Tài liệu Nghiên cứu khả năng sản xuất của lợn đực laily và L19 nuôi tại tỉnh Bắc Giang: ... Ebook Nghiên cứu khả năng sản xuất của lợn đực laily và L19 nuôi tại tỉnh Bắc Giang
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu khả năng sản xuất của lợn đực laily và L19 nuôi tại tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TH ÂN VĂN HIỀN
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG
SẢN XUẤT CỦA LỢN ĐỰC LAI LY VÀ
L19 NUÔI TẠI TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN,NĂM 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TH ÂN VĂN HIỀN
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG
SẢN XUẤT CỦA LỢN ĐỰC LAI LY VÀ
L19 NUÔI TẠI TỈNH BẮC GIANG
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.40
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Văn Phùng
Th¸i nguyªn, N¨m 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
- Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
- Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được ghi
rõ nguồn gốc.
Tác Giả
Thân Văn Hiển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CÁM ƠN
Nhân dịp hoàn thành luận văn Thạc sỹ khoa học nông nghiệp, cho phép tôi được
bày tỏ lời biết ơn chân thành nhất đến PGS. TS. Trần Văn Phùng người hướng dẫn khoa
học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi tới các thầy cô giáo Khoa Sau đại học, Khoa Chăn nuôi thú y và các
thầy cô ở trường đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên lời cảm ơn chân thành về sự
giúp đỡ trong thời gian học tập tại trường.
Cho phép tôi được bày tỏ lời cám ơn tới Công ty cổ phần giống chăn nuôi Bắc
Giang và các hộ chăn nuôi lợn nái giống Móng cái trên địa bàn 4 xã và Thị trấn Đồi Ngô -
huyện Lục Nam – tỉnh Bắc Giang về sự hợp tác, tạo điều kiện hoàn thành các thí nghiệm
của luận văn.
Tôi xin cám ơn gia đình, cơ quan và bạn bè đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện, giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập.
Thái Nguyên, ngày 29 tháng 11 năm 2008
Tác giả
Thân Văn Hiển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
Môc lôc
Nội dung Trang
Lời cam đoan i
Lời cám ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các bảng biểu v
Danh mục các biểu đồ và đồ thị v
Danh mục các chữ viết tắt vi
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu của đề tài: 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học 4
1.1.1. Ưu thế lai và ứng dụng của nó trong chăn nuôi lợn 4
1.1.2. Một số đặc điểm của các giống lợn nuôi tại Bắc Giang 10
1.1.3. Đặc điểm về sinh trưởng và phát dục của lợn 11
1.1.4. Một số đặc điểm sinh lý sinh dục ở lợn đực 13
1.1.5. Sinh lý sinh dục ở lợn cái 23
1.1.6. Các chỉ tiêu đánh giá phẩm chất tinh dịch 25
1.1.7 Ảnh hưởng của mùa vụ và môi trường pha chế tới sức hoạt động của
tinh trùng
26
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 33
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 33
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 37
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 42
2.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 42
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 42
2.1.2. Vật liệu nghiên cứu 42
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 43
2.3. Nội dung nghiên cứu 43
2.3.1. Nghiên cứu khả năng sản xuất tinh dịch của lợn đực giống 43
2.3.2. Nghiên cứu khả năng sinh sản của đàn nái giống Móng Cái khi
được phối giống bằng tinh dịch của các lợn đực giống kiểm tra
44
2.3.3. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của đàn lợn con sinh ra khi cho phối
giống bằng tinh dịch của lợn đực giống kiểm tra với lợn cái giống Móng Cái
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
2.4. Phương pháp nghiên cứu 44
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu khả năng sản xuất tinh dịch của lợn đực
giống kiểm tra
44
2.4.2. Phương pháp đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái 49
2.4.3. Phương pháp nghiên cứu các chỉ tiêu về khả năng sinh trưởng của
đàn lợn con từ sơ sinh đến khi cai sữa và từ khi cai sữa đến 56 ngày
51
2.5. Phương pháp xử lý số liệu 52
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 53
3.1 Kết quả đánh giá khả năng sản xuất tinh dịch của lợn đực giống nuôi
tại Bắc Giang
53
3.1.1 Kết quả theo dõi các chỉ tiêu về chất lượng tinh dịch của lợn đực
giống kiểm tra
53
3.1.2 Tổng hợp chất lượng tinh dịch của 3 giống lợn đực giống kiểm tra 58
3.1.3 Ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ đến các chỉ tiêu thể tích, hoạt lực,
nồng độ và VAC của lợn đực giống nuôi tại Bắc Giang
61
3.1.4. Sức sống và thời gian sống của tinh trùng lợn trong môi trường TH5 66
3.2. Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu khả năng sinh sản của nái giống
Móng Cái khi phối giống với các lợn đực giống kiểm tra
67
3.3 Kết quả theo dõi khả năng sinh trưởng của đàn lợn con đã sinh ra từ
các công thức lai
72
3.3.1 Sinh trưởng tích luỹ của lợn con 72
3.3.2 Sinh trưởng tương đối 75
3.3.3 Sinh trưởng tuyệt đối 76
3.3.4 Tiêu tốn thức ăn / 1 kg lợn lúc cai sữa và 1 kg tăng khối lượng từ cai
sữa đến 56 ngày tuổi
78
3.3.5 Chi phí thức ăn / kg lợn cai sữa và kg tăng khối lượng từ lúc cai sữa
đến 56 ngày tuổi
81
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 84
1. Kết luận 84
2. Đề nghị 85
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN VĂN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng Trang
Bảng 3.1 Kết quả đánh giá phẩm chất tinh dịch của lợn đực giống Landrace 53
Bảng 3.2: Kết quả đánh giá phẩm chất tinh dịch của lợn đực giống lai LY 55
Bảng 3.3 Kết quả đánh giá phẩm chất tinh dịch của lợn đực giống lai dòng L19. 57
Bảng 3.4 Tổng hợp về chất lượng tinh dịch của 3 giống lợn đực giống
kiểm tra
58
Bảng 3.5 Đặc điểm khí hậu tỉnh Bắc Giang vụ đông xuân và hè thu 62
Bảng 3.6 Chất lượng tinh dịch của lợn Landrace, lợn đực lai LY và lợn
đực lai L19 trong vụ đông xuân và hè thu
63
Bảng 3.7 Sức sống và thời gian sống của tinh trùng lợn trong môi trường
TH5 (giờ)
66
Bảng 3.8 Kết quả theo dõi về tỷ lệ thụ thai, số con đẻ ra và sản l ượng sữa
của lợn nái giống Móng Cái khi phối giống với các lợn đực
giống kiểm tra
68
Bảng 3.9 Sinh trưởng tích luỹ của lợn qua các giai đoạn tuổi (kg) 73
Bảng 3.10 Sinh trưởng tương đối của lợn qua các giai đoạn tuổi (%) 76
Bảng 3.11 Sinh trưởng tuyệt đối của lợn qua các giai đoạn tuổi (g/con/ngày) 77
Bảng 3.12 Tiêu tốn thức ăn / kg lợn con lúc cai sữa 79
Bảng 3.13 Tiêu tốn thức ăn/kg TKL lợn con từ cai sữa đến 56 ngày tuổi 80
Bảng 3.14 Chi phí thức ăn/ kg lợn con lúc cai sữa 82
Bảng 3.15 Chi phí thức ăn / kg lợn con từ cai sữa đến 56 ngày tuổi 83
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ
Biểu đồ và đồ thị Trang
Đồ thị 3.1. Đồ thị sinh trưởng tích luỹ của lợn (kg) 75
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của lợn (g/con/ngày) 78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
CA Nái lai [♂ Duroc(L19) x ♀C1230]
CS Cộng sự
Ctv. Cộng tác viên
D Giống lợn Duroc
ĐVTA Đơn vị thức ăn
H Giống lợn Hampshire
KL Khối lượng
L hoặc LR Giống lợn Landrace
LY Dòng đực giống lai (♂ Landrace x ♀ Yorkshire)
L19 Dòng đực giống lai (♂ Duroc x ♀ Yorkshire)
MC Giống lợn Móng Cái
Pi Giống lợn Pietrain
TA Thức ăn
TACN Thức ăn chăn nuôi
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TTTA Tiêu tốn thức ăn
TT Tăng trọng
TKL Tăng khối lượng
Y Giống lợn Yorkshire
♂ Đực
♀ Cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tổng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi
tăng bình quân 8,5%/năm. Tỷ trọng của ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản
xuất nông nghiệp tăng từ mức 22,4% (năm 2003) lên 24,1% (năm 2007) và
chăn nuôi đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá đặc biệt quan trọng trong
nông nghiệp, trong đó có ngành chăn nuôi lợn hiện đang đóng vai trò rất lớn
trong việc cung cấp thực phẩm cho người tiêu dùng và xuất khẩu. Theo số
liệu thống kê, năm 2007 cả nước có khoảng 26,56 triệu con lợn, sản phẩm thịt
lợn là 2,55 triệu tấn tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2006, chiếm khoảng 76 -
77% tổng sản lượng thịt các loại. Trong đó có khoảng 3,8 triệu con lợn nái
(chiếm 14,3% tổng đàn), lợn nái ngoại có 425,8 ngàn con, nái lai 2.881,6
ngàn con và nái nội khoảng 494,2 ngàn con (Bộ NN & PTNT (2008)[7].
