Nghiên cứu một số chế phẩm dược liệu có nguồn gốc từ nấm linh chi ở Việt Nam

MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây ngành nuôi trồng nấm phát triển mạnh mẽ trên cả nước, tổng các loại nấm ăn và nấm dược liệu trong năm 2006 ước tính đạt khoảng 1,5 triệu tấn. Nghề nuôi trồng nấm ra đời đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân và làm giàu cho rất nhiều hộ gia đình. Với nguồn nguyên liệu chủ yếu là phế thải nông nghiệp và công nghiệp, do đó ngành nuôi trồng nấm đã góp phần giải quyết nạn ô nhiễm môi trường đang xảy ra trên toàn cầu. Đặc biệt hơn nữa

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu một số chế phẩm dược liệu có nguồn gốc từ nấm linh chi ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, nấm không chỉ là nguồn dinh dưỡng an toàn cho con người mà nấm còn được xem như là một trong những nguồn dược liệu quí mà hiện nay đang được sử dụng để chữa bệnh ngày càng phổ biến. Trong đó, linh chi được xem như là một loại tiên dược, có thể chữa được bách bệnh, giúp con người trường thọ. Các nghiên cứu dược học hiện đại đã chứng minh linh chi chứa tới 120 chất, bao gồm các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố vi lượng và các vitamin... linh chi có tác dụng đặc biệt đối với các triệu chứng suy giảm miễn dịch, căng thẳng thần kinh suy sụp tinh thần, giải độc kém, ít ngủ, các triệu chứng của hệ tim mạch, ăn không ngon, bệnh béo phì, da xấu do nhiều nếp nhăn. Linh chi cũng có tác dụng trong việc ngăn ngừa bệnh AIDS và làm chậm quá trình phát bệnh ở bệnh nhân đã mắc phải bệnh này. Họ đã sử dụng các phương pháp bào chế thông thường là ngâm rượu, cắt lát nấu lấy nước, nghiền bột để uống, cũng có thể bào chế thành viên nang, viên hoàn thuốc tiêm [1]. Ở Nhật Bản, người ta sử dụng nấm như là nguồn thực phẩm và dược phẩm hàng đầu, do đó họ có sức khỏe rất tốt và tuổi thọ cao. Không chỉ dùng đơn thuần dạng nấm tươi mà ở Nhật nấm còn được sản xuất thành nhiều dạng sản phẩm như: nước tương, bột nấm, nước chao, súp nấm, thực phẩm chức năng bổ, các loại, thuốc, trà...để điều trị một số bệnh như: viêm phế quản mãn tính, bệnh tim mạch, viêm gan cấp và mãn, viêm khớp, viêm phổi... Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để nghề nuôi trồng nấm phát triển. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa là điều kiện phù hợp cho ngành trồng nấm quanh năm, nguồn nguyên liệu dồi dào, lực lượng lao động đông. Trong khi đó, trồng nấm thì không cần đất mà chỉ cần diện tích nhỏ, vốn đầu tư thấp, vòng quay ngắn, hiệu quả cao gấp chục lần so với cây lúa…. Xã hội ngày càng phát triển, điều kiện sống và nhu cầu của con người ngày càng cao, kéo theo đó là các bệnh tật hiểm nghèo cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Việc điều trị bằng các loại thuốc, hóa chất trị liệu hiện nay vẫn còn rất khan hiếm và đắt tiền so mức thu nhập của người Việt Nam (chưa kể đến các tác dụng phụ). Trong khi đó nấm Linh chi với giá thành tương đối rẻ và có hiệu quả cao trong việc điều trị và làm thuyên giảm một số căn bệnh như: ung thư, đái đường, các vấn đề về tim mạch, hô hấp, HIV,… Chính những lý do như trên mà chúng tôi đã đề xuất đề tài “Nghiên cứu một số chế phẩm dược liệu có nguồn gốc từ nấm linh chi ở Việt Nam” nhằm góp phần đa dạng hơn về các chế phẩm thuốc từ nấm, hạn chế phần nào các bệnh tật hiểm nghèo đang ngày càng tràn lan. Chương I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và dược liệu ở Việt Nam và trên thế giới 1.1.1. