao gồm cả tiền, nguồn lực, thời gian, trí tuệ, công nghệ…) để đạt được mục đích hay mục tiêu nhất định nào đó. Những mục tiêu này có thể là mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội …và cũng có khi chỉ là mục đích nhân đạo đơn thuần . Đầu tư trong hoạt động kinh tế là qúa trình bỏ vốn (tiền, nhân lực, nguyên liệu, công nghệ… ) vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây được xem như bản chất cơ bản của hoạt động đầu tư. Có thể nói trong hoạt động kinh tế không có khái niệm đầu tư không vì lợi nhuận.
Các nhà kinh tế cho rằng:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu hút về các kết quả nhất định tương lai, lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền, vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật. ..) và nguồn nhân lực có điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội.
Cho dù đầu tư được quan niệm như thế nào thì bản chất đích thực của hoạt động đầu tư vẫn là sự ứng trước một lượng vốn nhất định (dưới dạng tiền hay hiện vật, hoặc sáng chế phát minh, dây chuyền công nghệ…) để tạo các yếu tố vật chất và lao động, hình thành nên hoạt động kinh doanh: mua máy móc thiết bị, nguyên liệu, thuê mướn nhân công…nhằm thu hút lại một lượng lớn sau hơn một khoảng thời gian nhất định. Đây là hoạt động thường xuyên của mọi nền kinh tế và là nền tảng của sự phát triển của xã hội loại người.
Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào trong nước vốn dưới dạng tiền hoặc hiện vật được nước nhận đầu tư chấp nhận để sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận.
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Direct Investment)
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào qúa trình điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm về kết quả, cùng hưởng lợi và cùng chia sẽ rủi ro tuỳ theo kết quả của hoạt động kinh doanh và phần vốn góp. Đây là loại hình đầu tư khá phổ biến hiện nay.
Hay theo điều 1 chương I của luật đầu tư nước ngoài ngày 12/11/1996 quy định: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền mặt hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
ã Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ vốn góp của mình.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp cận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý… là những mục tiêu mà các hình thức khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động của nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, các chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Chỉ có điều ở đây chủ đầu tư phải đóng góp một lượng vốn đủ lớn, đủ để họ có quyền tham gia vào việc quản lý doanh nghiệp và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
1.2 Lợi thế do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại
Như đã nói ở trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đem lại lợi ích cho cả hai bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Tuy nhiên do tính chất của đề tài nên bài viết chỉ tập trungvào phân tích ưu thế do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại cho bên nhận đầu tư .
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế đất nước.
Nền kinh tế nước ta vốn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính và đất nước phải trải qua thời kỳ chiến tranh kéo dài đã làm cho đời sống cuả nhân dân vô cùng khó khăn, gian khổ.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương “Đổi mới” nền kinh tế xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá mang nặng tính tập trung quan liêu bao cấp sang chế độ kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế trong nước đã dần dần biến đổi. Trước đây nước ta là một nước chủ yếu sống bằng nông nghiệp mà hàng năm vẫn thiếu ăn, từ khi thực hiện “ đổi mới” nền kinh tế đã có biến đổi to lớn… Nhân dân không còn cảnh đói cơm, rách áo mà đất nước lại có lương thực dư thừa để xuất khẩu…Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tác động tích cực đến nền kinh tế nước ta, góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập cho người dân lao động, góp phần thực hiện các chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước đạt kết quả tích cực, trong đó có chương trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có một vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của một quốc gia và là một giải pháp được xây dựng ở tầm vĩ mô mà công cụ chủ yếu là những biện pháp mạnh mẽ của Nhà nước thông qua những chủ trương, chính sách và pháp luật. Bên cạnh đó muốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công thì những yếu tố như: Vốn đầu tư, máy móc kỹ thuật và công nghệ, nhân tố con người… cần được quan tâm và phát triển. Những yêu tố giúp cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công một mặt phải dựa vào nội lực của đất nước là chính, song bên cạnh đó cũng cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi từ bên ngoài để phát triển kinh tế đất nước, xu thế này không chỉ được nước ta vận dụng mà còn được nhiều quốc gia trên thế giới triển khai.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ có chuyển dịch cơ cấu theo ngành nghề mà còn chuyển dịch cơ cấu theo vùng lãnh thổ để sao cho sự phát triển giữa các vùng trong một nước được đồng đều, tạo những yếu tố để các vùng phát huy hết những tiềm năng sẵn có, góp phần vào việc phát triển chung của cả nước.
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam góp phần tăng vốn cho đầu tư phát triển và tăng thu nhập quốc dân.
Theo nguyên lý chung, muốn có tăng trưởng cao phải có đầu tư cao hay nói cách khác: đầu tư quyết định tăng trưởng. Một số quốc gia khi tiến hành đầu tư để phát triển kinh tế đều phải dựa vào hai nguồn chủ yếu là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn của nước ngoài. Nguồn vốn trong nước là do tích luỹ từ nội tại nền kinh tế có được; nguồn vốn từ bên ngoài là do đi vay của các nước và các tổ chức tài chính quốc tế, nguồn viện trợ không hoàn lại và nguồn quan trọng nhất là từ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam góp phần trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cho nền kinh tế quốc dân.
Khả năng vốn có của đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại những đóng góp quan trọng cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân nước ta trong những năm qua. Văn kiện hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành trung ương khoá VII có nêu: “Ưu tiên cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là những công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia tầm cỡ thế giới để tranh thủ chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ năng điều hành tiên tiến mở lối vào thị trường khu vực và quốc tế…” (1)
Để cụ thể hoá luật đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1996, Nghị định 12CP ngày 18/12/1997 có nêu: “ Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi và bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của bên chuyển giao công nghệ đặc biệt là công nghệ để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam. Khuyến khích và ưu đãi chuyển giao công nghệ đặc biệt là công nghệ tiên tiến….”(14)
Phía đối tác Việt Nam khi tham gia vào các dự án liên doanh, phần góp vốn của phía Việt Nam chủ yếu là đất đai, nhà xưởng mà phần nhà xưởng khi góp lại ở tình trạng cũ nát và một phần rất nhỏ là vốn bằng tiền. Ngược lại đối với các nhà đầu tư nước ngoài phần vốn góp vào liên doanh lại chủ yếu là hiện kim bằng ngoại tệ, hiện vật là thiết bị, máy móc kỹ thuật và công nghệ, bản quyền, bằng phát minh sáng chế.
Phần đóng góp của nước ngoài nêu trên là những lĩnh vực mà nền kinh tế Việt Nam vốn rất thiếu và rất cần được bổ sung để thực hiện chiến lược Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước.
Phát triển đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để phát triển kinh tế đất nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tài Việt Nam hiện nay được mở rộng với nhiều hình thức đầu tư như hình thức hợp tác liên doanh gồm phía đối tác Việt Nam và một hoặc nhiều đối tác nước ngoài hay một đối tác nước ngoài và nhiều đối tác phía Việt Nam; hình thức đầu tư với 100% vốn là của nước ngoài...
Khi các dự án đầu tư được thực hiện thì cũng là lúc các nhà đầu tư nước ngoài đưa các thiết bị kỹ thuật, dây chuyền máy móc và công nghệ …vào Việt Nam để sản xuất kinh doanh. Đi liền với máy móc hiện đại là quy trình công nghệ tiên tiến để vận hành sản xuất kinh doanh. Những người tiếp quản để thực hiện sản xuất kinh doanh ấy có một số rất ít là người nước ngoài, số còn lại hầu hết là người Việt Nam. Đây là một thời cơ quan trọng để lực lượng lao động của chúng ta tiếp cận với thiết bị máy móc hiện đại và công nghệ kỹ thuật tiên tiến của thế giới.
Trang thiết bị hiện đại, quy trình công nghệ tiên tiến đã giúp cho các liên doanh sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ cho xuất khẩu. Đây là một đóng góp tích cực của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam vào chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu mà Đảng và Nhà nước ta đề ra
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam góp phần đào tạo nhân lực, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường đã có tác động mạnh mẽ tới mọi tầng lớp trong xã hội nước ta, từ các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sản xuất kinh doanh đến những người lao động …Để dần phù hợp với cơ chế thị trường thì việc tổ chức lại bộ máy làm việc, đặc biệt tổ chức lại bộ máy trong sản xuất kinh doanh đã được các đơn vị quan tâm giải quyết.
Từ thực tế của việc chuyển đổi cơ chế quản lý trong những năm qua cho thấy:
- Thứ nhất: Khi sắp xếp lại tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh cho phù hợp với cơ chế thị trường đã dẫn tới một tình hình chung của các đơn vị này là một lượng lao động đáng kể dư ra mà các đơn vị không có khả năng bố trí được.
- Thứ hai: Để thực hiện chủ trương bình đẳng trong sản xuất kinh doanh, Nhà nước không thể tiếp tục bù lỗ cho các đơn vị làm ăn kém hiệu quả mà có hướng để các đơn vị này sát nhập hoặc tuyên bố phá sản và như vậy tất yếu sẽ dẫn tới tình trạng một số lớn lao động sẽ không có việc làm.
- Thứ ba: Một mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường đối với các doanh nghiệp và người lao động của Việt Nam ta còn hết sức mới mẻ, nhu cầu đào tạo, trang bị những kiến thức cần thiết cho người lao động, từ cán bộ quản lý đến những người lao động có tay nghề chuyên môn sao cho phù hợp với cơ chế thị trường là một nhu cầu đòi hỏi có tính chất khách quan và cấp bách của nền kinh tế nước ta.
Để đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế, trong đó có việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, đào tạo một lớp người mới có trình độ nghiệp vụ, có tay nghệ kỹ thuật phù hợp với đòi hỏi của nhiệm vụ sản xuất , kinh doanh theo cơ chế thị trường thì đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian vừa qua được triển khai cho thấy đã góp phần đắc lực vào việc đào tạo một đội ngũ đông đảo những nhà quản lý, những người lao động có trình độ kỹ thuật, có tay nghề cao và giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Từ chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mở ra những cơ hội mới để lực lượng lao động trong nước ta tiếp cận với phương thức quản lý và điều hành theo cơ chế thị trường. Đồng thời người lao động nước ta cần được đào tạo, trang bị những kỹ năng vận hành đối với các loại máy móc và quy trình công nghệ hiện đại của thế giới mà trước đó chưa có điều kiện biết tới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được triển khai đã thu hút hàng trăm nghìn lao động có việc làm ổn định, có thu nhập bình quân khá cao so với thu nhập bình quân của người lao động khác trong nước, tạo ra sự ổn định về đời sống kinh tế, xã hội nước nhà.
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam những năm qua đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước.