Để có được đàn lợn thịt có tốc độ sinh trưởng nhanh và đạt tỷ lệ nạc ở
mức độ tối đa của phẩm giống. Bên cạnh nâng cao tiến bộ di truyền, chọn lọc,
cải tiến chế độ chăm sóc nuôi dưỡng và điều kiện chuồng trại…việc tạo ra
những tổ hợp lai trên cơ sở kết hợp được một số đặc điểm của mỗi giống, mỗ i
dòng và đặc biệt việc sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi lợn là rất cần thiết.
Nhiều công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước cũng như trong thực tiễn
của sản xuất đã khẳng định, những tổ hợp lai nhiều dòng giống khác nhau đều
làm tăng số con sơ sinh/ổ, nâng cao tốc độ sinh trưởng, giảm chi phí thức
ăn/1kg thể trọng, nâng cao tỷ lệ và chất lượng thịt nạc, rút ngắn thời gian chăn
nuôi… Vì vậy, hầu hết các nước có nền chăn nuôi lợn phát triển trên thế giới
đều sử dụng tổ hợp lai để sản xuất lợn thịt thương phẩm, đã mang lại năng
suất và hiệu quả kinh tế cao, giảm chi phí thức ăn và thời gian nuôi. Ở nước
ta, bên cạnh các giống lợn thuần cao sản đã được sử dụng như: Yorkshire (Y),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Landrace (L), Duroc (D), Pietrain (Pi)… Chúng ta còn nhập và sản xuất một
số dòng lợn lai ngoại như: L19, L95, L64, C1050, C1230, CA, C22, 402…
Với hệ thống nhân giống lợn của tập đoàn PIC để tạo ra các tổ hợp lai thương
phẩm mang nhiều máu có ưu thế lai cao đáp ứng được mục đích nâng cao
năng suất và hiệu quả chăn nuôi.
Tỉnh Bắc Giang, trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi đã có
những bước phát triển khá mạnh. Trong đó chăn nuôi lợn chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng, nó là nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu cho nhân dân trong
tỉnh. Theo số liệu thống kê, đến ngày 01/10/2007, toàn tỉnh có 1.002.317 con
lợn, trong đó: 163.030 con lợn nái (có trên 5.000 con lợn nái ngoại, số còn lại
chủ yếu là lợn nái lai và lợn nái giống Móng cái) và trên 100 con lợn đực
giống, hàng năm cung cấp khoảng 98.596 tấn thịt lợn cho thị trường trong
nước và xuất khẩu (Cục thống kê tỉnh Bắc Giang, 2007) [10].. Đến nay toàn
tỉnh đã nhập về các giống lợn đực như: lợn đực ngoại thuần và lợn đực lai F1
(ngoại với ngoại), như lợn Landrace, Yorkshire, lai F1 (Landrace x
Yorkshire), Duroc và lợn lai F1 (Pietrain x Duroc), L19, L06, 402... đã được
kiểm tra năng suất cá thể, số lợn đực giống này được nuôi ở các cơ sở chăn
nuôi của nhà nước và tư nhân, để khai thác tinh dịch cung cấp cho đàn nái của
tỉnh để tạo ra các tổ hợp lai thương phẩm có ưu thế lai cao đáp ứng được mục
đích nâng cao năng suất, chất lượng thịt và hiệu quả kinh tế.
Việc nhập các giống lợn đực ngoại và lợn đực lai vào tỉnh Bắc Giang
trong những năm qua là một điều hết sức cần thiết, bởi vì đây là các giống lợn
có tầm vóc lớn, sinh trưởng phát triển nhanh, tỷ lệ nạc cao, đã trở thành khâu
quan trọng trong công tác giống lợn của tỉnh. Từ những lợn đực này, người ta
đã tạo ra các thế hệ con lai có khả năng sinh sản tốt, tăng trọng nhanh, sức
chống đỡ với bệnh tật tốt, chi phí thức ăn giảm và tỷ lệ nạc cao, đáp ứng nhu
cầu nuôi lợn hướng nạc phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Lợn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
đực lai, trên thực tế đã chứng minh là một trong những biện pháp để tạo ra
con lai thương phẩm có tỷ lệ lai của nhiều giống, góp phần nâng cao tỷ lệ nạc.
Tuy nhiên những nghiên cứu về khả năng sản xuất của các dòng lợn đực này
trên địa bàn tỉnh chưa được tiến hành. Việc theo dõi đánh giá khả năng sản
xuất tinh dịch của lợn đực lai ngoại, ảnh hưởng của nó đến đàn con khi được
phối giống với đàn nái Móng cái là những vấn đề hết sức cần thiết, nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển chăn nuôi lợn hướng nạc sản xuất hàng hoá cho tỉnh
Bắc Giang trong những năm tiếp theo.
Xuất phát từ những yêu cầu và tầm quan trọng đó, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu khả năng sản xuất của lợn đực lai LY và
L19 nuôi tại tỉnh Bắc Giang".
2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá khả năng sản xuất của một số dòng lợn đực lai nuôi tại tỉnh
Bắc Giang và ảnh hưởng của nó tới sức sản xuất của đàn nái giống Móng C¸i.
Từ đó đề xuất các giải pháp phát triển chăn nuôi lợn đực giống nói riêng và
chăn nuôi lợn hướng nạc sản xuất hàng hoá nói chung của tỉnh Bắc Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Ưu thế lai và ứng dụng của nó trong chăn nuôi lợn
Trong chăn nuôi lợn, giống là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định
đến năng suất chất lượng sản phẩm của ngành chăn nuôi. Công tác giống là
công tác kiến thiết cơ bản, trong đó phải đảm bảo phát triển cả hai mặt, tăng
nhanh về số lượng đàn, đồng thời thường xuyên ổn định, nâng cao năng suất
chất lượng đàn lợn, hai mặt này có liên quan chặt chẽ và thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Trong công tác giống gia súc thì nhân giống thuần chủng có ý
nghĩa quan trọng trong việc cải tạo và hoàn thiện giống. Các giống đó phải có
đặc điểm di truyền ổn định, tính năng sản xuất cao.
Để có được những con giống tốt, các nhà làm công tác giống đều
hướng vào việc chọn lọc, ghép đôi giao phối những con giống tốt theo định
hướng sản xuất. Để duy trì các đặc tính tốt của từng giống, loại bỏ các đặc
tính di truyền xấu, bổ sung các đặc tính di truyền tốt thì cần áp dụng đồng thời
các biện pháp chọn lọc thuần chủng và lai tạo giống đặc biệt với những tính
trạng có hệ số di truyền cao (h
2
> 0,5).
Khác với gen quy định tính trạng chất lượng ở gia súc, các gen quy định
tính trạng số lượng không biểu hiện như nhau trong các điều kiện khác nhau.
Như cùng một giống lợn nuôi dưỡng trong cùng một điều kiện giống nhau thì
khả năng tăng trọng và thành phần thịt xẻ của chúng tương đương nhau, nhưng
khi nuôi dưỡng chúng trong những điều kiện khác nhau thì khả năng tăng trọng
và thành phần thịt xẻ của chúng rất khác nhau. Đều này có thể giải thích: Tất cả
các cá thể đều nhận từ bố, mẹ một hệ thống gen quy định nào đó và được xem
như là nhận được khả năng di truyền. Nhưng khả năng di truyền đó có thể được
thể hiện hay không là tuỳ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Theo di truyền học, kiểu hình là kết quả tác dụng của kiểu gen với điều
kiện ngoại cảnh.
P = G + E
Trong đó: P: Giá trị kiểu hình
G: Giá trị kiểu gen
E: Điều kiện ngoại cảnh
Ngày nay, công tác nghiên cứu đều cho thấy, các tính trạng số lượng
mà phần lớn là các tính trạng có ý nghĩa kinh tế như: mức tiêu tốn thức ăn,
khả năng tăng trọng… đều phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố ngoại cảnh. Điều
này có thể là các biến dị di truyền như biến dị di truyền cộng gộp , tương tác
gen. Những tính trạng di truyền thấp chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện
ngoại cảnh (Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, 1998) [51].
Đối với các tính trạng số lượng như khả năng tích luỹ nạc, các gen
đồng hợp tử quyết định tính trạng này tăng lên thì khả năng tích luỹ nạc cũng
tăng lên. Theo lý thuyết, ở đàn lợn thuần chủng (chủ yếu ở lợn ngoại), hầu hết
có các gen quyết định khả năng tích luỹ nạc. Khi ta chọn các dòng, giống lợn
có khả năng tích luỹ nạc cao cho giao phối với nhau qua nhiều thế hệ sẽ dẫn
đến tăng số gen tương đồng trong dòng. Đây chính là phương pháp mà các
nhà chọn giống sử dụng để cải tiến nâng cao tỷ lệ nạc ở lợn.