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu trên thế giới Hiện nay, nghề trồng nấm đã phát triển trở thành một ngành công nghiệp ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt phải kể đến là Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ,... Việc nuôi trồng nấm linh chi được ghi nhận từ năm 1621, nhưng đến 300 năm sau (1936), với thành công của GS Dật Kiến Vũ Hưng (Nhật) thì ngành nuôi trồng nấm mới được phổ biến. Nếu tính từ 1979 sản lượng nấm linh chi khô ở Nhật đạt 5 tấn/năm thì đến năm 1995, sản lượng lên đến gần 200 tấn/năm. Như vậy là 16 năm, sản lượng nấm linh chi của Nhật đã tăng gấp 40 lần [4]. Hàng năm, thế giới sản xuất khoảng 4300 tấn nấm linh chi, trong đó riêng Trung Quốc trồng khoảng 3000 tấn, còn lại các quốc gia khác như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan, Hoa Kỳ, Malaysia, Việt Nam, Indonesia, Srilanca. Trong khi Nhật Bản là nước đưa ra kỹ thuật nuôi trồng nhưng hiện nay đứng sau Trung Quốc. Kỹ thuật nuôi trồng linh chi ngày càng phát triển và tại Việt Nam nhiều nhà nghiên cứu đã thành lập một trại nuôi trồng và bào chế linh chi ở Sài Gòn từ năm 1987 [9]. Nhóm nấm quý họ linh chi (Ganodermataceae) sống trên cây, trên gỗ hay rễ cây mục. Cho tới nay đã có 386 tên loài được ghi nhận trên toàn thế giới, trong đó 221 loài được các nhà khoa học công nhận, hơn 200 loài còn lại là các loài đồng nghĩa, các loài được sắp xếp nhầm vào họ linh chi và gần 10 loài chưa xác định loại được. Trên thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thì từ lâu nấm linh chi đã được nghiên cứu và sử dụng vào việc phòng và điều trị bệnh. Đến nay công nghệ nuôi trồng nấm ở các quốc gia này đã phát triển ở quy mô công nghiệp hiện đại và đem lại nguồn thu khá lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Sản xuất nấm phát triển đã tận dụng nguyên liệu thừa trong các ngành công nghiệp, nông lâm nghiệp, cùng một lúc đem lại sản phẩm có giá trị, hiệu quả kinh tế cao, đồng thời góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ môi trường. Đến nay việc nghiên cứu về nấm linh chi không còn giới hạn trong phạm vi đất nước Trung Quốc, mà đã mang tính toàn cầu. Hiện nay có khoảng 250 bài báo của các nhà khoa học trên thế giới đã được công bố liên quan tới dược tính và lâm sàng của linh chi. Tháng 7 /1994, Hội nghị Nấm học thế giới tại Vancouver, Canada đã nhất trí thành lập viện nghiên cứu linh chi Quốc Tế, đặt trụ sở tại NewYork (Hoa Kỳ) [8]. Nhiều công trình nghiên cứu về linh chi đã chứng minh trong linh chi chứa nhiều hợp chất germanium và polysaccharid có tác dụng thúc đẩy quá trình trao đổi chất; làm chậm quá trình lão hóa; tăng cường miễn dịch cho cơ thể; nâng cao khả năng đề kháng bệnh; điều tiết hệ thần kinh trung ương, giúp thăng bằng cơ năng; ổn định huyết áp; bảo vệ gan; bổ não, tăng trí thông minh, tăng trí nhớ; giảm nhẹ các tác dụng phụ ở bệnh nhân ung thư khi điều trị bằng hóa dược liệu;...Chính vì thế mà ở châu Á việc sử dụng linh chi làm thuốc, thực phẩm chức năng, trà thuốc trở nên rất phổ biến và số người sử dụng linh chi ngày càng một tăng trong những năm gần đây [1]. 1.1.2. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu ở Việt Nam Từ những năm 70, đặc biệt trong các năm 80 và 90 của thế kỷ XX ở Việt Nam nấm linh chi đã được quan tâm và nghiên cứu nhiều về thành phần hóa học cũng như tác dụng dược lý và quy trình sản xuất ra các chế phẩm. Hiện nay, các chế phẩm từ linh chi đã được con người ưa chuộng và sử dụng ngày càng rộng rãi với nhiều hình thức đa dạng về chủng loại như: thuốc tiêm, cồn thuốc, cao dán, thuốc xông và cao thuốc dùng ngoài. Việc nghiên cứu phân lập nhóm hoạt chất làm thuốc còn rất hạn chế, cần được quan tâm nhiều hơn. Trong công nghiệp điều chế, nhóm polysaccharid rất được chú ý, ngoài ra các acid amin và các nguyên tố vi lượng cũng được quan tâm [1]. Ở nước ta, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã khẳng định nấm linh chi có thể chữa khỏi hoặc hạn chế các bệnh hiểm nghèo như: ung thư, đái đường, tim mạch, hô hấp… Giá trị dược liệu của nấm linh chi đã được ghi chép trong các thư tịch cổ, cách nay hơn 4000 năm. Trong “Thần nông bách thảo” đã đề cập đến 365 dược thảo và linh chi được xếp vào loại thượng dược, ở vị trí số một sau đó mới đến nhân sâm và phân biệt linh chi thảo theo màu sắc: xích chi (linh chi đỏ), huỳnh