BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP
---------&---------
LÊ GIA CHINH
NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY HOẠCH
SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUY HOẠCH XÂY DỰNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã số: 60 62 16
TS. Đoàn Công Quỳ
Người hướng dẫn khoa học:
HÀ NỘI – 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Đề tài “Nghiên cứu mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên địa bàn thành phố Hải Phòng” là công trình n
124 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên địa bàn thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều có xuất xứ, nguồn gốc cụ thể. Việc sử dụng các thông tin này trong quá trình nghiên cứu là hoàn toàn hợp lệ.
Tác giả
Lê Gia Chinh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Cố Nhà giáo, Tiến sỹ Đoàn Công Quỳ - Người đã hết lòng tận tụy hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện Luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn vì sự qua đời đột ngột của Thầy trong thời gian đang hướng dẫn, chỉ bảo tôi hoàn thành Luận văn.
Tôi xin cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong Khoa Tài nguyên và Môi trường – Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, đặc biệt là các Thầy, Cô thuộc Bộ môn Quy hoạch Đất đai đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn.
Tôi xin cảm ơn các Thầy, Cô giáo và cán bộ thuộc Viện Đào tạo sau đại học – Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi thực hiện hoàn thành Luận năn.
Tôi xin cảm ơn các cơ quan chức năng và cá nhân có liên quan thuộc thành phố Hải Phòng đã cung cấp tài liệu và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài; xin cảm ơn các anh, chị đồng nghiệp đang công tác tại Tổng cục Quản lý đất đai – Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bạn học viên Cao học ngành Quản lý đất đai Khóa 16 đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện Luận văn; xin cảm ơn bạn bè tôi, những người thân trong gia đình tôi đã luôn cổ vũ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn này.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Lê Gia Chinh
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH ẢNH
TT
Tên bảng, hình ảnh
Trang
Bảng 4.1
Quy mô và tốc độ tăng trưởng GDP thành phố Hải Phòng
38
Bảng 4.2
Cơ cấu GDP của Hải Phòng phân theo nhóm ngành kinh tế
39
Bảng 4.3
Một số chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất thành phố Hải Phòng
46
Bảng 4.4
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2000-2005 của thành phố Hải Phòng
57
Bảng 4.5
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2005-2008 của thành phố Hải Phòng
48
Bảng 4.6
So sánh một số quy định về thời gian, không gian lập quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng
55
Bảng 4.7
So sánh quy định về thẩm định và xét duyệt quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng
59
Bảng 4.8
So sánh một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Hải Phòng
68
Bảng 4.9
So sánh một số chỉ tiêu sử dụng đất đai giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên địa bản thành phố Hải Phòng
70
Bảng 4.10
So sánh một số chỉ tiêu về diện tích của một số công trình giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên địa bản thành phố Hải Phòng
73
Bảng 4.11
Mối quan hệ các nội dung trong quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng
76
Hình 1
Biểu đồ so sánh một số chỉ tiêu sử dụng đất
71
Hình 2
Sơ đồ mối quan hệ về mục tiêu giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng
75
MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Quy hoạch là sự chuyển hóa ý chí, ý tưởng thành hành động nhằm tạo ra những kết quả để đạt được mục tiêu nhất định. Một cách khái quát, quy hoạch được hiểu như là phương án tổ chức không gian các hoạt động kinh tế - xã hội như tổ chức không gian lãnh thổ, hệ thống kết cấu hạ tầng, phân bố các điểm dân cư đô thị và nông thôn, bố trí các khu công nghiệp và các công trình chủ yếu, phân bổ sử dụng đất, phát triển hệ thống đô thị, phát triển các ngành… của một lãnh thổ nhất định cho một thời kỳ nhất định [1], [10], [22].
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã và đang góp phần quan trọng về quản lý và sử dụng đất nhưng cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Trên một địa bàn, lãnh thổ theo đơn vị hành chính thường có nhiều loại quy hoạch, mà hầu hết các quy hoạch đó đều gắn với việc quản lý và sử dụng đất. Do đặc điểm, chức năng và nhiệm vụ phát triển của các ngành, lĩnh vực khác nhau, nên việc lập quy hoạch của các ngành cũng có nội dung khác nhau. Việc khai thác, sử dụng đất trong các quy hoạch của mỗi ngành đều tính đến việc bảo vệ môi trường sinh thái và các điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội để đảm bảo được các mục tiêu phát triển của ngành đề ra. Tuy nhiên, quy hoạch của các ngành thường chưa tính toán đầy đủ những ảnh hưởng tiêu cực của việc sử dụng đất thuộc chức năng quản lý, khai thác của mỗi ngành đến các loại đất thuộc chức năng quản lý, khai thác của ngành khác.
Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng là các quy hoạch thường được lập trên cùng một địa bàn lãnh thổ nào đó. Vì vậy, cần nghiên cứu, xem xét giữa hai loại quy hoạch này có mối quan hệ với nhau như thế nào về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Cả hai loại quy hoạch này đều có vai trò, vị trí và tầm quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng, mỗi địa phương. Về nguyên tắc, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng phải có sự thống nhất cả về không gian và thời gian, phù hợp với nhau và hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện chức năng của mỗi loại quy hoạch. Việc nghiên cứu về nội dung và bản chất của mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng để hiểu rõ sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau giữa hai loại quy hoạch này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm sự thống nhất giữa hai loại quy hoạch.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau mà giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng thường không được lập đồng bộ với nhau cả về thời gian và không gian, nhiều nội dung còn trùng lặp, mâu thuẫn, chồng chéo lẫn nhau, gây khó khăn cho công tác lập, thực hiện, kiểm tra, đánh giá công tác quy hoạch.
Để phát huy được những yếu tố tích cực trong mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch, khắc phục được các mâu thuẫn, bất cập, tạo sự đồng bộ và nâng cao hiệu quả của công tác quy hoạch sử dụng đất cũng như quy hoạch xây dựng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cần nghiên cứu để làm rõ nội dung và bản chất mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch, làm cơ sở cho việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý quy hoạch nói chung, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng nói riêng.
Hải Phòng là một thành phố trực thuộc Trung ương, là một trong những trung tâm kinh tế - xã hội có ý nghĩa quan trọng của khu vực cũng như của cả nước. Trong những năm gần đây, công tác quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Hải Phòng đều đạt những kết quả nhất định, đóng góp cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Song giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên địa bàn Thành phố cũng còn một số bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo, chưa thống nhất và đồng bộ, hạn chế đến vai trò của mỗi loại quy hoạch đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
Xuất phát từ tình hình trên, việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên địa bàn thành phố Hải Phòng” là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
1.2. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ nội dung mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng, sự tác động qua lại của hai loại quy hoạch này; Làm rõ những điểm còn bất cập, còn chồng chéo, không hợp lý giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng.
- Xác định được những nội dung phù hợp, thống nhất cũng như những nội dung chưa phù hợp giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trong việc lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện quy hoạch. Trên cơ sở đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định cần thiết; sửa đổi một số nội dung quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng trong mối quan hệ hữu cơ giữa hai loại quy hoạch.
1.2.2. Yêu cầu nghiên cứu đề tài
Quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài phải bảo đảm tính khách quan, tính trung thực, tính đầy đủ và tính khoa học. Kết quả nghiên cứu đề tài, các kết luận, các nhận xét đưa ra phải bảo đảm đúng đắn, phù hợp với thực tiễn, có đầy đủ căn cứ khoa học.
Việc sử dụng các thông tin, tài liệu trong nghiên cứu phải có xuất xứ, nguồn gốc rõ ràng, cụ thể và hợp lệ. Quá trình nghiên cứu phải dựa trên cơ sở lý luận chung về công tác quy hoạch, các điều kiện khách quan của thực tiễn để giải quyết các vấn đề và yêu cầu mà thực tiễn đặt ra.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên địa bàn thành phố Hải Phòng phải đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Phần 2. NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN
2.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC QUY HOẠCH VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUY HOẠCH XÂY DỰNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Trên thế giới, công tác quy hoạch thường gắn với việc quản lý hành chính và quản lý đất đai. Quy hoạch thực sự trở thành một công cụ không thể thiếu và rất đắc lực cho việc quản lý hành chính cũng như quản lý đất đai. Tùy theo chế độ chính trị, chế độ kinh tế, xã hội, tùy theo những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi nước mà quy hoạch có những hình thức, đặc điểm, mức độ rất khác nhau. Mỗi loại quy hoạch có những mục tiêu cụ thể khác nhau nhưng tất cả các quy hoạch đều hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường trên quan điểm phát triển bền vững.
Đối với quy hoạch phát triển theo lãnh thổ, đa số các nước trên thế giới không có sự phân biệt rõ ràng về các loại quy hoạch: phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng đất, xây dựng mà đa số các quy hoạch lãnh thổ thường mang tính bao quát, đáp ứng nhu cầu phát triển chung về nhiều mặt.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa các loại quy hoạch là một vấn đề khá phức tạp và khó khăn, đòi hỏi Chính phủ của mỗi nước phải có những chính sách đúng đắn, phù hợp trên cơ sở kết quả nghiên cứu, thảo luận một cách khoa học và đầy đủ. Và chỉ khi giải quyết tốt các mối quan hệ này thì mới bảo đảm được tính khả thi, tính hiệu quả của các quy hoạch. Hầu hết các nước trên thế giới đều rất coi trọng quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng đô thị. Các quy hoạch này một mặt đáp ứng nhu cầu phát triển chung, mặt khác đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất đai, phát triển các đô thị theo xu hướng phát triển các không gian chức năng đô thị nhằm nâng cao các điều kiện sống của con người.
2.1.1. Quy hoạch ở Cộng hoà Liên bang Đức
Quy hoạch không gian hay quy hoạch tổng thể vùng lãnh thổ ở Đức là loại quy hoạch tổng hợp về sự phát triển giữa các vùng và các ngành của toàn bộ lãnh thổ. Trong đó, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng là bộ phận của quy hoạch không gian. Một trong những chức năng của quy hoạch không gian là điều phối các loại hình quy hoạch, giải quyết những mâu thuẫn phát sinh từ sự tranh chấp sử dụng đất đai của vùng lãnh thổ. Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng là một bộ phận của quy hoạch không gian, do chính quyền địa phương thực hiện ở mức độ chi tiết tương ứng với cấp quận.
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Đức thể hiện trong quy hoạch không gian hay quy hoạch tổng thể vùng lãnh thổ. Trong đó, mỗi loại quy hoạch có mục tiêu riêng như xây dựng tối ưu các cơ sở hạ tầng, quy mô đô thị, sử dụng đất nông lâm nghiệp, khu an dưỡng nghỉ ngơi, cảnh quan… nhưng đều nhằm đạt mục tiêu chung: vì ấm no, vì lợi ích dân tộc, vì an toàn lương thực quốc gia, vì sự sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi sinh, phát triển đồng bộ và bền vững. Các mục tiêu riêng của quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng không phải lúc nào cũng đồng bộ, thống nhất với nhau mà nhiều khi còn đối kháng nhau, mâu thuẫn nhau. Điều đó đòi hỏi người làm quy hoạch phải nắm vững mối quan hệ giữa các mục tiêu đó, phải suy nghĩ, tìm phương án giải quyết hoặc giảm bớt các mâu thuẫn đối kháng đó.
Quy hoạch tổng thể phát triển lãnh thổ ở Cộng hòa Liên bang Đức bao gồm quy hoạch lãnh thổ và quy hoạch vùng. Quy hoạch lãnh thổ thực hiện việc sắp xếp (cấu tạo) không gian; cấu trúc định cư của khu vực; các biện pháp hạ tầng không gian lớn; xác định những khu vực dự phòng, những vùng ưu tiên. Để thực hiện các nội dung quy hoạch lãnh thổ cần có các hoạt động của quy hoạch lãnh thổ, chương trình phát triển lãnh thổ. Nhiệm vụ chính của quy hoạch lãnh thổ là xây dựng những chương trình và kế hoạch phát triển lãnh thổ, gồm:
- Xây dựng bản phúc trình về trật tự không gian lãnh thổ: Xác định ranh giới giữa các vùng đô thị, vùng nông thôn, vùng tụt hậu; phân tích, đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa.