* Cơ sở khoa học của ƣu thế lai
Ưu thế lai đã được Shull, nhà di truyền học người Mỹ đề cập đến từ
năm 1914. Sau đó vấn đề ưu thế lai được nghiên cứu và ứng dụng khá rộng
rãi ở động vật và thực vật. Theo ông, ưu thế lai là tập hợp của những hiện
tượng liên quan đến sức phát triển nhanh hơn, khả năng chống chịu bệnh tốt
hơn và năng suất cao hơn ở thế hệ đời con so với bố mẹ. Hiện nay ở nhiều
nước chăn nuôi lợn phát triển, 70 - 90% lợn nuôi thịt là lợn lai. Tại đó, ưu thế
lai được coi là một nguồn lực sinh học để tăng năng suất và hạ giá thành sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
phẩm chăn nuôi. Tuy nhiên trong thực tế có một số vấn đề, đó là: Ưu thế lai
bằng không khi năng suất của con lai chỉ bằng mức trung bình của lợn bố mẹ
và không phải bất cứ cặp lai nào cũng đều cho ưu thế lai. Ưu thế lai không di
truyền và độ lớn của ưu thế lai phụ thuộc vào hệ số di truyền. Các tính trạng
có hệ số di truyền thấp sẽ có ưu thế lai cao và những tính trạng có hệ số di
truyền cao sẽ có ưu thế lai thấp. Để nhận được ưu thế lai tối đa, cần đảm bảo
chắc chắn là con bố và con mẹ là 2 giống thuần khác nhau. Nếu con bố và con
mẹ là con lai thì ưu thế lai sẽ bị giảm đi.
Theo nghiên cứu của William (1997)[58] ở lợn có 3 loại ưu thế lai:
Ưu thế lai của con mẹ: Ưu thế lai của con mẹ thể hiện đối với các cá
thể đời con, rõ nhất là thời kỳ lợn con phụ thuộc vào lợn mẹ như từ khi lợn
mẹ chửa cho đến khi cai sữa lợn con (các tính trạng sinh sản được cải thiện
như số con sơ sinh, khối lượng toàn ổ lúc 21 ngày tuổi, khoảng cách lứa
đẻ…). Cho đến nay ưu thế lai của con mẹ là ưu thế lai quan trọng nhất bởi vì
số lợn con cai sữa/ nái là một chỉ tiêu kinh tế rất quan trọng.
Ưu thế lai của con con: Ưu thế lai của con con có lợi cho chính bản
thân chúng vì chính chúng là những con lai. Ưu thế lai có ảnh hưởng đến sức
sống của lợn con và sự tăng khối lượng của chúng, đặc biệt sau khi cai sữa
chúng hoàn toàn tách khỏi lợn mẹ.
Ưu thế lai về đực giống được tạo thành từ bố thể hiện thông qua con
đực từ kết quả giao phối. Ưu thế lai của lợn đực giống được thể hiện rất hạn
chế. So sánh về năng xuất sinh sản của lợn cái lai (L x LW) phối với lợn đực
thuần và lợn đực lai, Gineva (1999) [64] cho thấy, kiểu gen của lợn đực giống
không ảnh hưởng đến số con đẻ ra và số lượng con sống đến 21 ngày tuổi,
nhưng khối lượng lợn con sơ sinh của lợn đực giống lai cao hơn lợn đực
giống thuần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
* Đối với đàn lợn đực giống
Người ta đã cho phối giống tạp giao giữa các giống lợn. Đây là phương
thức chính để sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi, tạp giao pha máu thường áp
dụng trong các trường hợp khi đã có một giống vật nuôi mà tính năng sản
xuất của nó tương đối tốt, nhưng nó vẫn còn một số nhược điểm nào đó. Nếu
áp dụng biện pháp chọn lọc nhân thuần để cải tiến nhược điểm này thì mất rất
nhiều thời gian. Khi đó, chúng ta có thể dùng giống vật nuôi này (bị pha máu)
và giống vật nuôi khác có các ưu điểm mà giống kia không có để làm giống
(đi pha máu). Đem con giống này tạp giao pha máu với nhau tạo thành con lai
để làm giống luôn có sức sống cao hơn, sinh trưởng và sinh sản tốt hơn.
Trong công tác giống, dùng hai hoặc trên hai giống để tiến hành tạp
giao, sau đó chọn lọc các đời lai tốt để tạo thành giống mới gọi là tạp giao gây
thành. Sau khi phối giống tạp giao để có được đời con lai đạt các yêu cầu đề
ra, cần tiến hành chọn lọc, bồi dục con giống, có thể sử dụng con đực lai này
phối giống với con cái giống khác để sản xuất ra con lai sử dụng nuôi thương
phẩm mà không để làm giống.
* Đối với lợn lai thuộc các công thức lai
Nhiều kết quả nghiên cứu và thực tế cho thấy, việc lai giống đã mang
lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành chăn nuôi lợn. Hiện nay trên thế giới ở
những nước phát triển, trong chăn nuôi lợn, người ta đã sử dụng tới 90% con
giống thương phẩm là con lai. Tuy nhiên việc kết hợp giữa hai giống nào có
ưu thế lai cao còn phụ thuộc vào sự lựa chọn, xác định ưu thế lai của tổ hợp
lai dựa trên giá trị giống.
Để có được đàn lợn lai nuôi thịt có khả năng sinh trưởng cao và tiêu tốn
thức ăn/kg tăng trọng thấp, tỷ lệ nạc cao, hiện nay hệ thống sản xuất con lai
còn được tổ chức theo sơ đồ hình tháp nhằm thực hiện các công thức lai giữa
nhiều dòng giống khác nhau, hệ thống sản xuất con lai được tổ chức như sau:
- Đàn cụ kỵ (GGP) có nhiệm vụ nhân các dòng, giống thuần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
- Đàn ông, bà (GP) lai giữa hai dòng, hai giống thuần với nhau tạo ra
đời ông bà. Nếu dùng công thức lai giữa bốn dòng giống khác nhau, cần có
hai đàn ông bà khác nhau, một đàn ông bà tạo ra dòng bố, còn đàn kia tạo ra
dòng mẹ. Còn nếu sử dụng công thức lai giữa ba dòng khác nhau, chỉ cần một
đàn ông bà, đàn này thường dùng để tạo ra đàn mẹ, còn đàn bố thường là
dòng, giống thuần trong đàn cụ, kỵ.
- Đàn bố, mẹ (PS): Lai giữa hai đàn bố mẹ tạo ra đời con lai giữa ba
hay bốn dòng giống khác nhau.
- Đàn thương phẩm: Là các con lai giữa ba hay bốn dòng giống khác
nhau được nuôi để sản xuất thịt.
Hay nói theo cách khác, lai giống là phương pháp nhân giống bằng
cách cho đực giống và cái giống thuộc hai quần thể khác nhau giao phối với
nhau, hai quần thể này có thể là hai dòng, hai giống khác nhau, do đó đời con
của chúng mang đặc tính của bố, mẹ nó. Lai giống có tác dụng mang lại ưu
thế lai (H) ở đời con một số tính trạng nhất định.
Mức độ ưu thế lai của một tính trạng năng suất được xác định như sau.
1/2(AB + BA) - 1/2 (A+B)
H(%) = x 100
1/2 (A+B)
Trong đó: 1/2 (AB) là trung bình của con (A là bố, B là mẹ)
1/2 (BA) là trung bình của con (B là bố, A là mẹ)
1/2 (A + B) là trung bình của bố, mẹ.
Qua đây ta có thể nói sẽ không có ưu thế lai khi năng suất của con lai
chỉ bằng năng suất của chính bố mẹ chúng. Về bản chất hiện tượng của ưu thế
lai được Nguyễn Văn Thiện (1998) [51] giải thích bởi ba thuyết đó là: Thuyết
trội, thuyết siêu trội và thuyết át gen.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Thuyết trội: Các gen có lợi phần lớn là gen trội, con lai tập hợp được
nhiều gen trội hơn bố mẹ. Các tính trạng về năng suất sinh sản, sinh trưởng và
cho thịt là những tính trạng số lượng do nhiều kiểu gen điều khiển vì vậy ít
khi có đồng hợp tử, thế hệ con lai tạo ra giữa hai cá thể được biểu hiện do các
gen trội của bố và mẹ.
Thuyết siêu trội: Hiệu quả của một alen trạng thái dị hợp tử sẽ khác với
hiệu quả từng alen ở trạng thái đồng hợp tử và các alen dị hợp tử có tác động
lớn hơn các cặp alen đồng hợp tử.
Aa > AA > aa theo Shull GH. (1952) [70]
Thuyết át gen cho rằng: Hai giống đã hình thành nên tổ hợp gen mới
trong đó tác động tương hỗ giữa các alen không cùng locut là nguyên nhân
tạo ra ưu thế lai.