chi (linh chi vàng), hắc chi (linh chi đen), tử chi (linh chi tím), bạch chi (linh chi trắng) và thanh chi (linh chi xanh) có tác dụng làm thuốc tốt nhất nên gọi Lục Bảo Linh chi [2]. Đại danh y Lý thời trần viết: “Linh chi, dùng lâu người nhẹ nhàng, trẻ lâu, sống lâu như thần tiên”. Ngành nuôi trồng nấm dược liệu trong những năm gần đây phát triển mạnh mẽ, tổng sản lượng ước tính đạt khoảng 100.000 tấn/năm. Với công nghệ ngày càng hiện đại, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu thành công các nguồn nguyên liệu nuôi trồng nấm linh chi thay cho mùn cưa cao su trước đây. Kết quả này đã góp phần tránh lãng phí và hạn chế sự ô nhiễm môi trường bởi nguyên liệu được sử dụng là phế thải của các nhà máy đường, công nghiệp dệt như: bã mía, bông thải,…[2]. Đặc biệt trong một vài năm gần đây con người đã tìm kiếm và phát hiện một lượng khá lớn nấm cổ linh chi tại một số vùng núi cao ở nước ta. Đây là một kho tàng sản phẩm quí của y dược Việt Nam, cần được nghiên cứu sâu để ứng dụng đưa vào sản xuất, khai thác và phát triển nấm linh chi ở nước ta [1]. 1.2. Thành phần hoá học của nấm linh chi Thành phần hóa học của G.lucidum gồm các chất: Nước : 12-13% Lignin : 13-14% Cellulose : 54-56% Hợp chất nitơ : 1,6-2,1% Hợp chất phenol : 0,08- 0,1% Hợp chất steroid : 0,11-0,16% Chất béo : 2% Chất khử : 4-5% Saponin toàn phần : 0,3-1,23% Acaloide và glucoside tổng số : 1,82-3,06% Các nguyên tố vô cơ như: Ag, Br, Ca, Fe, K, Na, Mg, Mn, Zn, ...Hai nguyên tố quan trọng nhất là selenium và germanium [4]. 1.2.1. Các polysaccharid [1] Phần lớn thực vật chứa polysaccharid, nhưng trong thời gian khá dài chưa được quan tâm, gần đây các nhà khoa học đã biết polysaccharid là nhóm chất có tác dụng đặc biệt, nhất là các polysaccharid chứa trong nấm. Tác dụng chống ung thư và tăng cường miễn dịch, kéo dài tuổi thọ của nhóm chất này được nhiều người quan tâm và đã được ứng dụng trên lâm sàng. Đã chiết tách bằng nước nóng hồng chi thể quả và phân lập được 18 polysaccharid trong đó bao gồm 7 polysaccharid liên kết protein, 4b-glucan còn lại là các polysaccharid khác. 1.2.2. Các 3-terpen Các chất thuộc nhóm 3-terpen được phát hiện từ năm 1982 từ hồng chi. Cho đến nay được chia làm 3 loại: C30, C20 và C24 hoặc 5 loại theo công thức cấu tạo [1]. 1.2.3. Các alcaloid Phần lớn dược thảo chứa alcaloid là nhóm chất có tác dụng sinh học. Alcaloid linh chi cũng là nhóm chất có tác dụng điều trị. Cho đến nay đã chiết xuất được hơn 6 alcaloid từ linh chi. Trong quá trình tách chiết betain còn thu được một số chất khác cũng dạng tinh thể là g-butirobetain (CH3)3N+CH2CH2CH2COOHCl-.H2O và este của g-butirobetain. Alcaloid trong tử chi và hồng chi chủ yếu là g-butirobetain. Hồng chi nuôi trồng nhân tạo chứa một lượng rất nhỏ g-butirobetain. Bào tử của tử chi người ta còn tách chiết được C9H15O2SH2O là một dạng muối có điểm chảy 262-2630C từ phần tan trong nước [1]. 1.2.4. Các acid amin Acid amin không những là thành phần cấu tạo nên các protid, không những có tác dụng dinh dưỡng đối với người, mà còn có tác dụng chữa bệnh. Trong linh chi thành phần các acid amin rất phong phú. Hồng chi có 17 loại rất cần cho cơ thể người. Xích chi có hàm lượng acid amin rất cao (14,55%). Thể sợi của linh chi cũng chứa 17 acid amin. Các acid amin có tác dụng rất tốt đối vời người bị xơ gan hoặc viêm gan. Lượng acid amin có trong thể sợi nấm linh chi là 1,88%. Địa điểm, phương pháp nuôi trồng hoặc lên men khác nhau có ảnh hưởng lớn đến chủng loại acid amin và số lượng của chúng. Linh chi trồng nhân tạo chứa acid amin cao hơn so với loại mọc hoang [1]. 1.2.5. Các nguyên tố vi lượng Gần đây đã phát hiện các nguyên tố vi lượng có quan hệ đến sự phát sinh và phát triển của nhiều loại bệnh tật, có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển và sức khỏe con người. Đã phát hiện nhiều loại thảo dược có tác dụng bổ dưỡng chứa nhiều loại nguyên tố vi lượng có tác dụng kéo dài tuổi thọ. Tác dụng chữa bệnh bổ dưỡng của linh chi rất có thể có sự góp phần của các nguyên tố vi lượng. Tuy nhiên ở linh chi mọc hoang hay nuôi trồng cũng đều chứa một nguyên tố vi lượng độc hại như Pb hoặc Cd [1]. 