- Xây dựng bản đồ địa chính lãnh thổ: Thể hiện được tất cả hiện trạng, kế hoạch và biện pháp cần thiết cho quy hoạch lãnh thổ. Đó là các sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến mặt bằng sử dụng đất. Tư liệu địa chính như vậy là nguồn thông tin quý giá cho các báo cáo, các chương trình và các kế hoạch. Các dữ liệu được thu nạp trong máy vi tính và gắn liền với hệ thống thông tin địa lý (GIS);
- Chương trình phát triển lãnh thổ là quan trọng nhất, do Chính phủ trung ương xây dựng;
- Kế hoạch phát triển lãnh thổ là bước cuối cùng của công việc quy hoạch lãnh thổ.
Tại Cộng hòa Liên bang Đức, Chính phủ của mỗi bang chủ quản việc quy hoạch lãnh thổ. Trên bình diện bang (cấp quốc gia), việc xây dựng chương trình phát triển lãnh thổ không mang tính cưỡng bức và thường được hội nhập vào “kế hoạch phát triển lãnh thổ” nêu đầy đủ, chính xác và rất chi tiết các số liệu.
Quy hoạch vùng ở Đức có nhiệm vụ chính là thực hiện và sắp xếp sự phát triển tích cực của một khu vực. Khái niệm vùng được hiểu là những khu vực lớn trung bình, một phần của một bang, thường gồm nhiều huyện gộp lại. Quy hoạch vùng quan tâm đến sự phát triển kinh tế và xã hội đồng thời với việc bảo tồn và duy trì môi trường. Mối quan hệ này dựa trên lợi ích kinh tế và sinh thái làm cho quy hoạch vùng trở thành công cụ đặc biệt cho quy hoạch tổng thể. Hoạt động quan trọng nhất của quy hoạch vùng là việc thiết lập kế hoạch vùng, thường được gọi là “kế hoạch trật tự không gian của vùng”. Các nội dung hoạt động của quy hoạch vùng quan hệ đến 4 hướng:
- Nhìn nhận các vấn đề quan trọng vượt qua phạm vi vùng. Quy hoạch vùng phụ thuộc vào các tiền đề của quy hoạch lãnh thổ về các nội dung: Mục tiêu chung về sắp xếp không gian; sắp xếp khái quát về cấu trúc không gian ở khu vực dân cư và nông thôn; các địa phương trung tâm và các trục hệ thống dân cư; dự tính dân số cho vùng; định hướng trị giá về trang thiết bị hạ tầng.
- Lưu ý đến quy hoạch vùng của vùng lân cận vì cần phải có những vị trí sử dụng không gian liên khu vực tại vùng giáp ranh.
- Xem xét các đề nghị của từng vùng, điều này tác động đến định hướng cho quy hoạch thôn xã.
- Cuối cùng quy hoạch vùng cần ghi nhận các đề nghị vượt qua phạm vi vùng về quy hoạch chuyên ngành.
Một điển hình về thành công trong công tác quy hoạch ở Đức là quy hoạch thủ đô Berlin. Đó là phương án lớn về xây dựng mới và cải tạo trung tâm Berlin, là một công trường khổng lồ, cả ở trên mặt đất lẫn dưới đất, vì nó đặt vấn đề không những là phải xây dựng cùng một lúc ở nhiều khu khác nhau, mà còn phải cải tạo lại các hệ thống thiết bị và giao thông trên và dưới mặt đất cho cả vùng Berlin: hệ thống cống rãnh, điện, nước, điện thoại, tàu điện ngầm, xe lửa, xe điện, xe hơi... Thành công của quy hoạch tái thiết thủ đô Berlin là đã tạo nên bộ mặt mới của thành phố, trở thành một thủ đô hiện đại, xứng đáng với vị trí của nước Đức ở châu Âu và trên thế giới [21].
Như vậy, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Cộng hòa Liên bang Đức không phải là các quy hoạch riêng rẽ mà là các quy hoạch ngành, quy hoạch bộ phận trong hệ thống quy hoạch lãnh thổ và quy hoạch vùng. Vì vậy, mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch này có sự thống nhất về không gian và thời gian quy hoạch; cơ bản phù hợp với nhau và hỗ trợ lẫn nhau về nội dung quy hoạch. Những mâu thuẫn, đối kháng lẫn nhau về mục tiêu và nội dung giữa hai loại quy hoạch được điều chỉnh, được hạn chế nhằm đạt mục tiêu chung là phát triển mọi mặt kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường.
2.1.2. Một số đặc điểm Quy hoạch vùng ở Mỹ
Việc quản lý hành chính và quản lý đất đai ở Mỹ được thực hiện theo mô hình địa lý – hành chính:
- Liên bang;
- Các bang: 50 bang và một số lãnh thổ đặc biệt;
- Các quận (County): có khoảng 3.500 quận;
- Các thành phố, thị trấn, hoặc các đơn vị đô thị nhỏ hơn [15].
Mỹ là nước có nền kinh tế đa dạng pha trộn giữa các doanh nghiệp lớn có địa bàn hoạt động xuyên quốc gia và đa quốc gia với các doanh nghiệp nhỏ tại địa phương. Các công ty và tập đoàn sản xuất hàng hoá và dịch vụ quy mô lớn đòi hỏi có mô hình tổ chức tập trung nhằm quyết định nhanh việc điều hành và phối hợp hoạt động các văn phòng và nhà máy trên toàn quốc bố trí gần các vùng tiêu thụ, nguyên – nhiên liệu và nhân công. Mỹ cũng là nước có nhiều thể chế đảm bảo mức độ phi tập trung hoá cao. Nhờ đó mỗi địa phương có toàn quyền đưa ra các quyết định trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau. Trong đó, quy hoạch phát triển về cơ bản chỉ chịu ảnh hưởng trong ranh giới địa phương đó. Các yếu tố trên có ảnh hưởng quyết định tới sử dụng đất cũng như quy hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Mỹ là bộ phận của quy hoạch vùng. Về mặt lý thuyết, quy hoạch vùng ở Mỹ hiện nay có hai xu hướng chính: Thứ nhất, đặt trọng tâm vào hiệu quả kinh tế thuần tuý, thường dựa trên việc đưa ra các mô hình toán và kinh tế định lượng rất phức tạp để phân tích hoạt động kinh tế vùng và từ đó đề ra các hướng đầu tư hữu hiệu nhất; thứ hai, nghiên cứu quy hoạch vùng mang tính chất phát triển kinh tế - xã hội hơn là nhấn mạnh hiệu quả kinh tế thuần tuý; xu hướng quy hoạch này mang tính công bằng xã hội nhiều hơn tính hiệu quả kinh tế, nên chú ý nhiều hơn đến yếu tố môi trường và phát triển bền vững nên hay được áp dụng trong thực tế hơn.
Trên thực tế, quy hoạch vùng ở Mỹ gồm quy hoạch vùng nhiều bang, quy hoạch vùng bang hoặc vùng một vài quận trong một bang. Trong đó, quy hoạch cấp vùng nhiều bang thực chất là quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở quy mô lớn, còn quy hoạch vùng bang hoặc vùng một vài quận thực chất là quy hoạch phối hợp phát triển giữa đô thị trung tâm với các vùng nông thôn xung quanh [15].
Mỹ là nước công nghiệp phát triển với nhiều tập đoàn công nghiệp và dịch vụ lớn hoạt động xuyên quốc gia. Với các nguồn lực dồi dào và do cạnh tranh thúc đẩy, các quy hoạch phát triển ngành của các tập đoàn công nghiệp thường rất chi tiết, có cơ sở chắc chắn hơn, và có tính khả thi hơn nhiều so với quy hoạch phát triển của các chính quyền địa phương và do đó có ảnh hưởng mạnh tới quy hoạch phát triển địa phương, trong đó kể cả quy hoạch sử dụng đất. Trên thực tế, các địa phương thường phải cạnh tranh nhau để các doanh nghiệp xây dựng văn phòng hay nhà máy trên đất của mình, qua đó tạo công việc cho lao động địa phương và tạo nguồn thu cho ngân sách địa phương. Nhưng một điều dễ thấy là do bị yếu tố lợi nhuận chi phối, các quy hoạch ngành của các doanh nghiệp lớn không nhất thiết đặt lợi ích phát triển của mỗi địa phương lên ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra, các quy hoạch ngành thường có xuất phát điểm và thời hạn quy hoạch rất khác nhau, nên dễ nảy sinh ra nhiều vấn đề khi phối hợp chúng trên một quy hoạch phát triển chung.
Như vậy, mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Mỹ thực chất thể hiện chủ yếu ở mối quan hệ giữa quy hoạch xây dựng ngành của các tập đoàn kinh tế với quy hoạch sử dụng đất của chính quyền các địa phương. Mặc dù là một nước phát triển, các quy hoạch này được thống nhất trong quy hoạch phát triển chung là quy hoạch vùng nhưng giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Mỹ trong thực tế thường vẫn có những mâu thuẫn nảy sinh cần giải quyết mà nguyên nhân chính là do quyền lợi chính trị, kinh tế của các chủ thể thực hiện quy hoạch rất khác nhau. Thực tế ở Mỹ, mỗi địa phương có một hệ thống rất phức tạp các cơ quan quy hoạch, đưa ra nhiều biện pháp quy hoạch chồng chéo trên địa bàn địa phương. Chỉ có các dự án ngành như giao thông, thủy lợi - thủy điện, truyền tải điện,... hoặc các dự án phát triển tổng hợp (bao gồm cả hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế...) trong đó Chính phủ Liên bang giúp đỡ tài chính cho các chính quyền địa phương nhằm mang lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan - mới có sức hấp dẫn và có thể hiện thực hoá tốt.
2.1.3. Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Trung Quốc
Bên cạnh Luật đất đai, Trung Quốc đã ban hành Luật Quy hoạch nông thôn và đô thị (có hiệu lực từ ngày 01/01/2008). Công tác quy hoạch ở Trung Quốc hiện nay chịu sự điều chỉnh chủ yếu của hai Luật này. Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Trung Quốc là các quy hoạch độc lập nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tương đối thống nhất với nhau.
Quy hoạch sử dụng đất đai cả nước của Trung Quốc được lập lần đầu tiên vào năm 1987, lần thứ hai vào năm 1998 và lần thứ ba vào năm 2003; nội dung quy hoạch qua các lần dần dần được hoàn thiện, phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Quy hoạch sử dụng đất của Trung Quốc được triển khai với các nhiệm vụ: đẩy mạnh việc sử dụng đất hợp lý, bảo đảm các lợi ích; bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và cải thiện chất lượng môi trường; đẩy mạnh việc sử dụng đất bền vững; đẩy mạnh phát triển kinh tế; đẩy mạnh việc quản lý nhà nước. Mục tiêu cơ bản trong quy hoạch sử dụng đất của Trung Quốc là:
- Định rõ việc sử dụng đất hợp lý để giảm thiểu mâu thuẫn sử dụng đất cũng như chi phí kinh tế xã hội;
- Bảo vệ đất canh tác, nước và tài nguyên thiên nhiên khác cũng như di sản văn hoá và thiên nhiên;
- Đất sử dụng cho mục đích công được bảo đảm và phân bổ hợp lý;
- Kìm chế sự phát triển lộn xộn khu vực đô thị, cải thiện khu vực sinh sống của con người theo hướng bền vững;
- Khai thác và củng cố đất có hiệu quả khi cần; đẩy mạnh việc sử dụng đất có hiệu quả hơn;
- Cải tiến việc ra quyết định và quản lý nhà nước.
Quy hoạch sử dụng đất ở Trung Quốc bao gồm các loại hình: Quy hoạch tổng thể (bắt buộc theo luật mang tính chiến lược, toàn diện, quy định chính sách); quy hoạch chuyên ngành (mang tính chuyên đề, đặc thù); quy hoạch chi tiết (quy hoạch bố trí trên thực địa).
Quy hoạch xây dựng ở Trung Quốc được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật Quy hoạch nông thôn và đô thị. Chính phủ Trung Quốc đã đề ra chính sách phát triển chăm lo nhà ở cho nhân dân lao động là chính sách trung tâm. Trong thời gian qua, Trung Quốc đã đặc biệt chú trọng công tác cải tiến quản lý ngành xây dựng và nhà đất, quản lý thị trường bất động sản.