Hay có thể nói cách khác, lợn lai được tạo ra từ các công thức lai, đây
là một phương pháp nhân giống làm cho tần số kiểu gen đồng hợp tử ở thế hệ
sau giảm đi, còn kiểu gen dị hợp tử ở thế hệ sau tăng lên, phương pháp này là
phương pháp tạp giao. Theo nghĩa rộng, tạp giao là cho giao phối các cá thể
có kiểu gen khác nhau. Trong thực tế chăn nuôi tạp giao là cho giao phối giữa
các cá thể thuộc hai dòng trong cùng một giống, thuộc hai giống khác nhau.
Do vậy, tạp giao sẽ tạo ra đời con lai có sức sống tốt hơn, khả năng thích ứng
và chống đỡ bệnh tật cao hơn đồng thời làm tăng khả năng sinh sản, sinh
trưởng và cho sản phẩm (Nguyễn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, 1998) [51].
Theo thuyết gen trội: Gen trội phần lớn là các gen có lợi và át gen lặn.
Do đó qua tạp giao có thể đem các gen trội của cả hai bên bố và mẹ tổ hợp lại
ở đời lai, làm cho đời lai có giá trị cao hơn hẳn so với bố mẹ.
Ưu thế lai mang đến từ 3 kiểu: Từ cá thể, từ con mẹ, từ con bố. Con lợn
lai thể hiện ưu thế lai cá thể, làm cho tăng trọng nhanh hơn, tỷ lệ nuôi sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
cao hơn so với bố mẹ thuần chủng. Ưu thế lai từ con mẹ làm cho con nái lai
đẻ nhiều lợn con hơn, cai sữa con nặng hơn, nhiều hơn so với mẹ thuần. Ưu
thế lai từ con bố làm cho con đực lai động dục sớm hơn và tính dục hăng hơn
so với bố thuần (Pork industry,1996) [37].
Theo Falcomer (1990) giá trị các tính trạng của con lai thường vượt lên
trên trung bình của bố và mẹ:
X bố + X mẹ
X con lai >
2
1.1.2. Một số đặc điểm của các giống lợn nuôi tại Bắc Giang
Giống lợn Móng Cái (ký hiệu: MC)
Là giống lợn nội phổ biến nhất ở Việt Nam, có nguồn gốc từ huyện Hà
Cối (nay gọi là huyện Đầm Hà) và huyện Móng Cái - tỉnh Quảng Ninh.Lợn
Móng Cái có tầm vóc trung bình, mình ngắn, cổ ngắn, tai nhỏ, lưng võng, số
con sơ sinh sống mỗi lứa cao từ 11-13 con/ổ (biến động từ 8-16 con), cá biệt
có lứa đẻ tới 21 con, khối lượng lúc 10 tháng tuổi nặng 80-85 kg, tỷ lệ nạc
thấp (30-35%), tiêu tốn thức ăn từ 5-6 đơn vị thức ăn/kg tăng trọng (Phạm
Hữu Doanh và cộng sự, 1992) [19].
Giống lợn Yorkshire (ký hiệu:Y)
Được tạo ra ở Anh, lần đầu tiên được giới thiệu năm 1851. Đặc điểm cơ
bản của lợn Yorkshire là sự phát triển về khối lượng, kết cấu cơ thể chắc
chắn, tứ chi chắc khoẻ, tai đứng, mình trường, khả năng thích nghi tốt, thân
hình to lớn, sinh trưởng tốt, tỷ lệ nạc từ 52-55% năng suất sinh sản tốt, lợn nái
đẻ 10-12 con/lứa.
Giống lợn Landrace (ký hiệu: L)
Lợn Landrace là một mẫu hình đáp ứng về nhu cầu chất lượng ngày
càng tăng của người tiêu dùng. Lợn Landrace có màu lông trắng tuyền, thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
trường, tai to rủ úp về phía trước, bụng gọn, ngực không sâu lắm, mông nở và
đầy, lưng rộng, thân hình nhọn đầu về phía trước, tứ chi vững chắc, tỷ lệ nạc
từ 54-56%, lợn nái đẻ từ 11-12 con/lứa. Việt Nam đã nhập lợn Landrace của
một số nước như Bỉ, Nhật, Cu Ba về để nuôi thuần và sử dụng trong các công
thức lai.
Lợn đực lai F1 (♂Landrace x ♀Yorkshire) (ký hiệu: LY)
Lợn đực lai LY là những dòng lợn đực được chọn lọc theo hướng sinh
sản tốt, chuyển hoá thức ăn cao, nuôi con khéo và ngoại hình đẹp, tăng trọng
nhanh và tỷ lệ nạc cao.
Dòng lợn này có đặc điểm ngoại hình như sau: Thân hình dài vừa phải,
ngực nở, mông nở, bụng gọn, bốn chân chắc khoẻ, mõm dài, hai tai to, hơi
đưa ngang về phía trước, lông da màu trắng, có 12 vú trở lên.
Lợn đực lai dòng L19 (♂Duroc x ♀Yorkshire) (Ký hiệu L19)
Lợn L19 còn được gọi là dòng Duroc trắng được tạo ra ở Anh, dòng
lợn L19 được tạo ra từ việc lai tạo giữa hai giống Duroc trắng và giống lợn
Yorskhire. Dòng L19 dùng để phối giống với lợn cái ông bà C1230 và C1050
để sản xuất ra lợn giống bố mẹ CA và C22.
Lợn L19 là dòng lợn đực giống có lông da màu trắng, tròn mình, mông
vai nở, bốn chân chắc khoẻ, chất lượng thịt tốt, có tỷ lệ nạc từ 56-58%, thịt có
nhiều mỡ giắt.
1.1.3. Đặc điểm về sinh trưởng và phát dục của lợn
Sinh trưởng là quá trình tích luỹ các chất hữu cơ trong cơ thể. Đó là sự
tăng lên về chiều cao, chiều dài, bề ngang và khối lượng các bộ phận của toàn bộ
cơ thể con vật trên cở sở bản chất di truyền của đời trước quy định. Trong chăn
nuôi lợn, khả năng sinh trưởng của lợn liên quan tới khối lượng cai sữa, khối
lượng xuất chuồng, ảnh hưởng rất lớn đến giá thành và hiệu quả chăn nuôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Các sinh vật sinh ra và lớn lên gọi là sự phát triển của sinh vật. Sinh vật
sống biểu thị tính cảm ứng, tính sinh sản, tính phát triển, tính tạo ra năng lượng,
tính hao mòn và chết. Đặc điểm của sinh vật là hấp thu, sử dụng năng lượng của
môi trường xung quanh làm thành chất cấu tạo cơ thể của mình, để lớn lên và
phát triển. Do vậy các giống gia súc khác nhau thì có quá trình sinh trưởng khác
nhau, chủ yếu là quá trình tích luỹ protein.
Hiểu biết về quá trình sinh trưởng, nhất là quá trình tạo nạc và mỡ sẽ
giúp cho người chăn nuôi lợi dụng được các đặc tính sẵn có của lợn. Tốc độ
tăng trưởng của gia súc thường khác nhau, tỷ lệ các phần mỡ, cơ, xương trên
lợn cùng lứa tuổi có khối lượng khác nhau hay bằng nhau đều phụ thuộc vào
chế độ dinh dưỡng và các giai đoạn sinh trưởng của gia súc.
Giai đoạn đầu từ sơ sinh đến 5 tháng tuổi, giai đoạn này của lợn chủ
yếu là tích luỹ cơ và khoáng chất, đặc biệt là sự phát triển của cơ. Mô cơ bao
gồm một số sợi cơ nhất định liên kết với nhau thành bó, có vỏ liên kết bao
bọc. Ở giai đoạn còn non, lợn có nhiều mô cơ liên kết và sợi cơ, nhưng càng
lớn thì tỷ lệ cơ giảm. Giai đoạn mới sinh thớ cơ mỏng, do đó bó cơ cũng như
cấu trúc của thịt tốt, khi khối lượng cơ thể tăng theo tuổi thì sợi cơ dày thêm
và bó cơ trở lên lớn hơn. Tuy nhiên đến giai đoạn cuối từ 60 - 70kg trở đi, khả
năng tích luỹ cơ giảm dần, tốc độ tích luỹ mỡ tăng lên, mức độ tăng này tuỳ
thuộc vào tốc độ tích luỹ mỡ dưới da, vì lượng mỡ dưới da chiếm 2/3 tổng số
mỡ trong cơ thể (Jurgens, 1993) [67]. Theo Pfeifer (1984) [69] cùng với sự
tăng lên về khối lượng thì tỷ lệ vật chất khô và tỷ lệ mỡ cũng tăng lên, đồng
thời tỷ lệ protein giảm nhẹ và tăng protein cao nhất đạt được ở khối lượng 40
- 70kg, sau đó giảm dần. Do vậy ở lợn đang lớn, quá trình tổng hợp protein
tăng dẫn đến làm tăng sự tạo thành nạc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
1.1.4. Một số đặc điểm sinh lý sinh dục ở lợn đực
1.1.4.1 Đặc điểm và thành phần hoá học của tinh dịch lợn
Màu sắc của tinh dịch
Bình thường tinh dịch lợn thường có màu trắng sữa hoặc như nước vo
gạo. Nhiều lợn đực nội (đặc biệt là lợn đực trưởng thành) do nồng độ tinh
trùng thấp nên tinh dịch loãng và trong hơn so với lợn ngoại. Cần chú ý loại
bỏ những tinh dịch có màu không bình thường như:
- Màu vàng: do tinh d ịch có thể lẫn nước tiểu.
