Nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang

Tài liệu Nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM LỢN THỊT CỦA PHỤ NỮ XÃ TƯ MẠI, HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG Họ và tên : LƯU XUÂN CÔNG Chuyên ngành đào tạo : PTNT & KN Lớp : PTNT & KN 50 Niên khóa : 2006 – 2009 Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. QUYỀN ĐÌNH HÀ HÀ NỘI, 2009 LỜI CAM ĐOAN - Tôi xin cam đoan rằng, toàn bộ số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng... Ebook Nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang

doc118 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được sử dụng để bảo vệ một luận văn tốt nghiệp nào. - Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2009 Tác giả luận văn Lưu Xuân Công LỜI CẢM ƠN Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình về nhiều mặt của các tổ chức và cá nhân. Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Ban giám hiệu trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, khoa Kinh tế và PTNT, bộ môn PTNT và các thầy cô giáo đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS Quyền Đình Hà, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi không thể hoàn thành luận văn này nếu không có được sự giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo UBND xã Tư Mại, Ban thống kê, Hội phụ nữ xã Tư Mại, trưởng thôn ở các thôn được điều tra. Tôi thật sự mang ơn những hộ nông dân đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi vô tư cung cấp số liệu, tư liệu khách quan và nói lên những suy nghĩ của mình để giúp tôi hoàn thành luận văn này. Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả luận văn Lưu Xuân Công MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1 Tình hình phân bổ đất đai của xã Tư mại qua 3 năm (2006-2008) 30 Bảng 3.2 Tình hình hộ khẩu và lao động của xã Tư Mại qua 3 năm (2006 - 2008) 32 Bảng 3.3 Tình hình cơ sở vật chất kĩ thuật của xã Tư Mại đến 12/2008 34 Bảng 3.4 Kết quả sản xuất kinh doanh các ngành kinh tế của xã qua 3 năm (2006-2008) 36 Bảng 3.5 Tiêu chí phân loại hộ và số lượng hộ được chọn làm mẫu điều tra ở xã 39 Bảng 4.1 Số lượng và cơ cấu lao động nữ trên địa bàn xã Tư Mại qua 3 năm 2006-2008 46 Bảng 4.2 Thông tin chung về các nhóm hộ được điều tra ở xã năm 2008 50 Bảng 4.3 Trình độ học vấn của phụ nữ trong các nhóm hộ được điều ta trên địa bàn xã Tư Mại năm 2008 52 Bảng 4.4 Tình hình tiếp cận đất đai của phụ nữ trong các hộ được điều tra năm 2008 55 Bảng 4.5 Tình hình tiếp cận vốn của các hộ chăn nuôi lợn thịt tại địa bàn xã Tư Mại 57 Bảng 4.6 Tỷ lệ tham gia vay vốn của phụ nữ tại các hộ được điều tra trên địa bàn xã Tư Mại 58 Bảng 4.7 Tình hình tiếp cận thị trường thức ăn tại các hộ điều tra 61 Bảng 4.8 Tỷ lệ tham gia tiếp cận vật tư nông nghiệp của phụ nữ tại các hộ được điều tra trên địa bàn xã Tư Mại 63 Bảng 4.9 Tình hình mua con giống tại các hộ điều tra trên địa bàn xã Tư Mại 64 Bảng 4.10 Tỷ lệ quyết định trong việc bán SP của phụ nữ tại các nhóm hộ 71 Bảng 4.11 Tỷ lệ nguồn thông tin mà người phụ nữ tại các hộ thường xuyên cập nhật thông tin về thị trường ở xã Tư Mại 73 Bảng 4.12 Mức độ tham gia hạch toán kinh tế của phụ nữ trong các hộ chăn nuôi 75 Bảng 4.13 Những khó khăn gặp phải trong việc tiếp cận thị trường của phụ nữ trong các hộ chăn nuôi trên địa bàn xã 78 Bảng 4.14 Bảng SWTO phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức trong TCTT sản phẩm lợn thịt của phụ nữ Tư Mại 79 Bảng 4.15 Tỷ lệ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường của phụ nữ tại địa bàn xã Tư Mại 82 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 4.1. So sánh tỷ lệ quyết định trong việc mua thức ăn của phụ nữ tại các nhóm hộ điều tra 62 Biểu đồ 4.2. So sánh tỷ lệ quyết định trong việc mua con giống tại các nhóm hộ điều tra 64 Biểu đồ 4.3. So sánh tỷ lệ quyết định trong việc mua thuốc thú y của phụ nữ tại các nhóm hộ điều tra 67 Sơ đồ: Kênh tiêu thụ sản phẩm của các hộ chăn nuôi ở Tư Mại 69 Biểu đồ 4.4. So sánh tỷ lệ quyết định trong việc tiêut hụ sản phẩm lợn thịt của phụ nữ tại các nhóm hộ điều tra 72 DANH MỤC HỘP Hộp 4.1 Tiếp cận nguồn vốn 59 Hộp 4.2 Phòng và chữa bệnh cho lợn bằng kinh nghiệm 66 Hộp 4.3 Thị trường tiêu thụ của hộ 70 Hộp 4.4 Tiếp cận thông tin 74 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn BQ Bình quân GDP Tổng sản phẩm quốc nội WTO Tổ chức thương mại thế giới EU Châu Âu XK Xuất khẩu DT Diện tích ĐVT Đơn vị tính GTSX Giá trị sản xuất LĐ Lao động TCTT Tiếp cận thị trường PNNT Phụ nữ nông thôn CNH-HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa LHPN Liên hiệp phụ nữ XDCB Xây dựng cơ bản CN-TTCN Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp TM-DV Thương mại dịch vụ VAC Vườn – Ao – Chuồng THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông HTX Hợp tác xã KHKT Khoa học kỹ thuật PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Cùng với những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế, những năm qua sản xuất nông nghiệp nước ta đã có những bước tiến mạnh mẽ, đóng vai trò ngày càng quan trọng (GDP trong lĩnh vực nông nghiệp bình quân hàng năm tăng 3.3%). Thị trường nông sản giờ đây đã được mở rộng và phát triển cả trong và ngoài nước, đặc biệt sau khi nước ta gia nhập WTO cơ hội phát triển và mở rộng càng được tăng lên. Và sau 2 năm gia nhập WTO thị trường nông sản đã đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ: Theo tính toán của Bộ NN&PTNT ngày 26/8, ước tính trong tháng 8/2008, tổng kim ngạch XK nông-lâm-thuỷ sản sẽ đạt trên 1.7 tỉ USD, tăng 49.7% so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, xuất khẩu các mặt hàng nông sản ước khoảng 970 triệu USD, tăng 75.2%; thủy sản ước đạt 500 triệu USD, tăng 34.7% và lâm sản ước đạt 245 triệu USD, tăng 11.2% so với tháng 8 năm 2007. Như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thuỷ sản toàn ngành tháng 8 năm 2008 sẽ đạt 11.2 tỉ USD, tăng 33.3% so với cùng kỳ năm 2007....(Nguồn: Tuy nhiên, song song với sự phát triển nói trên, hiện nay thị trường nông sản ở khu vực nông thôn vẫn còn tồn tại nhiều vẫn đề cần giải quyết, đặc biệt là việc tiếp cận thị trường nông sản của người dân nói chung và người phụ nữ nói riêng ở khu vực nông thôn vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế. Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, người phụ nữ là lực lượng lao động chính, họ đóng vai trò quan trọng lĩnh vực nông nghiệp trong nông thôn. Nhưng thực tế hiện nay, người phụ nữ nông thôn lại bị hạn chế rất nhiều về năng lực trong việc tiếp cận thị trường nông sản. Vì vậy, nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho họ trở nên rất cần thiết, góp phần đem lại thành công hơn trong việc mở rộng, phát triển thị trường nông sản và đặc biệt là trong thực hiện bình đẳng giới. Tư Mại là một xã thuộc huyện Yên Dũng, trong những năm vừa qua sản xuất nông nghiệp nói chung và nghề chăn nuôi lợn thịt nói riêng đã có sự phát triển mạnh mẽ, song song với nó là thị trường nông sản trên địa bàn xã cũng ngày càng được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Trong nghề chăn nuôi lợn thịt tại các hộ, người phụ nữ ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình trong quá trình chăn nuôi. Nhưng đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu nào về thực trạng năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ tại xã Tư Mại, để thấy được những mặt thuận lợi, khó khăn trong việc tiếp cận và từ đó tìm ra các giải pháp để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho người phụ nữ ở đây. Để nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của người phụ nữ tại đây, ta cần biết về: Năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ ở đây như thế nào? Các biện pháp để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt cho phụ nữ ở đây ra sao? Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang”. 1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.2.1 Mục tiêu chung Từ việc tìm hiểu năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt cho phụ nữ tại địa bàn nói trên. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể (1) Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề nâng cao năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt cho phụ nữ nông thôn. (2) Tìm hiểu thực trạng năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ nông thôn tại địa bàn xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. (3) Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt cho phụ nữ nông thôn tại địa bàn xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. 1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan đến năng lực và các biện pháp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt, với chủ thể là phụ nữ nông thôn tại địa bàn nghiên cứu xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. 1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.4.1 Phạm vi về nội dung Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng về năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt của phụ nữ tại địa bàn xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Để từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt cho phụ nữ tại địa bàn này. 1.4.2 Phạm vi không gian Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. 1.4.3 Phạm vi về thời gian Thời gian nghiên cứu đề tài: Đề tài thu thập thông tin trong khoảng thời gian từ 1/1/ 2006 – 31/12/2008. Thời gian thực hiện đề tài: Thời gian từ ngày 8/12/2008 – 23/5/2009. PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN 2.1.1 Một số khái niệm cơ bản *Thị trường: Hiện nay có nhiều khái niệm về thị trường được diễn giải theo nhiều cách hiểu rộng, hẹp khác nhau, nhưng về cơ bản là không có mâu thuẫn với nhau. Ở đây xin nêu một số khái niệm chủ yếu: - Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, hay nó là tập hợp các dàn xếp mà thông qua đó người mua và người bán tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hóa, dịch vụ. (Theo giáo trình Kinh tế học vi mô – Chủ biên: TS. Trần Văn Đức, ThS. Lương Xuân Chính – NXBNN, trang 114) - Theo David Begg: “Thị trường là tập hợp các sự thoả thuận mà thông qua đó người mua và người bán tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá dịch vụ.” - Theo Cramer, 1997: Thị trường gồm có người mua và người bán với những điều kiện đảm bảo để có thể giao thiệp được với nhau. Thị trường không nhất thiết phải có một địa điểm cụ thể, cho dù một số người vẫn hiểu thị trường theo khía cạnh này, nghĩa là phải có thị trường hàng hoá. Thị trường có thể là ở tầm địa phương, khu vực, quốc gia hay quốc tế. Một yêu cầu duy nhất về sự tồn tại của thị trường là phải có luồng cung và cầu để xác định giá thị trường thông qua giao tiếp giữa người mua và người bán. Điều quan trọng để hiểu được thực chấy của thị trường là ở chỗ, thị trường không chỉ đơn thuần là lĩnh vực trao đổi, di chuyển hàng hoá, dịch vụ từ người sản xuất sang người tiêu dùng, bởi vì trao đổi không thể dược tổ chức theo các cách khác nhau mà trao đổi được tổ chức theo các quy luật của lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.... Vì thế, thị trường có thể hiểu là một quá trình, trong đó người bán và người mua một loại hàng hoá nào đó tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng, chất lượng hàng hoá và dịch vụ, hay có thể nói là một quá trình cung cầu hợp thành giá cả thị trường. Thêm vào đó cần hiểu rằng, trong nền kinh tế có một hệ thống quy luật kinh tế vốn có tác động như quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh. Các quy luật được biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trường, thông qua toàn bộ những mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực trao đổi. Toàn bộ nhưng mối quan hệ như vậy là bản chất của thị trường. Căn cứ vào công dụng của hàng hóa về cơ bản ta có thể phân thị trường thành 2 loại sau: + Thị trường các yếu tố đầu vào: Đó là những sản phẩm dùng để sản xuất, là những tư liệu sản xuất như các loại máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hoá chất, dụng cụ,…Trong sản xuất nông nghiệp như: giống, phân bón, thức ăn, thuốc, nguồn vốn,… + Thị trường các yếu tố đầu ra ( hàng tư liệu tiêu dùng) : là những sản phẩm phục vụ tiêu dùng cá nhân của con người như: lương thực, thực phẩm, quần áo,… * Tiếp cận thị trường: Tiếp cận thị trường đối với nông hộ là việc họ có đầy đủ thông tin, tiềm lực xã hội, tài chính, vật chất để mua vật tư đầu vào và bán sản phẩm nông nghiệp làm ra ở các khu vực có lợi cho họ. Nghĩa là người nông dân có đủ nguồn lực để có thể giao thiệp với người bán vật tư đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất của nông hộ, đồng thời họ cũng có đủ khả năng để tiếp cận và đàm phán với các nhà cơ sở thu mua để bán sản phẩm họ làm ra ở một mức có lợi (Kleih, 1999). Điều này cho thấy điều kiện cơ bản nhất để tiếp cận thị trường nông nghiệp là có sự tồn tại của cầu cho các loại sản phẩm tiềm năng từ khu vực nông thôn. Thực tế đã chứng minh rằng thị trường và sự biến động của thị trường trong và ngoài nước có tính chất quyết định chiến lược về sản phẩm. Vì thế để xác định được phương hướng sản xuất kinh doanh cần phải nắm được yêu cầu của thị trường, sau đó lựa chọn các cách tiếp cận. Nói về thị trường là nói đến cả thị trường đầu vào và đầu ra. Có nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất là phải nắm được thông tin về thị trường một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác hình thức tiếp cận từ đó có chiến lược trong sản xuất hoặc tiêu thụ sản phẩm. Trong thực tế với các hộ nông dân, họ có thể tiếp cận qua các hình thức sau: - Tiếp cận về sử dụng các yếu tố đầu vào: Thị trường các yếu tố đầu vào hay còn gọi là thị trường tư liệu sản xuất là một dạng thị trường quan trọng của hoạt động kinh doanh nông nghiệp. Thị trường tư liệu sản xuất của nông nghiệp là tập hợp những cá nhân, tổ chức mua bán như: cấu trúc thị trường, hành vi thị trường, quy mô thị trường, mức dộ phong phú đa dạng của thị trường, giá cả, chất lượng, kênh phân phối, quảng cáo và các chính sách chung.... Chủ hộ phải khảo sát và lựa chọn các nhân tố sao cho mang lại nhiều lợi ích cho hộ nhất (Ví dụ lựa chọn đầu vào có giá cả và chất lượng tốt nhất, chọn kênh phân phối tiết kiệm được nhiều chi phí cho hộ nông dân nhất), có nghĩa là hộ nông dân đã xác định đúng phương hướng sản xuất. Tiếp đến các hộ nông dân dùng mọi biện pháp để có thể tiếp cận được với các cá nhân, tổ chức kinh doanh các đầu vào của hộ. Sau khi đã lựa chọn và tiếp cận được đầu vào rồi hộ nông dân phải sử dụng như thế nào để đầu vào đó mang lại hiệu quả nhất. - Tiếp cận trong hạch toán linh tế: Chủ hộ có kế hoạch và tiết kiệm dựa trên cơ sở tính toán, phân tích và giám sát chặt chẽ các khoản thu, chi để kinh doanh có lãi và tái sản xuất mở rộng. Đây là một nội dung quan trọng, phức tạp và có những diễn biến bởi những yếu tố khách quan (năng suất, chiến lược sản phẩm, diễn biến của thị trường, đôi khi liên quan đến cả các yếu tố chính trị dẫn đến tăng giá, ép giá...), do vậy việc hạch toán kinh tế trong kinh doanh cần phải đảm bảo: đầu tư chi phí ở mức cần thiết thấp nhất (vốn và lao động), hiệu quả sản xuất cao nhất thể hiện ở mức doanh thu và đem lại lợi nhuận cao nhất, lãi suất cao nhất, từ đó giá trị ngày công lao động cao nhất. Trong sản xuất kinh doanh, doanh thu là kết quả thu được, song mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Do vậy việc hạch toán kinh tế là cơ sở để nông hộ quyết định khởi sự nội dung sản xuất kinh doanh của mình. - Tiếp cận tiêu thụ sản phẩm: Là tiếp cận với khách hàng tiêu thụ sản phẩm. Thị trường sản phẩm rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã và phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của người tiêu dùng. Đối với thị trường đầu ra hay thị trường hàng hoá nông sản thì nông hộ với tư cách là người bán, người cung ứng, khi đó họ chịu tác động ảnh hưởng của các yếu tố từ thị trường đầu ra như: quy mô, giá cả, nhu cầu, mức độ cạnh tranh, chính sách của Nhà nước và những áp lực từ sự hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. Sản phẩm của hộ nông dân bán ở đâu, cho ai giá cả như thế nào và bằng cách nào để bán được nông sản đang là những vấn đề đặt ra đối với các hộ nông dân. Quá trình bán sản phẩm của hộ nông dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thông tin thị trường, giá cả hàng hoá, chất lượng sản phẩm, kênh phân phối và các chính sách trong nước và rào cản quốc tế trong quá trình hội nhập. Vấn đề đặt ra khi tiếp cận thị trường đầu ra là không chỉ bằng các biện pháp kích thích tiêu thụ, tìm kiếm thị trường..., mà quan trọng hơn là làm cho sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường. Sản phẩm của nông hộ sẽ bán ở đâu, với giá cả như thế nào phải được hình thành từ trong đầu của người sản xuất trước khi có sản phẩm đó. Do vậy, yêu cầu phải nâng cao kiến thức của hộ nông dân và đặc biệt cho người phụ nữ nông thôn trong quá trình hội nhập. * Nâng cao năng lực: Năng lực đơn giản là khả năng để hoạt động. Nâng cao năng lực nhìn chung là nâng cao khả năng hoạt động. Mỗi cá nhân và mỗi tổ chức đều có năng lực. Các hệ thống và xã hội đều có năng lực. Nâng cao năng lực có lồng ghép giới bao gồm việc nâng cao các kỹ năng chuyên môn và kéo theo sự thay đổi nhận thức. Nâng cao năng lực là một quá trình thay đổi lâu dài, được tiến hành ở nhiều cấp: Cá nhân, Tổ chức, Hệ thống. (Nguồn: "Thúc đẩy sự thay đổi: cơ sở cho lồng ghép giới". Nhà xuất bản SEAGEP, trang 10) 2.1.2 Đặc trưng của thị trường nông sản - Là loại thị trường có nhiều người bán và nhiều người mua. Ở đây tính chất đậm đặc được thể hiện rõ. Người sản xuất thường chịu những rủi ro: được mùa thì mất giá, mất mùa thì không có sản phẩm để bán. Tính chất không ổn định của thị trường này được thể hiện rõ rệt nhất ở tình trạng rối loạn cục bộ: đối với một số sản phẩm, một số thời điểm, một số tác nhân.... - Là loại thị trường có nhiều chủng loại sản phẩm với phẩm cấp khác nhau. Điều có lợi ở đây là sự phù hợp với nhu cầu tiêu dùng đa dạng cho nhiều mục đích khác nhau của các tầng lớp dân cư khác nhau, nhưng mặt khác rất khó khăn khi phân biệt giá cả với những sản phẩm có chất lượng khác nhau và thực hiện điều đó là không thoả đáng. Vì vậy, thái độ của người mua và người bán hàng thường ảnh hưởng lớn đến sự phân bổ lợ ích của người sản xuất và người tiêu dùng đối với những sản phẩm có phẩm cấp khác nhau. - Tính chất tự do di chuyển nguồn lực biểu hiện ở những đặc điểm riêng. Tốc độ thu hồi vốn đầu tư trong nông nghiệp chậm, thời gian vốn nằm trong sản xuất tương đối dài nên sự di chuyển nguồn lực không dễ dàng gì. Đó là chưa kể đến trường hợp xảy ra đối với các vườn cây lâu năm và đàn gia súc cơ bản. Giá trị thu hồi các vườn cây lâu năm là không đáng kể trong khi mất mát là to lớn nếu ta thay đổi hướng sản xuất. Sự thay thế đàn gia súc cơ bản cũng làm mất đi một lượng giá trị lớn khi chuyển sang nuôi thịt trước khi thanh lý và việc cải tạo chuồng trại thành các cơ sở sản xuất theo hướng khác nhau cũng gây sự tốn kém đáng kể. 2.1.3 Đặc điểm và vai trò của phụ nữ nông thôn Đặc điểm của phụ nữ nông thôn: Trong những năm qua, các tầng lớp phụ nữ nước ta nói chung và phụ nữ ở nông thôn nói riêng, phát huy truyền thống “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, đã đoàn kết, đổi mới sáng tạo trong lao động, công tác, đạt nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước, làm đẹp thêm những phẩm chất cao quý của phụ nữ Việt Nam : Yêu nước, thông minh, cần cù, nhẫn nại, nhân hậu …. Ngoài những đặc điểm chung nói trên, người phụ nữ nông thôn còn có những đặc điểm riêng như: Về thu nhập: Nguồn thu nhập chính của phụ nữ nông thôn là từ sản xuất nông-lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản. Sau khi đã trừ chi phí sản xuất, bình quân thu nhập đầu người tại các vùng nông thôn thường rất thấp so với công sức mà họ bỏ ra, bình quân là nhỏ hơn 6 triệu đồng/hộ/năm, như vậy mới qua mức đói. Nguyên nhân đói nghèo chủ yếu là vì thiếu kinh nghiệm làm ăn (35%) và thiếu vốn đầu tư sản xuất (49%) (Cuộc điều tra năm 2002 của Hội Nông dân Việt Nam tại 4 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lào Cai và Yên Bái). Trong cái nghèo khổ chung, chị em là người chịu đựng cơ cực nhiều hơn vì bị ràng buộc bởi nhiều hủ tục lạc hậu. Ngoài những bữa ăn đạm bạc, đàn ông còn nhiều thú vui khác như uống rượu cần, hút thuốc hoặc vui thú hát hò nhưng với phụ nữ, ngoài bữa ăn no, họ không được hưởng thú vui nào hơn ngoài việc quanh năm, suốt tháng lo lắng cho gia đình, con cái. Thậm chí các chị còn không có thời gian và điều kiện để lo cho chính bản thân mình Về việc làm: Sống ở vùng nông thôn, với nền kinh tế tự cung tự cấp, phụ nữ phải làm rất nhiều việc như nội trợ, nuôi con, tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp như trồng lúa, trồng rừng, chăn nuôi trâu bò, lợn, gà...và những công việc mà họ làm thì công sức bỏ ra là khá nhiều nhưng thu nhập mang lại là rất thấp. Và họ chăm lo phát triển kinh tế gia đình trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường. Có trên 70% số chị được phỏng vấn trả lời các chị phải làm các công việc từ sản xuất kinh doanh, nuôi con, chăm lo gia đình, thậm chí còn làm cả công việc của nam giới như cày, bừa... Có tới trên 50% các chị trả lời thường xuyên làm không hết việc, không có thời gian nghỉ ngơi…(Cuộc điều tra năm 2002 của Hội Nông dân Việt Nam tại 4 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lào Cai và Yên Bái). Về quyền và lợi ích: Vì đời sống khó khăn nên phụ nữ nông dân không có thời gian nghỉ ngơi. Do phải đảm nhận nhiều công việc trong gia đình, nên nhiều người phụ nữ ở nông thôn phải làm việc từ sáng sớm cho đến tối khuya. Họ không còn thời gian nghi ngơi giải trí và chăm sóc cho bản thân, vì vậy vấn đề sức khoẻ với người phụ nữ là rất đáng quan tâm. Đặc biệt ở các tỉnh miền núi do nạn tảo hôn, nhiều phụ nữ phải đẻ sớm, đẻ nhiều và do đó sức khoẻ giảm sút. Nhiều nơi còn giữ những hủ tục lạc hậu như mẹ phải ăn cơm sau con trai, sinh con phải ở ngoài rừng, con sống hay chết là trách nhiệm của người mẹ... Chị em vẫn thường chấp nhận những hủ tục này như một điều hiển nhiên vì thiếu hiểu biết về luật pháp, thiếu nhận thức về bình đẳng. Khi được hỏi về quyền bình đẳng nam nữ, 83% chị em trả lời không biết là gì, số còn lại không trả lời.