1.2.6. Các nhóm chất có hoạt tính sinh học cao Các nhóm chất polysaccharid, 3-terpen và các alcaloid được xem là các nhóm chất có tác dụng. Polysaccharid linh chi có tác dụng tăng cường miễn dịch, nâng cao khả năng đề kháng của cơ thể, đặc biệt đối với điều kiện, môi trường bên ngoài khắc nghiệt, tăng khả năng chịu đựng của cơ thể trong trường hợp thiếu dưỡng khí, có tác dụng điều tiết cơ năng của cơ quan trong cơ thể. Nhóm này được chia làm 5 nhóm nhỏ, trong đó 3 nhóm đầu do độ lớn nhỏ của phân tử khác nhau như BN3B, BN3C và GLA là các polysaccharid peptid có phân tử lượng 1~2 vạn có tác dụng khá rộng. Các polysaccharid BN3C và GLA có hoạt tính khá đặc biệt [1]. Trong số 3-terpen của linh chi thì các acid ganoderic C và D có khả năng ức chế sự giải phóng amin. Trong các alcaloid linh chi thì g-butirobetain có tác dụng tăng thời gian tuần hoàn và tăng lưu lượng máu ở tim. 1.3. Giá trị dược liệu của linh chi Theo giáo sư Hiroshi Hikino thì linh chi là một trong những vị thuốc bổ quan trọng nhất trong đông y. Các thầy thuốc đã dùng linh chi trong các chứng mệt mỏi, suy nhược, tiểu đường, các chứng bệnh về gan, về nhiều chứng bệnh thuộc chứng đề kháng của cơ thể. Theo Lý Thời Trần trong “Bản Thảo Cương Mục” thì linh chi có tác dụng bổ tâm khí, chữa các chứng nhói ngực. Hiện nay, linh chi được dùng để giảm áp huyết, kích thước sự làm việc của gan, tẩy máu, và giúp cơ thể chống lại các chứng lao lực quá độ. Trong một mức độ nào đó, linh chi có tác dụng giải độc cho cơ thể. Ngoài ra, linh chi còn được dùng để chữa bệnh mất ngủ, lở dạ dày, tê thấp, xuyễn sưng cổ họng. Người ta cũng không thấy phản ứng phụ hay tác dụng xấu nào khi dùng linh chi lâu. Người Trung Quốc hiện nay còn dùng linh chi để cho da mặt mịn, có lẽ là do các chất hormone trong loại nấm này. Nhiều y gia Nhật Bản đã dùng loại nấm này trong các loại thuốc trị rụng tóc. Vì tác dụng bổ khí và làm tăng hệ thống miễn dịch của cơ thể, mà người ta đã dùng linh chi phụ với các loại thuốc trị ung thư. Bác sĩ Fukumi Morishige, chuyên gia giải phẫu tim đang nghiên cứu công dụng của linh chi trong việc trị bệnh ung thư tại viện Linus Paulong Institate of Science & Medicine (Hoa Kỳ). Ông cho biết dùng linh chi chung với vitamin C liều lượng lớn có tác dụng mạnh hơn vì vitamin C giúp cho việc hấp thụ dược tính của linh chi. Nhiều trường hợp chữa lành hay thuyên giảm bệnh đã được bác sĩ Morishige trình bày trên các tập sang y học…những công dụng của linh chi vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, dùng đơn lẻ hay dùng chung với các dược thảo khác. Hầu như linh chi có thể dùng để chữa rất nhiều chứng bệnh khác nhau nên người ta đã đặt cho linh chi cái tên “ Nấm Trường Sinh ” [1]. Nhiều tác giả trên thế giới cho thấy trong quả thể cũng như khuẩn ty nấm có gần 100 chất. Các nhóm chất và các chất có hoạt tính sinh học là: protein, polysaccharid, 3-terpen, steroid, alcaloid, nucleotid, acid béo, enzyme kháng sinh và các germanium…Về mặt hoạt tính dược lý, các hoạt chất thuộc nhóm acid béo có khả năng ức chế giải phóng histamin. Nhóm nucleotid ức chế kết dính tiểu cầu, thư giãn cơ, giảm đau. Nhóm protein chống dị ứng phổ rộng, điều hoà miễn dịch. Nhóm alcaloid trợ tim. Nhóm steroid giải độc gan ức chế sinh tổng hợp cholesterol; nhóm ester với các acid béo không no linoleic được ghi nhận 1991có hoạt tính chống ung thư trong công trình nghiên cứu của Lin, C.N. et al [5]; nhóm polysaccharid hạ đường huyết; nhóm 3-terpen hạ huyết áp ức chế Angiotensine Conversion enzyme (ACE), bảo vệ gan, chống khối u…Ngoài các tác dụng đã được chứng minh từ lâu đối với các bệnh ung thư phổi, ung thư vú và ung thư dạ dày. Gần đây người ta còn thấy linh chi có tác dụng với ung thư tử cung, ung thư khoang miệng, ung thư dạ dày, ung thư gan…Đặc biệt nếu kết hợp với hoá trị liệu sẽ có kết quả nhanh hơn [4]. 