Thực hiện quản lý theo cơ chế thị trường, nguồn thu về tài chính bổ sung vào ngân sách Nhà nước đã có nhiều thay đổi. Phần lớn những khoản nộp vào ngân sách trước đây của các doanh nghiệp nay đã thay bằng các loại thuế. Để duy trì mọi hoạt động của cơ quan Nhà nước bao gồm các cơ quan chính quyền từ Trung ương đến cấp quản lý phường, xã; duy trì hoạt động của các lực lượng vũ trang đến các hệ thống giáo dục đào tạo, dạy nghề, hệ thống an ninh xã hội…tất cả phần lớn đều trông chờ vào nguồn thu ngân sách quốc gia.
Nguồn thu ngân sách Nhà nước không những trang trải cho các nhu cầu trên mà còn đóng góp một phần đáng kể vào vốn đầu tư Nhà nước, đầu tư cho các công trình xây dựng cơ bản , công trình cơ sở hạ tầng, góp phần vào công cuộc phát triển đất nước.
Theo niên giám thống kê 1999 cho thấy nguồn thu vào ngân sách Nhà nước gồm những nguồn lớn như: Nguồn thu từ thuế chiếm một tỷ trọng lớn, thuế từ khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân, thuế từ kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương, thu từ các ngành: sản xuất nông nghiệp, xuất nhập khẩu …Đặc biệt khoản thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm gần đây đã dần dần chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng các khoản thu từ ngân sách Nhà nước ta. Năm 1997 chiếm 7% và năm 1998 chiếm 8,4%.
2. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1 Khái niệm.
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là doanh nghiệp sử dụng vốn dưới dạng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức cá nhân nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
2.2 Phân loại doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư nước ngoài được thông qua nhiều hình thức như: hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài; hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT); hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC); cho thuê thiết bị.
Ngoài ra các nhà đầu tư nước ngoài còn được đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao dưới các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Dưới đây sẽ là hai loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phổ biển nhất:
ã Liên doanh: Là hình thức đầu tư do hai bên cùng nhau góp vốn theo một tỷ lệ nhất định để thành lập một doanh nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành riêng và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ăn chia lợi nhuận và gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp.
Về thực chất đây là sự chung vốn giữa nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài với nhà đầu tư nước sở tại để hình thành nên một doanh nghiệp thống nhất về cơ cấu tổ chức, kinh tế kỹ thuật. Nói cụ thể hơn, đó là sự góp riêng thành một vốn chung, tạo nên một cơ sở vật chất chung để thực hiện một nhiệm vụ chung, cùng hưởng lãi và chia sẽ rủi ro theo phần vốn góp.
Hình thức này thường được tiến hành khi cả hai bên cùng có lợi. Đó là lúc mà nhà đầu tư nước ngoài cần dựa vào đối tác nước sở tại để có thể tiếp xúc với môi trường đầu tư mới khi mà họ chưa thật sự hiểu biết nhiều về nó, một nơi mà tuy hứa hẹn nhiều tiềm năng nhưng rất có thể cũng ẩn chứa nhiều rủi ro và nguy cơ.
Hình thức liên doanh cũng giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài có thể nhanh chóng giải quyết các thủ tục cần thiết cho việc đầu tư. Có thể nói bằng hình thức này họ đã tạo ra được một ‘tay trong”, người am hiểu về luật pháp, thông lệ và tập quán của nước sở tại, và là một yếu tố quan trọng giúp họ nhanh chóng thực hiện được nguyện vọng đầu tư của mình, điều mà một mình họ khó có thể thực hiện được. Còn nhà đầu tư trong nước cần đủ vốn để họ được phép kinh doanh trong những ngành nghề có mức vốn tối thiểu theo quy định, cần khoa học công nghệ và cả kinh nghiệm quản lý, thông tin về thị trường, về bạn hàng.. .Do đó hình thức hùn vốn kinh doanh là hình thức được cả hai bên lựa chọn, đặc biệt là khi bắt đầu đầu tư vào thị trường mới. Chính phủ các quốc gia chậm phát triển rất coi trọng hình thức này vì nó giúp nước sở tại tiến bộ rất nhanh về nhiều mặt như tạo thêm công ăn việc làm, giúp tiếp thu công nghệ mới, phương pháp quản lý hiện đại, ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong làm việc công nghiệp. Hơn nữa, sự có mặt trực tiếp của thành viên nước sở taị trong hội đồng quản trị, cùng tham gia điều hành trực tiếp doanh nghiệp, mà chính phủ nước sở tại có thể nắm bắt được ý đồ đầu tư của các chủ tư bản nước ngoài và kịp thời điều chỉnh nếu hoạt động của doanh nghiệp này làm phương hại đến lợi ích quốc gia, đến lợi ích của người lao động nước mình… đồng thời cũng thông qua hoạt động điều hành quản lý doanh nghiệp mà có thể nhanh chóng nắm bắt được thị trường, được bạn hàng quen của các chủ đầu tư nước ngoài để có thể vươn lên làm chủ trong tương lai.
ã Đầu tư độc lập, tạo ra các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây là hình thức độc lập đầu tư của các chủ đầu tư nước ngoài, là việc các chủ đầu tư nước ngoài bỏ 100% vốn, xây dựng doanh nghiệp của mình trên lãnh thổ của nước sở tại và chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tự mình gánh chịu mọi rủi ro nếu có. Nước sở tại không góp vốn nhưng cung cấp cho bên nước ngoài các dịch vụ cần thiết và cho thuê đất đai, sức lao động… Tuy nhiên doanh nghiệp loại này cũng có nhiều loại: có loại hoạt động như một doanh nghiệp nội địa; có loại hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu mậu dịch tự do.
Mỗi loại hình đầu tư nói trên có những mặt ưu điểm và nhược điểm nhất định đối với nhà đầu tư cũng như đối với nước chủ nhà. Các nhà đầu tư thường thích hình thức độc lập, tức là bỏ 100% để hoàn thành doanh nghiệp. Nhưng đôi khi độc lập cũng sẽ bị gây khó khăn và có khi phải gánh chịu nhiều rủi ro đặc biệt khi đầu tư vào một môi trường mới, mà ở đó mọi luật lệ chưa rõ ràng hoặc hay thay đổi. Trong trường hợp này nhà đầu tư thường chọn biện pháp mềm dẻo hơn đó là liên doanh.
Tuy nhiên khi những tính toán này không được các nhà đầu tư nước ngoài chấp nhận sẽ dẫn đến tình trạng bên đối tác nước ngoài rút lui, đi tìm thị trường đầu tư khác thông thoáng hơn, có lợi cho họ hơn và như vậy mục tiêu đề ra là thu hút đầu tư nước ngoài sẽ không thực hiện được. Vì thế phải tính toán sao cho cả hai bên cùng có lợi.
3. Hoạt động xuất nhập khẩu
3.1. Khái niệm
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ của nước này đối với nước khác và ngoại tệ được lấy làm phương tiện thanh toán. Sự mua bán trao đổi này là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu đối với một quốc gia là cần thiết vì lý do cơ bản là khai thác đựơc lợi thế so sánh của các nước xuất khẩu và mở ra tiêu dùng trong nước nhập khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế có điều kiện không gian và thời gian. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà nó có một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Song hoạt động mua bán ở đây có những sự khác biệt phức tạp hơn mua bán trong nước, các chủ thể thực hiện hành vi mua bán có các quốc tịch khác nhau và hàng hoá để mua bán được đưa tới một quốc gia khác.
Một thực tế cho thấy một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống riêng lẻ tự cung tự cấp mà có thể đầy đủ. Nền thương mại quốc tế có tính chất sống còn cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng để có số lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn, có thể tiêu thụ cùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước cao hơn khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ngày một nhiều hơn, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng tăng lên. Nói cách khác, chuyên môn hoá thúc đẩy nhu cầu mậu dịch và ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không có hoạt động trao đổi mua bán với quốc gia khác. Chuyên môn hoá quốc tế là biểu hiện sinh động của quy luật lợi thế so sánh. Quy luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất , coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Quy luật này cũng khẳng định: nếu mỗi nước chuyên môn hơn vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì thương mại có lợi cho cả hai bên.
Sự khác biệt nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được phần nào việc buôn bán giữa các nước, nên sẽ có lợi thế khi mỗi nước chuyên môn hoá để sản xuất các mặt hàng thích hợp cho xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng cần thiết từ các nước khác. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm.
Hoạt động xuất nhập khẩu có thị trường khá rộng lớn, khó kiểm soát, thành phần trung gian trong hoạt động xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá lớn, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu. Các quốc gia khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu đều phải tuân theo các tập quán thông lệ quốc tế cũng như các quy định ở địa phương nơi họ đưa hàng hoá đến. Đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh hoặc đổi lại hàng hoá.
Hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta là một trong những vấn đề được coi trọng hàng đầu trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Do vậy Đảng và Nhà nước đã có chủ trương mở rộng, phát triển kinh tế đối ngoại trong đó chú trọng đến lĩnh vực vật tư và thương mại hàng hoá dịch vụ.
3.2 Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Trước thập kỷ 80, Việt Nam và một số nước đã có lúc xem vấn đề độc lập về kinh tế như một mục tiêu để phấn đấu, nhưng thực tế đã chứng minh không một quốc gia nào lại có thể phát triển nếu không có sự tham gia của thương mại quốc tế. Cuối thập kỷ 80, nhận thấy sự sai lầm trong đường lối phát triển kinh tế cũng như sự phát triển toàn diện của đất nước, Việt Nam đã thay đổi cách nghĩ và đổi mới đường lối phát triển kinh tế. Đó là đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Việt Nam mong muốn được làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi vì hoà bình, hợp tác và phát triển. Hiện nay Việt Nam đã ký thiết lập quan hệ ngoại giao với 165 quốc gia và có quan hệ buôn bán với trên 100 nước, hợp tác đầu tư với hơn 50 nước. Trong quá trình phát triển đường lối kinh tế đối ngoại, Việt Nam rất coi trọng quan hệ xuất nhập khẩu, bởi: xuất khẩu là biểu hiện tích cực của nền kinh tế, nhờ có xuất khẩu mà kích thích sản xuất trong nước phát triển, thu được ngoại tệ nhằm phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu. Xuất khẩu đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển và phục vụ cho Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước. Xuất nhập khẩu sẽ phát huy tính năng động sáng tạo của con người, chuyên môn hoá được hình thành và phát triển.
Dựa trên nguyên lý lợi thế so sánh thì một quốc gia không chỉ toàn nhập khẩu nhưng cũng không chỉ toàn xuất khẩu mà xuất nhập khẩu phải được tiến hành song song đồng bộ với nhau. Có như vậy thì nền kinh tế quốc dân mới phát triển đồng bộ, bền vững.