- Màu đỏ hồng: Tinh dịch có thể lẫn máu.
- Màu xanh hoặc vàng đục: Có thể lẫn mủ.
Mùi của tinh dịch lợn
Tinh dịch của lợn đực bình thường có mùi đặc biệt. Không nên sử dụng
những tinh dịch có mùi khác thường như: Mùi khai (có lẫn nước tiểu), mùi
hôi, thối...
Độ vẩn của tinh dịch
Nó thể hiện sức sống và nồng độ tinh trùng. Có thể dùng chỉ tiêu này để
đánh giá sức sống và độ đậm đặc của tinh dịch bằng mắt thường.
Theo Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993) [47] thì độ vẩn của tinh
dịch như sau:
Khi tinh dịch đậm đặc, người ta nhận thấy có trạng thái chuyển động
trong lòng chất lỏng sẽ ghi nhận bằng ký hiệu: + + +
Khi tinh dịch có độ đậm đặc trung bình, độ vẩn được ký hiệu: + +
Khi tinh dịch loãng, nhận thấy độ đậm đặc hầu như không đáng kể,
được ký hiệu: +
Đối với tinh dịch lợn ngoại, độ vẩn thường đạt + + +, lợn lai và lợn
giống mới thường đạt + +, còn lợn nội thường đạt +.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Tinh dịch lợn đực gồm hai phần tinh thanh và tinh trùng
._.Tinh thanh là hỗn hợp chất lỏng được tiết ra từ các tuyến sinh dục phụ
và dịch phụ hoàn. Tinh thanh chiếm phần chủ yếu trong tinh dịch. Ở lợn, tinh
thanh rất nhiều, do tuyến sinh dục phụ của lợn rất phát triển. Tinh thanh có tác
dụng rửa đường niệu đạo, hoạt hoá tinh trùng và cung cấp chất dinh dưỡng
cho tinh trùng. Tinh thanh chiếm 95 - 98% khối l•ợng tinh dịch.
Tinh trùng lợn là tế bào sinh dục đực được hình thành trong ống
sinh tinh trong dịch hoàn của lợn. Các ống này chứa rất nhiều loại tế bào
khác nhau, trong đó quan trọng nhất là tế bào mầm hay tế bào sinh dục
nguyên thuỷ. Vào một thời điểm nào đó, tế bào sinh dục nguyên thuỷ tăng
lên qua nhiều lần phân chia để trở thành tinh bào sơ cấp, rồi thành tinh bào
thứ cấp. Tinh bào thứ cấp qua 2 lần phân chia để hình thành nên 4 tiền tinh
trùng. Tiền tinh trùng có 19 cặp nhiễm sắc thể thường và một cặp nhiễm
sắc thể quy định giới tính (hoặc X hoặc Y). Tiền tinh trùng trải qua giai
đoạn biến thái để hình thành nên các tinh trùng. Khi đã được hình thành,
tinh trùng chuyển dịch từ dịch hoàn đến dịch hoàn phụ. Trong dịch hoàn
phụ, tinh trùng tồn tại trong môi trường có tính axit nên khả năng hoạt
động của chúng bị ức chế. Khi di chuyển trong dịch hoàn phụ, tinh trùng đ-
ược bao phủ một lớp lipoproteit, lớp này nâng cao khả năng ổn định cho
tinh trùng, giúp cho tinh trùng không bị tụ dính.
Quá trình hình thành tinh trùng chịu sự điều khiển trực tiếp của
testosteron (Nguyễn Xuân Tịnh, 1996) [45]. Sự thành thục tính dục của lợn
đực được xác định khi tinh hoàn có đủ khả năng sản xuất tinh trùng thành
thục và có khả năng thụ thai. Sự sinh tinh của lợn đực nội bắt đầu rất sớm, các
loại giống nội như lợn Ỉ hoặc lợn Móng Cái, con đực lúc 40 ngày tuổi đã có
tinh trùng thành thục, hoạt lực 0,6 - 0,7. Đến 50 - 55 ngày tuổi, lợn đực đã có
khả năng giao phối và thụ thai. Tuy nhiên, đối với các loại lợn lai và lợn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
ngoại sự xuất hiện tinh trùng có khả năng thụ thai thường chậm hơn (Lê Xuân
Cương 1986) [12]. Sự thành thục tính dục của lợn chịu sự điều khiển của hệ
thống thần kinh, thể dịch và chịu sự ảnh hưởng của kiểu di truyền và môi
trường. Do vậy ở các giống lợn khác nhau, môi trường khác nhau thì độ tuổi
và khối lượng cơ thể khi thành thục cũng khác nhau (Trần Cừ, 1985 [11]; Lê
Xuân Cương, 1986) [12].
Tinh trùng là thành phần có ý nghĩa sinh học quan trọng nhất trong tinh
dịch. Tinh trùng lợn gồm 3 phần: Đầu, cổ thân và đuôi. Về mặt hình thái và kích
thước, phần đầu dài khoảng 9 - 10 , phần cổ thân dài 10 - 12 ; còn phần đuôi
dài 30 - 32 . Phần đầu của tinh trùng có Acrosome bao bọc, trong đó có chứa
các men như Hyaluronidase; Acrosine và Phosphatase có tác dụng làm tan rã
màng phóng xạ và màng trong suốt của trứng để tinh trùng tiếp cận với noãn
hoàng trong quá trình thụ tinh. Vì vậy việc đánh giá tình trạng của Acrosome
của tinh trùng là rất cần thiết (Nguyễn Tấn Anh, 1990). Do lớp protit của
Acrosome ở tinh dịch của tinh trùng lợn đực dễ bị trương phồng hay bị bong
ra khỏi đầu tinh trùng làm cho các enzyme thoát ra ngoài và dẫn đến mất khả
năng thụ thai (Nguyễn Tấn Anh 1994) [5]. Thân và đuôi tinh trùng giúp cho
tinh trùng vận động nhờ sự co rút của các sợi cơ ở thân và đuôi. Sự vận động
của tinh trùng trong đường sinh dục rất quan trọng, sức hoạt động tốt thì tinh
trùng mới có cơ hội di chuyển ngược dòng gặp trứng để thụ tinh.
Dưới kính hiển vi điện tử với độ phóng đại khoảng 2.000 - 3.000 lần,
nếu nhìn thẳng người ta có thể phân biệt và chia tinh trùng ra làm 3 phần:
Phần đầu hình trứng hơi dài; Phần cổ mảnh và ngắn; Phần đuôi dài và mảnh,
càng về cuối càng mảnh. Nếu nhìn nghiêng, đầu hình phiến hơi cong, sau đó
là cổ, thân và đuôi cụ thể như sau:
* Phần đầu của tinh trùng:
Đầu có hai phần cơ bản: Nhân và Acrosome. Nhân của tinh trùng cấu
tạo bằng Chromatin đậm đặc. Nhân chiếm 76,7 - 80,3% thể tích đầu và được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
nén chặt lại gần như một tinh thể. Nhân chứa thông tin di truyền của con đực.
Xung quanh nhân là nguyên sinh chất. Phần trước nhân là xoang Acrosome,
giống cái túi có hai lớp màng bọc và bọc sát vào nhân. Acrosome chứa một số
enzyme thuỷ phân, đặc biệt là men Hyaluronidase có tác dụng làm tan rã lớp
tế bào hình tia (phóng xạ) của tế bào trứng tạo điều kiện cho tinh trùng có thể
dễ dàng tiếp cận với noãn hoàn trong quá trình thụ thai. Theo một số tác giả
thì chất protit của Acrosome dễ bị tổn thương bởi tác nhân bên ngoài như:
nhiệt độ, ánh sáng, hoá chất, cơ học… vì vậy khi xử lý, bảo tồn và vận chuyển
cần chú ý không gây tổn thương Acrosome.
* Phần cổ tinh trùng:
Cổ là phần rất ngắn, hơi co lại, gắn vào hốc ở đáy phía sau của nhân.
Từ đây bắt nguồn các sợi trục thô kéo dài đến tận đuôi của tinh trùng, tạo
thành công thức sợi 2+9+9. Cổ nối liền đầu và thân, cổ dễ bị đứt bởi tác động
cơ học và các yếu tố hoá học, vật lý như nhiệt độ…. khi thụ tinh thì đầu tinh
trùng xâm nhập vào tế bào trứng còn cổ bị gãy để thân rời xa. Do vậy trong
quá trình bảo tồn tinh dịch tránh những tác động cơ học có thể dẫn đến gãy,
đứt cổ tinh trùng.