(Cuộc điều tra năm 2002 của Hội Nông dân Việt Nam tại 4 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lào Cai và Yên Bái). Song song với các vấn đề trên, hiện nay người phụ nữ nông thôn còn gặp rất nhiều hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất, các thông tin thị trường và trong việc ra quyết định trong gia đình nói chung và trong sản xuất nông nghiệp nói riêng. Mặt khác họ lại là lực lượng lao động chính trong sản xuất nông nghiệp vì vậy đây cũng là nguyên nhân dấn đến kết quả và hiệu quả sản xuất thường không cao, kéo theo đó là thu nhập của gia đình nói chung và của người phụ nữ nói riêng là rất thấp. Về trình độ văn hoá: Mức hưởng thụ văn hóa, văn nghệ thấp. Hiện nay ở nông thôn trình độ văn hoá của phụ nữ hầu hết còn rất thấp. Tuy tỷ lệ mù chữ còn ít nhưng trình độ học hết cấp 1 còn khá phổ biến, tỷ lệ học hết cấp 2 và cấp 3 có thể nói là hiếm có ở những vùng nông thôn đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu vùng xa. Nguyên nhân là do đa số họ là những phụ nữ sống từ thời chiến tranh nên không có điều kiện để học hành. Song song với đó là do những quan niệm cũ của thời phong kiến nên đã hạn chế rất nhiều đến trình độ học vấn của họ. Thực trạng trên cho thấy, mặc dù là những người phụ nữ cần cù chịu khó, trung hậu và chất phát. Nhưng do sự kém phát triển về mặt kinh tế cùng với sự tồn tại của những phong tục tập quán lạc hậu, phụ nữ nông thôn còn gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống và có rất ít cơ hội tiếp cận với các nguồn lực cũng như phát huy tiềm năng lao động của mình. Vì vậy Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế hiệu quả để chị em vươn lên thoát khỏi nghèo đói, như hỗ trợ về vốn, giống, tạo việc làm... Đồng thời cần có các chính sách phát triển dịch vụ ở nông thôn nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, giúp chị em san sẻ bớt công việc nội trợ gia đình để có điều kiện học tập, nâng cao trình độ văn hoá, kiến thức quản lý sản xuất kinh doanh. Vai trò của phụ nữ nông thôn: Trong những năm về trước, vai trò của người phụ nữ chỉ là đảm nhận công việc nội trợ và chăm sóc gia đình. Nhưng hiện nay với sự thay đổi của chế độ cùng với cơ chế mới, vai trò của người phụ nữ đã ngày càng quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. - Vai trò của người phụ nữ trong hoạt động sản xuất phát triển kinh tế gia đình: Có thể nói người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay trở thành một chủ thể quan trọng trong đời sống các gia đình. Với tỷ lệ 50.8% trên tổng số dân hơn 80 triệu người, chiếm 49.9% lực lượng lao động toàn xã hội, họ trở thành người làm chính trong nhiều lĩnh vực sản xuất, nhất là trong nông nghiệp. Cùng với chồng, người vợ cũng trở thành người tạo ra nguồn thu nhập chính. Ở nông thôn khi mà người chồng đi làm thuê ở xa thì người vợ trở thành lao động chính, họ là chủ thể chính phát triển kinh tế hộ nông dân ở nông thôn. Ở thành phố, phụ nữ là lực lượng chính phát triển buôn bán dịch vụ. Và khi làm việc trong các công sở thì lương của người phụ nữ đã ngang bằng với các đồng nghiệp là nam giới. Hiện nay thật khó khẳng định một cách chung chung rằng người đóng vai trò quan trọng nhất trong phát triển kinh tế gia đình là người chồng hay người vợ, đặc biệt là ở nông thôn. - Vai trò của phụ nữ trong tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực phát triển: Cùng với sự biến đổi và phát triển của xã hội ngày nay, vai trò của nam giới và nữ giới trong cuộc sống ngày càng được hoà đồng. Tuy nhiên trong tiếp cận và kiểm soát nguồn lực phát triển nhất là đối với tài sản, đất đai, nguồn vốn…. thì phụ nữ rất hạn chế so với nam giới. Sự bất bình đẳng ở đây không những không tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia tích cực hơn vào quá trình phát triển mà còn hạn chế sự phát triển kinh tế gia đình. Bởi lẽ, phụ nữ trong nhiều gia đình là người chủ xây dựng kinh tế nhưng họ lại không có quyền sử dụng vốn, đất đai, tài sản vào mục đích phát triển kinh tế. Vì thế quyền quyết định những vấn đề quan trọng của gia đình trong sản xuất kinh doanh, chi tiêu những khoản mua sắm lớn thường do người nam giới đảm nhận. Tiếp cận quản lý và kiểm soát, sử dụng các nguồn lực phát triển một cách tự chủ không chỉ là điều kiện mà còn là cơ hội để cho phụ nữ phát huy được tiềm năng của mình nhằm phát triển kinh tế gia đình. Đó là cơ hội để phụ nữ khẳng định vai trò của mình qua đó thiết lập đúng vị thế của họ trong đời sống gia đình nói riêng và trong xã hội nói chung. - Vai trò của phụ nữ trong các hoạt động xã hội, cộng đồng: Gia đình với tư cách là một thể chế, một chủ thể xã hội, khi tham gia sinh hoạt cộng đồng bao giờ cũng hiện diện với tư cách là một chủ thể hoàn thiện. Người phụ nữ hiện nay rất tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng. Mặc dù chưa đạt được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong lĩnh vực hoạt động này nhưng thực tế đã có một tiến bộ đáng kể khi mà người phụ nữ đã hiện diện với tư cách là người chủ, người đại diện cho gia đình để dự các đám hiếu hỉ, giao tiếp đoàn thể, chính quyền, họp làng bản, tổ dân phố,.... Nhưng chúng ta đều biết, trong truyền thống những công việc này đều là của đàn ông - người chủ của gia đình. Điều này có nghĩa là người phụ nữ Việt Nam đang có sự hoà nhập, sự chuyển đổi vai trò một cách rõ rệt. 2.1.4 Sự cần thiết nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn * Sự cần thiết phát triển thị trường nông sản: Thị trường nông sản của Việt Nam thời gian qua đã có những bước phát triển vượt bậc cùng với những thành tựu to lớn của nền nông nghiệp nước nhà. Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất khẩu trong vòng 6 năm trở lại đây (từ năm 2000 đến 2006) đạt mức 16,5%, với mức tăng 2,4 lần ở thời điểm năm 2006 so với năm 2000. Một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam có thị phần lớn và chiếm các vị trí dẫn đầu trong các nước xuất khẩu nông sản như: gạo (đứng thứ 2 thế giới với 18,2% thị phần), hồ tiêu (đứng thứ nhất thế giới với 14,3% thị phần), hạt điều (đứng thứ 2 thế giới với 9,5% thị phần, cà phê (40% thị phần)....Hiện tại, nông sản Việt Nam đã có mặt ở thị trường hơn 100 quốc gia trên thế giới. (Nguồn: Với những thành quả mà nông sản đem lại trong thời gian qua, chúng ta cần phải tiếp tục phát triển mở rộng thị trường nông sản trong và ngoài nước để tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách, tăng thu nhập cho người dân và ngày càng khẳng định vị thế sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta. Ngoài ra khi chúng ta chính thức ra nhập WTO vào đầu năm 2007, cơ hội phát triển thị trường nông sản càng được mở ra, vì vậy chúng ta cũng cần thiết phải phát triển thị trường nông sản để nhằm tận dụng những cơ hội có được. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, thành tựu bước đầu đáng mừng đó, trong bối cảnh mới khi nước ta đã gia nhập WTO, thị trường nông sản của nước ta sẽ gặp nhiều thách thức và hạn chế, vì vậy cần được phát triển: - Thách thức lớn nhất đối với thị trường nông sản nước ta khi gia nhập WTO là khả năng cạnh tranh khốc liệt của nông sản sản xuất trong nước với nông sản nhập khẩu có chất lượng cao (Theo báo cáo của Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc có khoảng 1 tỉ tấn nông sản các loại ở châu á sẵn sàng vào thị trường Việt Nam ngay khi nước ta gia nhập WTO). - Tiếp theo, thị trường thế giới vẫn tồn tại những hàng rào phi thương mại áp dụng đối với nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam. Nền nông nghiệp nước ta lại phần lớn còn phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch, không có thông tin hoặc vì lợi nhuận trước mắt không tuân thủ quy trình sản xuất nông sản để bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, trong khi yêu cầu của thị trường thế giới giai đoạn mới là nông sản “sạch” hay nông sản “an toàn”. Vì thế, nhiều nông sản không vượt qua được các rào cản kỹ thuật khi thâm nhập thị trường các nước, đặc biệt là các thị trường “khó tính” như EU, Nhật Bản... - Công nghệ sau thu hoạch của nước ta còn khá lạc hậu, tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch khá cao (Theo tài liệu của Bộ NN&PTNT, thất thoát sau thu hoạch trong sản xuất lúa thường là 10 - 17%, có nơi tới 30%). - Hàng nông sản của nước ta vẫn chủ yếu là nông sản thô hoặc mới qua sơ chế, sản xuất nông nghiệp của nước ta còn rất manh mún, nhỏ bé... * Phát triển thị trường nông sản ở khu vực nông thôn: Thời gian qua, thị trường nông sản khu vực nông thôn nước ta từ huyện, thị trấn, thị tứ đến cụm xã, đã thể hiện được từng bước vai trò và vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên cả hai phư._.ơng diện: cung ứng lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước, cho xuất khẩu và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, tiêu thụ vật tư và hàng công nghiệp của sản xuất trong nước và nhập khẩu. Từ chỗ phải nhập khẩu nửa triệu tấn lương thực và nhiều hàng hóa nông sản khác như chè, cà phê, cao su, điều… cho nhu cầu trong nước mà còn tạo ra một nguồn hàng xuất khẩu ngày càng giữ vị trí đáng kể trong khu vực và thế giới. Sự thay đổi trong cơ chế quản lý mới đã tác động tích cực tới phát triển thị trường, mà trước hết là cơ chế chính sách mới như: chính sách lưu thông hàng hóa, tự do thương mại, thực hiện thị trường thống nhất trong cả nước, giá cả do thị trường quyết định, các thành phần kinh tế được khuyến khích tham gia vào hoạt động thương mại, đã tác động tích cực vào quá trình phát triển kinh tế nông thôn, làm cho thị trường nông sản có những thay đổi rất cơ bản này càng trở nên sôi động. Nhiều vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hóa đã hình thành (vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng Đồng bằng sông Hồng, cao su Đông Nam Bộ, cà phê Tây Nguyên, chè Trung du Bắc Bộ…). Nhiều trung tâm thương mại, dịch vụ, trung tâm kinh tế thương mại trao đổi hàng hóa bắt đầu hình thành. Chính vì vậy, nông thôn một số vùng đã bước đầu thoát khỏi trạng thái khép kín, tự cung, tự cấp, bước vào thời kỳ phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn liền với thị trường trong nước và nước ngoài. Đây là bước tích cực trong việc phát triển thị trường nông sản khu vực nông thôn chuẩn bị cho hội nhập kinh tế toàn cầu của Việt Nam. *Sự cần thiết nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn: Thị trường nông sản là một trong những yếu tố quan trọng cơ bản trong chiến lược sinh kế của hầu hết các hộ nông dân trong đó có người phụ nữ, bất kể giàu hay nghèo. Đây cũng là nơi mà người sản xuất nói chung và người người phụ nữ nói riêng mua các loại vật tư đầu vào và bán ra sản phẩm cây trồng, vật nuôi họ sản xuất được. Thị trường nông sản cũng là nơi người tiêu dùng mua lương thực, thực phẩm thiết yếu và các loại hàng hoá khác phục vụ cuộc sống của gia đình. Riêng trong nông nghiệp, mục tiêu của sản phẩm nông sản được sản xuất ra là đến được tay người tiêu dùng thông qua thương mại hoá. Và như vậy, thị trường nông sản được xem như một bước đi trung gian, để chuyển tải hàng hoá từ nhà sản xuất (người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng), trực tiếp hoặc gián tiếp tới tay người tiêu dùng cuối cùng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Từ những vai trò của thị trường nông sản nói trên, việc tiếp cận thị trường nông sản là rất cần thiết và vô cùng quan trọng đối với người nông dân nói chung và người phụ nữ nông thôn nói riêng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Trên thực tế rất nhiều phụ nữ nhận ra rằng một trong những nguyên nhân làm cho họ khó có thể cải thiện và nâng cao mức sống của gia đình mình đó là tiếp cận thị trường. Hậu quả đem lại của việc thiếu khả năng tiếp cận thị trường là lượng sản phẩm giao dịch mua vào và bán ra thấp, không đúng đối tượng mà họ cần mua hoặc bán, từ đó sẽ dẫn đến: - Năng suất và sản lượng cây trồng, vật nuôi thấp. - Thu nhập của gia đình thấp. - Nghèo đói, thiếu an toàn lương thực và khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục. Mặt khác, toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại mang lại nhiều cơ hội để nông dân trong đó có người phụ nữ kết nối với thị trường nhưng đồng thời cũng đem lại nhiều rủi ro do tính cạnh tranh cao, dao động bất thường của giá cả, và về lâu dài làm giảm