3.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu
ã Yếu tố pháp luật: Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra với sự tham gia của các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. ở mỗi một quốc gia đều có những bộ luật riêng, trình độ lập pháp, hành pháp, tư pháp phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế ở các quốc gia đó. Các yếu tố luật pháp không chỉ chi phối hoạt động kinh doanh ở trên chính các quốc gia đó mà nó còn ảnh hưởng tới các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Để có thể tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế thì trước hết doanh nghiệp phải hiểu rõ môi trường pháp luật ở chính quốc gia mình và quốc gia của đối tác cùng các thông lệ quốc tế hiện hành, vì chính các yếu tố pháp luật có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, tạo ra các cơ hội mới cho doanh nghiệp để tăng doanh số bán hàng, tăng lợi nhuận kinh doanh, khai thác được các cơ hội trong kinh doanh, mở rộng hoạt động trên thị trường thế giới.
ã Yếu tố kinh tế: Yếu tố kinh tế bao gồm các yếu tố sau: Chính sách tiền tệ, chính sách tài chính,vấn đề lạm phát, thuế quan. Yếu tố kinh tế có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất nhập khẩu ở cả tầm vi mô và vĩ mô. ở tầm vi mô, yếu tố kinh tế ảnh hưởng tới cơ cấu tổ chức và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Còn ở tầm vĩ mô, yếu tố kinh tế tác động đến đặc điểm và sự phân bố của các cơ hội kinh doanh quốc tế và quy mô thị trường quốc tế.
ã Yếu tố khoa học- công nghệ: Một doanh nghiệp muốn có những sản phẩm đạt chất lượng cao để tự khẳng định mình khi tham gia vào qúa trình thương mại quốc tế thì không thể không áp dụng những thành tựu của khoa học vào quá trình sản xuất .
Các yếu tố khoa học - công nghệ có mối quan hệ khá chặt chẽ với các yếu tố kinh tế nói chung và tới hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Khi khoa học công nghệ phát triển sẽ cho phép doanh nghiệp thực hiện công việc chuyên môn hoá ở mức cao hơn, tay nghề của người lao động ngày càng được củng cố và nâng cao.
Khoa học công nghệ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có được sự nhạy bén trong việc nhận biết các thông tin, sự kiện đang xảy ra xung quanh. Khoa học công nghệ phần nào giúp cho doanh nghiệp hiểu được thị hiếu, nhu cầu, sở thích của khách hàng để từ đó đưa ra phương án thích hợp kịp thời với sự biến đổi của thị trường.
Khoa học công nghệ đặc biệt là trong lĩnh vực máy tính, điện gia dụng, các sản phẩm giải trí và hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu đã làm tăng khả năng truyền đạt và nhận biết các thông tin về ý tưởng cải tiến hoặc đổi mới sản phẩm, giúp cho doanh nghiệp có khả năng bắt kịp với sự phát triển chung, đẩy lùi lạc hậu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Khoa học công nghệ giúp cho doanh nghiệp tìm hiểu và nắm bắt chính xác về bạn hàng, khách hàng, đối tác làm ăn về các phương diện để từ đó ._.có thể hạn chế được rủi ro trong kinh doanh.
Hơn nữa, doanh nghiệp có thể áp dụng thành tựu của khoa học vào việc thiết kế, thử nghiệm, cải tiến sản phẩm, phân tích và dự báo xu hướng biến động của thị trường và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
ã Yếu tố chính trị: Yếu tố chính trị có thể là yếu tố khuyến khích hoặc yếu tố hạn chế quá trình xuất nhập khẩu.
Việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan; thiết lập các quan hệ là sự tác động mang tính tích cực, làm tăng cường sự liên kết các thị trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu.
Chính sách của Chính phủ đặt ra để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước và thị trường nội địa bởi sự cạnh tranh của nước ngoài với chính sách kinh tế có lợi cho doanh nghiệp trong nước bằng các hình thức như hàng rào thuế quan. Nhưng ngược lại, sự không ổn định về chính trị sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế và kìm hãm các mối quan hệ quốc tế.
Nhiều nơi trên thế giới hiện nay, sự bất ổn định về chính trị và các cuộc chiến tranh sắc tộc diễn ra liên tục. Tại đây sự an toàn trong kinh doanh là không cao hoặc không có. Điều này đã làm cho các doanh nghiệp đang hoạt động tại đó phải tạm ngừng hoạt động kinh doanh của mình. Họ phải đánh giá lại các cơ hội kinh doanh trên thị trường và phân bổ lại nguồn lực sang các thị trường khác nơi có độ an toàn cao hơn.
Một xã hội phát triển khi mà chính phủ thể hiện sự quan tâm của mình tới đời sống của nhân dân. Cũng như vậy, các doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu kinh tế thì phải thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó sự quan tâm của xã hội được thể hiện qua mục tiệu về xã hội như Nhà nước tăng cường các quy định về cạnh tranh, các quy định về tiêu chuẩn sản phẩm, nhãn hiệu, an toàn vệ sinh.
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển dần sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam cũng như các nước tiến hành “mở cửa” nền kinh tế với sự hỗ trợ về giá của Nhà nước, tạo ra một cơ chế định giá theo thị trường. Sự chuyển đổi này ảnh hưởng tới cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang hoạt động và mở ra các cơ hôị kinh doanh mới trong các thị trường bị hạn chế trước đây. Các doanh nghiệp không có phản ứng linh hoạt sẽ chịu quy luật đào thài của sự cạnh tranh.
Vậy các yếu tố chính trị có ảnh hưởng đến việc mở rộng phạm vi tiêu thụ sản phẩm và mở ra các cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp. Song chính các yếu tố chính trị cũng có thể là chiếc rào chắn giới hạn sự tự do hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
ã Yếu tố văn hoá xã hội: Các yếu tố văn hoá xã hội có thể là: lối sống, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ, thị hiếu…của người tiêu dùng.
Các yếu tố văn hoá xã hội có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu thị trường làm nền tảng cho sự xuất hiện thị hiếu tiêu dùng, nó có tính chất quyết định đến hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất nhập khẩu được coi là hoạt động hết sức phức tạp vì hoạt động xuất nhập khẩu chịu sự tác động của nền văn hoá -xã hội của nhiều quốc gia có quan hệ ngoại thương.
ã Yếu tố thuộc về doanh nghiệp: Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Ban lãnh đạo doanh nghiệp: Đây là bộ phận đầu não của doanh nghiệp, là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp để đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển công ty, đồng thời giám sát, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch đề ra. Ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu khi đưa ra chiến lược kinh doanh.
Cơ cấu tổ chức bộ máy: Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ loại trừ sự bất hợp lý cùng các nhiễu trong sự truyền tải thông tin từ ban lãnh đaọ đến các thành viên trong doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức này cũng có thể sửa đổi bổ sung lượng thông tin kịp thời, chính xác, đúng vị trí một cách nhanh chóng. Đồng thời cơ cấu tổ chức cũng ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong kinh doanh bởi cách tổ chức theo từng loại cơ cấu như: Trực tuyến chức năng, trực tuyến tham mưu… Cơ cấu tổ chức phải tìm được cách tổ chức hợp lý sao cho phát huy được hết sức mạnh của từng ban ngành, bộ phận, tạo hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Nguồn lực của công ty: Hoạt động xuất nhập khẩu chỉ có thể tiến hành tốt khi đã có sự nghiên cứu thị trường. Do đó vấn đề ở đây là phải có được đội ngũ cán bộ kinh doanh có chuyên môn trong lĩnh vực này, có kiến thức về thị trường quốc tế cũng như cách giải quyết các thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu .
Ngoài ra, một doanh nghiệp hoạt động được tốt thì cũng cần có hệ thống cơ sở vật chất hoàn chỉnh như văn phòng, nhà xưởng, trang thiết bị…phục vụ cho quá trình sản xuất - kinh doanh .
ã Yếu tố về sản phẩm: Trong nền kinh tế thị trường, mỗi một loại sản phẩm được sản xuất ra đều xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Nhà sản xuất phải biết thị trường cần gì, trên cơ sở đó sản xuất kịp thời để phục vụ. Doanh nghiệp phải thực hiện theo phương châm sản xuất cái gì mà thị trường cần chứ không phải sản xuất cái gì mà nhà sản xuất có. Có như vậy thì hàng hoá của doanh nghiệp mới có thể thu hút được khách hàng.
ã Yếu tố đồng tiền thanh toán: Phương thức thanh toán luôn gắn liền với hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoại tệ mạnh là phương tiện thanh toán chủ yếu trong quan hệ thương mại quốc tế. Nếu đồng ngoại tệ biến động thì cũng sẽ ảnh hưởng đến các bên tham gia. Một hoặc một số các bên tham gia sẽ bị thiệt cũng như lợi tuỳ theo đồng tiền giao dịch mất giá hay được giá so với đồng tiền của mình. Đồng tiền giao dịch cần được ổn định để cho các bên tham gia cùng có lợi.
II. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá
1. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu nói riêng ở Việt Nam trong thời gian qua.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động xuất khẩu, ngay từ thời gian đầu thực hiện đường lối "Đổi mới" nền kinh tế với ba chương trình kinh tế lớn trong đó có chương trình sản xuất hàng xuất khẩu. Tại văn kiện hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành Trung ương khoá VIIđã khẳng định. "Thực hiện chiến lược về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả…" hay "…xuất khẩu càng phát triển, khả năng thu hút đầu tư nước ngoài càng lớn…" (1) đã cho ta thấy một chủ trương nhất quán, một quyết tâm mạnh mẽ mong muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá để phát triển kinh tế đất nước.
ã Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tăng cường thêm nguồn vốn cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu.
Với bất cứ một chương trình kinh tế nào được đề ra, muốn đạt được hiệu quả thì việc đòi hỏi đầu tiên là một hệ thống chủ trương chính sách và pháp luật được đề ra một cách đồng bộ và hoàn chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế trong nước và xu hướng phát triển của thế giới, mặt khác phải có tài chính để triển khai thực hiện chương trình kinh tế đó. Cũng như các chương trình kinh tế khác, chương trình sản xuất hàng xuất khẩu cũng cần rất nhiều vốn, vốn cho đầu tư máy móc kỹ thuật và công nghệ, vốn cho đào tạo nhân lực, vốn cho xúc tiến thương mại.