* Thân và đuôi tinh trùng:
Đuôi tinh trùng được chia làm các phần: Đoạn giữa, đoạn chính và
chóp đuôi. Đoạn giữa có 9 cặp vi ống ngoài, 2 ống trung tâm và được bọc
quanh bằng 9 sợi ưa Osmi, tất cả tạo thành một bó trục. Bó trục được bọc bên
ngoài bằng ti thể xếp theo đường tròn xoắn ốc (lò xo ti thể) và kết thúc tại
vòng nhẫn Jensen. Ti thể có chứa enzyme oxi hoá và Oxiphotphoryl hoá,
Oxiphotpholipit, Leucetin và Plasmanogen. Các chất này dự trữ năng lượng
và ti thể được xem là cơ quan giải phóng năng lượng cần thiết cho sự hoạt
động của tinh trùng.
Đoạn chính không bao bọc bằng ti thể mà chỉ có bó trục ở giữa và
những sợi Osmi vây bên ngoài. Hệ thống này được bao bởi một vỏ bọc bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
những sợi chắc. Vỏ bọc này duy trì khả năng ổn định cho các yếu tố co rút
của đuôi. Bó trục của đuôi chịu trách nhiệm cho sự chuyển động của tinh
trùng. Bọc ti thể phân giải ATP cung cấp năng lượng cho các tay Dynein của
các cặp vi ống làm chuyển động đuôi của tinh trùng. Mỗi cặp vi ống có 2 dãy
tay Dynein (ngoài và trong), các tay này hoạt động như một “cá líp” và đi dọc
theo cặp kề bên, làm cho cặp này trượt trên cặp khác.
Việc gá lắp cầu nối hình tia giữa các cặp vi ống ngoài với vi ống trung
tâm cưỡng lại hiện tượng vừa nêu, làm cho đuôi tinh trùng bị uốn lượn.
Do các cặp vi ống ngoài trượt liên tục nên sự uốn lượn được hình thành
liên tục, được lan truyền tạo lên sự chuyển động đặc trưng của tinh trùng
(chuyển động làn sóng) đó là hiện tượng trượt theo vi ống.
Sự vận động này rất quan trọng khi tinh trùng đi vào đường sinh dục
cái để gặp trứng. Thành phần của tinh trùng có khoảng 25% vật chất khô,
75% nước. Trong vật chất khô có khoảng 85% protein, 13,2% lipid và 1,8%
chất khoáng, các chất khác tỷ lệ thấp không đáng kể. Đầu tinh trùng có chứa
ADN, còn ở đuôi chứa nhiều lipid, theo Hoàng Toàn Thắng ( 2006)[46].
Sự hoạt động của tinh trùng
Khi ở trong dịch hoàn phụ, tinh trùng hoạt động rất yếu hoặc không
hoạt động, khi được giải phóng ra ngoài, tinh trùng hoạt động mạnh bởi các
enzyme có trong tinh dịch.
Trạng thái hoạt động của tinh trùng thể hiện chất lượng tinh dịch. Nếu
tinh trùng hoạt động càng mạnh thể hiện chất lượng càng tốt, theo Nguyễn
Tấn Anh (1985) [2] tinh trùng có 3 hình thức vận động cơ bản như sau:
+ Vận động tiến thẳng: Là vận động của tinh trùng theo hướng thẳng về
phía trước trong tinh dịch khi quan sát được trên vi trường kính hiển vi.
Những tinh trùng vận động dạng này có khả năng thụ thai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
+ Vận động xoay tròn: Là vận động của tinh trùng theo hướng xoay
tròn trong tinh dịch khi quan sát được trên vi trường kính hiển vi. Những tinh
trùng vận động dạng này thường không có khả năng thụ thai.
+ Vận động tại chỗ: Là vận động của tinh trùng mà không tạo ra sự di
chuyển vị trí trong tinh dịch khi quan sát trên vi trường kính hiển vi. Loại vận
động này thường có ở những tinh trùng non hoặc tinh trùng bị dị tật. Những
tinh trùng này không có khả năng thụ thai.
* Quá trình trao đổi chất của tinh trùng
Tinh trùng sử dụng năng lượng để vận động. Năng lượng này được tạo
ra do sự phân giải của ATP và ADP, quá trình phân giải như sau:
ATPaza, Spermiojine
ATP ADP + HP03
-
+ năng lượng
ATPaza, Spermiojine
ADP AMP + HP03
-
+ năng lượng
Năng lượng được sinh ra trong quá trình đường phân và hô hấp. Tinh
trùng có thể sống và hoạt động trong điều kiện không có oxy nhưng có
glucoza.
Quá trình đường phân xảy ra theo phản ứng:
enzym
C6H12O6 2C3H6O3 + Q (năng lượng)
yếm khí
Quá trình phân giải đường yếm khí là một quá trình diễn ra hết sức
phức tạp, với sự tham gia của nhiều enzyme và phải trải qua phản ứng
Embden-Meyerhof để tạo thành axit Lactic.
Quá trình hô hấp hiếu khí của tinh trùng xảy ra phản ứng hoá học như sau:
C6H12O6 + 6O2 6CO2 + 6H2O + Q (670 Kcal)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Như vậy trong môi trường có oxi tinh trùng hô hấp cho năng lượng cao
hơn môi trường không có oxi. Do đó để tinh trùng sống được bên ngoài cơ thể
gia súc ta cần bảo quản tinh trùng trong môi trường yếm khí.
Ngoài ra khi hô hấp tinh trùng còn phân huỷ lipit và các axit amin. Khi
hô hấp, tinh trùng còn hấp thụ cả oxi và bài tiết CO2. Nhiều tác giả cho rằng
khả năng hô hấp của tinh trùng càng mạnh thể hiện chất lượng tinh dịch càng
tốt, (Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh, 1993) [47].
Thành phần hoá học của tinh dịch lợn:
Tinh dịch lợn là chất tiết hỗn hợp của dịch hoàn phụ và các tuyến sinh
dục phụ, gồm có hai thành phần là tinh trùng và tinh thanh. Tinh dịch là dịch
lỏng, màu trắng đục, có phản ứng kiềm yếu (pH = 7,2 - 7,5) và có mùi hăng
đặc trưng.
Bảng 2.1: Thành phần hoá học của tinh dịch (mg%)
Thành phần Tinh dịch lợn Thành phần Tinh dịch lợn
Protein (mg%) 3831 Phospho (mg%) 8
Lipid (mg%) 29 Lưu huỳnh (mg%) -
Các chất hoàn nguyên
(mg%)
37
Clo (mg%)
329
Fructose (mg%) 6 - 8 Kali (mg%) 243
Acid citric (%) 0,13 Calci (mg%) 5
Acid lactic (mg%) 21 Magnhegi (mg%) 11
(Số liệu trích từ Hoàng Toàn Thắng, 2006) [46].
Sự tiết tinh dịch ở lợn đưc:
Ở lợn đực ngoại khi đã thành thục về tính dục (6 - 8 tháng tuổi và khối
lượng cơ thể từ 90 - 100kg), người ta có thể cho phối giống trực tiếp hay lấy tinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
bằng phương pháp nhân tạo. Theo Đặng Đình Tín (1986) [41], ở lợn đực, tinh
trùng và chất phân tiết không tiết ra đồng thời. Theo Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn
Anh (1993) [47] có thể quan sát thấy 3 giai đoạn xuất tinh như sau:
- Giai đoạn đầu: Tiết ra 10 - 22ml dịch trong suốt không có tinh trùng, chất
này có tác dụng rửa đường niệu sinh dục chuẩn bị có tinh trùng di chuyển qua.
- Giai đoạn 2: Kéo dài 1 - 2 phút, tiết ra khoảng 100 - 200ml chất dịch
gồm có tinh trùng và các chất phân tiết của các tuyến sinh dục phụ như: tiền
liệt tuyến, tinh nang, Cowper.
- Giai đoạn 3: Là sự bài tiết chủ yếu của các tuyến sinh dục phụ (150ml
- 200ml), số lượng tinh trùng ở giai đoạn này ít, thời gian kéo dài 4 - 5 phút.
Trong tinh dịch, phần quan trọng nhất là tinh trùng, đây là yếu tố chính
gây thụ thai ở lợn cái.