Luật Quy hoạch nông thôn và đô thị của Trung Quốc nhấn mạnh các điểm chính sau:
- Trong khu vực quy hoạch không được chiếm dụng đất nông nghiệp để xây dựng doanh nghiệp, cơ sở công cộng, công trình công cộng và khu nhà ở.
- Khi khảo sát thiết kế và thực hiện quy hoạch, phải bảo vệ nguồn tài nguyên và di sản văn hóa lịch sử, bảo đảm duy trì bản sắc địa phương, bản sắc dân tộc và phong cách truyền thống. Trong quá trình khai thác và xây dựng khu phố mới, phải bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường sinh thái, thể hiện đặc thù địa phương. Khi sửa chữa khu phố cũ, phải bảo vệ di sản văn hóa và phong cách truyền thống.
- Nghiêm cấm bất kỳ đơn vị và cá nhân tùy tiện thay đổi quy hoạch. Trước khi sửa đổi quy hoạch, cơ quan tổ chức thiết kế quy hoạch phải tổng kết tình hình thực hiện quy hoạch ban đầu đồng thời báo cáo lên cơ quan phê duyệt.
Về quản lý quy hoạch, thực hiện theo nguyên tắc:
- Phân cấp cụ thể trong việc xét duyệt quy hoạch.
- Khống chế một cách nghiêm ngặt về việc xây dựng các khu chức năng, bảo đảm thống nhất với quy hoạch và quản lý toàn diện của thành phố.
- Quy hoạch chung và quy hoạch cụ thể phải quy định rõ ràng những nội dung mang tính bắt buộc. Bất cứ đơn vị và cá nhân nào đều không được điều chỉnh những nội dung có tính bắt buộc trong quy hoạch chung và quy hoạch cụ thể mà đã được phê chuẩn.
- Quản lý một cách nghiêm ngặt về việc sửa đổi quy hoạch chung sử dụng đất đai, quy hoạch chung thành phố và quy hoạch làng xã cũng như thị trấn.
- Quy hoạch xây dựng phải gắn liền với quy hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch thời gian vừa và dài ngành bất động sản.
- Quy mô sử dụng đất đai trong quy hoạch chung thành phố, quy hoạch làng xã và quy hoạch thị trấn không được vượt quá quy mô sử dụng đất đai được xác định trong quy hoạch chung sử dụng đất đai.
- Quy hoạch chung thành phố, quy hoạch làng xã và quy hoạch thị trấn phải coi phạm vi bảo hộ đồng ruộng cơ bản trong khu quy hoạch là nội dung mang tính bắt buộc… [17], [18]
Như vậy, giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng của Trung Quốc có sự thống nhất cơ bản về mục tiêu, nội dung quy hoạch. Quy mô sử dụng đất của quy hoạch xây dựng phải phù hợp với quy mô được xác định trong quy hoạch sử dụng đất đai. Việc quản lý thực hiện quy hoạch ở Trung Quốc được quy định tương đối chặt chẽ, thể hiện ở các khía cạnh: các quy hoạch phải xác định những nội dung có tính bắt buộc; quy định chặt chẽ những trường hợp được phép thay đổi, điều chỉnh quy hoạch; nguyên tắc bảo vệ đất nông nghiệp, bảo vệ nguồn tài nguyên, di sản văn hóa, bảo vệ môi trường…
Các quy định về quy hoạch và quản lý quy hoạch ở Trung Quốc là một trong những nhân tố chính bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng.
2.1.4. Một vài nhận xét qua nghiên cứu kinh nghiệm quy hoạch của một số nước trên thế giới
Qua nghiên cứu tình hình về mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng của các nước trên thế giới, đại diện là quy hoạch của các nước được trình bày ở trên, chúng ta có thể rút ra một số nội dung cần được xem xét để áp dụng nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở Việt Nam.
Hầu hết các nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển (như Đức, Mỹ) và đang phát triển (như Trung Quốc), có quy trình quy hoạch sử dụng đất đai mang tính đặc thù riêng. Trước hết họ chú trọng về quy hoạch tổng thể không gian (hay còn gọi là định hướng phát triển tổng thể - Master Plan), trên cơ sở quy hoạch không gian người ta tiến hành phân vùng sử dụng đất, sau đó tiến hành quy hoạch chi tiết cho từng khu vực.
Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở các nước, nhất là ở các nước phát triển thường là quy hoạch bộ phận của quy hoạch tổng thể không gian nên về cơ bản có sự thống nhất, đồng bộ với nhau về không gian, thời gian, nội dung quy hoạch; cả hai loại quy hoạch đều hướng tới mục tiêu chung là phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường.
Trong quy hoạch lãnh thổ cũng như quy hoạch vùng, quy hoạch sử dụng đất, các nước đều quan tâm giải quyết việc sắp xếp không gian, các biện pháp hạ tầng không gian lớn, xác định những vùng ưu tiên, từ đó thực hiện các hoạt động của quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch vùng.
Việc lập các quy hoạch thường do các cơ quan công quyền của Nhà nước thực hiện, có sự tham gia của các tập đoàn, tổ chức kinh tế ở mức độ khác nhau và thường có sự tham gia rộng rãi của người dân. Ở các nước phát triển, về cơ bản các cơ quan nhà nước chỉ tham gia sâu vào quá trình duyệt quy hoạch tổng thể không gian và phân vùng sử dụng đất. Quy hoạch chi tiết phát triển từng vùng thông thường được đấu thầu cho các cơ quan phát triển bất động sản tư nhân.
Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội ở từng nước mà mức độ chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ trong mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng có khác nhau nhưng nhìn chung giữa hai loại quy hoạch này cơ bản có sự thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau theo nguyên tắc quy hoạch xây dựng là sự cụ thể hóa, chi tiết hóa của quy hoạch sử dụng đất.
2.2. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUY HOẠCH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, quy hoạch đã và đang trở thành một công cụ không thể thiếu trong việc cụ thể hóa đường lối, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Theo phạm vi và tính chất quy hoạch, các loại hình quy hoạch ở nước ta hiện nay có thể phân thành hai loại chính: quy hoạch lãnh thổ và quy hoạch chuyên ngành. Các quy hoạch mang tính tổng thể được thực hiện cho cả nước, theo vùng kinh tế và theo đơn vị hành chính các cấp như quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng. Các quy hoạch ngành nhằm phát triển các ngành có thể được thực hiện trên phạm vi cả nước hay một khu vực cụ thể phục vụ cho việc phát triển của mỗi ngành như: nông nghiệp, thủy lợi, điện, năng lượng… theo nguyên tắc quy hoạch ngành lấy căn cứ và phải phù hợp với quy hoạch lãnh thổ.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách, quy định pháp luật về công tác quy hoạch nhằm tổ chức lập và thực hiện quy hoạch tốt hơn, nâng cao chất lượng quy hoạch, nâng cao tính hiệu quả và tính khả thi của các loại quy hoạch. Tuy nhiên, trong thực tiễn công tác quy hoạch có nhiều vấn đề nảy sinh đòi hỏi phải nghiên cứu, giải quyết. Một vấn đề nổi lên là việc xác định đúng đắn mối quan hệ giữa các loại quy hoạch theo quy luật và những đòi hỏi khách quan của thực tiễn là rất quan trọng; trong đó mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng đang trở nên bức thiết cần sớm được nghiên cứu giải quyết.
2.2.1. Tình hình công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng và mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch ở nước ta qua các thời kỳ
2.2.1.1. Thời kỳ trước năm 1975
a. Giai đoạn từ 1930 đến trước năm 1960
Quy hoạch sử dụng đất đai được tiến hành lẻ tẻ ở một số đô thị, các khu mỏ khai thác tài nguyên khoáng sản, một số vùng đồn điền như cao su, cà phê… theo nội dung và phương pháp của người Pháp.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quy hoạch sử dụng đất của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng chưa có điều kiện hình thành và phát triển.
Đối với quy hoạch xây dựng, có thể nói, quy hoạch xây dựng ở nước ta bắt đầu hình thành từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngành Quy hoạch Đô thị - Nông thôn chính thức được thành lập cũng đã trên 50 năm. Quy hoạch xây dựng ở nước ta mới hình thành tr._.ong giai đoạn này nên còn khá khiêm tốn, thực sự còn trong giai đoạn học hỏi, còn chắp vá, chưa có hệ thống, chưa định hình được hướng phát triển rõ ràng [14].
Như vậy trong giai đoạn này, quy hoạch sử dụng đất ở nước ta hầu như chưa xuất hiện, quy hoạch xây dựng mới hình thành nên chưa xuất hiện mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng.
b. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1975
Công tác phân vùng quy hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp, đã được đặt ra ngay từ những năm 1960. Các bộ ngành chủ quản, các tỉnh, huyện đã có những điều chỉnh về sử dụng đất cho các mục đích giao thông, thuỷ lợi, xây dựng kho tàng, trại chăn nuôi, bến bãi, nhà xưởng… mang tính chất bố trí sắp xếp lại việc sử dụng đất cũng chỉ mới được đề cập như một phần nội dung lồng ghép vào các phương án phân vùng nông nghiệp, lâm nghiệp.
Mặc dù chưa có điều kiện tiến hành theo một nội dung, phương pháp, trình tự thống nhất trong phạm vi một cấp vị lãnh thổ nào đó nhưng với tư cách là một phần nội dung của các phương án phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, quy hoạch sử dụng đất đai đã tạo ra những cơ sở có tính khoa học cho việc tính toán các phương án sản xuất có lợi nhất.
Đối với quy hoạch xây dựng, với sự giúp đỡ của các chuyên gia từ các nước XHCN trước đây như Liên Xô, Hungary, Triều Tiên, Cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan, Trung Quốc…, một số đồ án quy hoạch cho cho các địa phương như thị xã Hồng Gai (TP Hạ Long), Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Giang, Vinh… đã được lập. Các quy hoạch này ít có điều kiện trở thành hiện thực do hoàn cảnh còn chiến tranh, nước ta chưa thống nhất, tiềm lực đất nước còn phải dành cho công cuộc chống Mỹ, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, kết quả quy hoạch xây dựng cũng đóng góp đắc lực cho công cuộc xây dựng ở miền Bắc cũng như trên phạm vi cả nước sau khi đất nước thống nhất. [14]
Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trong giai đoạn này chưa có biểu hiện rõ rệt và giữa hai loại quy hoạch chưa có tác động qua lại một cách đáng kể do quy hoạch sử dụng đất vẫn chỉ là một phần nội dung của các phương án phát triển sản xuất nông lâm nghiệp có đối tượng chủ yếu là đất nông lâm nghiệp, trong khi đó quy hoạch xây dựng tập trung nghiên cứu về phát triển các đô thị.
2.2.1.2. Thời kỳ từ năm 1975 đến trước khi có Luật Đất đai 1993
* Đối với quy hoạch sử dụng đất:
- Từ năm 1975 - 1981 là thời kỳ triển khai hàng loạt các nhiệm vụ điều tra cơ bản trên phạm vi cả nước. Vào cuối năm 1978, lần đầu tiên đã xây dựng được các phương án phân vùng nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm sản của cả nước, của 7 vùng kinh tế và của tất cả 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Chính phủ xem xét phê duyệt. Trong các tài liệu này đều đã đề cập đến quy hoạch sử dụng đất đai, coi đó như những căn cứ khoa học quan trọng để luận chứng các phương án phát triển ngành.
Thực hiện Chỉ thị số 100/TW ngày 13 tháng 01 năm 1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp, thời kỳ này xuất hiện cụm từ “Quy hoạch Hợp tác xã” mà thực chất công tác này tập trung vào quy hoạch đồng ruộng với nội dung chủ yếu của nó là bố trí sử dụng đất đai.
Bước vào thời kỳ 1981 - 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982) đã quyết định: “Xúc tiến công tác điều tra cơ bản, dự báo, lập Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất…”. Chính phủ ra Nghị quyết số 50 về xây dựng quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của 500 đơn vị hành chính cấp huyện được ví như 500 “pháo đài”. Quy hoạch sử dụng đất đai là một nội dung quan trọng trong các quy hoạch hoạch tổng thể kinh tế - xã hội này tuy đã có bước phát triển nhưng vẫn chưa phải là một quy hoạch riêng biệt nên vẫn còn nhiều hạn chế.