Trong bối cảnh nền kinh tế của Việt Nam nhiều khó khăn, nhất là thiếu vốn cho nhiều nhu cầu của nền kinh tế thì việc dành vốn cho chương trình sản xuất hàng xuất khẩu là một việc không đơn giản. Do đó Nhà nước ta đã có chủ trương kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Chính vì ưu tiên cho chương trình sản xuất hàng xuất khẩu cho nên trong các điều khoản của đường lối chính sách đã quy định các mức độ khác nhau về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Các nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy ở thị trường Việt Nam có một đội ngũ lao động hùng hậu, có trình độ văn hoá, có tay nghề ở mức chấp nhận được và có mức lương khá thấp so với các nước trong khu vực. Mặt khác Việt Nam có ưu thế là một nước giàu tài nguyên, thiên nhiên ưu đãi, có vị trí địa lý thuận tiện cho việc giao lưu buôn bán và có chế độ chính trị ổn định. Đây là những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của thị trường đầu tư Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Để đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu, Nhà nước Việt Nam đã dành nhiều ưu tiên cho các nhà đầu tư nước ngoài như ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu, ưu đãi về các khoản trích nộp lợi nhuận…Nhà nước đã thành lập ra các khu công nghiệp, các khu chế xuất với một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, như: đường giao thông, hệ thống điện nước, thông tin liên lạc…và các biện pháp quản lý thông thoáng để các nhà đầu tư triển khai sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm để dành cho xuất khẩu. Kết quả của các biện pháp khuyến khích trên đã tạo nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam và doanh số xuất nhập khẩu không ngừng ra tăng trong khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu đã có tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước nhà.
ã Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp vào hoạt động xuất khẩu bằng cách tăng thêm mặt hàng xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu mới của nước nhà.
So với trình độ và kinh nghiệm của doanh nghiệp sản xuất trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu thế hơn hẳn, những ưu thế đó thường về vốn, trình độ máy móc kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, trình độ về đào tạo và quản lý, trình độ cung cấp các dịch vụ và một thị trường bạn hàng xuất nhập khẩu…
Từ việc nắm bắt các nhu cầu của thị trường thế giới một cách nhanh nhậy đã giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạch định và đề ra một chiến lược sản xuất có hiệu quả cao. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thường là vệ tinh, các chi nhánh của các công ty, tập đoàn nước ngoài, do vậy việc bao quát, nắm bắt thị trường thế giới có rất nhiều thuận tiện, việc đầu tư vào thị trường Việt Nam nhằm sản xuất kinh doanh ngành hàng gì, mặt hàng gì…là nằm trong chiến lược sản xuất - kinh doanh của các công ty, tập đoàn nước ngoài. Ngoài mục đích chiếm lĩnh thâm nhập thị trường nước ta, còn có nhu cầu sản xuất để xuất khẩu và như thế phù hợp với mục đích khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu của ta, sự gặp gỡ đó đã là một trong những điều kiện để giúp cho các liên doanh đi đến thành công.
Bằng những máy móc kỹ thuật và công nghệ cao, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã sản xuất ra nhiều mặt hàng mới có chất lượng cao, đóng góp thêm phong phú các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh cạnh tranh đang diễn ra một cách quyết liệt trên thương trường quốc tế, yếu tố chất lượng sản phẩm có một vai trò vô cùng quan trọng, khi kết hợp với yếu tố về giá thành sản phẩm thấp hơn sẽ có nhiều cơ hội thành công.
Thị trường xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều lợi thế hơn so với đa phần các doanh nghiệp trong nước, bởi lẽ họ nắm bắt được nhu cầu của thị trường thế giới, do vậy họ dễ dàng đề ra một chiến lược sản xuất và tiếp cận thị trường hợp lý. Trong điều hành sản xuất họ áp dụng biện pháp quản lý tiên tiến, hợp lý hoá mọi công đoạn của quá trình sản xuất và bao tiêu sản phẩm để mang lại hiệu quả kinh tế cao…Cùng với những ưu thế về vốn , máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ (như đã trình bày ở phần trên) đã là một cơ sở vững chắc để cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đóng góp một cách có hiệu quả vào chương trình phát triển xuất khẩu của nước nhà.
ã Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã đóng góp cho tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta ngày một gia tăng, đặc biệt là đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu, làm lành mạnh cán cân thanh toán thương mại.
Khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đi vào thực hiện thì cũng là lúc các nhà đầu tư triển khai các lĩnh vực hoạt động đặt nền móng cho việc làm ăn lâu dài tại Việt Nam, các lĩnh vực đó bao gồm: Triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà xưởng, điện nước…bỏ vốn ra nhập khẩu máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ, nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu mà tại nước ta chưa có điều kiện để đáp ứng…Như vậy ngay từ đầu khi bắt tay vào triển khai dự án đầu tư, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã tham gia vào hoạt động nhập khẩu, số kim ngạch nhập khẩu này được tính chung cho tổng số kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam mà Nhà nước ta không phải bỏ hết tổng số ngoại tệ nhập khẩu , đây là một ưu điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại cho nước được nhận đầu tư. Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không nhằm để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước mà nhằm để sản xuất ra hàng hoá phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Khi Nhà nước ta có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp hướng mạnh về xuất khẩu như giảm thuế và một số khoản đóng góp, có quỹ hỗ trợ xuất khẩu…các nhà đầu tư nước ngoài đã tranh thủ các ưu đãi của Nhà nước ta để đẩy mạnh xuất khẩu. Do có ưu thế hơn các doanh nghiệp trong nước, nên kết quả xuất nhập khẩu đã nhanh chóng đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhất là kim ngạch xuất khẩu bởi sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thương trường quốc tế.
Chỉ sau một thời gian ngắn triển khai các dự án đầu tư, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã từng bước tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ra thị trường bên ngoài và đã đóng góp ngày càng tăng đáng kể vào tổng số kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy kim ngạch xuất khẩu chưa tương xứng với kim ngạch nhập khẩu, thời gian đầu kim ngạch xuất khẩu tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam chưa có và kim ngạch nhập khẩu lại ra tăng nhanh chóng, đến những năm gần đây kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng và đồng thời kim ngạch xuất khẩu hình thành và ra tăng với tốc độ nhanh hơn so với tốc độ của kim ngạch nhập khẩu, đây là một tín hiệu đáng mừng, nó chứng minh cho một điều là tăng nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng nhập khẩu thiết bị máy móc để phát triển sản xuất, tăng nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu ở trong nước chưa có điều kiện đáp ứng để sản xuất ra hàng hoá phục vụ tiêu dùng xã hội và tham gia xuất khẩu. Khi kim ngạch xuất khẩu được gia tăng tương xứng sẽ là bằng chứng cụ thể để đánh giá hiệu quả của nhập khẩu. Bước tiếp theo của phát triển xuất khẩu nhằm phát triển sản xuất trong nước và phát triển sản xuất để đẩy mạnh xuất khẩu, đây là một chu trình có quan hệ hữu cơ và quan hệ nhân quả với nhau. Thực tiễn hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần làm sáng tỏ luận cứ này.
Tăng cán cân xuất khẩu là góp phần giảm thâm hụt thương mại, tiến tới cân bằng và thặng dư trao đổi mậu dịch quốc tế của nước nhà, đây là một định hướng đúng đắn mà nền kinh tế Việt Nam cần hướng tới, khi có sự trợ giúp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thì định hướng này ngày càng có cơ sở để thực hiện.
Tăng kim ngạch xuất khẩu nói chung và của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng sẽ tạo điều kiện để tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia, góp phần ổn định tài chính tiền tệ, tạo môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế đất nước.
Ngoài những đóng góp vào tăng kim ngạch xuất nhập khẩu như đã nêu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam còn cung cấp những dịch vụ có chất lượng cao góp phần đáng kể vào thúc đẩy công tác xuất nhập khẩu của nước nhà, những dịch vụ đó bao gồm:
- Dịch vụ tài chính ngân hàng, giúp cho việc thanh toán quốc tế được dễ dàng thuận tiện, tạo lòng tin cho khách hàng có quan hệ buôn bán với Việt Nam.
- Dịch vụ vận tải chuyên chở , đây cũng là một lĩnh vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đóng góp bổ xung cho công tác dịch vụ vận tải chuyên chở của nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Dịch vụ bảo hiểm: đây là một yêu cầu quan trọng của công tác xuất nhập khẩu, bởi thực hiện bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu tốt, sẽ góp phần tránh những rủi ro tổn thất cho các nhà xuất nhập khẩu và góp phần phát triển kinh tế đất nước.
- Ngoài ra còn có các dịch vụ tư vấn về pháp luật, cung cấp thông tin, marketing thị trường…hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xuất nhập khẩu của nước nhà.
2. Ví dụ minh hoạ một số nước:
ã Hơn ba thập kỷ qua, Malaixia được xem là một trong rất ít các nước đang phát triển thành công trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để tăng sản lượng quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tác động đến sản lượng của toàn ngành công nghiệp. Các nghiên cứu thực nghiệm đã sử dụng phương pháp phân tích đầu vào - đầu ra của Hirchman (1958) và phương pháp phân tích mô hình tăng trưởng của Kalder (1966) nhưng ứng dụng cho các nước đang phát triển của Brailovsky (1981) và Weiss (1984) để kiểm tra tầm quan trọng của các ngành công nghiệp có sở hữu vốn nước ngoài là chủ yếu (FDBS - Foreign Dominated Branches) và các ngành công nghiệp có vốn sở hữu trong nước là chủ yếu (LDBS - Local Dominated Branches) đối với tăng trưởng sản lượng của toàn ngành và sau đó góp phần vào sản lượng quốc gia.
Các ngành công nghiệp của Malaixia được phân làm hai nhóm (FDBS và LDBS) theo ba mức độ sở hữu (FDB1 , FDB2, FDB3 và LDB1, LDB2, LDB3). FDB1 đối với những ngành công nghiệp có sở hữu nước ngoài lớn hơn hoặc bằng 60%, tương tự FDB2 lớn hơn hoặc bằng 50% và FDB3 lớn hơn hoặc bằng 40%. Các ngành công nghiệp được phân loại theo bảng sau:
Bảng: Phân loại sở hữu vốn đầu tư giữa FDBS và LDBS
FDBs
%vốn nước ngoài
Ký hiệu ngành công nghiệp
LDBs
% vốn nước ngoài
Ký hiệu ngành công nghiệp
FDB1
> 60%
EE, BT
LDB1
< 60%
F,W , NMM, M, IS, RU, C, TE, MA, TA
FDB2
> 50%
EE, BT, TA
LDB2
< 50%
F, W, NMM, M, IS, RU, C, TE, MA
FDB3
>40%
EE, BT, TA, RU, MA
LDB3
<40%
F, W, NMM, M, IS, C, TA
Nguồn: Tạp chí Kinh tế và dự báo T1+2/1997
Ghi chú: EE: điện/điện tử F: thực phẩm
BT : đồ uống và thuốc lá W: gỗ
TA: dệt may NMM: K. sản phi kim loại
RU: cao su M: kim loại
TE: thiết bị vận tải IS: sắt thép
MA: chế tạo máy C: hoá chất
Kết quả nghiên cứu cho thấy tốc độ tăng sản lượng của FDBS nhanh hơn nhiều so với LDBS và những ngành công nghiệp có nhiều vốn FDI đã góp phần quan trọng làm tăng sản lượng của toàn ngành.