giá của các mặt hàng nông sản. Hơn nữa, người nông dân cũng như người phụ nữ sản xuất nhỏ không chỉ phải cạnh tranh với các đối thủ lớn có tiềm lực vốn mà còn phải đối mặt với sự méo mó của thị trường do có sự can thiệp của Nhà nước. Lúc đó các mối quan hệ thương mại sẽ bị tác động bởi vô số người bán và người mua, và khi đó giá mua vật tư đầu vào và giá bán sản phẩm có sự thương thảo trong phạm vi rộng. Trước những bối cảnh và yêu cầu như trên thì việc nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ ở nông thôn, từ đó để đưa ra các biện pháp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho họ là một việc làm cần thiết và quan trọng. Hiểu biết càng nhiều về thị trường thì người phụ nữ sẽ càng có nhiều cơ hội giảm giá đầu vào, tăng giá đầu ra góp phần cải thiện cuộc sống cho chính gia đình họ và tăng trưởng kinh tế của đất nước. 2.1.5 Những yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản của phụ nữ nông thôn Thời gian: Ở nông thôn hầu hết phụ nữ đều rất bận rộn. Họ phải làm rất nhiều việc từ việc gia đình hằng ngày cho đến tham gia sản xuất. Những công việc này có lẽ đã chiếm hết tâm trí của họ nên việc tìm hiểu những thông tin về thị trường như giá cả đầu ra, đầu vào, nhu cầu của người mua sản phẩm là những việc làm không quan trọng. Họ cho rằng mua, bán theo số đông là được, do đó đã hạn chế rất lớn đến năng lực TCTT của họ. Kinh phí: Đây là một yếu tố thể hiện cho điều kiện kinh tế của gia đình người phụ nữ cũng như bản thân người phụ nữ. Nếu có kinh tế khá giả thì tần suất đi chợ cũng nhiều và việc nắm bắt những thông tin về giá cả, về nhu cầu cũng như các sản phẩm mới sẽ tốt hơn những phụ nữ ít đi chợ. Họ sẽ cảm thấy việc tìm hiểu những thông tin này là một việc làm có lợi cho việc mua hay bán một sản phẩm nào đó. Nên kinh phí là một yếu tố cũng ảnh hưởng khá nhiều tới năng lực TCTT của PNNT. Môi trường kinh tế - xã hội: Môi trường kinh tế - xã hội như môi trường sống quanh khu vực sống của người phụ nữ, phong tục tập quán của địa phương,… đều có ảnh hưởng tới năng lực TCTT của PNNT. Ví dụ nếu khu vực sống của người phụ nữ gần với các khu vực đông dân cư, có nhiều hàng quán, có chợ thì năng lực TCTT của họ sẽ tốt hơn rất nhiều so với những phụ nữ sống ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, thông tin không phát triển. Năng lực của người phụ nữ: Ở nông thôn, đặc biệt là miền núi, do nhiều nguyên nhân khác nhau như khó khăn về điều kiện kinh tế, điều kiện về xã hội, điều kiện về địa lý... mà người phụ nữ ở các khu vực nói trên có trình độ rất thấp và rất hạn chế về năng lực bản thân. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sản xuất, phát triển kinh tế hộ gia đình, đặc biệt là trong thời đại của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và nền kinh tế thị trường như hiện nay, hạn chế về năng lực, trình độ, khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật, khả năng nắm bắt thông tin... là rất kém. Kết quả là khả năng sản xuất và tiếp cận thị trường là rất hạn chế. Do nhận thức và quyết tâm của phụ nữ: Một trong những yếu tố không thể không nhắc đến ảnh hưởng đến năng lực tiếp cận thị trường nông sản của phụ nữ nông thôn đó là do nhận thức của chính họ. Nhiều lúc cũng chính họ cho rằng những công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, con cái... là công việc của mình, còn những quyết định trong công việc làm ăn kinh tế hay việc tiếp cận thị trường là của người đàn ông, mình không cần thiết phải quan tâm. Chính những suy nghĩ, những quan niệm của họ đã tự trói buộc họ vào công việc gia đình, làm hạn chế năng lực tiếp cận thị trường của mình hay làm giảm nhu cầu tham gia thị trường của họ. Ngược lại nếu họ có nhận thức đúng đắn, vượt qua sự mặc cảm của bản thân quyết tâm trong cuộc sống, trong lao động sản xuất thì khả năng tiếp cận thị trường nông sản của họ sẽ được nâng cao hơn. 2.1.6 Các chủ chương Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Nói phụ nữ là nói nửa phần xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa. Giải phóng phụ nữ, nâng cao năng lực và thừa nhận vị thế, vai trò của người phụ nữ, trong xã hội là một mục tiêu quan trọng, một cuộc đấu tranh vô cùng cam go, quyết liệt và dai dẳng diễn ra trong mỗi con người, trong từng gia đình và toàn xã hội. Ngay từ khi mới giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức sâu sắc vai trò và vị thế của phụ nữ trong sự phát triển chung của quốc gia, dân tộc. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm cụ thể hoá quyền bình đẳng nam nữ; tạo điều kiện cho phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội và điều kiện tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Nghị quyết 04 ngày 12-7-1993 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng về Đổi mới tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, đã nhấn mạnh : “Giải phóng phụ nữ là mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới”. Thực hiện tinh thần đó, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Tại Hội nghị phụ nữ thế giới lần thứ IV tại Bắc Kinh Trung Quốc năm 1995, Chính phủ Việt Nam đã có chương trình hành động cụ thể thực hiện mục tiêu “hành động vì bình đẳng, phát triển hoà bình” của Hội nghị. Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, đã được cụ thể hoá ở mục tiêu tổng quát: “cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, thực hiện được chức năng của mình và được tham gia đầy đủ, bình đẳng vào tất cả các lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Tháng 9-2000, tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc tại NewYork Chủ tịch Trần Đức Lương đã thay mặt Chính phủ Việt Nam ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ. Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đặc biệt chú trọng vào 8 mục tiêu cơ bản, trong đó, Tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ được đặc biệt coi trọng và cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu: “Đảm bảo cho trẻ em, trai cũng như gái, ở khắp mọi nơi hoàn thành đầy đủ chương trình giáo dục tiểu học vào năm 2015”; Phấn đấu xoá bỏ chênh lệch giữa nam và nữ ở bậc tiểu học và trung học vào năm 2005 và ở tất cả các cấp học chậm nhất vào năm 2015 trong việc phát triển giới quan tâm đặc biệt đến vấn đề tăng cường bình đẳng. Lấy trọng tâm phổ cập giáo dục làm nền tảng quan trọng để tiến tới hoàn thiện mục tiêu về giới. (Nguồn: Gần đây nhất trong văn bản Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói nghèo CPRGS- 5/2002 của Việt nam đã xác định 18 nội dung về vấn đề thực hiện bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ, trong đó: 1 - Tổ chức thực hiện tốt chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 theo Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg, ngày 21-1-2002. Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ; nâng cao và phát huy năng lực, khả năng, vai trò của phụ nữ, bảo đảm cho người phụ nữ có thể thực hiện nhiệm vụ và tham gia đầy đủ, ngang bằng trong mọi hoạt động, đặc biệt là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội trong quá trình CNH-HĐH để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 2 - Bảo đảm các điều kiện để phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng trong lĩnh vực lao động và việc làm thông qua bảo đảm đủ đất canh tác, các nguồn lực cơ bản xác định chỉ tiêu thu hút lao động nữ vào việc làm mới. Hoàn thiện các quy định và tăng cường giám sát thực hiện các chính sách đối với lao động nữ nhằm bảo đảm tính hiệu quả và công bằng trong chính sách đào tạo nghề, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động và chế độ nghỉ hưu…. (Nguồn: 2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN TRONG NGHIÊN CỨU NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN 2.2.1 Kinh nghiệm của các nước đang phát triển trong nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ và người dân ở khu vực nông thôn Trong những năm qua một số nước đang phát triển nằm trong khu vực Đông nam á như Thái Lan, Philippin, Malaixia... đã có nhiều thành tựu nổi bật trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, họ đã trở thành những cường quốc về sản xuất và xuất khẩu nông sản. Đạt được trong những thành tựu trên chủ yếu là do kết quả của việc thực thi các chính sách nông nghiệp thích hợp của các chính phủ trong khu vực, đặc biệt là trong nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho người dân nói chung và người phụ nữ nói riêng để từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho họ như: Thứ nhất ruộng đất, trên nguyên tắc ruộng đất phải được sử dụng, quản lý theo hướng tự do phát triển sản xuất, kinh doanh của hộ nông dân, chính phủ các nước trong khu vực đều chủ trương nông dân có quyền sở hữu ruộng đất tương đối. Nông dân có quyền mua, bán ruộng đất. Thị trường ruộng đất được xác lập và được pháp luật bảo hộ. Thái Lan, Malaixia, Philíppin đều thực hiện cải cách ruộng đất, chia đất cho nông dân (bằng các biện pháp chia đất công, Nhà nước trưng mua đất của địa chủ rồi bán cho nông dân với giá rẻ và áp dụng phương thức trả dần). Kinh tế trang trại cũng được khuyến khích trong các nước này, nghĩa là chính quyền công nhận quyền tích tụ ruộng đất (đến một quy mô nhất định, tuỳ từng nước) để phát triển sản xuất hàng hoá. Thứ hai, hỗ trợ đầu vào cho nông dân phát triển sản xuất. Về tín dụng, cho vay vốn, giúp nông dân phát triển sản xuất và tiếp cận thị trường nông sản trong và ngoài nước. Thái Lan khuyến khích, lôi cuốn tư nhân tham gia các chương trình khuyến nông, tập trung kinh phí nghiên cứu cho các cây lương thực quan trọng (lúa, ngô, sắn). Thái Lan đã đạt nhiều thành tựu có ý nghĩa nhờ thực hiện chính sách này như phát triển nhiều giống lúa thơm chất lượng cao, giá xuất khẩu cao gấp hai lần giống lúa thường; năng suất ngô bình quân đạt 3,5 tấn/ha, sắn 15 tấn/ha. Thứ ba, hỗ trợ đầu ra cho các sản phẩm nông sản. Inđônixia quy định giá sàn nông sản có lợi cho nông dân. Khi giá thị trường thấp hơn giá sàn, Nhà nước bỏ tiền ra mua nông sản cho nông dân. Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia đều khuyến khích xuất khẩu bằng hỗ trợ kinh tế và luật pháp. Chính phủ Thái Lan rất tích cực tìm kiếm thị trường, chú trọng phát triển hình thức hợp đồng "chính phủ với chính phủ". Năm 1994, khi giá xuất khẩu gạo giảm, chính phủ Thái Lan lập tức thiết lập lại chế độ trợ cấp xuất khẩu gạo (đã bị đình chỉ năm 1993), trợ cấp mạnh mẽ để xuất khẩu thành công 500 tấn gạo đầu tiên cho Irắc. Để mở rộng thị trường, Thái Lan đã đầu tư tập trung cho chương trình đổi mới giống lúa thơm được thị trường thế giới ưa chuộng. Thứ tư, về thuế, Thái Lan bỏ hẳn thuế nông nghiệp. ở nông thôn Thái Lan, hiện chỉ còn thuế thu nhập, thuế chuyển nhượng tài sản và VAT. Inđônêxia thu thuế nông nghiệp rất thấp. ở Thái Lan, Malaixia, nông dân không phải trả khoản dịch vụ thuỷ lợi. Thứ năm, về cơ sở hạ tầng ở nông thôn, các nước Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia đều coi chức năng lớn nhất của Nhà nước là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kể cả cơ sở hạ tầng "mềm" (tức là nhân lực, kỹ thuật, tri thức kinh doanh). Thứ sáu, khuyến khích kinh tế tư nhân trong các ngành và trong các khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn cũng là một chính sách quan trọng. ( Nguồn: Ngoài ra chúng ta còn học hỏi kinh nghiệm của Uganda, một nước nằm ở Đông Phi với việc đưa công nghệ cao về với phụ nữ nông thôn: Trung tâm Nakaseke Telecentre, trụ sở nằm cách thủ đô Kampala của Uganda 50 km về phía bắc, vừa ra mắt CD-ROM tương tác dành cho phụ nữ ở khu vực nông thôn. Giờ đây, nhiều chị em nông dân đã trở thành những nhà nông giỏi nhờ sử dụng CD-ROM này. Đĩa CD đã đưa ra lời khuyên thực tế dành cho chị em nông dân về các biện pháp tăng sản lượng thu hoạch và quản lý tốt việc chăn nuôi. Nó còn nêu ra những ý tưởng về việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mới, cách hợp tác làm việc với bạn bè hay hàng xóm để có được nhiều thứ hơn ngoài những mảnh ruộng nhỏ.... (Nguồn: 2.2.2 Kinh nghiệm nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ và người dân nông thôn ở nước ta. Trong những năm gần đây việc nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ và người dân trong khu vực nông thôn để từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao năng lực tiếp cận cho họ ở nước ta được diễn ra rất phổ biến với nhiều hình thức khác nhau, diễn ra trên nhiều địa phương khác nhau và được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong và ngoài nước.... Có thể nói đây là những kinh nghiệm rất quý báu để cho các tổ chức, địa phương khác có thể tiến hành nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn. Và dưới đây chỉ là hai trong số rất nhiều các hình thức, các hoạt động mà các cơ quan Nhà nước, các tổ chức phi chính phủ tiến hành trên một số địa phương ở nước ta trong thời gian vừa qua mà chúng tôi muốn đưa ra để làm kinh nghiệm: a/ Trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ - CEPEW CEPEW là một tổ chức phi chính phủ được thành lập từ năm 1997 trực thuộc Hội khuyến học Việt nam với mục đích nhằm nâng cao năng lực cho phụ nữ, giúp phụ nữ đạt được sự bình đẳng và tiến bộ. CEPEW có các chương trình, dự án phối hợp hoạt động với các tổ chức xã hội và NGOs trong và ngoài nước như Hội Liên LHPN Việt Nam, Uỷ ban vì sự tiến bộ của phụ nữ, Hội Nông dân, Trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình, Trung tâm nghiên cứu gia đình và sức khoẻ sinh sản, Quỹ Châu á, Đại sứ quán Hà Lan, đại sứ quán Canada, đại sứ quán Mỹ, các tổ chức CIDA, SIDA, NOVIB, DED, AusAID, OXFAM Belgium, CECI, UNDP, Quỹ Phụ nữ toàn cầu, Ngân hàng thế giới, USAID, ActionAid Vietnam, … * Chương trình nghiên cứu: Nghiên cứu về tiếp cận giáo dục của phụ nữ và trẻ em gái nghèo nông thôn (được thực hiện tại tỉnh Hoà Bình năm 2000, tại Nam Định và Vĩnh Phúc năm 2001). Nghiên cứu về sự tham gia chính trị và ra quyết định của phụ nữ các cấp... * Chương trình nâng cao năng lực kinh tế cho phụ nữ : - Dạy nghề cho phụ nữ và trẻ em gái nông thôn: Chương trình được thực hiện tại huyện Hải Hậu (Tỉnh Hà Tây), huyện Hải Hậu và Nghĩa Hưng (Tỉnh Nam Định), huyện Đầm Hà và Hải Hà (tỉnh Quảng Ninh), Huyện Tân Yên và Việt Yên (tỉnh Bắc Giang). - Tập huấn phát triển kinh doanh nhỏ cho phụ nữ nghèo - Xây dựng Trung tâm học tập cộng đồng, thành lập câu lạc bộ văn hoá phụ nữ nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng, thông tin và chia sẻ kinh nghiệm cho phụ nữ và trẻ em gái (kể cả nam giới). 6 trung tâm học tập cộng đồng và câu lạc bộ văn hoá phụ nữ được xây dựng tại tỉnh Hà Tây, Nam Định và Vĩnh Phúc kể từ năm 1999. Những trung tâm này đã tạo cơ hội cho hàng ngàn phụ nữ và trẻ em gái cũng như người dân địa phương tiếp cận kiến thức và kỹ năng cho cuộc sống và sản xuất. * Chương trình nâng cao kiến thức và năng lực cho lãnh đạo nam và nữ các cấp: - Nâng cao nhận thức giới cho lãnh đạo nam và nữ cấp huyện và xã được thực hiện tại Hà Tây, Ninh Bình, Quang Ninh, Phu Tho từ năm 1999 tới nay. - Nâng cao kỹ năng lãnh đạo cho lãnh đạo nam và nữ các cấp địa phương. Chương trình được thực hiện tại Quảng Bình, Cao Bằng, Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hoá, Hà Tây, Nam Đinh từ năm 1999. - Nâng cao kỹ năng hoạt động cho nữ đại biểu HĐND cấp huyện và xã được thực hiện tại Đăc Nông, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bắc Kạn, Nam Định, Bắc Giang từ năm 2000... (Nguồn: b/ Nông dân truy cập thông tin thị trường nông sản qua mạng Nông dân tại một số địa phương chưa phát triển của Việt Nam từ nay sẽ có thể truy cập thông tin cập nhật về thị trường và giá cả tại các trung tâm thông tin cơ sở. Đây là một sáng kiến do Bộ NN&PTNT, Intel Việt Nam và chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) khởi xướng. Nông dân sẽ có thể biết được tình hình giá cả nông sản, thời tiết, các thông tin về thị trường nông sản trong nước và thế giới cũng như có thể tham khảo thông tin khoa học và công nghệ nông nghiệp tiên tiến trên thế giới. Hơn thế, nông dân cũng có thể nhờ nhân viên điều hành trung tâm điền các mẫu văn bản hành chính trực tuyến giúp họ tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại. Chương trình hợp tác giữa UNDP và Bộ NN&PTNT nhằm hiện đại hóa các viện, củng cố trình độ nhân lực, và minh bạch tài chính. Sự đóng góp của Intel sẽ giúp Bộ NN&PTNT nâng cao năng lực về cung cấp thông tin và các dịch vụ thông tin nông nghiệp cho nông dân cả nước dựa trên nhu cầu của họ và điều này cũng sẽ giúp cho nông dân làm giàu từ nông nghiệp. Là một phần của chương trình hợp tác giữa Bộ NN&PTNT và UNDP về cải cách hành chính, Intel Việt Nam sẽ cung cấp 13 bộ máy tính cá nhân cho 13 trung tâm thông tin nông thôn tại 10 tỉnh. Tại 10 tỉnh này, thông tin thị trường nông nghiệp và giá nông sản sẽ được phát trên hệ thống truyền thông cộng đồng. Dự án này là một phần của chương trình World Ahead của Intel. Đây là chương trình hỗ trợ các sáng kiến nhằm đẩy nhanh ứng dụng công nghệ và triển khai giáo dục cho người dân tại các cộng đồng đang phát triển. Chương trình máy tính cộng đồng của Intel (The Intel - powered Community PC) sẽ đưa công nghệ tiếp cận với những vùng sâu vùng xa. Dự án thử nghiệm sẽ giúp cho các bên hiểu rõ hơn về việc ứng dụng công nghệ thông tin cho phát triển nông thôn Việt Nam. Mục tiêu của dự án nhằm vào việc mở rộng các dịch vụ nông nghiệp, cung cấp thông tin thị trường cho nông dân và các tổ chức đại diện cho nông dân, giúp nông dân nâng cao sản xuất và tăng cường cơ hội kinh tế. (Nguồn: PHẦN 3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 3.1.1 Đặc điểm tự nhiên 3.1.1.1 Vị trí địa lý và địa hình: Tư Mại là một xã đồng bằng của huyện miền núi Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, nằm bên dòng sông Cầu, cách thị trấn Neo 3 km, cách Thành phố Bắc Giang 18 km. Địa giới hành chính của xã Tư Mại như sau: Phía Bắc giáp xã Cảnh Thụy. Phía Nam giáp Huyện Quế Võ, Bắc Ninh. Phía Đông giáp xã Đồng Phúc. Phía Tây giáp xã Thắng Cương. Xã có đường chiến lược quân sự nối giữa 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, có dòng sông Cầu chảy qua và đây cũng là đường phân giới tự nhiên giữa Bắc Giang và Bắc Ninh. Các tuyến đường liên thôn, liên xã rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với các xã, thị trấn trong huyện và khu vực. Do đó đã tạo điều kiện phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống. Là một xã thuộc huyện miền núi nhưng Tư Mại lại là một xã có địa hình tương đối bằng phẳng, đặc trưng của một xã ven sông và được chia làm 2 vùng rõ rệt: + Vùng phía trong đê, địa hình bằng phẳng rất thuận lợi cho việc trồng các loại cây lương thực, cây rau màu và trong chăn nuôi. + Vùng ven đê, địa hình thấp hơn vùng phía trong đê, có nhiều ao hồ thuận lợi cho việc lập trang trại, chăn nuôi thuỷ sản, thuỷ cầm và có thể kết hợp trồng cây lương thực và nuôi trồng thuỷ sản.... Nhìn chung địa hình của xã tương đối tốt là tiềm năng cho việc phát triển kinh tế nông thôn của xã. 3.1.1.2 Điều kiện thời tiết, khí hậu, thuỷ văn: Tư Mại nằm trong vùng Đông Bắc Bộ và vẫn chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh, mùa hạ tương đối nóng. - Về nhiệt độ: Tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là tháng 1 là 14.8oC, tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6-7 là 30oC. - Về lượng mưa: Bình quân cả năm là 2016mm, được chia ra làm 2 mùa rõ rệt: + Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10 với tổng lượng mưa là 1833mm chiếm 90.87% lượng mưa cả năm. + Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 với tổng lượng mưa là 183.9mm chiếm 9.13% lượng mưa cả năm. - Về độ ẩm không khí: Độ ẩm bình quân qua các năm là 81-87%, tháng 6 và tháng 12 có độ thấp nhất 81-82%, từ tháng 1 đến tháng 5 có độ ẩm cao từ 86-87%. - Gió: tốc độ gió trung bình từ 1.0-1.5m/s, mùa đông gió tập trung theo 2 hướng: Đông Bắc nửa mùa và Đông Nam từ tháng 2 trở đi, mùa hạ gió chủ yếu là Đông Nam và gió Nam chiếm 60-70%. - Sông ngòi: Xã có sông Cầu chảy qua, kết hợp với ao hồ trong xã tạo thành nguồn nước mặt phong phú cung cấp cho quá trình sản xuất nông nghiêp trên địa bàn xã. Nhìn chung điều kiện tự nhiên của xã Tư Mại đã tạo điều kiện thuận lợi lớn để phát triển kinh tế tổng hợp và đặc biệt là phát triển sản xuất nông nghiệp, tạo ưu thế và mở rộng giao lưu kinh tế với các địa bàn khác. Tuy nhiên ngoài những mặt thuận lợi mà điều kiện tự nhiên đem lại thì nó vẫn còn ẩn chứa những khó khăn nhất định: Khí hậu có hai mùa rõ rệt, một mặt làm phong phú cây, con giống trong quá trình sản xuất, một mặt nó cũng có những hạn chế do khí hậu mang lại, nhất là trong điều kiện khí hậu biến đổi thất thường như hiện nay. Điển hình chính là đợt rét dậm, rét hai vừa qua, nó đã gây tác hại to lớn trong quá trình sản xuất nông nghiệp của địa phương. Ngoài ra, sự biến đổi khí hậu cũng tác động tiêu cực tới hệ thống ao hồ và sông ngòi của xã. Do phụ thuộc khá nhiều vào diện tích nước mặt trong sản xuất nông nghiệp, vì vậy nếu thời tiết không thuận lợi, nắng hạn kéo dài diện tích nước mặt xuống thấp nên sẽ không đảm bảo nước tưới cho sản xuất nông nghiệp. Mặt khác nếu mưa lũ liên tục, hệ thống thoát nước không đảm bảo tiêu nước thì lại gây ra hiện tượng ngập úng.... Có thể nói ngoài những thuận lợi mà điều kiện tự nhiên đem lại trong quá trình sản xuất nông nghiệp, thì những tác hại mà chúng mang tới cũng không hề nhỏ. Điều này cần đặt ra cho các cấp lãnh đạo xã phải có những kế hoạch sản xuất để tận dụng những thuận lợi và phải có những giải pháp hợp lý trong quá trình sản xuất để khắc phục khó khăn. 3.