Đây là giai đoạn có tính bước ngoặt về bố trí sắp xếp lại đất đai trong hoạch tổng thể kinh tế - xã hội. Điều này được phản ánh ở chỗ nội dung chủ yếu của Tổng sơ đồ tập trung vào quy hoạch vùng chuyên môn hoá và các vùng sản xuất trọng điểm của lĩnh vực nông nghiệp, các vùng trọng điểm của lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng và đô thị.
Khi Luật đất đai năm 1987 ra đời (có hiệu lực thi hành từ tháng 01 năm 1988), đánh dấu một bước mới về quy hoạch sử dụng đất đai. Luật Đất đai 1988 quy định quy hoạch sử dụng đất đai có tính pháp lý và là một trong những nội dung cơ bản của công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Trong thời gian từ 1988 đến 1990, Tổng cục Quản lý Ruộng đất đã chỉ đạo một số địa phương lập quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, cấp xã theo quy định của Luật đất đai 1988. Số lượng các quy hoạch này trên phạm vi cả nước chưa nhiều nhưng qua đó Tổng cục Quản lý Ruộng đất và các địa phương đã trao đổi, hội thảo và rút ra những vấn đề cơ bản về nội dung và phương pháp quy hoạch sử dụng đất, làm cho quy hoạch sử dụng đất không chỉ đơn thuần đáp ứng việc sử dụng đất đai mà trở thành một nội dung, đồng thời là công cụ đắc lực cho công tác quản lý nhà nước về đất đai của các địa phương.
Tổng cục Quản lý Ruộng đất lần đầu tiên ban hành văn bản hướng dẫn về quy hoạch phân bổ đất đai chủ yếu đối với cấp xã (Thông tư số 106/TT-QHKH ngày 15 tháng 4 năm 1991) với những nội dung chính như sau:
- Xác định ranh giới về quản lý, sử dụng đất;
- Điều chỉnh một số trường hợp về quản lý và sử dụng đất;
- Phân định và xác định ranh giới những khu vực đặc biệt;
- Một số nội dung khác về chu chuyển 5 loại đất, mở rộng diện tích đất sản xuất, chuẩn bị cho việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng các văn bản chính sách đất đai, kế hoạch sử dụng đất đai.
* Đối với quy hoạch xây dựng:
Quy hoạch xây dựng nói chung, quy hoạch xây dựng đô thị nói riêng ở nước ta trong giai đoạn trước đổi mới (1986) vẫn còn khiêm tốn, chưa có hệ thống, chưa định hình được hướng phát triển rõ ràng. Mặc dù thành quả quy hoạch xây dựng trong thời kỳ này còn hạn chế nhưng nó cũng đóng góp đắc lực cho công cuộc xây dựng ở miền Bắc cũng như trên phạm vi cả nước sau khi đất nước thống nhất. Đồng thời, nó cũng đặt nền móng cho sự phát triển tiến bộ của công tác quy hoạch xây dựng giai đoạn tiếp theo.
Từ khi Đảng ta đề ra đường lối đổi mới đất nước tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986, đánh dấu quá trình chuyển mình tích cực nhất của quy hoạch xây dựng đô thị. Mặc dù còn nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau về quy hoạch, quản lý đô thị, công tác quy hoạch phát triển đô thị bước đầu đã có những đóng góp đáng kể cho những thành công trong giai đoạn tiếp theo. Đây là giai đoạn tìm tòi, dần dần thay đổi các phương pháp nghiên cứu của công tác quy hoạch đô thị. Chuyển từ những nhận thức sản phẩm của nền kinh tế kế hoạch sang một thời kỳ mới, một giai đoạn nhiều khó khăn của phần lớn đô thị nơi mà mọi nguồn vốn dành cho phát triển và xây dựng đô thị hoàn toàn do Nhà nước cung cấp. Hầu như chưa có hình ảnh các khu nhà do dân tự xây, các khách sạn, văn phòng hay các công trình vui chơi giải trí mang dấu ấn của tư nhân.
Đây là giai đoạn tìm tòi, dần dần thay đổi các phương pháp nghiên cứu của công tác quy hoạch đô thị. Chuyển từ những nhận thức sản phẩm của nền kinh tế kế hoạch sang một thời kỳ mới, một giai đoạn nhiều khó khăn của phần lớn đô thị nơi mà mọi nguồn vốn dành cho phát triển và xây dựng đô thị hoàn toàn do Nhà nước cung cấp. Hầu như chưa có hình ảnh các khu nhà do dân tự xây, các khách sạn, văn phòng hay các công trình vui chơi giải trí mang dấu ấn của tư nhân.
Giai đoạn này có rất ít văn bản chính thức hướng dẫn lập quy hoạch đô thị của Việt Nam. Quyết định 322/BXD của Bộ Xây dựng hướng dẫn về quy trình từ giai đoạn lập đến phê duyệt các đồ án Quy hoạch đô thị này đã phản ánh sự chuyển mình của quy hoạch xây dựng để đáp ứng yêu cầu thực tế, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, những thử nghiệm phương thức khai thác chuyển đổi để tạo nguồn lực tài chính xây dựng đô thị.
Hàng loạt các đô thị trên toàn quốc đã dần được lập quy hoạch chung để có những dự báo về quy mô dân số, xác định quy mô đất đai, bố trí trên tổng mặt bằng, xác định những định hướng về phát triển không gian và hệ thống hạ tầng kĩ thuật cho đô thị. Nhiều đồ án quy hoạch đô thị sau khi lập và phê duyệt đã được các chính quyền đô thị coi trọng và vận hành tương đối hiệu quả trong quản lý đầu tư cải tạo và xây dựng đô thị.
Quy hoạch đô thị đã có mối quan hệ chặt chẽ hơn về mặt quản lý nhà nước với vấn đề quản lý quy hoạch và phát triển đô thị, quản lý đầu tư xây dựng, quản lý đất đai, nhà ở và sử dụng các công trình đô thị. Đặc biệt là sự hình thành các loại hình lập quy hoạch khu công nghiệp tập trung và khu đô thị mới, là tiền đề cơ sở cho sự mở rộng mạng lưới đô thị quốc gia trong giai đoạn tiếp theo [14].
* Thực trạng mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch:
Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trong thời kỳ này dần hình thành rõ nét, nhất là trong giai đoạn sau đổi mới. Mặc dù nội dung và phương pháp của cả hai loại quy hoạch còn những nhược điểm, chưa tính toán đầy đủ các điều kiện khách quan, quy hoạch ít chú trọng đến tổ chức không gian, thiên về lập quy hoạch chia lô nhưng giữa hai loại quy hoạch đã có những tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời cũng xuất hiện những chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Đối tượng nghiên cứu của quy hoạch sử dụng đất thời kỳ này không chỉ là đất nông lâm nghiệp mà bao gồm tất cả các loại đất (5 loại đất chính theo quy định của Luật Đất đai năm 1987). Quy hoạch xây dựng đã có liên quan nhiều đến quản lý đất đai. Bên cạnh những mặt thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau thì trong mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch xuất hiện những mâu thuẫn, chồng chéo mà một trong những nguyên nhân, đồng thời là sự biểu hiện của nó là sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai và về xây dựng.
2.2.1.3. Thời kỳ từ khi có Luật Đất đai năm 1993 đến nay
* Đối với quy hoạch sử dụng đất:
Luật Đất đai năm 1993 ra đời, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn cho công tác quy hoạch sử dụng đất đai đai. Tổng cục Địa chính đã tổ chức các Hội nghị tập huấn, triển khai công tác Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai và chỉ đạo thực hiện thí điểm ở 10 tỉnh, 20 huyện; ban hành quy trình, định mức và đơn giá điều tra quy hoạch sử dụng đất đai áp dụng trong phạm vi cả nước.
Công tác quy hoạch sử dụng đất đai được triển khai mạnh mẽ và có bài bản hơn ở cả 4 cấp là: cả nước, tỉnh, huyện, xã. Báo cáo “Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai cả nước đến năm 2000” đã được Chính phủ trình Quốc hội khoá IX tại kỳ họp thứ 10 (15/10 - 12/11/1996) và kỳ họp thứ 11 (02/4 - 10/5/1997). Quốc Hội đã ra Nghị quyết số 01/1997/QH9 ngày 10/5/1997 thông qua kế hoạch sử dụng đất đai đến năm 2000 của cả nước [24].
Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XI, Quốc Hội có Nghị quyết số 29/2004/QH11 thông qua quy hoạch sử dụng đất đai cả nước đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đai đến năm 2005.
Sau khi Luật Đất đai năm 2003 và các Nghị định của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai được ban hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 30/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 về việc hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, đồng thời Bộ đã ban hành Quy trình, Định mức, đơn giá lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai các cấp; Định mức sử dụng một số loại đất phi nông nghiệp.
Đến nay, kết quả triển khai công tác Quy hoạch sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước như sau:
- Quy hoạch sử dụng đất đai đai cấp tỉnh:
Đến nay đã có 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (bao gồm cả tỉnh Hà Tây cũ) xây dựng xong phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và lập kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ cuối (2006 - 2010) và đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức thẩm định. Trong đó có 62 tỉnh đã được Chính phủ xét duyệt; riêng thành phố Hà Nội đang trình Chính phủ xét duyệt; tỉnh Hà Giang đang hoàn chỉnh tài liệu theo ý kiến thẩm định của các Bộ, ngành để trình Hội đồng nhân dân thông qua trước khi trình Chính phủ xét duyệt. Có một số tỉnh, thành phố đang triển khai lập quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2020. [8]
- Quy hoạch sử dụng đất đai cấp huyện:
Cả nước có 531/681 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoàn thành việc lập quy hoạch đến năm 2010 (chiếm 77,97%); 98 huyện đang triển khai (chiếm 14,4%); còn lại 52 huyện chưa triển khai (chiếm 7,64%), phần lớn là các đô thị (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) [8].
- Quy hoạch sử dụng đất đai xã, phường, thị trấn (cấp xã):
Cả nước có 7.576/11.074 xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) đã lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 (đạt 68,41%); 1.507 xã đang triển khai (đạt 13,61%); còn lại 1.991 xã chưa triển khai (chiếm 17,98%) [8].
* Đối với quy hoạch xây dựng:
Thời kỳ này được xem như một thời kỳ đô thị hóa mạnh mẽ với nhiều chuyển đổi lớn trong phát triển đô thị Việt Nam. Luật Xây dựng được ban hành đã tạo các cơ sở cho công tác quy hoạch và quản lý đô thị có tính luật hóa ngày càng cao, hướng tới việc tăng cường công tác quản lý đô thị, đổi mới việc lập và xét duyệt quy hoạch, kỷ cương trong quản lý đất đai, tạo nguồn tài chính cho nguồn lực phát triển đô thị... và “đổi mới sang hình thức quy hoạch tạo các dự án phát triển đô thị tập trung thay cho xu hướng chia lô nhỏ lẻ của giai đoạn trước” [3], [14].
Năm 1998, Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhằm xác lập các định hướng lớn cho các vùng đô thị trên toàn quốc, dự báo sự tăng trưởng của hệ thống đô thị và định hướng phân bố hệ thống đô thị.
Từ năm 2003, sau khi Luật Xây dựng và Nghị định về Quy hoạch xây dựng ra đời đã khẳng định các loại hình quy hoạch gồm quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch xây dựng đô thị (bao gồm quy hoạch chung xây dựng đô thị và quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị), quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn và đưa nội dung “Thiết kế đô thị” vào công tác quy hoạch [20], [12].
Nổi bật trong giai đoạn hiện nay là công tác lập quy hoạch xây dựng vùng. Nhiều đồ án quy hoạch xây dựng Vùng đã được Chính phủ và Bộ Xây dựng chỉ đạo thực hiện như Quy hoạch xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội, Quy hoạch xây dựng Vùng Thành phố Hồ Chí Minh, các vùng biên giới, các vùng duyên hải...
Theo số liệu tháng 12/2007, cả nước có trên 728 đô thị, gồm 95 thành phố và thị xã, 622 thị trấn. trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 3 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 38 đô thị loại III, 38 đô thị loại IV và có hơn 600 loại V. Đến nay, hầu hết các đô thị đã tiến hành thực hiện công tác lập và điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng đô thị [14].