1.4. Tác dụng dược lý của nấm linh chi [1] 1.4.1. Tác dụng của linh chi trên thần kinh 1.4.1.1. Tác dụng trên thần kinh trung ương Dịch chiết thể sợi nuôi cấy tầng sâu của linh chi đa niên có tác dụng tăng cường ức chế thần kinh trung ương của các thuốc nhóm barbital, làm giảm hưng phấn trung khu thần kinh, có tác dụng trấn tĩnh. Các nhà nghiên cứu viện y học Bắc Kinh đã tiến nghiên cứu trên đối tượng chuột nhắt và đưa ra kết quả dịch chiết cồn ethanol thể sợi, khi tiêm phúc mạch chuột nhắt trắng với liều 5g/kg thể trọng thì sau 1-2 ngày xuất hiện tác dụng trấn tĩnh thần kinh, làm giảm rõ rệt các hoạt động. Tác dụng trấn tĩnh có thể duy trì sau 2 giờ. Linh chi còn có tác dụng giảm cơn co giật do nicotin gây ra. 1.4.1.2. Tác dụng giảm đau Các nhà khoa học Trung Quốc cũng nghiên cứu đối tượng chuột nhắt trên mô hình tấm nóng đã chứng minh được linh chi có tác dụng ức chế phản ứng xoay mình của chuột nhắt, có tác dụng làm giảm đau. Hiệu quả điều trị của linh chi trên các bệnh nhân bị suy nhược thần kinh, mất ngủ, còn được coi là tác dụng bảo vệ hệ thần kinh trung ương, giảm hưng phấn, giảm kích thích ngoại cảnh, từ đó giúp cho bệnh nhân chìm trong giấc ngủ, tạo điều kiện cho tế bào não nghỉ ngơi và tăng cường quá trình trao đổi chất của tế bào thần kinh, giúp cho thần kinh trung ương điều tiết chuẩn xác hệ thần kinh thực vật và hoạt động nội tạng nâng cao khả năng bảo vệ cơ thể. 1.4.2. Tác dụng chống ung thư Polysaccharid là hoạt chất chủ yếu có tác dụng tăng cường miễn dịch và kháng u. Phân tử lượng của hợp chất này lớn hơn 104. Tác dụng kháng u phụ thuộc vào cấu tạo của các polysaccharid, chủ yếu phụ thuộc vào sự sắp xếp của các chuỗi phân tử và số lượng nhóm OH trên các chuỗi, thường là các chất co khả năng tan trong nước nóng, có các chuỗi phân tử chính D-glycopyranosy (1à4)-a- và-b-và (1à6)-b- và chuỗi (1à3)-b-arabinosa. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã nghiên cứu tương đối kỹ tác dụng kháng u của polysaccharid linh chi tan trong nước có chứa a-fructose, b-fructose. Họ chứng minh hợp chất FA có phân tử lượng khoảng 150.000 có tác dụng tốt nhưng các hợp chất FG và MGF lại không có tác dụng. Viện y học Nhật Bản cũng chứng minh được khi uống một mình linh chi thì tác dụng không rõ rệt nhưng khi kết hợp các phương pháp điều trị ung thư khác, tác dụng của linh chi rất hữu hiệu do tăng khả năng miễn dịch và ức chế khả năng sinh sản tế bào ung thư. Các nhà khoa học ở Phúc Kiến (Trung Quốc) còn nhận thấy, khi kết hợp với đông trùng hạ thảo thì tác dụng ức chế rõ rệt. Khi quan sát dưới kính hiển vi cho thấy, nhóm không dùng thuốc, các tế bào ung thư và các tổ chức xung quanh dính liền với nhau, xâm nhập vào cơ và cả tổ chức mô mỡ. Nhóm dùng thuốc, không thấy có biểu hiện trên. Trên mô hình ung thư phổi, khả năng hạn chế đạt tới 60%. Họ đã chứng minh tác dụng trên là do cơ chế miễn dịch tế bào, trực tiếp tăng cường hoạt tính tế bào NK hoặc thông qua hoạt tính của tế bào lympho T. Nhưng khả năng tăng cường miễn dịch của linh chi là quan trọng nhất. 1.4.3. Tác dụng lên hệ tuần hoàn Linh chi có tác dụng rất tốt đối hệ tuần hoàn như: Ổn định huyết áp; lọc sạch máu tăng cường tuần hoàn máu; giảm mệt mỏi, hỗ trợ thần kinh; chống đau đầu và tứ chi; điều hoà kinh nguyệt; làm da dẻ hồng hào chống các bênh ngoài da như dị ứng,.... 