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội 3.1.2.1 Tình hình phân bố đất đai của xã qua 3 năm: Đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bổ dân cư, xây dựng kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Vì vậy vấn đề sử dụng đất đai có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội của xã: Qua bảng 3.1 ta thấy xã có tổng diện tích đất tự nhiên là 1153.33ha được chia làm 2 loại đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp. Qua 2 năm cơ cấu của hai nhóm đất này là không có sự thay đổi. Trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất 52.42%, diện tích đất phi nông nghiệp chiếm 37.50% và diện tích đất chưa sử dụng là 7.08% trong tổng diện tích đất tự nhiên. Đến năm 2008 tỷ lệ này đã có sự thay đổi do có quyết định giảm 1.97ha từ đất nông nghiệp chuyển sang cho đất phi nông nghiệp làm cho đất phi nông nghiệp tăng lên 37.67% trong tổng diện tích tự nhiên trung bình qua 3 năm tăng 0.23%. Đất thổ cư tăng lên 0.7ha tức từ 65.8ha năm 2007(chiếm 15.21%) lên 66.5% năm 2008 (chiếm 15.31%) diện tích đất phi nông nghiệp, bình quân qua 3 năm tăng 0.35% là do trong xã có nhiều gia đình tách hộ và xã có chủ trương giãn dân làm cho diện tích đất thổ cư tăng lên rõ rệt. Đất chuyên dùng tăng từ 129.13ha chiếm 29.86% cả trong 2 năm 2006 – 2007 lên 130.40ha chiếm 30.02% năm 2008 chủ yếu là do diện tích đất trụ sở xây dựng, đất quốc phòng an ninh, đất giao thông và đất thuỷ lợi. Do quá trình gia tăng dân số và số người chuyển đến tăng nhanh làm cho bình quân đất canh tác/khẩu cũng giảm dần qua 3 năm từ 0.044ha/người năm 2006 xuống còn 0.042ha/người năm 2008. Bình quân qua 3 năm giảm 2.3% và diện tích đất nông nghiệp/khẩu nông nghiệp cũng giảm từ 0.054ha/người bình quân 3 năm giảm 2.67%. Nhìn chung tình hình sử dụng đất đai của xã còn chưa được triệt để diện tích đất chưa được sử dụng còn nhiều 81.66ha chiếm 7.08% trong tổng diện tích đất tự nhiên và qua 3 năm không có sự chuyển đổi gì. Việc thống kê diện tích đất đai vẫn còn chậm và hạn chế, đặc biệt và việc thống kê diện tích các trang trại được hình thành trong các năm gần đây. Như vậy trong thời gian tới xã cần có chủ trương hợp lý trong việc khai thác và sử dụng diện tích đất đất chưa sử dụng, có được số liệu thống kê về diện tích trang trại trên địa bàn xã. Kết hợp với đó là có chính sách phù hợp trong chuyển đổi cơ cấu diện tích đất đai để phát triển kinh tế trên địa bàn xã, làm tăng chất lượng cuộc sống cho người dân. Bảng 3.1 Tình hình phân bổ đất đai của xã Tư mại qua 3 năm (2006-2008) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 So sánh (%) SL(ha) CC(%) SL(ha) CC(%) SL(ha) CC(%) 07/06 08/07 BQ Tổng diện tích đất tự nhiên 1153.33 100.00 1153.33 100.00 1153.33 100.00 100.00 100.00 100.00 I. Đất nông nghiệp 639.17 55.42 639.17 55.42 637.20 55.25 100.00 99.69 99.85 1. Đất trồng cây hàng năm 492.36 77.03 429.36 77.03 490.39 76.96 100.00 99.60 99.80 2. Đất trồng cây lâu năm 88.00 13.77 82.09 12.84 76.53 12.01 93.28 93.23 93.25 3. Đất nuôi trồng thuỷ sản 58.81 9.20 64.72 10.13 70.28 11.03 110.04 108.59 109.06 II. Đất phi nông nghiệp 432.50 37.50 432.50 37.50 434.47 37.67 100.00 100.46 100.23 1. Đất ở 65.80 15.21 65.80 15.21 66.50 15.31 100.00 101.06 100.53 2. Đất chuyên dùng 129.13 29.86 129.13 29.86 130.40 30.02 100.00 100.98 100.49 - Đất XDCB 7.89 6.11 7.89 6.11 8.42 6.46 100.00 106.72 103.31 - Đất quốc phòng an ninh 1.13 0.88 1.13 0.88 1.54 1.18 100.00 136.28 116.74 - Đất kinh doanh phi nông nghiệp 0.13 0.10 0.13 0.10 0.13 0.10 100.00 100.00 100.00 - Đất giao thông 59.75 46.27 59.75 46.27 59.99 46.00 100.00 100.40 100.20 - Đất thuỷ lợi 47.17 36.53 47.17 36.53 47.26 36.24 100.00 100.19 100.09 - Đất khác 13.06 10.11 13.06 10.11 13.06 10.12 100.00 100.00 100.00 3. Đất nghĩa trang, nghĩa địa 5.50 1.27 5.50 1.27 5.50 1.27 100.00 100.00 100.00 4. Đất sông suối, ao hồ 230.26 53.24 230.26 53.24 230.26 53.00 100.00 100.00 100.00 III. Đất chưa sử dụng 81.66 7.08 81.66 7.08 81.66 7.08 100.00 100.00 100.00 IV. Một số chỉ tiêu bình quân - - - - - - - - - 1. BQ đất NN/khẩu NN 0.057 - 0.055 - 0.054 - 96.49 98.18 97.33 2. BQ canh táckhẩu NN 0.044 - 0.043 - 0.042 - 97.73 97.67 97.70 (Nguồn: Ban địa chính xã Tư Mại) 3.1.2.2 Tình hình hộ khẩu và lao động của xã qua 3 năm: Dân số và lao động ở nông thôn là những vấn đề nóng hổi được toàn xã hội quan tâm, là yếu tố vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất nói chung và trong sản xuất nông nghiệp nói riêng. Qua bảng 3.2 ta thấy là một xã có tổng diện tích tích đất tự nhiên lớn nhưng dân số tập trung đông, toàn xã có 2692 hộ năm 2006 và không nghừng tăng lên trong những năm tiếp theo. Đến năm 2008 là 2856 hộ, trong đó có 2125 hộ thuần nông, chiếm 74.40%, số hộ kiêm là 487 hộ chiếm 17.05% và số hộ phi nông nghiệp là 244 chiếm 8.54% trong tổng số hộ của toàn xã. Qua 3 năm tỷ lệ số hộ làm nông nghiệp giảm từ 77.38% năm 2006 xuống 77.19% năm 2007 và còn 74.40% năm 2008. Số hộ phi nông nghiệp tăng từ 15.04% năm 2006 lên 15.19% năm 2007 và 17.05% năm 2008. Số hộ phi nông nghiệ._. trung tâm xã, ngoài ra do hệ thống giao thông thuận lợi nên việc giao lưu với các trung tâm lớn như thị trấn Neo, thành phố Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Lạng Sơn... Điều này rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi và nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ trên địa bàn xã. Các yếu tố liên quan đến chủ trương, chính sách: Do có nhiều điều kiện phát triển chăn nuôi trong các hộ gia đình và gần đây là phát triển các trang trại theo mô hình Ao - Chuồng, nên những năm gần đây UBND xã Tư Mại và huyện yên dũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho các hộ như: Cho thuê đất dài hạn, hàng năm tổ chức it nhất 2 lần các lớp khuyến nông phổ biến về tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực chăn nuôi lợn, cách phòng chữa dịch bệnh trong chăn nuôi. Và hàng năm đã có trên 80% số hộ chăn nuôi lợn tham gia các lớp học này (Theo các bộ khuyến nông xã Tư Mại cung cấp), qua mỗi đợt học tập, bồi dưỡng, hộ chăn nuôi, đặc biệt là người phụ nữ tham gia lớp học đã được tiếp cận khá nhiều những kiến thức. Đây cũng là cơ sở để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ ở các hộ chăn nuôi lợn thịt. Trên đây chỉ là một số các yếu tố chính, còn rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ tại các hộ chăn nuôi như tuổi tác,... Qua bảng 14, chúng ta có thể thấy được yếu tố thời gian, kinh phí và năng lực bản thân là những yếu tố ảnh hưởng nhiều tới việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ tại các hộ được điều tra tại xã Tư Mại, còn các yếu tố còn lại theo người phụ nữ tại các hộ thì chúng có ảnh hưởng không nhiều và ảnh hưởng không đều ở các nhóm hộ. Đây chính là một cơ sở để cho các cơ quan Nhà nước, các trung tâm nghiên cứu tiếp tục đi xâu tìm hiểu các vấn đề này để có biện pháp và chính sách nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ tại địa bàn xã Tư Mại nói riêng và các địa phương khác nói chung. 4.3 NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM LỢN THỊT CHO PHỤ NỮ XÃ TƯ MẠI, HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG 4.3.1 Những giải pháp chung để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho người phụ nữ nông thôn Người phụ nữ nông thôn cũng chính là những nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp ở nông thôn. Tuy nhiên họ là phụ nữ - là đối tượng phải chịu nhiều thiệt thòi về mọi thứ từ trước đến nay như: ít được học hành hơn, làm nhiều công việc hơn, ít được quan tâm, là đối tượng của nhiều định kiến,....Khi tham gia vào nền sản xuất hàng hoá hiện nay những điều đó đã tác động không nhỏ đến phụ nữ đặc biệt là phụ nữ nông thôn. Bởi vậy bên cạnh những giải pháp nâng cao năng lực TCTT cho nông dân thì song song với những giải pháp đó cần phải có giải pháp riêng để giúp người phụ nữ nông thôn hoà nhập với nền kinh tế thị trường hiện nay mà không phải chịu thiệt thòi. Chủ động hơn trong việc xây dựng các giải pháp sáng tạo nhằm hỗ trợ nữ nông dân: Nhìn chung các dịch vụ khuyến nông cần được cải thiện, mở rộng phạm vi để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người nông dân trong các hệ thống nông nghiệp đa dạng. Cần có bước cải tiến để đáp ứng trực tiếp hơn nữa nhu cầu của nữ nông dân. Ví dụ, qua các chương trình phát thanh nhằm vào thính giả là nữ giới và thông qua các chương trình phát thanh này có thể lồng ghép những kiến thức về thị trường cho nông dân nói chung và phụ nữ ở nông thôn nói riêng. Hỗ trợ việc đào tạo kỹ năng cho phụ nữ: Hoà nhập kinh tế và thương mại không có nghĩa là phụ nữ đã được đảm bảo an toàn về công việc. Để đảm bảo chắc chắn sự an toàn trong điều kiện hiện nay cần phải tạo cơ hội cho phụ nữ nâng cao kỹ năng và trình độ giáo dục của mình. Cần tiến hành đánh giá hiệu quả các chương trình hiện có và các chương trình cần được xem xét và điều chỉnh để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu tương lai về kỹ năng trong nền kinh tế thị trường định hướng xuất khẩu, nhất là kỹ năng tiếp cận thị trường. Tạo cơ hội cho phụ nữ tiếp cận với các nguồn lực tài chính: Tài chính chính là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để phụ nữ nông thôn có thể tham gia vào thị trường. Để phụ nữ có cơ hội này, trước hết cần thực hiện Luật đất đai mới, đảm bảo cho 100% phụ nữ được đứng tên trong giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất. Chỉ có như vậy, khi có điều kiện, chị em mới có thể chủ động sử dụng quyền sở hữu nhà đất để đi vay vốn sản xuất mà không phải phụ thuộc nhiều vào quyết định của người chồng. Bên cạnh đó, các kênh tín dụng của Nhà nước và Hội phụ nữ cần tạo điều kiện thuận lợi cho chị em tiếp cận được với các nguồn vốn để sản xuất, kinh doanh và có cơ hội nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho chính bản thân mình. Nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh của phụ nữ nhằm nâng cao vị thế kinh tế của phụ nữ trong gia đình dẫn đến nâng cao năng lực TCTT cho chị em. Để thực hiện được điều này đòi hỏi vai trò rất lớn của Hội Phụ nữ kết hợp với các tổ chức đoàn thể xã hội khác như Hội nông dân, Tổ chức khuyến nông ...trong việc hỗ trợ về vốn, về kỹ thuật sản xuất v.v... Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế là một trong 6 chương trình lớn của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Mở ra các cơ hội kinh tế đối với phụ nữ: Phụ nữ Việt Nam là lực lượng lao động cần cù, tích cực ở mọi ngành nghề, đặc biệt trong ngành nông nghiệp của nước ta hiện nay (ngành có số lao động đông nhất), khi nhiều nam giới rời bỏ nông thôn ra thành phố kiếm việc làm thì 70% lao động trong nông nghiệp là phụ nữ. Những bà mẹ, chủ gia đình, những nữ thanh niên đi tiên phong trong lao động, sản xuất cải tạo giống, tăng năng suất cây trồng,... Tại các ngành buôn bán và kinh doanh, dịch vụ phụ nữ tham gia cũng rất đông. Vì vậy, việc tạo cơ hội ngang bằng cho nam nữ trong hoạt động kinh tế là yêu cầu cấp bách. Cần tạo cơ hội cho phụ nữ tiếp cận với các ngành nghề mới, kỹ thuật mới, tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế. Trên thực tế phụ nữ bị hạn chế về trình độ và năng lực không phải vì họ nhận thức kém hơn nam giới, mà do gia đình chưa thực sự quan tâm cũng như Nhà nước thiếu những chính sách chú ý đến việc đào tạo bồi dưỡng lao động nữ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. 