Bảng sau sẽ chỉ rõ tốc độ gia tăng sản lượng của FDBS cao hơn nhiều so với LDBS . Đặc biệt là giai đoạn 1985 - 1990, tốc độ tăng bình quân của FDBS đạt tới hơn 20% trong khi đó con số gia tăng của LDBS mới chỉ ở mức hơn 11%. Về khía cạnh tỷ lệ sản lượng trong toàn ngành cũng tương tự như vậy: FDBS đã tăng gấp hai lần , trong khi đó LDBS lại giảm đi khoảng
10% giữa hai thời điểm so sánh là 1968 và 1990. Một hiện tượng nữa cũng đáng chú ý là năm 1990 , FDB3 đã chiếm tới 50, 57% sản lượng của toàn ngành công nghiệp Malaixia.
Bảng: Tốc độ tăng bình quân và tỷ lệ sản lượng của FDBS và LDBS trong toàn ngành công nghiệp Malaixia (%): 1968-1990
DFDBs và LDBS
Tỷ lệ tăng bình quân
Tỷ lệ sản lượng trong ngành
668-73
773-79
779-85
885-90
668
773
779
885
990
FFDB1
88,28
112,81
55,92
222,66
111,15
111,79
116,51
117,72
225,90
FFDB2
111,24
112,26
55,59
220,30
114,40
116,96
223,07
224,09
332,22
FFDB3
66,12
77,51
55,43
220,85
336,55
334,03
335,72
337,27
550,57
LLDB1
55,57
44,46
44,43
111,33
885,55
888,21
883,49
882,28
774,10
LDB2
7,00
5,30
4,41
11,20
85,60
83,04
76,93
75,71
67,78
LLDB3
88,49
66,19
44,26
88,40
663,45
665,97
664,28
662,73
449,43
Nguồn: Tạp chí Kinh tế và dự báo T1+2/1997
Như vậy có thể rút ra là: Mức gia tăng sản lượng FDBS và tỷ lệ của chúng trong toàn ngành công nghiệp liên tục tăng qua các năm và đã đạt tới hơn một nửa tổng sản lượng của toàn ngành công nghiệp vào cuối giai đoạn nghiên cứu, trong khi đó đối với LDBS lại có xu hướng giảm. Hơn nữa, động thái vốn FDI có quan hệ tỷ lệ thuận với sản lượng. Điều đó chứng tỏ FDI có tác động tích cực đến gia tăng sản lượng của toành ngành công nghiệp, và nhờ đó đã có tác động lớn làm tăng sản lượng của đất nước.
ã Sau thời kỳ bất ổn kinh tế và xã hội kéo dài, nền kinh tế BaLan đã hồi phục và có mức tăng trưởng khá. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, BaLan là một trong những quốc gia ở Đông Âu cải cách kinh tế thành công. Có nhiều yếu tố góp phần vào sự thành công đó, nhưng khi phân tích kỹ ta thấy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí đặc biệt.
Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế vĩ mô: Nó là một nguồn lực lớn hướng vào giải quyết các mục tiêu chuyển đổi nền kinh tế. Cụ thể là cung cấp vốn đầu tư, hiện đại hoá kỹ thuật và hệ thống hạ tầng cơ sở, cung cấp những sản phẩm tốt có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đẩy nhanh quá trình tư nhân hoá và giải quyết những áp lực về việc làm của ngưòi lao động. Mặt khác đối với Chính phủ thì đầu tư nước ngoài còn góp phần cải thiện cán cân thành toán, mang đến cho toàn dân BaLan một nền văn hoá mới mà người ta quen gọi là văn hoá kinh doanh (Business culture). Theo số liệu của uỷ ban Nhà nước về đầu tư nước ngoài BaLan thì số vốn đầu tư của các nhà đầu tư lớn tại BaLan đã tăng từ 1875 triệu USD năm 1994 lên 2,5 tỷ USD vào năm 1995.
Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế vi mô: FDI đã làm cho tổng kim ngạch xuất khẩu của Balan cũng tăng lên nhanh. Nếu như năm 1992 - năm kim ngạch xuất khẩu của các công ty nước ngoài so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước là 10% thì năm 1993 con số đó tăng lên là 16,4%. Ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất với tỷ lệ 15,7%; xuất khẩu gỗ chiếm tỷ trọng 3,9%. Để tăng khả năng xuất khẩu, các công ty phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh, định ra mức giá thích hợp và linh hoạt trong công ty, kết hợp trong cùng một mạng lưới sử dụng công nghệ cao và Know-How
ã Khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hungary được coi là một yếu tố thành công. FDI đã có vai trò rất quan trọng ở hai mặt: chuyển đổi nền kinh tế và đẩy nhanh quá trình tư nhân hoá. Tác động tích cực của nó có thể thấy:
Theo đánh giá của các nhà phân tích và dự báo thì FDI vào Hungary thời kỳ 1996-2000 khoảng 12 tỷ USD. Đầu tư sẽ giúp cho Hungary thực hiện thành công quá trình chuyển đổi kinh tế. Đầu tư nước ngoài cũng giúp cho Chính phủ cải thiện thâm hụt ngân sách và cán cân thương mại.
Đầu tư nước ngoài vào Hungary giúp cho Hungary hoà nhập mau chóng vào nền kinh tế thế giới, tăng khả năng liên kết kinh tế với các nước trong khu vực , tăng cường khả năng hợp tác lao động. Chiến lược dài hạn của các nhà đầu tư quốc tế là cung cấp nguồn vốn lớn và công nghệ cao để hiện đại hoá nền kinh tế Hungary, tạo những tiền đề cho Hungary hoà nhập vào EU trong những năm tới.
Đầu tư nước ngoài gây sức ép rất lớn cho các công ty trong nước phải nâng cao năng lực cạnh tranh. FDI cũng gây áp lực lớn đối với các nhà hoạch định chính sách, chính sách giáo dục khoa học công nghệ phải được ưu tiên để thực hiện các chương trình nghiên cứu và phát triển. Bằng cách đó, một mặt đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư về lao động có chuyên môn, mặt khác nâng cao khả năng làm chủ công nghệ mới.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian vừa qua
I. Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian vừa qua.
1. Những yếu tố tích cực tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Vào đầu những năm 80, trước tình hình ngày càng khó khăn của nền kinh tế trong nước như: nông nghiệp bị mất mùa liên tiếp, nên nhiều vùng đã lâm vào tình trạng thiếu lương thực và thực phẩm, hàng hoá trên thị trường nội địa khan hiếm do sản xuất không cung cấp đủ cho nhu cầu của người dân, đồng tiền trong nước bị mất giá nghiêm trọng làm cho lạm pháp tăng cao…Tại các nước bạn hàng truyền thống của ta trong khối XHCN trước đây cũng gặp những khó khăn và lúng túng trong mô hình phát triển kinh tế. Bên cạnh đó có một số mô hình kinh tế hướng ngoại phát triển theo chiều hướng thuận lợi như mô hình các nước công nghiệp mới, hay Trung Quốc…Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước gặp vô vàn khó khăn…Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương "Đổi mới" nền kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, từ mô hình của nền kinh tế đóng sang mô hình của nền kinh tế mở và hướng ngoại, thực hiện đa phương hoá và đa dạng hoá kinh tế đối ngoại…đã là một bước ngoặt to lớn , tác động khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.
ã Những chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đã mở đường cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.
Từ chủ trương đổi mới của Đảng vào năm 1986 , một loạt các biện pháp và chính sách kinh tế đã được Nhà nước triển khai thực hiện theo thông qua các văn bản pháp luật và tiến hành tổ chức lại nền sản xuất trong nước, xây dựng các mối quan hệ quốc tế theo hướng nền kinh tế mở. Trong thời kỳ mở cửa, lần đầu tiên nhiều chủ trương của Đảng đã được Nhà nước ta thể chế bằng văn bản pháp luật, tạo ra các hành lang pháp lý cho các thành phần kinh tế trong nước và quốc tế tham gia vào phát triển kinh tế nước nhà. Quy trình xây dựng văn bản luật pháp này đã được xây dựng theo hướng của một nền kinh tế mở, nó vừa mang tính thông thoáng, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế nên đã tích cực hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu nước ta phát triển. Trong bối cảnh chung của nền kinh tế toàn cầu ngày nay, xu hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới như là một tất yếu của quá trình phát triển kinh tế quốc tế. Do đó, Nhà nước một mặt tổ chức lại các đơn vị kinh tế trong nước theo hướng kinh tế thị trường và cho phép mọi thành phần của xã hội tham gia sản xuất kinh doanh, kêu gọi và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, từng bước nới lỏng quản lý xuất nhập khẩu, đến nay đã cho phép các doanh nghiệp trong nước tham gia hoạt động xuất nhập khẩu theo đăng ký kinh doanh của mình. Mặt khác, Nhà nước ta đã lần lượt tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển tạo ra thị trường rộng lớn để đẩy mạnh xuất nhập khẩu.
ã Nhà nước ta tăng cường đầu tư, phát triển sản xuất và nhân lực trong nước để làm cơ sở đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu.
Thông qua các chương trình kinh tế lớn như: sản xuất lương thực và thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và chương trình sản xuất hàng xuất khẩu, nhằm thực hiện một chiến lược dài hạn của Đảng và Nhà nước ta là công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Những chương trình kinh tế lớn được Nhà nước ta ưu tiên đầu tư phát triển, như không chỉ dành những nguồn lực lớn trong nước mà còn tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để hỗ trợ phát triển cho những chương trình kinh tế lớn này. Kết quả của hơn 10 năm thực hiện đường lối "Đổi mới" nền kinh tế đất nước đã không ngừng phát triển.
- Về chương trình lương thực và thực phẩm , do được Đảng và Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển từ hệ thống thuỷ lợi, đến cơ sở hạ tầng như đường giao thông, đường điện, khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng…từ việc đầu tư để sử dụng các loại giống cho năng suất cao đến đầu tư cho gia công chế biến…Những cố gắng to lớn đó đã được đền đáp xứng đáng, kết quả chỉ sau ba năm đổi mới, cả nước ta không những có đủ lương thực cho tiêu dùng trong nước mà còn có dư để xuất khẩu . Đặc biệt xuất khẩu lương thực được duy trì phát triển đều trong nhiều năm qua cho thấy hiệu quả khả quan và vững chắc của việc đầu tư cho lĩnh vực này.