Đối với khu vực nông thôn: Cùng với chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, quy hoạch điểm dân cư nông thôn đã bước đầu phát triển với các điểm đáng chú ý, từng bước tạo ra bộ mặt mới cho nông thôn nước ta thời kỳ đổi mới như: Ngói hoá và kiên cố hoá nhà ở nông thôn; phát triển các công trình dịch vụ công cộng; bê tông hoá đường làng ngõ xóm…
* Thực trạng mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch:
Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trong thời kỳ này đã thể hiện rõ rệt cả những mặt tích cực lẫn tiêu cực. Giữa hai loại quy hoạch đã có sự tác động, hỗ trợ tích cực lẫn nhau trong mỗi phạm vi quy hoạch; loại quy hoạch này được lập đã căn cứ vào loại quy hoạch kia; trong việc lập cũng như tổ chức thực hiện quy hoạch đã có sự phối hợp nhất định giữa các cơ quan chức năng. Song giữa hai loại quy hoạch cũng nảy sinh những vấn đề mâu thuẫn, bất cập, đòi hỏi phải được nghiên cứu giải quyết, nhất là về nội dung quy hoạch.
2.2.2. Đánh giá chung về tình hình quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng và thực trạng mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch ở nước ta
2.2.2.1. Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Công tác quy hoạch sử dụng đất đai đã có những bước tiến quan trọng qua từng thời kỳ phát triển, ngày càng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm gần đây công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện; việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của các cấp từng bước đi vào nề nếp. Kết quả đó đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường, thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai và sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất trong nông nghiệp, nông thôn; cơ bản đáp ứng được nhu cầu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai các cấp còn một số tồn tại:
- Tiến độ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai các cấp, nhất là cấp huyện, cấp xã còn chậm; thiếu đồng bộ giữa quy hoạch sử dụng đất đai với chiến lược phát triển của các ngành.
- Chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, nhất là quy hoạch sử dụng đất đai ở cấp tỉnh, cấp huyện còn những hạn chế nhất định, chưa phù hợp với thực tiễn, phải điều chỉnh lại; việc dự báo phát triển kinh tế - xã hội để tính toán trong quy hoạch chưa chính xác. Nội dung quy hoạch sử dụng đất đai các cấp chưa hoàn thiện cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung để đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Vì vậy, tính hiệu quả và tính khả thi của quy hoạch còn thấp; việc quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch chưa trở thành ý thức trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân.
- Quy hoạch sử dụng đất đai còn nặng về sắp xếp các loại đất cho mục tiêu quản lý hành chính, chưa tính toán đầy đủ về hiệu quả kinh tế và môi trường trong sử dụng đất, hạn chế khả năng bảo vệ và cải thiện môi trường sống, chưa đảm bảo phát huy cao nhất sức sản xuất của đất đai.
- Việc tổ chức và quản lý thực hiện quy hoạch sử dụng đất đai chưa được các địa phương chú trọng, phân cấp trách nhiệm quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai chưa rõ ràng, còn chồng chéo; chưa bảo đảm kinh phí cho thực hiện quy hoạch… nên kết quả thực hiện quy hoạch bị hạn chế.
2.2.2.2. Về quy hoạch xây dựng
Nội dung và phương pháp quy hoạch xây dựng phát triển và ngày càng hoàn thiện qua các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng quy hoạch xây dựng không ngừng được nâng lên, số lượng quy hoạch ngày càng nhiều; các loại hình quy hoạch xây dựng ngày càng đầy đủ, không chỉ giới hạn ở quy hoạch xây dựng đô thị. Vì vậy, công tác quy hoạch xây dựng đang ngày càng đáp ứng tốt hơn cho quá trình phát triển của cả nước và ở từng địa phương. Tuy nhiên, những hạn chế của quy hoạch xây dựng trong những năm qua là không thể tránh khỏi, thể hiện ở một số điểm sau:
- Các quy hoạch chưa đồng bộ, thiếu tính dự báo và ổn định dẫn đến việc khai thác sử dụng quy hoạch, quản lý xây dựng, giới thiệu địa điểm thu hút đầu tư còn bị động;
- Quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị và nông thôn còn thiếu và chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, nhất là thiếu nhiều quy hoạch chi tiết các khu dân cư, quy hoạch điểm dân cư nông thôn;
- Công tác quản lý hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị còn nhiều vấn đề bất cập, việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa đáp ứng yêu cầu, chưa đồng bộ, chất lượng chưa cao... gây không ít lãng phí và làm ảnh hưởng đến cảnh quan kiến trúc đô thị;
- Các vấn đề về kiểm soát phát triển, hiệu quả sử dụng đất, sự xâm lấn đất nông nghiệp và những vùng sinh thái tự nhiên...
2.2.2.3. Thực trạng mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở nước ta
Trong thời gian trước thời kỳ đổi mới, đối tượng, phạm vi, mục tiêu và nội dung của hai loại quy hoạch này tương đối độc lập. Quy hoạch sử dụng đất được thực hiện chủ yếu đối với đất nông nghiệp; quy hoạch xây dựng chủ yếu là quy hoạch phát triển các đô thị. Vì vậy, mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch này chưa thể hiện rõ rệt, chưa có sự gắn kết, phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau; giữa hai loại quy hoạch cũng chưa xuất hiện nhiều sự mâu thuẫn, chồng chéo nên hầu như chưa đặt vấn đề phải giải quyết mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch này.
Bước vào thời kỳ đổi mới, cả quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở nước ta đều có bước phát triển mới. Phương pháp nghiên cứu, nội dung quy hoạch có nhiều thay đổi, phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các loại hình quy hoạch, nhất là quy hoạch xây dựng ngày càng đa dạng và đầy đủ hơn. Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ngày càng đa dạng, phức tạp; giữa hai loại quy hoạch ngày càng gắn bó hữu cơ, hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời cũng xuất hiện ngày càng nhiều những vướng mắc, chồng chéo.
Ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì cả hai loại quy hoạch còn nặng về phương pháp hành chính, thiên về mặt quản lý của Nhà nước; quy hoạch sử dụng đất chủ yếu là sắp xếp các loại đất cho mục tiêu quản lý hành chính, chưa tính toán đầy đủ về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường, chưa thực sự coi đất đai là nguồn của cải, là loại tư liệu sản xuất đặc biệt; Quy hoạch xây dựng chưa chú trọng đến việc tổ chức không gian, nặng về lập quy hoạch chia lô nên đã để lại những hình ảnh kiến trúc các đô thị chất lượng thấp kém, manh mún, nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng [14]. Trong giai đoạn này, mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng đã hình thành những gắn kết, phụ thuộc lẫn nhau; đồng thời cũng xuất hiện những mâu thuẫn, chồng chéo, nhất là trong việc phân bố, bố trí sử dụng đất đai. Các mâu thuẫn, chồng chéo này một mặt biểu hiện ở sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai và xây dựng, mặt khác thể hiện cụ thể khi triển khai các phương án, đồ án quy hoạch trên cùng một địa bàn, một lãnh thổ.
Với điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, quá trình đô thị hoá đang diễn ra nhanh chóng thì trong mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng, các nội dung quy hoạch đang được quan tâm phối hợp để có sự thống nhất, đồng bộ; giữa hai loại quy hoạch ngày càng có sự phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên do tính chất quy hoạch ngày càng đa dạng nên giữa hai loại quy hoạch cũng đang nảy sinh ngày càng nhiều các mâu thuẫn, chồng chéo cần được quan tâm giải quyết. Thực trạng về việc lập và tổ chức thực hiện hai loại quy hoạch, việc phối hợp giữa ngành quản lý đất đai và ngành xây dựng còn những vấn đề nổi cộm cần nghiên cứu giải quyết; chức năng, nhiệm vụ của hai loại quy hoạch cần được phân định rõ ràng hơn. Mặc dù cả hai loại quy hoạch đã có những tiến bộ và đạt được những kết quả nhất định nhưng hiệu quả còn thấp mà một trong những nguyên nhân chính là chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch, nội dung và phương pháp quy hoạch còn những vấn đề bất cập chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của thực tiễn.
2.3. LUẬN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUY HOẠCH XÂY DỰNG
2.3.1. Tính tất yếu khách quan của mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng
Về mặt lý luận, các loại quy hoạch, các cấp quy hoạch luôn có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ lẫn nhau, là cơ sở và tiền đề của nhau, thống nhất với nhau, cùng hướng tới các mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của mỗi vùng, mỗi địa phương. Trong đó, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội là quy hoạch có tính định hướng chung, là căn cứ để lập và thực hiện các loại quy hoạch khác. Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng đều phải căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, có tác dụng hỗ trợ và bổ sung cho quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
Mối quan hệ hữu cơ giữa các loại quy hoạch xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình phát triển. Mục tiêu chung của các quy hoạch đều là mục tiêu phát triển, xét đến cùng đều nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng đều căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, đều nhằm đạt mục tiêu chung của sự phát triển, cùng có đối tượng chính là đất đai và bố trí sử dụng đất. Mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch này hình thành một cách khách quan, một nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ này cũng là một yêu cầu khách quan nhằm làm cho các quy hoạch có sự thống nhất, đồng bộ, làm cơ sở cho việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác quy hoạch thì mới có thể đem lại hiệu quả cao.
2.3.2. Nội dung chủ yếu của mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng
Bản chất của mối quan hệ này biểu hiện ở sự phù hợp hay chưa phù hợp giữa hai loại quy hoạch về các mặt:
- Về thời gian, không gian lập quy hoạch: Thể hiện ở thời điểm lập quy hoạch, thời hạn quy hoạch (kỳ quy hoạch), phạm vi lãnh thổ quy hoạch của quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng.
- Về nội dung quy hoạch: Thể hiện ở việc xác định mục tiêu, việc dự báo các chỉ tiêu, các phương án sử dụng đất, tổ chức không gian lãnh thổ trong một phạm vi nhất định. Nội dung quy hoạch là mặt chủ yếu, có tính bản chất trong mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch.
- Về quá trình tổ chức thực hiện hai loại quy hoạch: Thể hiện ở sự thích ứng, phù hợp lẫn nhau về quy trình, nội dung và cách thức tiến hành giám sát và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch; thể hiện ở sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc lập, tổ chức thực hiện, quản lý quy hoạch.
2.3.3. Vấn đề về chất lượng của quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng và mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch
Có thể nói, chất lượng của quy hoạch sử dụng đất cũng như quy hoạch xây dựng luôn gắn liền với việc giải quyết tốt hay không tốt mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch này. Khi giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch, làm cho hai loại quy hoạch có sự thống nhất, đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau thì làm tăng tính khả thi, tính hiệu quả của mỗi loại quy hoạch; vì vậy, chất lượng của quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng đều được tăng lên. Mặt khác, khi chất lượng của cả quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên cùng một địa bàn được bảo đảm, có nghĩa là nội dung của cả hai loại quy hoạch đều phù hợp với các điều kiện cụ thể của địa bàn quy hoạch, đều đáp ứng được các mục tiêu phát triển thì khi đó mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch về cơ bản đã được giải quyết tốt, hai loại quy hoạch có sự thống nhất và đồng bộ với nhau.
Tất nhiên, chất lượng quy hoạch không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến việc giải quyết mối quan hệ mà là một trong những yếu tố cơ bản; ngược lại, việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch cũng không phải là yếu tố duy nhất để bảo đảm chất lượng của mỗi loại quy hoạch mà là một trong những nhân tố quan trọng, có tính quyết định.
Như vậy, giữa hai yếu tố chất lượng quy hoạch và mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch luôn có quan hệ biện chứng với nhau, là tiền đề và kết quả của nhau. Vì vậy, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng thì trước hết cần đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, bảo đảm được một số yêu cầu sau:
- Công tác quy hoạch phải đảm bảo thể chế hoá đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của địa phương.
- Bổ sung, hoàn thiện nội dung và phương pháp quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng cả quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng.
- Đẩy mạnh công tác quy hoạch, khẩn trương hoàn thành các quy hoạch từ Trung ương đến địa phương, từ tổng thể đến chi tiết; cả quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng phải có sự phát triển tương ứng, hài hòa.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quy hoạch; có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ trong quá trình tổ chức thực hiện.