4.3.2 Những giải pháp để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ tại các hộ chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn xã Tư Mại a/ Bồi dưỡng nâng cao khiến thức về mọi mặt cho phụ nữ Trong quá trình chăn nuôi lợn thịt tại các hộ trên địa bàn xã Tư Mại người phụ nữ ngày càng thể hiện vai trò quan trọng, họ là lực lượng lao động chính, đảm nhận hầu hết các công việc chăm sóc trong quá trình chăn nuôi. Do vậy sự hạn chế về trình độ văn hóa, năng lực của phụ nữ trong các hộ chăn nuôi như hiện nay đã và đang là những nhân tố kìm hãm sự phát huy vai trò của người phụ nữ và sự tiếp cận thị trường của họ trong quá trình chăn nuôi. Như vậy chỉ có giáo dục toàn diện mới thực sự mở mang trí tuệ, tài năng sức lực của phụ nữ, học tập để nâng cao trình độ là chìa khóa vàng để mở của cho người phụ nữ vươn lên giành quyền bình đẳng, chống phân biệt đối sử. Qua đó giúp họ có thể tiếp cận một cách toàn diện thị trường trong quá trình chăn nuôi, quá trình tiếp cận sẽ dễ dàng hơn. Để thực hiện được điều này phải tạo điều kiện cho phụ nữ trên địa bàn xã Tư Mại được bình đẳng trong giáo dục và nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ. Chính quyền và hộ gia đình phải có các hỗ trợ và khuyến khích cho phụ nữ và trẻ em gái được đi học với các mô hình giáo dục xóa mù chữ, phổ cập cấp I, cấp II, đặc biệt là cần quan tâm tói phụ nữ và trẻ em trong các gia đình nghèo hay gặp hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn xã. Nâng cao và cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe và bảo vệ phụ nữ và trẻ em băng việc nâng cao các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nâng cao kinh nghiệm trong việc chăn nuôi... bằng những mô hình như tổ chức hội phụ nữ tiết kiệm lồng ghép với dân số, sức khỏe sinh sản, câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, phụ nữ giúp nhau làm kinh tế... có như vậy mới có điều kiện học hỏi nâng cao tầm hiểu biết cho người phụ nữ. Đồng thời cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, bồi dưỡng và giáo dục những kiến thức về kinh tế thị trường, kiến thức về chăn nuôi, kiến thức về pháp luật trên địa bàn xã dưới nhiều hình thức khác nhau như qua các lớp học, các buổi thảo luận nhóm của hội phụ nữ... trong các thôn và trên xã. Ngoài ra chúng ta cần phải đẩy mạnh phát triển sản xuất, mở rộng quy mô và sản xuất theo hướng chăn nuôi hàng hóa. b/ Hỗ trợ vốn cho phụ nữ trong các hộ chăn nuôi Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay vốn cho phát triển kinh tế hộ gia đình nói chung và trong chăn nuôi nói riêng là một vấn đề rất quan trọng, thiếu vốn là nguyên nhân cản trở khả năng phát triển trong chăn nuôi của người phụ nữ. Thực tế điều tra cho thấy, việc tiếp cận nguồn vốn của phụ nữ trong các hộ chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn xã Tư Mại đang gặp nhiều khó khăn. Việc tiếp cận nguồn vốn của Ngân hàng thì bị hạn chế, chủ yếu là người chồng được tiếp cận do việc vay ngân hàng thủ tục phức tạp và đòi hỏi phải có tài sản thế chấp. Còn đối với việc tiếp cận nguồn vốn từ hội đoàn thể, và ở đây chủ yếu là hội phụ nữ, do số lượng vốn có hạn nên số người được vay cũng rất hạn chế và phải tiến hành bình xét... Vậy đòi hỏi nhà nước và các cấp lãnh đạo cần có các chính sách phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho chị em được tiếp cận nguồn vốn, các tổ chức xã hội như hội phụ nữ, hội nông dân tăng khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng, vốn từ các chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo điều kiện để cho phụ nữ trên địa bàn xã tập huấn về cách sử dụng và trực tiếp sử dụng nguồn vốn. Đặc biệt thời gian tới cần nâng cao kỹ năng quản lý kinh doanh, định hướng cho họ phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa như vậy đồng vốn chị em bỏ ra mới sinh lời. Tổ chức chính quyền địa phương cũng phải tuyên truyền động viên phụ nữ tiếp thu các giống mới cho năng suất cao, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong chăn nuôi. Đặc biệt hội phụ nữ cần hướng dẫn chị em lập kế hoạch chăn nuôi, hạch toán lỗ lãi trên một đồng vốn cho vay và đầu tư vào mô hình chăn nuôi cho hiệu quả, tổ chức các buổi học tập trao đổi kinh nghiệm trong chăn nuôi, từ đó từng bước nâng cao năng lực cho phụ nữ trong việc tiếp cận và sủ dụng đồng vốn nói riêng và tiếp cận các loại thị trường quan trọng khác trong chăn nuôi. c/ Cải thiện cơ sở hạ tầng và tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận các loại thông tin Cơ sở hạ tầng là thước đo sự phát triển kinh tế xã hội của một đại phương, nhất là các công trình phúc lợi công cộng đem lại rất nhiều lợi ích cho người dân nói chung và cả người phụ nữ trong các hộ chăn nuôi nói riêng cả về vật chất và tinh thần, đặc biệt là trong tiếp cận thị trường trong quá trình chăn nuôi. Để thực hiện tốt vấn đề này cần thực hiện một số công việc sau: Phát triển sâu rộng hơn nữa hệ thống nhà trẻ mẫu giáo, trường học để chị em gửi con và yên tâm tham gia công việc chăn nuôi sản xuất, ngoài ra có thêm thời gian để tiếp cận các nguồn thông tin và tiếp cận thị trường liên quan đến chăn nuôi lợn thịt. Ngoài ra cũng là để thu hút nhiều hơn trẻ đến trường, nâng cao chất lượng giản dạy, tạo điều kiện cho con em trong xã được học tập tốt, từ đó nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là trình độ văn hóa của người phụ nữ vì đây là cơ sở quan trọng để cho chị em có thể tiếp cận thị trường được tốt hơn. Cải tạo và nâng cấp hệ thống thông tin, xây dựng nhà văn hóa, điểm văn hóa thôn, thành lập thư viện tủ sách ở các thôn để chị em trong xã có thể đến đó đọc sách báo, tham gia sinh hoạt vui chơi giải trí nâng cao hiểu biết và các kiến thức kinh tế, xã hội và kiến thức liên quan đến chăn nuôi lợn thịt và việc tiếp cận thị trường trong lĩnh vực này. Đặc biệt, dựa theo kinh nghiệm từ Bộ NN&PTNT, Intel Việt Nam và chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) trong việc hỗ trợ nông dân tiếp cận thị trường qua mạng cần hướng cho phụ nữ tiếp cận nguồn thông tin từ Internet, đây là một nguồn thông tin rất phong phú cả về chất lượng và số lượng. Ngoài ra còn có thể sản xuất các đĩa CD ROM có chứa các kiến thức về chăn nuôi hay thông tin về thị trường theo kinh nghiệm của Uganda.... Phấn đấu đến năm 2010 có 100% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, làng văn hóa, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, tạo điều kiện cho chị em vươn lên. Xây dựng và đầu tư trang thiết bị y tế xã đảm bảo cho việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng, tăng cường công tác khám chữa bệnh định kỳ cho phụ nữ, đảm bảo sức khỏe cho họ, để người phụ nữ có thể tham gia quá trình chăn nuôi sản xuất, tăng cường tiếp cận thị trường. Chính quyền xã và các tổ chức đoàn thể cần phải tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến thông tin về kinh tế thị trường, KHKT, văn hóa xã hội thông qua hệ thống loa phát thanh ở các thôn xóm, phát nhiều lần và vào nhiều thời diểm thích hợp... d/ Tăng cường mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, trong tiêu thụ và các mối liên kết trong chăn nuôi Hiện nay thị trường các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm lợn thịt của các hộ vẫn còn rất hạn chế cả về chất lượng và số lượng. Các mối liên kết trong quá trình chăn nuôi và tiêu thụ thì hạn chế, hình thức liên kết chỉ thấy xuất hiện ở một số hộ chăn nuôi với đại lý thức ăn, với một số thương lái và sự liên kết này thường không bền chặt. Vì vậy chính quyền các cấp, người phụ nữ và các hộ chăn nuôi cần có những chính sách những biện pháp để mở rộng thị trường tại địa phương và các khu vực khác, đặc biệt trong tiêu thụ cần hướng vào những thị trường ổn định và mang lại lợi nhuận cao nhữ các nhà máy chế biến, hay xuất khẩu ra nước ngoài.... Ngoài ra chính quyền, người phụ nữ trong các hộ chăn nuôi cần xây dựng thêm các mối liên kết trong chăn nuôi, trong tiêu thụ như: Liên kết giữa các hộ chăn nuôi với nhau để trao đổi kinh nghiêm, tạo thuận lợi trong sản xuất và trong tiêu tụ, liên kết giữa hộ chăn nuôi với người cung cấp các yếu tố đầu vào, giữa các hộ với người tiêu thụ, và đặc biệt là mối liên kết khá mới hiện nay là liên kết 4 nhà (Nhà nước – Nhà nông – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp).... PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 KẾT LUẬN Nghề chăn nuôi lợn thịt ở xã Tư Mại đã mang lại hiệu quả cao cho các hộ chăn nuôi, bước đầu đã có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội to lớn trong việc khai thác tiềm năng phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và chăn nuôi lợn thịt nói riêng của địa bàn xã Tư Mại, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn hợp lý. Trong đó người phụ nữ trong các hộ chăn nuôi trên địa bàn xã Tư Mại có một vai trò quan trọng trong quá trình chăn nuôi, họ là lực lượng lao động chính, đảm nhận nhiều công việc quan trọng trong quá trình chăn nuôi. Tuy nhiên khả năng tiếp cận thị trường của họ lại không hề tương xứng với vai trò quan trọng đó. Trên địa bàn xã, các hộ chăn nuôi với nhiều quy mô khác nhau, nhưng có một nét chung là khả năng tiếp cận thị trường của người phụ nữ trong các nhóm hộ này là rất hạn chế. Với độ tuổi trung bình tương đối trẻ, là độ tuổi thuận lợi để cho người phụ nữ tham gia chăn nuôi sản xuất, phát triển kinh tế hộ. Trình độ học vấn và chuyên môn của người phụ nữ trong các nhóm hộ còn rất hạn chế, tất cả họ đều không được qua các khóa đào tạo cơ bản về chăn nuôi hay phát triển kinh tế trang trại, trình độ học vấn thì rất thấp. Song song với trình độ học vấn và trình độ chuyên môn hạn chế thì năng lực tiếp cận thị trường liên quan đến sản phẩm lợn thịt của họ cũng rất thấp. Trong việc tiếp cận thị trường các yếu tố đầu vào: Về thị trường đất đai phụ nữ ở các nhóm tiếp cận được với thị trường đất đai thông qua việc đứng tên trong sổ đỏ và trong văn bản nhận thầu đất là rất ít. Còn về tiếp cận nguồn vốn, nhưng người phụ nữ lại rất hạn chế trong việc tiếp cận thị trường này, đặc biệt là việc tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng nông nghiệp & PTNT. Việc tiếp cận thị trường vật tư trong quá trình chăn nuôi lợn thịt của người phụ nữ có được cải thiện (đặc biệt trong tiếp cận thị trường con giống và thức ăn) nhưng vẫn còn nhiều hạn chế trong việc ra quyết định. Tiếp cận trong tiêu thụ cũng là vấn đề đáng quan tâm khi mà kênh tiêu thụ của hộ thì phong phú nhưng hình thức tiêu thụ thì đơn giản và hạn chế, chủ yếu là bán cho người thu gom và lò mổ dưới hình thức bán tự do khi có sản phẩm và không theo hợp đồng. Tỷ lệ phụ nữ tham gia quyết định bán sản phẩm cũng khá cao, nhưng phần lớn quyết định của cả hai vợ chồng, trong khi đó khả năng tự quyết định chỉ có ở nhóm hộ II và III, đây cũng chính là các hộ có chủ hộ là phụ nữ. Trong tiếp cận thông tin về thị trường thì người phụ nữ có môi trường, cơ sở vật chất cho việc tiếp cận thông tin tốt nên nguồn thông tin mà người phụ nữ nói riêng và các hộ chăn nuôi nói chung mà nguời phụ nữ có thể tiếp cận là rất phong phú, người phụ nữ có thể tiếp cận thông tin qua tivi, đài báo, qua bạn bè hàng xóm, qua thương lái, qua thông tin thị trường từ chợ nằm trên địa bàn xã… Tuy nhiên việc tiếp cận thông tin của họ vẫn còn nhiều hạn chế ở mức độ đơn giản, cả về nguồn và nội dung thông tin. Đặc biệt thông tin mà họ cập nhật chủ yếu là thông tin về giá cả và các yếu tố đầu vào, còn thông tin về tiêu chuẩn của sản phẩm, nhu cầu của thị trường, thị trường tiêu thụ lại rất hạn chế, nên phạm vi thị trường tiêu thụ chỉ ở cấp độ tại địa phương chưa có sự hướng ra bên ngoài hoặc tới một thị trường cao hơn. Mặt khác nguồn tiếp cận thông tin thì lại chủ yếu là các nguồn không chính thống nên dễ dẫn đến tình trạng sai về thông tin, dẫn đến chăn nuôi không có hiệu quả. Tiếp cận trong hạch toán kinh tế mức độ thường xuyên hạch toán của các nhóm hộ điều tra đạt tỷ lệ khá cao, ngoài ra tỷ lệ phụ nữ áp dụng kết quả, kinh nghiệm của lần chăn nuôi trước tại các nhóm hộ đạt 100%. Tuy nhiên quá trình tiếp cận trong hạch toán kinh tế của người phụ nữ trong các hộ chăn nuôi trên địa bàn xã vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế như hạn chế về trình độ và năng lực, trong hạch toán chi phí của các hộ không rõ ràng, quyền quyết định trong việc tiếp cận các yếu tố đầu vào và trong tiêu thụ là do người chồng… những khó khăn này đã ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng hạch toán của người phụ nữ tại các hộ được điều tra. Tuy đã có những bước tiến trong việc tiếp cận thị trường mà phụ nữ tại các hộ chăn nuôi lợn thịt đã đạt được trong thời gian qua nhưng nhìn chung họ vẫn còn rất nhiều hạn chế trong việc tiếp cận. Sự hạn chế đó là do trong quá trình chăn nuôi và tiếp cận thị trường liên quan đến sản phẩm lợn thịt người phụ nữ đã gặp nhiều khó khăn, và chính những khó khăn này đã cản trở họ như: Vốn, giá cả, thông tin thị trường, các mối quan hệ, xa thị trường…. Ngoài ra, cùng với những khó khăn mà người phụ nữ đang gặp phải trong quá trình tiếp cận thị trường sản phẩm lợn thịt trong quá trình nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nói trên họ còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như: thời