- Về chương trình sản xuất hàng tiêu dùng. Do sản xuất trong nước kém phát triển và thiếu ngoại tệ để nhập khẩu nên hàng hoá cho tiêu dùng trong nước vô cùng khan hiếm, nhất là hàng hoá thiết yếu phục vụ cho nhu cầu quốc kế dân sinh. Khi thực hiện đường lối đổi mới, đây là một lĩnh vực được Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển trong một thời gian ngắn, do có nhiều doanh nghiệp triển khai thực hiện. Trong đó có cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng hưởng ứng nên hàng hoá cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng đa dạng và phong phú, giá cả hàng hoá ổn định góp phần thoả mãn nhu cầu của mọi người dân, giúp cho đất nước tiết kiệm được nhiều ngoại tệ, giành ngoại tệ nhập khẩu máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến để đầu tư cho sản xuất.
- Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu: trong thời kỳ đổi mới hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam rất nghèo nàn và có kim ngạch thấp, mặt hàng xuất khẩu của ta chủ yếu là do phân công trong hội đồng tương trợ kinh tế trước đây, sản xuất để trao đổi đa phần là hàng thủ công mỹ nghệ, có giá trị không cao.
Khi bước vào thời kỳ mở cửa và hội nhập , chủ trương đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu để Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia vào thương mại quốc tế ngày càng có hiệu quả hơn. Trải qua hơn 10 năm đầu tư và phát triển, chương trình kinh tế này đã thu được những kết quả rất đáng phấn khởi, kim ngạch xuất nhập khẩu ngày một gia tăng, giúp cho nước nhà thu về những khoản ngoại tệ lớn để phát triển kinh tế đất nước.
Trong bất kỳ lĩnh vực kinh tế nào, yếu tố con người vẫn giữ vai trò quan trọng quyết định đến thắng lợi của các chương trình kinh tế được đặt ra . Việt Nam với dân số gần 80 triệu người, đây là thị trường tiêu thụ vừa là thị trường nhân lực quan trọng của khu vực và thế giới. Khi bước vào xây dựng một nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã gấp rút đầu tư cho việc đào tạo nhân lực, đào tạo nhân tài để đáp ứng cho nền kinh tế trong thời kỳ mở cửa và hội nhập. Việc đào tạo trong thời gian này đòi hỏi một chương trình đào tạo mang tầm vóc mới nhằm thoả mãn yêu cầu giao lưu kinh tế toàn cầu, nội dung kiến thức không chỉ mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc mà còn thể hiện sự tiếp thu những thành tựu văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của thế giới. Từ khi thực hiện đổi mới nền kinh tế cho đến nay, công cuộc đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài của nước ta đã đáp ứng được cho nhu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ mở cửa và hội nhập , cán bộ của chúng ta đã từng bước nắm vững được kiến thức, tôi luyện trên thương trường đã góp phần đắc lực vào việc phát tr._.uất khẩu và ưu tiên, khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Đây là điều kiện vô cùng quan trọng, nó đòi hỏi phải thực hiện một cách nhất quán trong thực tiễn quản lý và điều hành các chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu trong suốt tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đây là tiền đề rất quan trọng để định hướng các chính sách về tài chính, thương mại, đầu tư …
Chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu tự nó đảm bảo các yêu cầu về hội nhập quốc tế và khu vực, từng bước mở rộng thị trường đi liền với việc giảm dần các hàng rào thuế quan, bởi quan hệ kinh tế thị trường là dựa trên sự bình đẳng và cùng có lợi. Do vậy ta muốn phát triển mạnh xuất khẩu thì mặt khác ta cũng phải mở dần thị trường trong nước cho hàng hoá của các nước khác thâm nhập vào.
Phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường trong nước kết hợp với nhu cầu của thị trường và các nước trong khu vực và thế giới làm cơ sở quyết định quy mô đầu tư để đảm bảo sự cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường một cách hiệu quả nhất.
Chính sách kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu phải thể hiện những yếu tố thông thoáng về môi trường đầu tư, do vậy cần có chính sách khuyến khích hơn nữa nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế đặc biệt là phát triển sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam.
ãGiảm tối đa sự phân biệt đối xử giữa chủ đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo một sân chơi bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đặc biệt phải bình đẳng trong các lĩnh vực ưu đãi về hỗ trợ xuất khẩu (quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia, hỗ trợ lãi suất …) cũng như cần phải xoá bỏ sự phân biệt giữa các khoản chi gắn với xuất khẩu giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước.
Cho phép các nhà đầu tư có thể đầu tư vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Trước đây, pháp luật quy định các nhà đầu tư chỉ được phép đầu tư vào các lĩnh vực nhất định. Hiện nay, pháp luật đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép đầu tư vào tất cả những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Nếu làm được điều này thì đồng nghĩa với việc có nhiều mặt hàng hơn để xuất khẩu. Tuy nhiên, quy định là thế còn thực hiện lại không được như thế, đặc biệt là trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Đến đây nhìn chung vẫn còn tồn tại cơ chế “xin-cho”, có phần nặng về công việc hành chính mà chưa ngang tầm quản lý vĩ mô của ngành, tạo điều kiện cho tham nhũng, tiêu cực. Do đó, cần hết sức chú trọng tới việc quản lý điều hành theo pháp luật chứ không được duy trì cơ chế “xin cho”. Điều gì pháp luật không cấm làm thì phải được tự do kinh doanh theo đúng nghiã của nó chứ không để tình trạng gây khó khăn, phiền phức dưới mọi hình thức quản lý.
ãNhà nước cần có một chính sách thuế minh bạch, mềm dẻo và đồng thời quy định tỷ giá đồng nội tệ linh hoạt để đảm bảo khuyến khích phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp trong cả nước trong đó có doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tỷ giá đồng nội tệ có tác dụng thúc đẩy hoặc hạn chế xuất nhập khẩu hàng hoá, do vậy sử dụng công cụ tỷ giá là một việc làm của mọi Nhà nước và các Chính phủ trên toàn thế giới. Một tỷ giá tiền tệ hợp lý là hết sức cần thiết để phát triển xuất khẩu hàng hoá ở nước ta, góp phần xây dựng kinh tế đất nước.
5. Xây dựng hành lang pháp lý thống nhất, có hiệu lực.
Một hành lang pháp lý thống nhất sẽ góp phần tạo tâm lý yên tâm đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu thường chịu nhiều rủi ro biến động của thị trường thế giới. Tuy nhiên trong thời gian qua, hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước của Việt Nam vẫn còn rất nhiều vướng mắc, phức tạp, chồng chéo, gây cản trở đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài vốn quen với những thủ tục đơn giản, rõ ràng. Trong hệ thống pháp luật có nhiều văn bản không thống nhất, giải thích không rõ ràng dẫn đến việc khi đi vào thực tế đã gặp phải nhiều rắc rối do sự chồng chéo, do sự giải thích sai lệch, do những lỗ hổng pháp luật. Hơn nữa, nhiều khi các văn bản của Nhà nước đã không khẳng định được hiệu lực pháp lý cuả mình làm hình thành nên tâm lý coi thường pháp luật hoặc không tin tưởng với những gì pháp luật quy định cũng như khuyến khích. Trong quản lý Nhà nước cũng diễn ra tình trạng chồng chéo, phủ định lẫn nhau, có những doanh nghiệp mỗi năm chiụ đến 4, 5 đợt kiểm tra, thanh tra của vài ba cơ quan Nhà nước thuộc những bộ ngành khác nhau. Việc quản lý này không những không phát huy hiệu quả mà còn gây nên nhiều phiền hà, rắc rối, mất thời gian cho các doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới Nhà nước cần chú ý các mặt sau:
ãKhẩn trương tiến hành tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật, loại bỏ các văn bản lỗi thời, hết hiệu lực; khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo làm nảy sinh nhiều thủ tục phiền hà ngay trong quy định của pháp luật, nghiên cứu đổi mới phương thức và quy trình xây dựng văn bản pháp quy của Chính phủ và cán bộ để nâng cao chất lượng tính thống nhất theo đường lối, chính sách đổi mới, không bị chi phối bởi lợi ích cục bộ.
ãPhân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các cơ quan ở từng ngành, từng cấp, giữa Trung ương và địa phương trên cơ sở tách chức năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp và họat động dịch vụ công ích của các đơn vị sự nghiệp.
ãThực hiện kết hợp hai yêu cầu: tăng cường vai trò lãnh đạo và quản lý tập trung, thống nhất của Trung ương về pháp luật, thể chế; mở rộng sự phân cấp, tăng quyền cho địa phương về quản lý kinh tế xã hội. Việc gì địa phương, cơ sở làm được và làm tốt thì phân giao rạch ròi, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của địa phương, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp, khắc phục tình trạng quan liêu, cục bộ.
ãCần có chế độ thưởng, phạt rõ ràng, kịp thời thì mới có tác dụng khuyến khích răn đe. Biện pháp sử dụng đòn bẩy kinh tế trong thời kỳ hiện nay thường được coi là biện pháp kích thích có hiệu quả nhất vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của doanh nghiệp. Chế độ thưởng phát của Việt Nam cũng chuyển dần sang sử dụng các biện pháp kinh tế - đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu, kể cả doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nếu có thành tích tốt trong họat động xuất khẩu sẽ được thưởng xuất khẩu. Bên cạnh đó, nếu vi phạm các quy định của pháp luật thì cũng sẽ bị phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên thời gian qua, việc thực hiện chế độ thưởng phát còn chưa linh hoạt, kịp thời nên chưa thực sự mang lại hiệu quả cao. Điều chỉnh vấn đề này trong thời gian tới sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu nói chung và xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng.
6.Ưu tiên vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho xuất khẩu.
ãTập trung vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển nông thôn nhằm tăng cường xuất khẩu của lĩnh vực này, góp phần đẩy mạnh công tác hiện đại hoá nông nghiệp. Trong thời gian tới, Nhà nước cần chú ý: tiếp tục bổ sung các ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài đối với các dự án chế biến nông, lâm, thuỷ sản như miễn tiền thuê đất trong những năm đầu, áp dụng thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi nhất trong khung (ở nước ta miễn thuế 8 năm còn ở Thái Lan miễn thuế 8 năm và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo), ưu đãi đặc biệt cho các dự án tạo giống cây, giống con mới, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
ãHướng đầu tư nước ngoài vào xây dựng các ngành công nghiệp công nghệ cao để tạo ra hàng xuất khẩu có giá trị cao trong thời gian tới. Chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu cần xây dựng theo hướng sau:
Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với mức cao hơn, thực hiện chế độ phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thu hẹp danh mục các sản phẩm phải đảm bảo xuất khẩu từ 80% trở lên theo hướng chỉ áp dụng yêu câù này đối với một số sản phẩm thật cần thiết phải bảo hộ, đối với những sản phẩm thực sự có lợi thế cạnh tranh, đồng thời xử lý linh hoạt bằng cách không bắt buộc các nhà đầu tư phải cam kết xuất khẩu ngay từ đầu mà có thể thực hiện từng bước. Đối với các dự án đang hoạt động, gặp khó khăn khách quan do thị trường bị thu hẹp có thể cho phép tăng tỷ lệ tiêu thụ nội địa trong trường hợp sản phẩm cùng loại vẫn phải nhập khẩu vào thị trường trong nước có nhu cầu. Thêm nữa, cần chuyển sang áp dụng các biện pháp kinh tế, dùng đòn bẩy kinh tế là chủ yếu để khuyến khích xuất khẩu.