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là nội dung, bản chất của mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng nói chung và được thể hiện cụ thể trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng chỉ tập trung nghiên cứu về sự phù hợp, chưa phù hợp giữa hai loại quy hoạch về thời gian, không gian lập quy hoạch; về nội dung lập quy hoạch; về quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch của hai loại quy hoạch.
3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Các nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm các vấn đề nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định; cần tập trung vào các nội dung có liên quan trực tiếp đến mục đích nghiên cứu, bao gồm bốn vấn đề chính như sau:
Thứ nhất, khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hải phòng
Phần này tập trung nêu và phân tích, đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội chủ yếu của thành phố Hải phòng có liên quan đến việc lập, thực hiện quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng của Thành phố; liên quan đến mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch này; thể hiện được các mặt thuận lợi cũng như khó khăn đối với công tác quy hoạch.
Thứ hai, nghiên cứu về sự phù hợp và chưa phù hợp giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở thành phố Hải Phòng
Để xác định được những mặt phù hợp cũng như chưa phù hợp lẫn nhau giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở thành phố Hải Phòng, trước hết cần nghiên cứu, đánh giá về tình hình công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Việc nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên địa bàn thành phố Hải Phòng nhằm đánh giá được thực trạng công tác quy hoạch của hai loại quy hoạch và tìm hiểu thực chất về mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Tiến hành phân tích, đánh giá về sự phù hợp và chưa phù hợp giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở thành phố Hải Phòng qua việc phân tích, so sánh các nội dung chủ yếu của công tác lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện quy hoạch đối với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng nhằm chỉ ra những mặt thống nhất, phù hợp cũng như những bất cập, mâu thuẫn giữa hai loại quy hoạch cần kiến nghị sửa đổi, gồm các nội dung sau:
(1) So sánh các quy định các quy định và thực tế áp dụng các quy định về thời gian, không gian lập quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở thành phố Hải Phòng.
(2) Phân tích, so sánh các quy định về thẩm định, phê duyệt; thẩm quyền thẩm định, phê duyệt đối với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng._. qua đã đạt được những kết quả nhất định, đóng góp cho sự phát triển của Thành phố nhưng giữa hai loại quy hoạch này cũng còn những vướng mắc, bất cập cần được quan tâm giải quyết.
2. Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng trên địa bàn thành phố Hải Phòng biểu hiện cả những mặt phù hợp có tác động tích cực, hỗ trợ lẫn nhau; đồng thời đồng thời biểu hiện cả những mâu thuẫn, bất cập trong quá trình lập, điều chỉnh quy hoạch, thẩm định và phê duyệt quy hoạch, nội dung lập quy hoạch, tổ chức thực hiện quy hoạch.
- Quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở thành phố Hải Phòng trong việc lập quy hoạch về cơ bản chưa có sự thống nhất về không gian, thời gian.
- Giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở thành phố Hải Phòng chưa có sự thống nhất về quy trình, nội dung, cách thức tiến hành cũng như thẩm quyền đối với việc thẩm định, phê duyệt quy hoạch nên việc phối hợp giữa hai loại quy hoạch này gặp nhiều khó khăn.
- Nội dung lập, điều chỉnh quy hoạch của quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng ở thành phố Hải Phòng chưa có sự thống nhất, biểu hiện: hệ thống phân loại đất giữa hai loại quy hoạch rất khác nhau; các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội, sử dụng đất của cùng một giai đoạn quy hoạch được xác định trong hai loại quy hoạch không thống nhất, còn nhiều mâu thuẫn với nhau. Đây là vấn đề có tính bản chất trong mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch.
- Trong quá trình tổ chức thực hiện, quản lý quy hoạch trên địa bàn thành phố Hải Phòng, mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng cũng thể hiện sự bất cập qua cách thức quản lý, thực hiện quy hoạch của hai loại quy hoạch rất khác nhau. Đồng thời, sự bất cập này được thể hiện ở việc phối hợp giữa cơ quan Tài nguyên và Môi trường (Quản lý đất đai) với cơ quan Xây dựng các cấp ở Hải Phòng chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên và chưa đạt hiệu quả như mong muốn trong quá trình tổ chức thực hiện và quản lý hai loại quy hoạch.
3. Mối quan hệ hữu cơ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng hình thành một cách khách quan, một nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ này cũng là một yêu cầu khách quan nhằm làm cho quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng có sự thống nhất, đồng bộ, nâng cao chất lượng và hiệu quả quy hoạch.
Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng, phát huy được sự hỗ trợ, tác động tích cực giữa hai loại quy hoạch, đồng thời hạn chế được những bất cập, mâu thuẫn, cần thực hiện đồng bộ một số phương hướng, giải pháp cần thiết.
5.2. MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ
1. Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng là một vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn nên cần được tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn, đáp ứng được yêu cầu bức thiết hiện nay của công tác quy hoạch sử dụng đất cũng như quy hoạch xây dựng. Đề nghị các cơ quan quản lý, cơ quan làm công tác quy hoạch và các trường đào tạo về quy hoạch cần tiếp tục định hướng để nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn trên các địa bàn khác.
2. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề tài, đề nghị các cơ quan chức năng về quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng của thành phố Hải Phòng tiến hành rà soát, đánh giá về quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng của Thành phố để khắc phục những vấn đề bất cập, thực hiện điều chỉnh, hoàn thiện cả hai loại quy hoạch, nâng cao hiệu quả của công tác quy hoạch. Thành phố cần bảo đảm sự thống nhất trong quá trình lập, điều chỉnh hai loại quy hoạch; phối hợp đồng bộ về thời điểm lập quy hoạch cũng như xác định kỳ kế hoạch phù hợp với kỳ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội làm cơ sở cho việc phối hợp có hiệu quả trong quá trình thực hiện quy hoạch; cần có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các cơ quan Tài nguyên và Môi trường và Xây dựng; bảo đảm vai trò, vị trí của mỗi loại quy hoạch trong việc thống nhất nội dung quy hoạch; tăng cường rà soát, kiểm tra, giám sát quy hoạch, thực hiện điều chỉnh, bổ sung quy hoạch kịp thời để đáp ứng yêu cầu phát triển của Thành phố.
3. Kết quả nghiên cứu đề tài có thể được xem xét, sử dụng tại các cơ quan quản lý, cơ quan thực hiện về quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng để từng bước đổi mới nội dung và phương pháp quy hoạch, khắc phục những bất cập trong mối quan hệ giữa hai loại quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quy hoạch nói chung, nâng cao chất lượng, hiệu quả của quy hoạch sử dụng đất trong mối quan hệ với quy hoạch xây dựng.
Đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, bổ sung, hoàn thiện các quy định về quy hoạch sử dụng đất cũng như quy hoạch xây dựng về thời gian, không gian lập quy hoạch; thẩm định, phê duyệt quy hoạch; thiết lập cơ chế phối hợp có hiệu quả trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện và quản lý quy hoạch làm cơ sở cho việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng, phát huy những mặt thống nhất, tích cực, hạn chế những bất cập, mâu thuẫn giữa hai loại quy hoạch này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thế Bá (2003), Quy hoạch phát triển đô thị, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội.
2. Nguyễn Thế Bá (2007), “Công tác quy hoạch xây dựng nhằm nâng cấp các khu nghèo đô thị theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí Quy hoạch Xây dựng tháng 11/2007.
3. Lê Trọng Bình (2006), “Quá trình lập quy hoạch xây dựng hiện nay - Những vướng mắc và giải pháp khắc phục”, Hội thảo Khoa học những vấn đề về nội dung và phương pháp quy hoạch đô thị tại Hải Dương năm 2006.
4. Vũ Thị Bình (1999), Giáo trình quy hoạch phát triển nông thôn, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
5. Nguyễn Đình Bồng, Quy hoạch sử dụng đất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay – thực trạng và giải pháp.
6. Nguyễn Đình Bồng (2008), Quy hoạch sử dụng đất đô thị: thực trạng và giải pháp
7. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2004), Thông tư số 30/2004/TT-BBTNMT về việc hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Hà Nội.
8. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo số 238/BC-BTNMT về kết quả rà soát, kiểm tra việc quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Hà Nội.
9. Bộ Xây dựng (2008), Thông tư số 07/2008/TT-BXD hướng dẫn lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý quy hoạch xây dựng, Hà Nội.
10. Võ Tử Can (2001), Phương pháp luận cơ bản về quy hoạch sử dụng đất đai (Dự án 3 - Chương trình hợp tác Việt Nam - Thụy Điển về đổi mới hệ thống địa chính), Hà Nội.
11. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP về thi hành Luật Đất đai.
12. Chính phủ (2005), Nghị định số 08/2005/NĐ-CP về quy hoạch xây dựng.
13. FAO (1992), Quy hoạch sử dụng đất đai theo hệ thống của FAO, (Lê Quang Trí giới thiệu)
14. Ngô Trung Hải (2008), “Quy hoạch đô thị Việt Nam – 60 năm nhìn lại”, Tham luận tại Hội thảo "Kiến trúc Việt Nam đương đại - Nhìn từ bên trong và từ bên ngoài", tháng 4/2008.
15. Lê Quốc Khánh (2005), “Quy hoạch vùng ở Mỹ: Một số đặc điểm và bài học”, Tạp chí Quy hoạch Xây dựng, số 12/2005.
16. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á trong phát triển thị trường nhà đất,
17. Lý Phong, Trưởng phòng khu vực - Vụ Quy hoạch Bộ Xây dựng Trung Quốc (2008), “Tăng cường công tác quy hoạch thành phố và nông thôn - Hướng dẫn sự đô thị hoá Trung Quốc đi vào đường lối lành mạnh”, Hội thảo "Quy hoạch và quản lý đô thị Trung Quốc - Việt Nam", tại Nam Ninh – Trung Quốc tháng 5/2007.
18. “Quản lý quy hoạch trong tiến trình thành thị hoá nhanh chóng Sở Xây dựng khu tự trị dân tộc Choang - Quảng Tây”, Hội thảo "Quy hoạch và quản lý đô thị Trung Quốc - Việt Nam", tại Nam Ninh – Trung Quốc tháng 5/2007.
19. Quốc hội (2003), luật Đất đai, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội (2003), Luật Xây dựng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Quy hoạch và cải tạo khu trung tâm Berlin (2008),
22. Đoàn Công Quỳ và những người khác (2005), Giáo trình quy hoạch sử dụng đất, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
23. Bùi Xuân Sơn, Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch sử dụng đất.
24. Chu Văn Thỉnh, Nhìn lại công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở nước ta trong 10 năm qua.
25. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2005), Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 thành phố Hải Phòng.
26. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2008), Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 thành phố Hải Phòng.
27. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2001), Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2020.