1.1.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng tinh dịch
Khi tinh trùng còn ở trong cơ thể gia súc đực thì số lượng và chất lượng
của tinh dịch phụ thuộc và chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường như: Điều
kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, chế độ khai thác, sử dụng, sức khoẻ và tuổi tác của
con vật cũng như những điều kiện về khí hậu, thời tiết. Các giống khác nhau thì số
lượng và chất lượng tinh dịch cũng khác nhau. Các giống lợn nguyên thuỷ chưa
được cải tiến thì số lượng và chất lượng tinh dịch đều kém hơn các giống lợn đã đ-
ược cải tiến hoặc chọn lọc. Các giống lợn nội như Móng Cái, Mường Khương chỉ
đạt từ 0,8 - 6 tỷ tinh trùng trên 1 lần xuất tinh. Trong khi đó các giống lợn ngoại
nuôi ở Việt Nam như Đại Bạch, Landrace, Berkshire thường đạt từ 16 - 90 tỷ tinh
trùng trên một lần xuất tinh. Trong các yếu tố cấu thành chỉ tiêu V.A.C thì sự khác
nhau cơ bản giữa các giống lợn nội và ngoại là nồng độ (C) tinh trùng. Các giống
lợn nội nồng độ tinh trùng từ 20 - 50 triệu/1ml, còn ở các giống lợn ngoại, nồng
độ tinh trùng đạt từ 170 - 300 triệu/1ml (Nguyễn Tấn Anh và Lưu Kỷ, 1970 - trích
từ Lê Xuân Cương, 1986) [12].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng tinh dịch đạt cao nhất và ổn định
khi lợn đực trưởng thành. Lợn đực 7 - 10 năm tuổi, hoạt động sinh dục bị
giảm, phản xạ sinh dục và phẩm chất tinh dịch rất kém. Lợn đực già tinh hoàn
nhỏ lại, các quá trình tạo tinh trùng cũng bị chậm, lợn đực không muốn giao
cấu - tình trạng đó được gọi là “ liệt dục do già”. Đối với các giống lợn nội,
giai đoạn cho phẩm chất tinh dịch tốt nhất là từ 6 - 18 tháng tuổi, còn ở lợn
ngoại là từ 2- 3 năm tuổi (Lê Xuân Cương, 1986) [12]. Trong các yếu tố môi
trường thì yếu tố nhiệt độ có ảnh hưởng rõ rệt nhất. Đặc biệt là khi nhiệt độ
môi trường cao thời gian chiếu sáng cũng ảnh hưởng đến chất lượng tinh
dịch. Nếu nhiệt độ 35
0
C và thời gian chiếu sáng 16 giờ/ngày thì chất lượng
tinh dịch giảm sút nghiêm trọng. Do vậy, với lợn đực thời gian chiếu sáng
không nên kéo dài quá 10 giờ/ngày (Lê Xuân Cương, 1986) [12].
Khi tinh trùng ra ngoài cơ thể gia súc nó sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố như:
+ Ánh sáng: Do tinh trùng có đặc tính ưa tối do vậy ánh sáng sẽ là tác
nhân có hại cho sức sống của tinh trùng. Trong ánh sáng đặc biệt là các tia tử
ngoại sẽ làm cho tinh trùng chết rất nhanh. Mặt khác khi có ánh sáng chiếu
vào sẽ làm cho nhiệt độ tăng lên và làm cho tinh trùng hoạt động mạnh mất
năng lượng nhiều sẽ dẫn đến nhanh chết. Vì vậy để đảm bảo sức sống của tinh
trùng được tốt người ta thường sử dụng các dụng cụ đựng tinh trùng màu tối.
+ Nhiệt độ: Nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp đến sức hoạt động của tinh
trùng. Theo Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993) [47] thì nhiệt độ phù
hợp là 10 - 15
0
C. Tuỳ theo từng loại môi trường mà nhiệt độ bảo tồn có thể
khác nhau: môi trường Liên Xô II bảo quản ở 12
0
C, môi trường BTS bảo
quản ở 18
0
C. Theo Hirosi Masuda (1994) [66] tinh trùng hoạt động mạnh ở
nhiệt độ 40 - 42
0
C và chết nhanh ở 60
0
C.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Một nghiên cứu ở Nhật Bản về ảnh hưởng của tốc độ làm lạnh đến thời
gian bảo tồn và hoạt lực tinh trùng cho biết, thời gian và tốc độ hạ nhiệt đến
nhiệt độ bảo tồn càng kéo dài càng tốt, tác giả cho rằng việc hạ nhiệt độ chậm
sẽ có tác dụng duy trì hoạt lực của tinh trùng cao hơn và thời gian bảo tồn lâu
hơn so với quá trình hạ nhiệt độ nhanh.
+ Ảnh hưởng của hoá chất độc: Các kim loại nặng như Fe, Hg là
những chất độc mạnh với tinh trùng. Một số chất như khói thuốc lá, mùi
Formol, H2S, các chất hữu cơ như cồn, ete, kiềm, acid đều làm cho tinh
trùng nhanh chết.
+ Ảnh hưởng của áp lực thẩm thấu, năng lực đệm pH:
Môi trường pha loãng tinh dịch lợn cần có áp lực thẩm thấu đẳng
trương với tinh dịch. Các môi trừơng ưu trương hoặc nhược trương đều có hại
cho tinh trùng, vì nó làm cho tinh trùng bị teo đi hoặc trương phồng lên và
chết một cách nhanh chóng.
Tinh trùng cần có môi trường pha loãng với năng lực đệm để ổn định
độ pH. Theo Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993) [47] tinh dịch lợn có pH
hơi kiềm (pH = 7,57) nên tinh trùng được kích thích hoạt động mạnh. Vì vậy
sẽ chóng chết. Trong môi trường toan yếu sức hoạt động của tinh trùng bị ức
chế (pH = 6,5 - 7), tinh trùng sống được lâu hơn.
+ Ảnh hưởng của tác động cơ học:
Do đặc điểm cấu tạo của Acrosome của tinh trùng liên kết rất lỏng lẻo
với đầu và phần đầu liên kết lỏng lẻo với phần cổ - thân vì vậy nó rất dễ bị
bong ra do tác động cơ học. Từ đặc điểm này trong quá trình sản xuất, vận
chuyển tinh dịch lợn cần hết sức tránh những tác động cơ học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
1.1.5 Sinh lý sinh dục ở lợn cái
1.1.5.1 Chu kỳ sinh dục của lợn cái
Lợn cái thành thục sinh dục khi cơ quan sinh dục đảm bảo được các
chức năng cho quá trình thụ thai, nuôi thai. Khi lợn cái thành thục sinh dục,
hoạt động sinh dục theo một nhịp điệu nhất định - đó là chu kỳ sinh dục.
Chu kỳ sinh dục của lợn cái được chia làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn trước động dục (Proestrus)
- Giai đoạn động dục (Estrus)
- Giai đoạn sau động dục (Postestrus)
- Giai đoạn yên lặng sinh học (Anestrus)
(Lê Xuân Cương, 1986) [12]
Trong các giai đoạn đó thì giai đoạn động dục có ý nghĩa quan trọng
nhất trong sinh sản, bởi chỉ ở giai đoạn này lợn nái mới biểu hiện động dục,
có trứng rụng và cơ quan sinh dục cái biến đổi để đủ điều kiện cho quá trình
thụ thai và nuôi dưỡng hợp tử, đồng thời đây cũng là giai đoạn có thời điểm
chịu đực ở con cái.
1.1.5.2 Quá trình thụ tinh
Quá trình thụ tinh được xảy ra khi tinh trùng gặp trứng ở vị trí thích
hợp trong đường sinh dục con cái. Như vậy quá trình thụ tinh và sinh sản
không chỉ liên quan đến con đực mà còn phụ thuộc vào con cái. Ở con cái
hoạt động sinh dục theo chu kỳ và chịu sự điều khiển của hệ thống thần kinh
và thể dịch (hormon). Thời điểm chịu đực của giai đoạn động dục là thời điểm
phối giống thích hợp nhất, đây là giai đoạn trứng rụng nhiều. Tinh trùng đi
vào đường sinh dục cái, vận động ngược dòng với dịch của tử cung để đến
gặp trứng (Trần Tiến Dũng và cộng sự, 2002) [16]. Khi tế bào trứng kết hợp
với tinh trùng thì xảy ra một quá trình đồng hoá lẫn nhau tạo ra một hợp tử
mới mang tính di truyền của bố mẹ và của giống loài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Theo Hoàng Toàn Thắng (2006)[46], quá trình thụ tinh ở gia súc xảy ra
qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn phá vành phóng xạ: Thể đỉnh ở đầu tinh trùng tiết ra
enzyme hyaluronidase phân giải acid hyaluronic là chất keo gắn các tế bào
của màng phóng xạ. Một số tế bào của màng phóng xạ sẽ rời xa và hình thành
một cửa mở cho tinh trùng tiến vào. Enzyme hyaluronidase có đặc điểm là
không đặc trưng cho loài, vì thế để tiết kiệm tinh dịch của giống cao sản quý,
người ta dùng hỗn hợp 2 loại tinh dịch của 2 loài khác nhau (1 loài cao sản +
1 loài thấp sản, hoặc 2 loài gia súc khác nhau) với liều lượng thích hợp để dẫn
tinh cho con cái, sẽ có hiệu quả. Sự hỗn hợp này có mục đích bổ sung đủ
lượng enzyme cần thiết để phá được màng phóng xạ.
- Giai đoạn phá màng trong suốt: Đầu tinh trùng tiết ra enzyme
zonalizin phân huỷ màng trong suốt. Enzyme này đặc trưng cho loài, vì vậy
chỉ những tinh trùng cùng loài mới phát huy tác dụng ở giai đoạn này và tiếp
cận trứng. Sau đó chỉ vài chục tinh trùng có sức sống cao nhất qua màng
trong suốt tiếp cận với màng noãn hoàng.