1.4.4. Thúc đẩy quá trình tiết insulin Nấm linh chi tác dụng đặc biệt trong việc loại trừ chất cholesterol trong các thành mạch lọc sạch máu thúc đẩy quá trình lưu thông máu; cải thiện cơ bản thiểu năng insulin nguyên nhân chính gây ra bệnh tiểu đường. Nghiên cứu của Lin JM (1995) cho thấy linh chi có tác dụng phục hồi chức năng gan trong bệnh tiểu đường. Ngoài ra, theo khảo cứu của Mizuno T. (1996) linh chi còn làm giảm glucose- huyết ở chuột bình thường và chuột gây bị tiểu đường (theo báo khoa học phổ thông, chuyên đề Nấm và sức khỏe 2006, 63:801) .Vì vậy sử dụng linh chi để phòng chữa bệnh tiểu đường là rất tốt. 1.4.5. Tác dụng chống quá trình làm lão hoá 1.4.5.1. Tác dụng dọn các gốc tự do Năm 1956, Harmarn đưa ra lý thuyết gốc tự do. Ông cho rằng các phân tử trong tế bào giải phóng ra các gốc tự do và chuyển các gốc tự do này thúc đẩy quá trình lão hóa. Gốc tự do không ngừng sản sinh trong quá trình trao đổi chất của tế bào, làm tổn thương ngay các tế bào, giảm hoạt tính của các enzyme, phát sinh sai sót trong quá trình tổng hợp và hấp thụ các acid amin, xuất hiện các biểu hiện dị thường trong các màng tế bào, thúc đẩy quá trình lão hóa và xuất hiện các trạng thái bệnh lý cùng tuổi tác tăng lên, khả năng chống oxy hóa, các enzyme chống oxy hóa nội sinh, khả năng phòng vệ các gốc tự do tự sản sinh trong cơ thể mỗi năm một giảm làm tăng quá trình lão hóa. Nhiều tác giả đã sử dụng vitamin để đo hoạt tính của enzyme peroxy hóa (SOD) của các polysaccharid linh chi, khả năng ức chế được biểu thị (Inb%) như sau: GLA (70%), GLB (59%), GLC (29%), GLA, GLB đều có khả năng tạo ra SOD, nhưng GLA tốt hơn cả. Ngoài ra các tác giả còn sử dụng phương pháp MDA-TBA để đánh giá khả năng thải trừ các gốc OH tự do của GLA, GLB và GLC (66,7%), GLB (57,6%), GLC (45,4%). Như vậy cả 3 polysaccharid đều có khả năng giảo phóng đối với gốc OH tự do. Với phương pháp TBA để đo khả năng ức chế protid tế bào bị oxy hóa, kết quả thu được như sau: (Inb %), GLB (45%), GLC (86%), khả năng ức chế gốc O2- đối với protein hồng cầu. Tương tự các gốc OH tự do trong huyết tương của thỏ và gốc H2O2/Fe3+. Nghiên cứu trên dung dịch thuốc tiêm linh chi nhận thấy khả năng dọn các gốc tự do platin tạo ra tỷ lệ thuận với hàm lượng thuốc sử dụng. Một số tác giả còn chứng minh, linh chi có tác dụng kéo dài tuổi sống của côn trùng vùng American Wildtype và ruồi Cantons. Những nghiên cứu liên quan đến tác dụng chống lão hóa của linh chi còn khá nhiều, cơ chế cũng phức tạp. Nhưng thông qua những nghiên cứu trên có thể thấy công dụng của linh chi trên phương diện chống lão hóa là rất rõ ràng. 1.4.5.2. Tác dụng cân bằng trao đổi chất Khả năng tổng hợp và hấp thụ các acid amin và protein của người già bị giảm sút, làm cho quá trình trao đổi chất trong tế bào bị rối loạn, đẩy nhanh quá trình già hóa tế bào và làm chết tế bào. Nhiều nhóm nghiên cứu đã chứng minh ảnh hưởng của polysaccharid linh chi, đặc biệt BN3C đối với khả năng tổng hợp và hấp thu các acid amin và protein. Họ đã chứng minh BN3C làm tăng khả năng liên kết của 3H-acid amin với protein huyết thanh và protein trong tế bào gan tăng 25% và 13,9% so với nhóm đối chiếu, và làm tăng hàm lượng sắc tố P450 trong tế bào gan 19,7% so với nhóm đối chiếu, làm tăng khả năng giải độc của gan, làm tăng khả năng tổng hợp protein trong tủy xương, giảm các tổn thương trong tế bào tủy xương. Đây là một trong các cơ chế quan trọng của tác dụng chống lão hóa của linh chi. 1.4.6. Tác dụng của linh chi lên hệ tim mạch 1.4.6.1. Tác dụng cường tim Nhóm nghiên cứu thuộc Viện Y Học Bắc Kinh đã chứng minh, linh chi có tác dụng cường tim rõ rệt, có tác dụng gia tăng lực co bóp tim, gia tăng lưu lượng máu qua tim, còn nhịp tim thay đổi không đáng kể. Polysaccharid linh chi hòa tan trong thuốc cũng có tác dụng cường tim rõ rệt. 1.4.6.2. Tác dụng của linh chi đối với bệnh nhồi máu cơ tim Các nhà khoa học Trung Quốc đã chứng minh, dịch chiết linh chi tiêm tĩnh mạch có khả năng cải thiện điện tâm đồ đối với động vật thí nghiệm bị nhồi máu cơ tim cấp, làm giảm đoạn ST trên điện tâm đồ, tăng lưu huyết tại vùng thiếu cơ tim cục bộ, cải thiện khả năng dưỡng huyết, giảm sự hao tổn dưỡng khí. Linh chi không chỉ thay đổi áp lực động mạch vành, mà còn làm tăng khả năng cung cấp máu cho tim, giảm nhịp tim, giảm mỡ máu. 1.4.7. Tác