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Tình hình lập quy hoạch sử dụng đất các cấp
trên địa bàn thành phố Hải Phòng
TT
Cấp lập quy hoạch
Tổng số đơn vị hành chính
Số lượng đơn vị chưa lập quy hoạch sử dụng đất
Đơn vị hành chính đã lập quy hoạch sử dụng đất
Thời kỳ lập đến năm
Đã thực hiện điều chỉnh năm
Ghi chú
Số lượng
Tỷ lệ (%)
I
Cấp thành phố
2010
2006
II
Cấp huyện, quận
15
9
6
40,00
2010
5 đơn vị cấp quận có QHSDĐ nằm trong quy hoạch phát triển không gian đô thị giai đoạn 2000-2010; 2 huyện đã lập QHSDĐ nhưng do điều chỉnh lại địa giới hành chính nhưng chưa có QHSDĐ cho các đơn vị mới được tách lập (Kiến Thuỵ, An Hải)
1
Huyện Thuỷ Nguyên
2008
2
Huyện Tiên Lãng
2008
3
Huyện Vĩnh Bảo
2007
III
Cấp xã, phường, thị trấn
223
148
75
33,63
Trong đó có 5 đơn vị mới được tách; Các đơn vị cấp phường QHSDĐ được thực hiện trong QH chung của quận
1
Quận Hồng Bàng
11
11
0
-
2
Quận Ngô Quyền
13
13
0
-
3
Quận Lê Chân
15
15
0
-
4
Quận Hải An
8
6
2
25,00
2010
5
Quận Kiến An
10
9
1
10,00
2010
6
Quận Đồ Sơn
7
6
1
14,29
2010
7
Quận Dương Kinh
6
6
0
-
8
Huyện Thuỷ Nguyên
36
2
34
94,44
2010
9
Huyện An Dương
16
13
3
18,75
2010
10
Huyện An Lão
17
17
100,00
2010
11
Huyện Kiến Thuỵ
18
18
0
-
12
Huyện Tiên Lãng
23
11
12
52,17
2010
13
Huyện Vĩnh Bảo
30
25
5
16,67
2010
14
Huyện Cát Hải
12
12
0
-
15
Huyện Bạch Long Vĩ
1
1
0
-
* Nguồn: - Niên giám thông kê của Thành phố Hải Phòng năm 2007
- Quá trình điều tra thực tế tại địa phương
- Văn bản số 529/STN&MT-QLTNĐ ngày 28 tháng 4 năm 2008 của sở Tài nguyên và Môi trường Hải Phòng
Phụ lục 2. Tình hình lập quy hoạch xây dựng ở các cấp
trên địa bàn thành phố Hải Phòng
TT
Cấp lập quy hoạch
Tổng số đơn vị hành chính
Số lượng đơn vị chưa lập quy hoạch xây dựng
Đơn vị hành chính đã lập quy hoạch xây dựng
Thời kỳ lập
(đến năm)
Đã thực hiện điều chỉnh năm
Ghi chú
Số lượng
Tỷ lệ (%)
I
Cấp thành phố
2010
2001
Điều chỉnh đến 2020
II
Cấp quận
15
7
8
53,33
2020
Cát Hải, Kiến An, Hải An, Hồng Bàng, Ngô Quyền, Lê Chân, Đồ Sơn, Dương Kinh
III
Cấp phường, thị trấn
80
73
7
8,75
2020
Đối với quy hoạch xây dựng ở cấp xã, phường, thị trấn chỉ xem xét đối với các thị trấn và các phường; Ngoài quy hoạch xây dựng cho các đơn vị hành chính cấp phường, thị trấn, quy hoạch xây dựng ở Hải Phòng còn được xây dựng cho các khu, cụm dân cư, khu công nghiệp
1
Quận Hồng Bàng
11
11
2
Quận Ngô Quyền
13
13
3
Quận Lê Chân
15
15
4
Quận Hải An
8
8
5
Quận Kiến An
10
10
6
Quận Đồ Sơn
7
7
7
Quận Dương Kinh
6
6
8
Huyện Thuỷ Nguyên
2
0
2
9
Huyện An Dương
1
1
10
Huyện An Lão
2
0
2
11
Huyện Kiến Thuỵ
1
0
1
12
Huyện Tiên Lãng
1
0
1
13
Huyện Vĩnh Bảo
1
0
1
14
Huyện Cát Hải
2
2
15
Huyện Bạch Long Vĩ
* Nguồn: - Niên giám thông kê của Thành phố Hải Phòng năm 2007
- Quá trình điều tra thực tế tại địa phương
Phụ lục 3. Hiện trạng sử dụng đất năm 2008 thành phố Hải Phòng
Thứ tự
Chỉ tiêu
Mã
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN
151.465,54
100,00
1
Đất nông nghiệp
NNP
84.984,13
55,83
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
SXN
51.744,55
60,89
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
CHN
48.423,12
93,58
1.1.1.1
Đất trồng lúa
LUA
47.529,59
98,15
1.1.1.2
Đất trồng cây hàng năm còn lại
HNC
893,53
1,85
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
CLN
3.321,43
6,42
1.2
Đất lâm nghiệp
LNP
22.049,71
25,95
1.2.1
Đất rừng sản xuất
RSX
575,52
2,61
1.2.2
Đất rừng phòng hộ
RPH
14.180,93
64,31
1.2.3
Đất rừng đặc dụng
RDD
7.293,26
33,08
1.3
Đất nuôi trồng thuỷ sản
NTS
10.843,87
12,76
1.4
Đất làm muối
LMU
204,62
0,24
1.5
Đất nông nghiệp khác
NHK
141,38
0,17
2
đất phi nông nghiệp
PNN
62.714,57
41,20
2.1
Đất ở
OTC
13.054,78
20,82
2.1.1
Đất ở tại nông thôn
ONT
9.211,07
70,56
2.1.2
Đất ở tại đô thị
ODT
3.843,71
29,44
2.2
Đất chuyên dùng
CDG
23.152,34
36,92
2.2.1
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp
CTS
372,49
1,61
2.2.2
Đất quốc phòng, an ninh
CQA
2.131,65
9,21
2.2.2.1
Đất quốc phòng
CQP
2.011,13
94,35
2.2.2.2
Đất an ninh
CAN
120,52
5,65
2.2.3
Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
CSK
5.122,05
22,12
2.2.3.1
Đất khu công nghiệp
SKK
1.293,34
25,25
2.2.3.2
Đất cơ sở sản xuất, kinh doanh
SKC
3.336,11
65,13
2.2.3.3
Đất cho hoạt động khoáng sản
SKS
368,28
7,19
2.2.3.4
Đất sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ
SKX
124,32
2,43
2.2.4
Đất sử dụng vào mục đích công cộng
CCC
15.526,15
67,06
2.2.4.1
Đất giao thông
DGT
7.307,36
47,06
2.2.4.2
Đất thuỷ lợi
DTL
6.640,63
42,77
2.2.4.3
Đất để chuyển dẫn năng lượng, truyền thông
DNT
198,82
1,28
2.2.4.4
Đất cơ sở văn hoá
DVH
219,69
1,41
2.2.4.5
Đất cơ sở y tế
DYT
104,56
0,67
2.2.4.6
Đất cơ sở giáo dục - đào tạo
DGD
584,13
3,76
2.2.4.7
Đất cơ sở thể dục - thể thao
DTT
177,71
1,14
2.2.4.8
Đất chợ
DCH
52,24
0,34
2.2.4.9
Đất có di tích, danh thắng
LDT
150,76
0,97
2.2.4.10
Đất bãi thải, xử lý chất thải
RAC
87,34
0,56
2.3
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
TTN
268,34
0,43
2.4
Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa
NTD
1.095,01
1,75
2.5
Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng
SMN
25.073,18
39,98
2.6
Đất phi nông nghiệp khác
PNK
70,92
0,11
3
Đất chưa sử dụng
CSD
4.511,22
2,96
3.1
Đất bằng chưa sử dụng
BCS
3.144,97
69,71
3.2
Đất đồi núi chưa sử dụng
DCS
467,37
10,36
3.3
Núi đá không có rừng cây
NCS
898,88
19,93
4
Đất có mặt nước ven biển
MCB
26,00
0,02
Phụ lục 4. Biến động sử dụng đất giai đoạn 2000-2005 thành phố Hải Phòng
Thứ tự
CHỈ TIÊU
Năm 2000
Năm 2005
So sánh
Tăng (+), giảm (- )
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN
151.465,54
100,00
152.209,92
100,00
744,38
0,49
1
ĐẤT NÔNG NGHIỆP
90.472,88
59,73
84.984,13
55,83
- 5.488,75
- 6,07
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
57.680,23
63,75
51.744,55
60,89
- 5.935,68
- 10,29
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
53.390,98
92,56
48.423,12
93,58
- 4.967,86
- 9,30
1.1.1.1
Đất trồng lúa
52.140,05
97,66
47.529,59
98,15
- 4.610,46
- 8,84
1.1.1.2
Đất trồng cây hàng năm còn lại
1.250,93
2,34
893,53
1,85
- 357,40
- 28,57
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
4.289,25
7,44
3.321,43
6,42
- 967,82
- 22,56
1.2
Đất lâm nghiệp
21.528,49
23,80
22.049,71
25,95
521,22
2,42
1.2.1
Đất rừng sản xuất
218,54
1,02
575,52
2,61
356,98
163,35
1.2.2
Đất rừng phòng hộ
21.156,97
98,27
14.180,93
64,31
- 6.976,04
- 32,97
1.2.3
Đất rừng đặc dụng
152,98
0,71
7.293,26
33,08
7.140,28
4.667,46
1.3
Đất nuôi trồng thuỷ sản
10.885,92
12,03
10.843,87
12,76
- 42,05
- 0,39
1.4
Đất làm muối
310,91
0,34
204,62
0,24
- 106,29
- 34,19
1.5
Đất nông nghiệp khác
67,33
0,07
141,38
0,17
74,05
109,98
2
ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP
54.459,01
35,95
62.714,57
41,20
8.255,56
15,16
2.1
Đất ở
10.381,75
19,06
13.054,78
20,82
2.673,03
25,75
2.1.1
Đất ở tại nông thôn
8.183,67
78,83
9.211,07
70,56
1.027,40
12,55
2.1.2
Đất ở tại đô thị
2.198,08
21,17
3.843,71
29,44
1.645,63
74,87
2.2
Đất chuyên dùng
17.697,01
32,50
23.152,34
36,92
5.455,33
30,83
2.2.1
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp
245,88
1,39
372,49
1,61
126,61
51,49
2.2.2
Đất quốc phòng, an ninh
1.784,46
10,08
2.131,65
9,21
347,19
19,46
2.2.3
Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
1.983,63
11,21
5.122,05
22,12
3.138,42
158,22
2.2.4
Đất sử dụng vào mục đích công cộng
13.683,04
77,32
15.526,15
67,06
1.843,11
13,47
2.3
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
215,95
0,40
268,34
0,43
52,39
24,26
2.4
Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa
1.033,54
1,90
1.095,01
1,75
61,47
5,95
2.5
Đất sông suối và mặt nước ch. dùng
25.094,19
46,08
25.073,18
39,98
- 21,01
- 0,08
2.6
Đất phi nông nghiệp khác
36,57
0,07
70,92
0,11
34,35
93,93
3
ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG
6.533,65
4,31
4.511,22
2,96
- 2.022,43
- 30,95
3.1
Đất bằng chưa sử dụng
4.760,42
72,86
3.144,97
69,71
- 1.615,45
- 33,94
3.2
Đất đồi núi chưa sử dụng
767,66
11,75
467,37
10,36
- 300,29
- 39,12
3.3
Núi đá không có rừng cây
1.005,57
15,39
898,88
19,93
- 106,69
- 10,61
4
ĐẤT CÓ MẶT NƯỚC VEN BIỂN
160,99
0,11
26,00
0,02
- 134,99
- 83,85
Phụ lục 5. Kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2005-2008 thành phố Hải Phòng
Thứ tự
CHỈ TIÊU
Kế hoạch được duyệt (ha)
Thực tế thực hiện
Diện tích chưa thực hiện (ha)
Diện tích (ha)
Tỷ lệ (%)
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN
151.938,00
152.209,92
100,18
- 271,92
1
ĐẤT NÔNG NGHIỆP
86.081,00
84.984,13
98,73
1.096,87
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
52.125,00
51.744,55
99,27
380,45
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
48.224,00
48.423,12
100,41
- 199,12
1.1.1.1
Đất trồng lúa
47.410,00
47.529,59
100,25
- 119,59
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
3.901,00
3.321,43
85,14
579,57
1.2
Đất lâm nghiệp
21.611,00
22.049,71
102,03
- 438,71
1.2.1
Đất rừng sản xuất
459,00
575,52
125,39
- 116,52
1.2.2
Đất rừng phòng hộ
12.822,00
14.180,93
110,60
- 1.358,93
1.2.3
Đất rừng đặc dụng
8.330,00
7.293,26
87,55
1.036,74
1.3
Đất nuôi trồng thuỷ sản
11.953,00
10.843,87
90,72
1.109,13
1.4
Đất làm muối
197,00
204,62
103,87
- 7,62
1.5
Đất nông nghiệp khác
195,00
141,38
72,50
53,62
2
ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP
61.218,00
62.714,57
102,44
- 1.496,57
2.1
Đất ở
12.380,00
13.054,78
105,45
- 674,78
2.1.1
Đất ở tại nông thôn
9.412,00
9.211,07
97,87
200,93
2.1.2
Đất ở tại đô thị
2.968,00
3.843,71
129,51
- 875,71
2.2
Đất chuyên dùng
22.158,00
23.152,34
104,49
- 994,34
2.2.1
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp
350,00
372,49
106,43
- 22,49
2.2.2
Đất quốc phòng, an ninh
1.894,00
2.131,65
112,55
- 237,65
2.2.2.1
Đất quốc phòng
1.767,00
2.011,13
113,82
- 244,13
2.2.2.2
Đất an ninh
127,00
120,52
94,90
6,48
2.2.3
Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
4.517,00
5.122,05
113,39
- 605,05
2.2.4
Đất sử dụng vào mục đích công cộng
15.397,00
15.526,15
100,84
- 129,15
2.2.4.1
Đất giao thông
7.207,00
7.307,36
101,39
- 100,36
2.2.4.2
Đất thuỷ lợi
6.697,00
6.640,63
99,16
56,37
2.2.4.3
Đất để chuyển dẫn năng lượng, truyền thông
53,00
198,82
375,13
- 145,82
2.2.4.4
Đất cơ sở văn hoá
230,00
219,69
95,52
10,31
2.2.4.5
Đất cơ sở y tế
95,00
104,56
110,06
- 9,56
2.2.4.6
Đất cơ sở giáo dục - đào tạo
585,00
584,13
99,85
0,87
2.2.4.7
Đất cơ sở thể dục - thể thao
205,00
177,71
86,69
27,29
2.2.4.8
Đất chợ
52,00
52,24
100,46
- 0,24
2.2.4.9
Đất có di tích, danh thắng
158,00
150,76
95,42
7,24
2.2.4.10
Đất bãi thải, xử lý chất thải
115,00
87,34
75,95
27,66
2.3
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
269,00
268,34
99,75
0,66
2.4
Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa
1.102,00
1.095,01
99,37
6,99
2.5
Đất sông suối và mặt nước ch. dùng
25.294,00
25.073,18
99,13
220,82
2.6
Đất phi nông nghiệp khác
15,00
70,92
472,80
- 55,92
3
ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG
4.639,00
4.511,22
97,25
127,78
Phụ lục 6. So sánh một số quy định về quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng
TT
Nội dung so sánh
Quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch xây dựng
1
Văn bản pháp quy điều chỉnh
Luật Đất đai, Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường
Luật Xây dựng, Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng
2
Thời gian quy hoạch
10 năm
- Quy hoạch xây dựng vùng: Ngắn hạn: 5 năm, 10 năm; dài hạn: 20 năm và dài hơn.