7.Cải tiến thủ tục hành chính.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo thuận lợi, giảm phiền hà, giảm thời gian đối với việc cấp giấy phép xuất khẩu, thủ tục hải quan, hoàn thuế VAT, thuế nhập khẩu nguyên liệu đối với các sản phẩm xuất khẩu. Cho tới nay, Tổng cục Hải quan đã phối hợp với Bộ Thương mại và Bộ Tài chính rà soát lại toàn bộ quy trình làm thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu bao gồm quy trình kiểm hoá, quy trình thu và hoàn thuế, phương pháp áp mã tính thuế… để giảm bớt những khâu không cần thiết, tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu.
8.Xây dựng cơ chế xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin hỗ trợ xuất khẩu.
Xúc tiến thương mại đã thực sự thu hút được sự quan tâm của các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý Nhà nước cũng như giới kinh doanh và ngày càng khẳng định vài trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Nhiều hoạt động được triển khai nhằm củng cố thêm nhận thức của xã hội, của các cấp ngành các doanh nghiệp như toạ đàm, viết bài trên báo chí, phóng sự truyền hình … đề cập tới vấn đề cấp bách là tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá về thương mại và đầu tư.
Trước yêu cầu đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài kinh doanh xuất khẩu, Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến việc phát triển chương trình này. Xúc tiến thương mại bao gồm một loạt các biện pháp về quảng cáo tiếp thị ở trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trao đổi, nắm bắt được nhu cầu mới của thị trường thế giới để vạch ra những kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.
9.Công tác đào tạo cán bộ.
Công tác đào tạo con người là một nhiệm vụ quan trọng không chỉ riêng đối với một lĩnh vực nào. Trong điều kiện nước ta còn khó khăn về nhiều mặt, công tác đào tạo cán bộ cũng còn chưa được quản tâm đúng mức. Hiện nay, mặc dù lực lượng lao động rất đông đảo nhưng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài đòi hỏi rất nhiều kỹ năng chuyên môn như nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, ngoại ngữ, hợp tác đầu tư …, số lượng những cán bộ có thể đáp ứng được là ít. Công tác cán bộ cũng là công tác yếu kém nhất của Việt Nam thời gian qua trong lĩnh vực đầu tư cũng như thương mại quốc tế. Điều này đã khiến cho Việt Nam chịu rất nhiều thua thiệt. Chính vì vậy, trong thời gian tới, công tác đào tạo cán bộ cần phải được chú trọng đặc biệt.
ãĐội ngũ làm công tác quản lý, xây dựng cơ chế chính sách cần được lựa chọn, bố trí những cán bộ thực sự am hiểu, có kinh nghiệm, có thể làm tham mưu tốt về mặt chủ trương, chính sách, chiến lược cho ngành, không nên bố trí những người thiếu kiến thức, nặng sự vụ hành chính quan liêu.
ãTăng cường công tác cán bộ, kể cả ở các cơ quan quản lý Nhà nước. Tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu để cung cấp đủ kinh nghiệm cũng như kiến thức đóng vai trò quyết định trong việc đấu tranh bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam.
ãQuản lý chặt chẽ và điều hành công tác xuất khẩu, phối hợp tốt với các doanh nghiệp sản xuất, các cơ quan chức năng góp phần chỉ đạo quản lý có hiệu quả, tránh sự gian lận cũng như chồng chéo, góp phần giữ vừng những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân.
II.Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nhà nước chỉ hỗ trợ được phần nào hoặc góp phần tạo thuận lợi hơn cho xuất khẩu chứ không thể thay thế được bản thân các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp không nên trông chờ quá nhiều vào những khuyến khích, những điều kiện thuận lợi từ phía Nhà nước mà cần phải tự mình chủ động phát huy tiềm năng của doanh nghiệp, đa dạng hoá mặt hàng, tìm kiếm thị trường, bạn hàng… để nâng cao năng lực kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu của mình.
1.Củng cố và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp
Tiềm năng của doanh nghiệp có thể bao gồm vốn kỹ thuật, công nghệ, tổ chức quản lý kinh doanh… Muốn kinh doanh thành công nói chung và xuất khẩu thành công nói riêng, các doanh nghiệp phải không ngừng củng cố và phát huy tiềm năng của mình.
ãVề vốn:
Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị xản xuất-kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể mạnh hơn các doanh nghiệp Việt Nam ở chỗ họ có thể có nhiều vốn hơn. Nhưng chỉ nhiều hơn thì chưa đủ mà phải biết sử dụng nguồn vốn đó như thế nào, phải huy động thêm vốn như thế nào để không ngừng mở rộng và phát triển sản xuất-kinh doanh.
Các doanh nghiệp có thể bổ sung vốn lưu động và vốn cố định của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty vì nguồn vốn bên trong bao giờ cũng là vốn quyết định năng lực thực sự. Sẽ tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nếu kinh doanh tốt thì nguồn vốn này sẽ được bổ sung thêm và ngược lại. Khi nguồn vốn được bổ sung và sử dụng có hiệu quả thì có cơ hội để kinh doanh tốt.
Nhưng một doanh nghiệp biết cách kinh doanh là một doanh nghiệp phải biết tận dụng không chỉ nguồn vốn tự có của mình. Việc huy động và sử dụng vốn bên ngoài cũng là một cách kinh doanh khác, vừa là để bổ sung cho tổng vốn, vừa để tận dụng hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Như ta thấy hiện nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang yêu cầu có cơ chế cho vay đơn giản từ phía Ngân hàng, các tổ chức tín dụng… Sự lớn mạnh và phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính, tín dụng phải phát triển một cách tương ứng. Ngược lại, những doanh nghiệp nào biết sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngoài nguồn sẵn có thì doanh nghiệp đó sẽ thành công.
Một nguồn vốn phụ khác có thể huy động được là từ phía đối tác kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thể yêu cầu hỗ trợ tín dụng từ phía đối tác. Cụ thể là đối với một số hợp đồng xuất khẩu (quá lớn hoặc độ rủi ro cao) doanh nghiệp nên yêu cầu người mua (nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như vốn của mình.
ãVề kỹ thuật công nghệ
Ngày nay, khi khoa học công nghệ đã trở thành tư liệu sản xuất thì việc tăng cường đầu tư cho mặt này trong mỗi doanh nghiệp cũng là điều dễ hiểu. Khoa học kỹ thuật tiên tiến và phù hợp là tiền đề cho việc đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tận dụng tiềm lực vốn và công nghệ của mình để tăng năng suất lao động, giảm chi phí, tăng chất lượng hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh khi xuất khẩu. Không chỉ dừng ở việc chế tạo, lắp ráp, sơ chế mà phải dần theo hướng tinh chế nhằm tạo ra những mặt hàng mới, giá trị và chất lượng cao trong xuất khẩu.
Việt Nam có lợi thế quan trọng về lao động và tài nguyên, vì vậy trước mắt, khi chưa thể chuyển hẳn sang những ngành công nghệ cao, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn cần hướng vào những ngành sử dụng nhiều lao động như nông, lâm, thuỷ sản phục vụ xuất khẩu.
Không ngừng đầu tư vào công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Trong nhiều trường hợp, tận dụng những công nghệ sẵn có chưa đủ để giành được thắng lợi. Vì vậy khi cần thiết các doanh nghiệp vẫn cần mạnh dạn đầu tư vào những công nghệ tiên tiến nhất, vượt trội nhất để đạt được mục tiêu của mình. Công nghệ mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có lợi thế trên thương trường khi tung ra một sản phẩm mới, đáp ứng được thị trường quốc tế luôn cạnh tranh gay gắt. Công nghệ kỹ thuật mới cũng giúp cho doanh nghiệp có được vị thế tốt.
ãVề vấn đề tổ chức hoạt động xuất khẩu.
Tổ chức hoạt động xuất khẩu không chỉ tập trung ở những khâu công việc cụ thể mà trước hết còn ở việc tổ chức hệ thống quản trị.
Để đối phó với một thị trường cạnh tranh gay gắt, việc nâng cao chất lượng công tác quản trị mang tính tất yếu. Nâng cao chất lượng công tác quản trị nhằm thích ứng với thay đổi của môi trường, chủ động và hiệu quả hơn. Việc đổi mới và hoàn chỉnh bộ máy tổ chức doanh nghiệp phải đảm bảo yêu cầu gọn nhẹ, hợp lý. Gọn nhẹ là để tránh vết mòn mà các doanh nghiệp Việt Nam thường đi qua là quá cồng kềnh dẫn tới chồng chéo, phủ định nhau, hơn nữa sẽ không phát huy được tối đa năng lực của mỗi người. Hợp lý là vừa để vận dụng được hiệu quả nguồn trí lực hiện có, vừa tạo ra kết quả tốt. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp cần thực hiện việc phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các nhà quản trị cấp cao; phân công đúng nhiệm vụ phù hợp với năng lực cho mỗi nhà quản trị; tổ chức sắp xếp lại thành viên trong các ban chức năng…
Sau khi đã có một tổ chức quản lý hợp lý, doanh nghiệp mới có thể tiến hành tổ chức hoạt động xuất khẩu cho có hiệu quả được. Các doanh nghiệp xuất khẩu không chỉ là những đơn vị sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu mà còn thực hiện thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp chỉ đơn thuần sản xuất hàng xuất khẩu thì biện pháp cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu là đa dạng hoá loại hình kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Điều này sẽ được trình bày rõ hơn ở mục sau. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu thông qua thu mua, tạo nguồn thì biện pháp cần thiết là:
- Mở rộng hình thức tạo nguồn: Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành được thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy, công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thông thường thì các hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương rồi đem về phân loại, đóng gói. Với hình thức này, việc tạo nguồn diễn ra đơn giản, nhanh gọn, vốn quay vòng nhanh, không đòi hỏi máy móc thiết bị cồng kềnh, có thể chuyển đổi mặt hàng kinh doanh một cách linh hoạt. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng duy nhất hình thức này thì hiệu quả đạt được sẽ không cao vì như vậy doanh nghiệp chỉ có mối quan hệ kinh tế hết sức đơn điệu. Hơn thế, đối với những nguồn hàng nhỏ lẻ, cá thể thì các doanh nghiệp không thể mua trực tiếp được vì sẽ tốn rất nhiều thời gian. Vì thế đa dạng hoá các loại hình tạo nguồn cũng là điều cần làm. Các doanh nghiệp có thể tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Các doanh nghiệp cũng có thể nhận xuất khẩu uỷ thác - hình thức này hiện nay đang rất được ưa chuộng. Các doanh nghiệp có thể lợi dụng mối quan hệ bạn hàng rộng rãi đa phương của mình để có thể thực hiện được nhiều hơn các hợp đồng uỷ thác xuất khẩu.