dụng bảo vệ gan của linh chi Nhóm nghiên cứu thuộc đại học Y Bắc Kinh đã tiến hành thí nghiệm nghiên cứu trên chuột nhắt trắng (Cavia porcellus) và chứng minh được linh chi có thể vệ gan, làm giảm nhẹ tổn thương tế bào gan do CCl4 (tetrachlorurcacbon) gây ra. Polysaccharid linh chi cũng có tác dụng tăng tích lũy anbumin huyết tương. Trên lâm sàng linh chi cũng đã được nghiên cứu có tác dụng bảo vệ gan, phục hồi chức năng gan và điều trị khá tốt bệnh viêm gan B. Nhóm sterois giải độc gan, bảo vệ gan ngừng tổng  hợp cholestrol, trung hòa virus, ức chế nhiều loại vi khuẩn gây bệnh nên có hiệu quả rất tốt đối với bệnh về gan mật như viêm gan, xơ gan, gan nhiễm mỡ. Giáo sư Lâm Chí Bân đã khẳng định sử dụng chất đa đường chiết xuất từ nấm linh chi có tác dụng bổ gan, khống chế có hiệu quả đối với viêm gan mãn do virus đạt hiệu quả 97-98%, bổ trợ cho điều trị ung thư gan (theo báo khoa học phổ thông, chuyên đề Nấm và sức khỏe 2006, 63:801). 1.4.8. Tác dụng của linh chi lên hệ tiêu hóa Linh chi có tác dụng làm giảm vết loét dạ dày, ức chế vết loét chảy máu ở thượng vị giảm tiết dịch vị và giảm diện tích loét do acid gây ra. 1.4.9. Các tác dụng khác của linh chi 1.4.9.1. Tác dụng đối chống nhiễm xạ của linh chi Một số công trình nghiên cứu đã chứng minh khi họ dùng Co chiếu vào toàn thân của động vật và gây ra tổn thương phóng xạ, trước khi chiếu xạ họ đã cho một nhóm đông vật sử dụng linh chi trong vòng 3 tuần, chiếu xạ xong tiếp tục cho dùng trong 2 tuần nữa. Sau 30 ngày kết quả cho thấy tỷ lệ tử vong của nhóm động vật có dùng linh chi thấp hơn 37% so với nhóm đối chiếu. Như vậy linh chi có khả năng giảm nhẹ tổn thương, kéo dài thời gian sống do phóng xạ gây ra. 1.4.9.2. Linh chi chữa bệnh rụng tóc Thuốc chữa rụng tóc chế từ linh chi đem lại hiệu quả rất tốt. Năm 1986, Tào Nhân Liệt đã dùng linh chi để chữa cho 232 bệnh nhân, sau khi dùng thuốc, ngắn nhất là sau 1 tuần, dài nhất là sau 6 tuần, phần lớn bệnh nhân sau 30 ngày điều trị đã có hiệu quả. Nhóm dùng viên chữa rụng tóc có hiệu quả kém hơn so với nhóm dùng linh chi. Đồng thời tác giả cũng nhận thấy trong tổng số 232 bệnh nhân, có đến 164 có triệu chứng đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, ngủ mơ, ăn uống kém. Nhưng sau khi điều trị bằng linh chi các triệu chứng trên đều biến mất. Sau khi tiêm 10 mũi thuốc tiêm linh chi, nhiều bệnh nhân có cảm giác da đầu nhẹ nhàng, êm ái. Sau khi điều trị đều trở lại ở mức bình thường do linh chi có khả năng tăng cường miễn dịch, cải thiện tuần hoàn máu làm thúc đẩy cho việc mọc tóc. 1.5. Ứng dụng lâm sàng của linh chi [6] 1.5.1. Trị suy nhược thần kinh Báo cáo của bệnh viện Hoa Sơn thuộc viện y học số 1 Thượng Hải đã cho rằng dùng cả 2 loại linh chi nhân tạo và linh chi hoang dại chế thành viên (mỗi viên tương đương 1g thuốc sống), mỗi lần uống 3 viên ngày 3 lần, một liệu trình từ 10 ngày - 2 tháng. Trị 225 ca tỉ lệ kết quả 83,5 – 86,3%, nhận xét thuốc có tác dụng an thần, điều tiết thần kinh thực vật và tăng cường thể lực (theo báo Tân y học, số phụ chuyên đề về bệnh hệ thống thần kinh 1976, 3: 140). 1.5.2. Trị chứng Cholesterol máu cao Báo cáo của sở nghiên cứu kháng khuẩn tổ công nghiệp Tứ Xuyên, dùng liên tục 1- 3 tháng cho 123 ca thuốc có tác dụng hạ Cholesterol huyết thanh rõ rệt , tỉ lệ kết quả 86% ( theo báo cáo đăng trên báo thông tin trung thảo dược 1973, 1: 31). 1.5.3. Trị viêm phế quản mãn tính Tổ nghiên cứu linh chi tỉnh Quảng Đông báo cáo dùng siro linh chi và đường linh chi trị 1110 ca, có kết quả và có nhận xét là thuốc có tác dụng đối với thể hen và thể hư hàn ( theo tờ báo y dược Quảng Đông 1979, 1: 1). 1.5.4. Trị viêm gan mãn tính Tác giả dùng polysaccharid linh chi chiết suất từ linh chi hoang dại chế thành thuốc bột hoà nước uống, trị các loại bệnh viêm gan mãn hoạt động, viêm gan mãn kéo dài và xơ gan gồm 367 ca, có nhận xét phần lớn triệu chứng chủ quan được cải thiện, men SGOT, SGPT giảm tỉ lệ 67,7% (tạp chí bệnh gan mật 1985, 4: 242). 