- Quy hoạch chung; Ngắn hạn: 5 năm, 10 năm; dài hạn: 20 năm.
- Quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn: Ngắn hạn: 5 năm; dài hạn: 10 - 15 năm.
3
Không gian lập quy hoạch
Các cấp: cả nước, vùng kinh tế, tỉnh, huyện, xã (theo lãnh thổ hành chính)
Cơ bản không theo các cấp hành chính (có thể không theo lãnh thổ hành chính)
4
Thẩm quyền thẩm định quy hoạch
- Bộ Xây dựng thẩm định quy hoạch thuộc thẩm quyền phê duyệt của Chính phủ:
- Sở Xây dựng hoặc Sở Quy hoạch - Kiến trúc thẩm định các quy hoạch thuộc thẩm quyền phê duyệt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: quy hoạch xây dựng vùng tỉnh, vùng huyện và vùng liên huyện; quy hoạch chung đô thị loại 3, loại 4, loại 5, quy hoạch chung xây dựng các quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, các khu chức năng trên 500 ha; quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 các khu chức năng của đô thị loại đặc biệt, loại 1, loại 2, loại 3; quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 và tỷ lệ 1/500 các khu vực liên quận, huyện...
- Cơ quan quản lý xây dựng cấp huyện thẩm định các quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị thuộc thẩm quyền phê duyệt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện: quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 các khu chức năng thuộc các đô thị loại 4 và loại 5, quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 các khu chức năng của các đô thị từ loại đặc biệt đến loại 5 (trừ các quy hoạch chi tiết do cấp tỉnh thẩm định), uy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn.
4.1
Quy hoạch cấp tỉnh
Bộ Tài nguyên và Môi trường
4.2
Quy hoạch cấp huyện
Sở Tài nguyên và Môi trường
4.3
Quy hoạch cấp xã
Phòng Tài nguyên và Môi trường (trừ khu vực phát triển đô thị)
5
Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch
- Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các quy hoạch xây dựng vùng trọng điểm, vùng liên tỉnh; quy hoạch chung xây dựng đô thị mới liên tỉnh, các khu công nghệ cao, khu kinh tế đặc thù, các đô thị loại đặc biệt, loại 1, loại 2, các đô thị mới có quy mô dân số tương đương với đô thị loại 2 trở lên;
- Bộ Xây dựng phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 và tỷ lệ 1/500 các khu chức năng trong đô thị mới liên tỉnh thuộc địa giới hành chính hai tỉnh trở lên;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng tỉnh, vùng liên huyện, vùng huyện; quy hoạch chung các đô thị mới có quy mô dân số tương đương đô thị loại 3, loại 4 và loại 5 và các khu chức năng khác ngoài đô thị có quy mô trên 500 ha, quy hoạch chung các quận, huyện của thành phố trực thuộc Trung ương; quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000 các khu chức năng của đô thị loại đặc biệt, loại 1, loại 2, loại 3, quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 và tỷ lệ 1/500 liên quận, huyện, các khu chức năng khác ngoài đô thị, các khu chức năng thuộc đô thị mới;
- Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt các quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000 các khu chức năng thuộc đô thị loại 4, loại 5; quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 các khu chức năng của các đô thị từ loại đặc biệt đến loại 5 và quy hoạch chi tiết khác không thuộc thẩm quyền phê duyệt của cấp tỉnh; quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn.
5.1
Quy hoạch cấp tỉnh
Chính phủ
5.2
Quy hoạch cấp huyện
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
5.3
Quy hoạch cấp xã
Ủy ban nhân dân cấp huyện (trừ khu vực phát triển đô thị)
6
Các nội dung quy hoạch chủ yếu
- Phân tích, tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.
- Đánh giá hiện trạng và biến động sử dụng đất trong kỳ quy hoạch trước theo các mục đích sử dụng.
- Đánh giá tiềm năng đất đai và sự phù hợp của hiện trạng sử dụng đất so với tiềm năng đất đai, so với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ.
- Đánh giá kết quả thực hiện các chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất của kỳ quy hoạch trước.
- Xác định phương hướng, mục tiêu sử dụng đất trong kỳ quy hoạch và định hướng cho kỳ tiếp theo phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành và các địa phương.
- Xây dựng các phương án phân bổ diện tích các loại đất cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trong kỳ quy hoạch.
- Phân tích hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của từng phương án phân bổ quỹ đất và lựa chọn phương án phân bổ quỹ đất hợp lý.
- Thể hiện phương án quy hoạch sử dụng đất được lựa chọn trên bản đồ quy hoạch sử dụng đất.
- Xác định các biện pháp sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ môi trường phù hợp với địa bàn quy hoạch.
- Xác định giải pháp tổ chức thực hiện phù hợp với đặc điểm của địa bàn quy hoạch.
Quy hoạch xây dựng vùng:
- Đánh giá hiện trạng về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; xác định các động lực phát triển vùng.
- Xác định hệ thống các đô thị, các điểm dân cư; các khu công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, du lịch; các khu vực bảo vệ di sản, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử văn hoá; các khu vực cấm xây dựng và các khu dự trữ phát triển.
- Xác định mạng lưới, vị trí, quy mô các công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật mang tính chất vùng hoặc liên vùng.
- Dự kiến những hạng mục ưu tiên phát triển và nguồn lực thực hiện.
- Dự báo tác động môi trường vùng và đề xuất biện pháp để giảm thiểu ảnh hưởng xấu đến môi trường trong đồ án quy hoạch xây dựng vùng.
Quy hoạch phát triển đô thị (quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết)
- Phân tích, đánh giá các điều kiện tự nhiên và hiện trạng về kinh tế - xã hội; dân số, lao động; sử dụng đất đai; hiện trạng về xây dựng; cơ sở hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật và vệ sinh môi trường đô thị.
- Xác định tiềm năng, động lực hình thành và phát triển đô thị; tính chất, quy mô dân số, lao động và quy mô đất đai xây dựng đô thị; các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chủ yếu cho các giai đoạn phát triển đô thị; xác định tính chất, chức năng và các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chủ yếu về sử dụng đất, hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật của khu vực thiết kế; nội dung cải tạo và xây dựng mới.
- Định hướng phát triển không gian đô thị: Dự kiến sử dụng đất của đô thị theo từng giai đoạn quy hoạch; xác định hệ thống các trung tâm; vị trí, phạm vi, quy mô các khu chức năng trong đô thị; quy hoạch mặt bằng sử dụng đất; xác định các chỉ tiêu cho từng lô đất về diện tích, mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất, tầng cao công trình; vị trí, quy mô các công trình ngầm.
- Định hướng phát triển và quy hoạch hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị: hệ thống giao thông, cấp thoát nước, điện…
- Dự kiến những hạng mục ưu tiên phát triển và nguồn lực thực hiện.
- Thiết kế đô thị
- Đánh giá tác động môi trường đô thị và đề xuất biện pháp để giảm thiểu ảnh hưởng xấu đến môi trường trong đồ án quy hoạch chung xây dựng đô thị.
Quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn:
- Phân tích hiện trạng quy mô dân số, lao động, tình hình phát triển kinh tế - xã hội; dự báo dân số cho từng giai đoạn quy hoạch;
- Phân tích hiện trạng sử dụng đất đai; dự báo quy mô sử dụng đất đai cho từng giai đoạn quy hoạch;
- Quy hoạch mặt bằng sử dụng đất; bố trí các công trình xây dựng, công trình phải bảo tồn; cải tạo chỉnh trang; các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; xác định vị trí các khu vực cấm xây dựng và các giải pháp bảo vệ môi trường;
- Dự kiến những hạng mục ưu tiên phát triển và nguồn lực thực hiện
Phụ lục 7. Hệ thống phân loại đất được sử dụng trong quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng
Quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch xây dựng
(1)
Nhóm đất nông nghiệp
(1)
Đất dân dụng
-
Đất sản xuất nông nghiệp
-
Đất đơn vị ở
+
Đất trồng cây hàng năm
-
Đất công trình công cộng
Đất trồng lúa
-
Đất cây xanh, thể dục thể thao
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
-
Đất giao thông đô thị
Đất trồng cây hàng năm khác
(2)
Đất ngoài dân dụng
+
Đất trồng cây lâu năm
-
Đất công nghiệp, kho tàng
Đất trồng cây công nghiệp lâu năm
-
Đất giao thông đối ngoại
Đất trồng cây ăn quả lâu năm
-
Đất di tích lịch sử
Đất trồng cây lâu năm khác
-
Đất an ninh quốc phòng
-
Đất lâm nghiệp
-
Đất cơ quan, trường đại học, viện nghiên cứu
+
Đất rừng sản xuất
-
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
+
Đất rừng phòng hộ
-
Đất công trình khác
+
Đất rừng đặc dụng
-
Đất dự phòng phát triển
-
Đất nuôi trồng thuỷ sản
(3)
Đất khác
+
Đất nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, mặn
-
Đất nông nghiệp
+
Đất nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt
-
Đất lâm nghiệp
-
Đất làm muối
-
Mặt nước, sông suối
-
Đất nông nghiệp khác
-
Đất chưa sử dụng
(2)
Nhóm đất phi nông nghiệp
Tổng diện tích nghiên cứu (1)+(2)+(3)
-
Đất ở
Tổng đất xây dựng đô thị (1)+(2)
+
Đất ở tại nông thôn
+
Đất ở tại đô thị
-
Đất chuyên dùng
+
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp
+
Đất quốc phòng
+
Đất an ninh
+
Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
Đất khu công nghiệp
Đất cơ sở sản xuất, kinh doanh
Đất cho hoạt động khoáng sản
Đất sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ
+
Đất có mục đích công cộng
Đất giao thông
Đất thuỷ lợi
Đất công trình năng lượng
Đất công trình bưu chính viễn thông
Đất cơ sở văn hoá
Đất cơ sở y tế
Đất cơ sở giáo dục - đào tạo
Đất cơ sở thể dục - thể thao
Đất cơ sở nghiên cứu khoa học
Đất cơ sở dịch vụ về xã hội
Đất chợ
Đất có di tích, danh thắng
Đất bãi thải, xử lý chất thải
-
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
+
Đất tôn giáo
+
Đất tín ngưỡng
-
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
-
Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng
-
Đất phi nông nghiệp khác
(3)
Nhóm đất chưa sử dụng
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHQL09007.doc