gian, kinh phí, năng lực bản thân, điều kiện kinh tế xã hội… Để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ tại các hộ chăn nuôi lợn thịt trên địa bàn xã, giúp họ vượt qua được những khó khăn và tránh được những ảnh hưởng nói trên chúng ta cần phải thực hiện tốt các giải pháp đã nêu ra, các giải pháp đó phải đảm bảo đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn của nó với tính khả thi cao trên địa bàn xã Tư Mại – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới. 5.2 KIẾN NGHỊ * Đối với Nhà nước Nhà nước cần có chính sách kinh tế xã hội thiết thưch hơn nữ đối với phụ nữ, đảm bảo sự bình đẳng giới, nâng cao địa vị của người phụ nữ trong xã hội. Tạo điều kiện tốt nhất cho họ bắt kịp với tiến bộ phát triển chung của nhân loại. Đầu tư các công trình phúc lợi ở nông thôn như trạm y tế, trường học, đường xá, hệ thống điện nước sạch...từ đó có điều kiện nâng cao dân trí, cải thiện sức khỏe cộng đồng. Xây dựng các dự án chương trình nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn trong đó cần đặc biệt quan tâm đến những dự án dành cho phụ nữ, giúp họ có công ăn việc làm, có vốn, kiến thức chuyên môn để sản xuất nâng cao thu nhập nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản. Ban hành các chính sách và biện pháp nhằm phát triển thị trường nông sản ở khu vực nông thôn theo cả chiều rộng và chiều sâu, thúc đẩy phát triển của sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.... * Đối với các cấp chính quyền và đoàn thể địa phương Tổ chức đoàn thể địa phương tranh thủ sự đầu tư của Nhà nước, tổ chức tuyên truyền sâu rộng và thường xuyên về bình đẳng giới, Phối hợp và phát huy vai trò của các đoàn thể như hội phụ nữ, hội nông dân trong công tác tập huấn, tổ chức công tác đào tạo, nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn kỹ thuật cho phụ nữ. Đào tạo kỹ năng kinh doanh và hạch toán kinh tế cho người phụ nữ trong các hộ để tăng hiệu quả trong quá trình chăn nuôi. Tổ chức đoàn thể địa phương tạo điều kiện cho phụ nữ được vay vốn với lãi xuất thấp, thành lập các nhóm phụ nữ giúp nhau trong chăn nuôi.... Chính quyền xã thôn, cần có những chính sách thúc đẩy sự phát triển của thị trường đầu vào trong chăn nuôi lợn thịt ngay tại địa phương để tạo thuận lợi trong việc tiếp cận thị trường này cho người phụ nữ. Cần hỗ trợ người phụ nữ và các hộ các hộ chăn nuôi xây dựng tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ, hình thành các mối liên kết trong quá trình chăn nuôi và trong tiêu tụ để việc chăn nuôi đạt hiệu quả hơn. Tăng cường học hỏi và tiếp cận đời sống, văn hóa hiện đại, từng bước mở mang kiến thức xóa bỏ hủ tục và định kiến đối với phụ nữ... * Đối với người phụ nữ tại các hộ chăn nuôi lợn thịt trong xã Không ngừng nâng cao trình độ, năng lực của bản thân để việc tiếp cận được dễ dàng và hiệu quả hơn như Cần tiếp cận thông tin nhiều, đa dạng hơn. Nên cập nhật thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và chọn lọc thông tin chính xác nhất sao cho không bị ép giá, không bị “mua đắt, bán rẻ”. Ngoài ra các chị em nên năng động, chủ động hơn trong việc tiếp cận với thị trường đầu vào và đầu ra. Một điều quan trọng nữa là tích cực tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật, các lớp kỹ năng tiếp cận thị trường nếu xã tổ chức… Vượt qua được bản thân, những định kiến của xã hội hay những khó khăn khác để tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, ngày càng khẳng định vai trò của mình trong chăn nuôi nói riêng và trong phát triển kinh tế hộ nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo đánh giá kết quả kinh tế xã hội của xã Tư Mại trong các năm 2006, 2007, 2008. Báo cáo thiết minh kiểm kê đất đai xã Tư Mại trong năm 2006, 2007, 2008. Tạp chí Nông thôn đổi mới, Số 181/2006, trang 15. Cuốn cẩm nang "Thúc đẩy sự thay đổi: cơ sở cho lồng ghép giới". Nhà xuất bản SEAGEP. Trang 10. TS. Trần Văn Đức - ThS. Lương Xuân Chính. Giáo trình Kinh tế học vi mô. NXB Nông Nghiệp. 2006. Trang 114. Nguyễn Thị Loan - KT48A. Luận văn tốt nghiệp Đại Học “Vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở xã Tây Đằng, huyện Ba Vì, Tỉnh Hà Tây”. 2007 - Nguyễn Thị Thu Hà - KT46B. Luận văn tốt nghiệp Đại Học “Nâng cao trình độ tiếp cận thị trường nông sản cho các chủ trang trại thuộc địa bàn huyện Gia Lâm – Hà Nội”. 2005 Tài liệu từ Internet PHỤ LỤC BẢNG HỎI PHỎNG VẤN HỘ NÔNG DÂN (Đối tượng phỏng vấn là phụ nữ) Quy mô nuôi (lợn thịt):........ con I. Thông tin cơ bản về người phụ nữ 1. Họ và tên: Tuổi: ........ 2. Địa chỉ: Thôn , Xã Tư Mại, Huyện Yên Dũng, Tỉnh Bắc Giang. 3. Trình độ văn hoá: Lớp /12. 4. Trình độ nghề nghiệp:(Ghi rõ bằng cấp nghề gì hay chưa qua Đào tạo) 5. Số khẩu của gia đình:..........(Người). II. Trình độ của người phụ nữ 1. Bà có là thành viên của tổ chức kinh tế - xã hội nào không? - Có - Không Ghi cụ thể: .................... Tổ chức đó đem lại lợi ích gì cho bà trong quá trình phát triển kinh tế hộ không? Có - Không Nếu có (ghi cụ thể): .................... .................... 2. Bà có thăm quan các mô hình kinh tế tiên tiến nào không? - Có - Không (Mỗi năm.........lần) Ai là người thường đi thăm quan? 3. Bà rút ra được những kinh nghiệm, hay học hỏi được gì từ những kinh nghiệm đó khi tham quan các mô hình trên - Nảy sinh ý tưởng làm ăn mới?............................................................. - Học hỏi được kinh nghiệm về: a. Quản lý b. Tiến bộ kĩ thuật c. Tìm kiếm đối tác d. Kiến thức, kinh nghiệm Cụ thể: .................... 4. Bà có tiếp xúc với các đối tượng sau Thường xuyên Bình thường Ít Không bao giờ Chuyên gia kinh tế Nhà khoa học Cán bộ KHKT Nông dân điển hình Các doanh nghiệp 5. Bà có tham gia các lớp tập huấn nào không? - Có - Không Tại sao:.................................................................................................... Một năm.....lần Do............. tổ chức Lớp tập huấn đó được tổ chức do: -Yêu cầu các chương trình của các nghành, các cấp - Do các hội viên yêu cầu 6. Kết quả của các lớp học (tập huấn) ở trên là Như mong đợi vì: .................... Không như mong đợi vì: .................... Giải quyết được vấn đề: .................... 7. Bà có bao giờ đọc các tài liệu hay xem các chương trình dạy về cách chăn nuôi không? - Thường xuyên - Thỉnh thoảng - Không bao giờ 8. Bà hiểu thế nào là cầu và cung về sản phẩm chăn nuôi không? - Có - Không 9. Bà có ghi chép, tính toán toàn bộ chi phí và có tính toán lỗ, lãi trong sản xuất không? - Thường xuyên - Thỉnh thoảng - Không bao giờ 10. Bà có dùng kết quả sản xuất kinh doanh của lần chăn nuôi trước làm căn cứ, kinh nghiệm cho vụ sản xuất sau không? - Có - Không Tại sao:.................................................................................................... ........................................................................................................................... III. Vấn đề tiếp cận thị trường của phụ nữ A. Thị trường các yếu tố đầu vào: 1. Sổ đỏ chứng minh quyền sử dụng đất của gia đình bà được ghi tên ai? - Chồng - Vợ - Cả hai vợ chồng 2. Trong gia đình bà ai là người quyết định trong việc chọn giống và loại vật tư chăn nuôi trong quá trình sản xuất? Loại vật tư Vợ Chồng Cả hai Giống Thức ăn chăn nuôi Thuốc thú y Các loại khác 3. Bà thường mua những loại vật tư nào để phục vụ việc chăn nuôi của gia đình? ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… 4. Thông thường bà thường mua giống, vật tư chăn nuôi ở đâu? Loại vật tư Tư nhân HTX DNNN Tự làm Giống Thức ăn chăn nuôi Thuốc thú y Các loại khác 5. Bà thường mua giống và vật tư chăn nuôi dưới hình thức nào? - Mua chịu đến khi bán lợn thì trả - Trả tiền ngay - Lúc nào có tiền thì trả 6. Bà thường mua giống và vật tư nông nghiệp vào lúc nào? - Lúc nào cần thì mua - Khi giá vật tư giảm ( rẻ ) 7. Giá cả các loại vật tư bà mua so với giá thị trường như thế nào? Các loại vật tư Giá cao hơn Giá thấp hơn Bằng nhau Giống Thức ăn chăn nuôi Thuốc thú y Các loại khác 8. Khi giá vật tư lên cao hoặc xuống thấp bà có biết hay không? - Có - Không 9. Nếu biết thì bà thường biết thông qua nguồn nào? - Hàng xóm, bạn bè - Trưởng thôn thông báo - Ti vi, đài - Tạp chí - Internet - Nguồn khác 10. Gia đình bà tiếp cận vốn từ nguồn nào sau đây Nguồn vốn Lãi xuất Số lượng vốn Thời hạn Tự có Ngân hàng Tư nhân Dự án HTX Nguồn khác Các khó khăn gặp phải khi tiếp cận nguồn vốn trên:........................................ 11. Ai là người đi vay vốn trong gia đình bà? - Vợ - Chồng - Cả hai vợ chồng 12. Gia đình bà có liên kết với các cá nhân, các tổ chức trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào hay không? - Có - Không Nếu có thì nhằm mục đích gì (Đảm bảo chất lượng, số lượng các yếu tố đầu vào, giá thành rẻ hơn, có thể chịu được...)? B. Thị trường tiêu thụ sản phẩm: 1. Hộ bán lợn cho ai, ở mức độ nào: 0: không bán 1: bán ít 2: bán bình thường 3: bán nhiều Chỉ tiêu Chọn mức độ bán 0 1 2 3 Bán cho người thu gom Bán cho thợ thịt tại nhà Bán cho nhà máy theo hợp đồng Bán cho đối tượng khác 2. Ai là người quyết định bán sản phẩm? - Chồng - Vợ - Cả hai vợ chồng 3. Trước khi bán bà có biết các thông tin về thị trường như: người bán, người mua, giá cả, cạnh tranh... không? - Có - Không 4. Bà thường cập nhật thông tin về thị trường từ các nguồn nào - Sách báo, tạp chí - Vô tuyến - Truyền thanh - Bạn bè, hàng xóm - Trưởng thôn phổ biến thông tin - Internet - Nguồn khác..................................................................................................... 5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của hộ hiện nay là - Địa phương Chiếm..... % - Thành phố Chiếm..... % - Ngoại tỉnh Chiếm..... % - Xuất khẩu Chiếm..... % 6. Quá trình tiêu thụ sản phẩm của hộ là: - Tiêu thụ dễ - Tiêu thụ bình thường - Khó tiêu thụ - Không tiêu thụ được 7. Giá bán ở địa phương so với các nơi khác như thế nào? - Cao hơn - Thấp hơn - Bằng nhau Tại sao:.................................................................................................... 8. Bà có thường xuyên tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của mình không? - Không - Ít - Bình thường - Thường xuyên 9. Bà thấy mình gặp khó khăn nào nhất trong các khâu tiếp cận thị trường sau: - Thông tin về thị trường - Giao thông - Xa thị trường chính - Vốn chăn nuôi - Sản phẩm không đảm bảo tiêu chuẩn - Mối quan hệ - Khó khăn khác .................... 10. Bà có cho rằng muốn hộ tiếp cận thị trường tiêu thụ tốt cần phải liên kết với các hộ, các đối tượng khác không? - Có - Không 12. Hiện nay hộ có liên kết với các hộ, các đối tượng nào không, cụ thể: - Có - Không Nếu có ghi cụ thể.................................................................................... IV. Về nâng cao năng lực tiếp cận thị trường 1. Bà có muốn tham gia các lớp tập huấn để tăng khả năng tiếp cận thị trường không? - Có - Không 2. Theo bà yếu tố nào sau đây ảnh hưởng tới việc nâng cao trình độ tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn? - Thời gian - Kinh phí - Năng lực bản thân - Quyết tâm của bản thân - Cơ sở vật chất - Tuổi tác - Điều kiện kinh tế xã hội - Các chủ trương chính sách 3. Bà có kiến nghị gì với các cấp các ngành để viêc tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn được tốt hơn? .................... .................... 4. Bảng tổng hợp kết quả hoạt động chăn nuôi lợn thịt của hộ ĐVT: triệu đồng/lứa Chỉ tiêu Giá trị thành tiến Tổng chi phí Tổng thu từ bán sản phẩm Doanh thu Xin chân thành cảm ơn ! ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37. LUU XUAN CONG.doc
Tài liệu liên quan