1.5.5. Trị chứng giảm bệnh cầu Dùng polysaccharid chế thành viên (mỗi viên có 250mg thuốc sống ). Cho uống, theo dõi 165 ca, ghi nhận tỷ lệ có kết quả 72,57% (báo cáo của Lưu Chí Phương đăng trên tạp chí Trung Quốc huyết dịch bệnh 1985, 7: 428). 1.5.6. Trị bệnh xơ cứng bì, viêm da cơ, bệnh ban đỏ, ban trọc Dùng linh chi chế thành dịch tiêm bắp viên uống. Trị xơ cứng bì 173 ca, tỉ lệ kết quả 79,1%, viêm da cơ 43 ca, có kết quả 95%, liput ban đỏ 84 ca có kết quả 90%, ban trọc 232 ca có kết quả 78,88% (thông tin nghiên cứu y học 1984, 12:22). 1.5.7. Theo sách trung dược ứng dụng lâm sàng Thuốc có tác dụng đối với bệnh loét bào tử, rối loạn tiêu hoá kéo dài, thường dùng phối hợp ngũ bội tử, đẳng sâm, bạch truột, trần bì, kê nội kim, sa nhân, sinh khương. 1.5.8. Tự xơ cứng mạch, cao huyết áp, tai biến mạch máu não Thường phối hợp với kê huyết đăng, thạch xương bồ, đơn bì, cẩu tích, đỗ trọng, thỏ ty tử, hoàng tinh. Thuốc còn dùng chữa bệnh động mạch vành, đau thắt ngực. 1.5.9. Dùng giải độc các loại khuẩn Sử dụng linh chi dùng phối hợp với cam thảo, gừng, táo có hiệu quả trong việc giải độc các loại khuẩn. Ngoài ra sách những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi có ghi: thuốc từ Linh chi chữa bệnh phụ nữ thời kỳ mãn kinh, giúp thông minh và trí nhớ, dùng lâu ngày giúp cho nhẹ người tăng tuổi thọ. Nhiều người mua nấm linh chi về nấu canh, nấu súp làm món ăn cao cấp. Chương II. ĐỐI TỰỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Nấm Linh chi, tên khoa học là Ganoderma lucidum 2.1.1. Đặc tính sinh học của nấm linh chi [3], [4] Nấm linh chi gồm 2 phần cuống nấm và mũ nấm. Cuống nấm dài hoặc ngắn, đính bên có hình trụ đường kính từ 0,5-3cm, cuống nấm ít phân nhánh, đôi khi có uốn khúc cong queo. Lớp vỏ cuống màu đỏ, nâu đỏ, nâu đen, bóng, không có lông, phủ suốt trên mặt tán nấm. Mũ nấm khi non có hình trứng lớn dần có hình quạt. Mui nấm dạng thận - gần tròn, đôi khi xoè hình quạt hoặc ít nhiều dị dạng. Trên mặt mũ nấm có vân gợn hình đồng tâm và có tia rãnh phóng xạ, màu sắc từ vàng chanh-vàng nghệ-vàng nâu-vàng cam-đỏ nâu-nâu tím-nâu đen, nhẵn bóng, láng như verni. Thường sẫm màu dần khi già, lớp vỏ nhẵn bóng phủ tràn kín mặt trên mũ, đôi khi có lớp phấn ánh xanh tím. Kích thước tán biến động lớn từ (2-36) cm dày (0,8-3,3) cm. Phần đính cuống hoặc gồ lên hoặc lõm như lỗ rốn. Phần thịt nấm dày từ (0,4-2,2 cm) chất lipe, màu vàng kem-nâu nhợt-trắng kem, phân chia theo kiểu lớp trên và lớp dưới. 2.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển nấm linh chi 2.1.2.1. Nhiệt độ ØNhiệt độ trong giai đoạn nuôi sợi: 18-300C ØNhiệt độ trong giai đoạn ra quả thể: 22-280C 2.1.2.2. Độ ẩm ØĐộ ẩm cơ chất: 60-62% ØĐộ ẩm không khí của nhà nuôi trồng linh chi đảm bảo 80- 95%. 2.1.2.3. Độ thông thoáng ØTrong suốt quá trình nuôi sợi và phát triển quả thể, nấm linh chi đều cần có độ thông thoáng tốt. 2.1.2.4. Ánh sáng ØGiai đoạn nuôi sợi: không cần ánh sáng ØGiai đoạn phát triển quả thể: cần ánh sáng tán xạ (ánh sáng có thể đọc sách được). Cường độ ánh sáng cân đối từ mọi phía. 2.1.2.5. pH ØĐộ pH: 5,5-7,5 ØDinh dưỡng: sử dụng trực tiếp nguồn Xenlulose 2.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài này được thực hiện trên cơ sở tổng hợp kết quả từ các công trình nghiên cứu đã thành công về nấm linh chi Chương III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Nghiên cứu một số quy trình chiết xuất hoạt chất linh chi 3.1.1. Chiết xuất polysaccharid liên kết protein (PSP) Quy trình chiết xuất Bột dược liệu + NaOH 5% (800C x 2h x 3 lần) +Lọc Bã dược liệu Dịch chiết Lắc với diethyl ether Dung dịch kiềm Dung dịch ether Acid hóa Lắc với diethyl ether Dung dịch ether Dung dịch acid Tủa PSP, lọc Dung dịch acid Bột PSP thô Tinh chế, sấy khô PSP Từ quy trình chiế._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTP0180.doc