- Tổ chức tốt khâu bảo quản, dự trữ : Một trong những biện pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là củng cố, hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hàng hoá. Điều này ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có phần tốt hơn các doanh nghiệp trong nước, mặc dù vậy vẫn cần chú ý đến nhiều hơn.
Trong tình hình hiện nay, có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài muốn đầu tư vào những ngành và lĩnh vực được Nhà nước bảo hộ nhiều hơn là đầu tư vào kinh doanh xuất khẩu. Có những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực cụ thể và đòi hỏi Nhà nước bảo hộ cho ngành mà mình hoạt động kinh doanh. Điều này thực sự không làm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường cũng như trong hoạt động xuất khẩu.
ãTóm lại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phát huy những lợi thế vốn có về vốn, về công nghệ kỹ thuật, về tổ chức sản xuất để đầu tư, sản xuất những sản phẩm mới có chất lượng cao và có sức cạnh tranh lành mạnh trên thương trường quốc tế.
2.Chủ động tìm kiếm thị trường, bạn hàng.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có ưu thế về thị trường và có nhiều kinh nghiệm về thâm nhập thị trường hơn các doanh nghiệp trong nước, do vậy cần phải phát huy những ưu điểm này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có các công ty mẹ, các chi nhánh ở nước ngoài, do vậy đây là đầu cầu để tăng cường giao lưu trao đổi thông tin và bàn bạc ký kết hợp đồng thuận tiện hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp trong nước. Khi phát huy được những lợi thế vốn có này sẽ góp phần đẩy mạnh phát triển xuất khẩu trong tương lai. Cụ thể, các doanh nghiệp có thể áp dụng một số hình thức sau:
ãĐẩy mạnh công tác marketing thương mại: chính sách marketing phù hợp sẽ là công cụ quan trọng để đạt mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Marketing hỗn hợp nếu sử dụng sai lệch thì không những không mở rộng được thị trường mà còn mất thêm khách hàng truyền thống. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược marketing có tính khả thi kết hợp hài hoà với các tham số của nó.
- Về sản phẩm: Doanh nghiệp cần phải xác định các sản phẩm đưa ra thị trường nào thì phải phù hợp với thị trường đó. Do nhu cầu thị hiếu của các thị trường khác nhau và luôn thay đổi nên các mặt hàng của doanh nghiệp cũng phải không ngừng thay đổi theo.
- Về giá cả: Giá cả là công cụ giúp các doanh nghiệp thực hiện mục tiêu lợi nhuận song nó cũng là yếu tố quan tâm hàng đầu của khách hàng. Chính vì vậy các doanh nghiệp cần có chính sách định giá hợp lý vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu của mình, vừa đảm bảo lợi ích cho khách hàng.
- Về phân phối: Xuất phát từ đặc điểm của môi trường kinh doanh là các thị trường khác nhau, do đó chi phí để thực hiện phân phối cũng khác nhau nên các doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống kênh phân phối để tận dụng tối đa các nguồn lực, đồng thời tiết kiệm tối đa các chi phí phát sinh.
- Về xúc tiến: Xúc tiến thương mại có thể được thực hiện thông qua hội chợ, triển lãm, khuyến mại, quảng cáo … Những hoạt động này cần phải được sử dụng một cách phù hợp trong mỗi điều kiện, mỗi hoàn cảnh, mỗi thị trường khác nhau.
ãCác doanh nghiệp nên chú trọng chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng tăng nhanh các thị trường tiêu thụ trực tiếp và có sức mua lớn như EU, Nhật, Mỹ …, giảm dần các thị trường trung gian, từng bước khôi phục lại các thị trường Liên bang Nga, các nước Đông Âu, tích cực tìm kiếm các thị trường mới.
3.Đa dạng hoá loại hình kinh doanh - mặt hàng kinh doanh.
Đa dạng hoá kinh doanh vừa để hạn chế rủi ro, vừa tận dụng hết những nguồn lực, đồng thời phục vụ được nhiều đối tượng, góp phẩn mở rộng thị trường. Đây là xu hướng chung của các doanh nghiệp trong tình hình hiện nay.
ãĐa dạng hoá mặt hàng kinh doanh.
Các doanh nghiệp cần chú ý đầu tư vào những ngành quy mô vừa và nhỏ làm phong phú mặt hàng kinh doanh. Những lĩnh vực đầu tư quy mô vừa và nhỏ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chuyển đổi linh hoạt cơ cấu mặt hàng kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh về sản phẩm. Nhưng đối với những doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh, việc cải tiến cơ cấu mặt hàng phải theo hướng khác. Mặc dù thông thường, mỗi doanh nghiệp đều phải có một hệ thống các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu đa đạng nhưng theo đòi hỏi của thị trường thì việc đổi mới hệ thống này phải được thực hiện không ngừng… Các doanh nghiệp cần không ngừng bổ sung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống của doanh nghiệp cần tiếp tục phát huy vai trò chủ lực, các doanh nghiệp cũng cần chú trọng tới nhóm mặt hàng mới. Việc chuyên môn hoá vào những mặt hàng có lợi thế, những mặt hàng mới sẽ giúp cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp phong phú hơn.
Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh không chỉ có nghĩa là mở rộng danh mục mặt hàng mà điều cốt yếu quan trọng là phải không ngừng nâng cao chất lựơng hàng xuất khẩu của mình. Hàng hoá muốn xuất khẩu không thể không chú ý đến chất lượng, nhất là trong tình hình hiện nay, khi cung luôn vượt quá cầu thì chất lượng là một trong những vũ khí cạnh tranh hữu hiệu nhất. Chất lượng cũng không chỉ thể hiện ở sản phẩm mà còn thể hiện qua bao bì, qua giá cả, qua các dịch vụ kèm theo … Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là phải hoàn thiện đồng bộ các mặt trên. Việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng bằng cách đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ cũng sẽ mang lại hiệu quả đáng kể vì một khi các sản phẩm có chất lượng, giá cả tương đương nhau, dịch vụ tốt hơn sẽ thu hút nhiều khách hàng hơn.
ãĐa dạng hoá loại hình kinh doanh.
Bên cạnh việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp cũng cần phải đa dạng hơn các loại hình kinh doanh xuất khẩu. Có thể có các hình thức kinh doanh xuất khẩu như hình thức xuất khẩu tự doanh. Với hình thức này, các doanh nghiệp sẽ tự tìm kiếm, giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng. Điều này cũng có nghĩa là các doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn có thể tiến hành xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị sản xuất kinh doanh khác để thu phí dịch vụ uỷ thác. Đối với loại hình này, các khâu nghiệp vụ được rút ngắn lại, các doanh nghiệp chỉ phải thực hiện việc ký kết, thực hiện hợp đồng với nước ngoài và làm những thoả thuận cần thiết (bằng văn bản) với các đơn vị sản xuất trong nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có thể xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu, qua đó đáp ứng nhu cầu của phía nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá mà công ty kinh doanh bằng việc tiến hành trao đôỉ hàng hoá có giá trị tương đương với nhau. Doanh nghiệp có thể phối hợp sử dụng linh hoạt các hình thức này phù hợp với từng điều kiện cụ thể sao cho có hiệu quả tốt nhất.
4.Việt Nam vốn là một nước có thiên nhiên ưu đãi, có địa lý thuận tiện, có tiềm lực về lao động to lớn và có một chính sách khuyến khích sản xuất hướng mạnh xuất khẩu, do vậy đây là những cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tranh thủ, tận dụng vào việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.
5. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra thị trường bên ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cần quan tâm đúng mức yếu tố con người trong các khâu từ sản xuất đến xuất khẩu hàng hoá, quan tâm trong việc đào tạo bồi dưỡng tay nghề, quan tâm trong việc tăng thêm thu nhập về lương và các chế độ chăm sóc sức khoẻ ngừơi lao động. Có như vậy mới phát huy được yếu tố con người trong chiến lược phát triển xuất khẩu.
Kết luận
Xuất nhập khẩu hàng hoá có một vai trò vô cùng quan trọng đối với một nền kinh tế thực hiện chiến lược kinh tế mở. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển mạnh mẽ, góp phần đưa nền kinh tế quốc gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, phù hợp với xu thế chung về tính toàn cầu hoá nền kinh tế ngày nay.
Xuất khẩu hàng hoá ngày càng khẳng định là hướng đi đúng và là mục tiêu hàng đầu của một nền kinh tế mở. Do vậy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá nên đã đề ra một loạt các giải pháp khuyến khích mạnh xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Nước ta đã trải qua hơn 10 năm thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và cũng thời gian này, hàng hoá nước ngoài ngày càng thâm nhập vào thị trường nước ta, hàng hoá của chúng ta cũng vươn mạnh ra thị trường bên ngoài. Để đạt hiệu quả cao khi tham gia vào thương mại quốc tế, tất yếu đòi hỏi phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của nước nhà. Hơn 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, chúng ta đã thu hút một nguồn vốn đáng kể từ bên ngoài vào xây dựng và phát triển kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu thế trội hơn so với các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực phát triển xuất khẩu. Những ưu thế về vốn, thiết bị máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, ưu thế về thâm nhập thị trường… Khi được kết hợp với những chính sách ưu tiên khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta sẽ góp phần thúc đẩy mạnh xuất khẩu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Với những chủ trương, chính sách khuyến khích mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, với những tiềm năng sẵn có trong nước cùng với tiềm năng vốn có của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam, chúng ta hy vọng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sẽ đạt được những kết quả lớn hơn trong những năm tới, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước ta trong thế kỷ 21.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Hội nghị TW, khoá VII
2. Báo cáo của Bộ Thương mại ngày 30/12/1994
3. Niên giám thống kê 1999
4. Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 11/1996 và 11/1997.
5. Quyết định 28 TTg, ngày 13/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ
6. Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 3/1999
7. Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 11/1998
8. Báo cáo của Bộ Thương mại ngày 15/11/1999
9. Tập tài liệu Vụ Đầu tư-Bộ Thương mại
10.Báo cáo tình hình thực hiện năm 2000-Vụ Đầu tư-Bộ Thương mại.
11. Nghị định số 10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích đầu tư
12. Quyết định số 1921/QĐ-TM ngày 1/9/1999 về bãi bỏ việc duyệt xuất nhập khẩu
13. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi năm 2000
14. Nghị định 12 CP
15. Thời báo kinh tế Việt Nam năm 2000
16. Giáo trình Khoa học quản lý- Trường ĐH KTQD
17. Giáo trình Quản lý kinh tế- Trường ĐH KTQD
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6819.doc