- Giai đoạn phá màng noãn hoàng và đồng hoá nhân trứng với đầu
tinh trùng:
+ Giai đoạn phá màng noãn hoàng: Đầu tinh trùng tiết enzyme
muraminidase phân giải một điểm của màng noãn hoàng, sau đó chỉ có 1 tinh
trùng có sức sống cao nhất xuyên qua màng noãn hoàng cho đầu lọt vào phía
trong, đuôi đứt ra để lại bên ngoài. Ngay sau đó hình thành một màng ngăn
không cho tinh trùng khác vào nữa. Quá trình này cần có sự tham gia của ion
Ca
++
. Vì vậy nếu khử Ca
++
thì sẽ có nhiều tinh trùng lọt được vào trong màng
noãn hoàng nhưng kết quả chỉ 1 tinh trùng thụ tinh với trứng.
+ Giai đoạn đồng hoá giữa tinh trùng và trứng: Đầu tinh trùng hút dịch
tế bào chất của trứng để tăng kích thước tương đương với nhân của tế bào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
trứng, sau đó nhân của tinh trùng và nhân của trứng đồng hoá lẫn nhau tạo
thành hợp tử lưỡng bội 2n nhiễm sắc thể. Hợp tử sẽ di chuyển về sừng tử
cung. Ở lợn hợp tử làm tổ ở 2 sừng tử cung, ở bò hợp tử làm tổ ở gốc giữa
thân và sừng tử cung. Sau khi bám chắc vào niêm mạc tử cung thì hợp tử phát
triển thành phôi và giữa phôi với tử cung hình thành nhau thai. Ở gia súc sự
“làm tổ” này hoàn thành từ 2 - 5 tuần sau thụ tinh.
1.1.6 Các chỉ tiêu đánh giá phẩm chất tinh dịch
Thể tích tinh dịch (V):
Đó là lượng tinh dịch mà lợn đực xuất ra trong một lần thực hiện thành
công phản xạ xuất tinh. Nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố:
+ Các loài khác nhau, các giống khác nhau thì thể tích tinh dịch cũng
khác nhau.
+ Thể tích tinh dịch có thể còn phụ thuộc vào yếu tố ngoại cảnh như
chăm sóc nuôi dưỡng, nhiệt độ, thời tiết khí hậu, kỹ thuật khai thác, mùa vụ…
Sức hoạt động của tinh trùng (A):
Sức hoạt động được tính bằng tỷ lệ % tinh trùng có hoạt động tiến
thẳng so với tổng số tinh trùng có trong vi trường mà ta quan sát được. Hoạt
lực liên quan trực tiếp đến chất lượng tinh dịch. Tinh trùng có hoạt lực càng
cao thì chất lượng tinh dịch càng tốt.
Nồng độ tinh trùng (C):
Là số tinh trùng có trong 1ml tinh nguyên. Đây là chỉ tiêu quan trọng
đánh giá chất lượng tinh dịch và quyết định mức độ pha loãng tinh dịch trong
thụ tinh nhân tạo. Các loài khác nhau thì nồng độ tinh trùng cũng khác nhau.
Ở lợn nồng động tinh trùng từ 20 - 300 triệu/ml.
Nồng độ tinh trùng phụ thuộc vào giống và cá thể, tuổi, thời tiết khí hậu
và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng. Theo Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh
(1993) [47], nồng độ tinh dịch của lợn như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
+ Lợn nội: 1 - 2 năm tuổi có C = 40 - 50 triệu/ml
2 - 4 năm tuổi có C = 20 - 40 triệu/ml
+ Lợn nhập nội: 1 - 2 năm tuổi có C = 250 - 300 triệu/ml
2,5 - 3,5 năm tuổi có C = 200 - 250 triệu/ml
+ Vụ đông xuân: Lợn nội có C = 30 - 50 triệu/ml
Lợn ngoại có C = 200 - 300 triệu/ml
+ Vụ hè thu: Lợn nội có C = 20 - 30 triệu/ml
Lợn ngoại có C = 150 - 200 triệu/ml.
Chi tiêu tổng số tinh trùng tiến thẳng (V.A.C):
Là tổng số tinh trùng tiến thẳng có trong 1 lần xuất tinh, đây là chỉ tiêu
tổng hợp của 3 chỉ tiêu V,A,C. Chỉ tiêu này đánh giá khái quát chất lượng tinh
dịch và quyết định bội số pha loãng. Theo Nguyễn Tấn Anh, Lưu Kỷ (1985)
[3] thì V.A.C của lợn ngoại ở các tỉnh phía Bắc đạt 26 - 41,6 tỷ/lần xuất tinh.
V.A.C càng cao thì chất lượng tinh dịch càng tốt.
Tỷ lệ kỳ hình của tinh trùng (K%):
Tinh trùng kỳ hình là những tinh trùng có hình dạng khác thường so với
tổng số tinh trùng bình thường đếm được trong quá trình kiểm tra. Theo
nghiên cứu của Đào Đức Thà (2006) [42], tinh trùng kỳ hình thường không có
khả năng thụ thai. Tinh trùng có thể bị kỳ hình ở đầu, thân, cổ, đuôi.
Để kiểm tra tỷ lệ kỳ hình người ta thường dùng phương pháp nhuộm
(Xanh methylen 5%) và đếm số tinh trùng bị kỳ hình trong tổng số tinh trùng sau
đó tính tỷ lệ %. Nếu tỷ lệ kỳ hình càng cao thì chất lượng tinh dịch càng kém.
1.1.7 Ảnh hưởng của mùa vụ và môi trường pha chế tới sức hoạt động của
tinh trùng
Ảnh hưởng của khí hậu mùa vụ
Thời tiết khí hậu ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng tinh dịch. Một số tác
giả đã chứng minh rằng, nhiệt độ trung bình từ 17-18
0
C thuận lợi cho quá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
trình sinh tinh hơn là nhiệt độ 25
0
C. Theo Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh
(1993) [47], thì nhiệt độ cao làm cản trở quá trình sinh tinh, tinh trùng kỳ hình
và chưa thành thục tăng, tỷ lệ sống và phản xạ sinh dục giảm rõ rệt. Trường
hợp lợn đực giống chưa thích nghi hoặc sống trong điều kiện môi trường
nhiệt độ cao thì có thể làm mất hoàn toàn phản xạ sinh dục, tình trạng này gọi
là "Liệt dương do khí hậu".
Khí hậu Việt Nam chia làm 4 mùa rõ rệt, nên chất lượng tinh dịch của
lợn đực giống cũng ảnh hưởng theo mùa, vụ. Trong các yếu tố môi trường thì
nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng rõ rệt nhất và khó khắc phục nhất bởi vì lợn là
loài động vật rất kém chịu nóng, hầu như không có tuyến mồ hôi. Do vậy khi
nhiệt độ cao, lợn thở mạnh nhằm tăng cường toả nhiệt.
Mặt khác khi nhiệt độ môi trường cao thì quá trình điều hoà nhiệt ở bao
dịch hoàn khó khăn làm cho tinh trùng sản sinh ra đang ở dịch hoàn phụ bị
ảnh hưởng xấu dẫn đến tỷ lệ chết và tỷ lệ kỳ hình cao.
Về mùa hè, chất lượng tinh dịch thường kém do trời oi bức, độ ẩm
cao...con vật ăn ít trao đổi chất kém do đó nồng độ tinh trùng về mùa hè
thường thấp hơn vụ đông xuân (Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh, 1993) [47].
Theo Nguyễn thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993) [47], cho thấy vào mùa
đông (tháng 12, 1, 2), tổng số tinh trùng/1liều xuất tinh của lợn đực Landrace
nuôi ở Hà Nội đạt 39,1 - 40,7 tỷ, vào các tháng mùa hè (tháng 7, 8, 9) chỉ đạt
27,3 - 28,7 tỷ.
Theo Trần Cừ, Nguyễn Khắc Khôi (1985) [11], cho rằng khả năng sản
xuất tinh dịch của lợn đực tốt nhất là ở nhiệt độ môi trường từ 18-20
0
C. Khi
nhiệt độ môi trường tăng lên đến 30-35
0
C thì khả năng sản xuất tinh dịch chỉ
đạt 40 - 50%.
Như vậy yếu tố thời tiết, khí hậu mà cơ bản là nhiệt độ có ảnh hưởng
đến chất lượng tinh dịch của lợn đực giống. Việc tạo ra tiểu khí hậu chuồng
nuôi phù hợp sẽ phát huy được khả năng sản xuất tinh dịch của lợn đực giống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Môi trường pha loãng và bảo tồn tinh dịch
Theo Ivanov (1900), tinh thanh chỉ là môi trường giúp cho tinh trùng
hoạt động, không cần thiết cho quá trình thụ thai, vì vậy có thể dùng môi
trường nhân tạo để pha loãng và bảo tồn tinh dịch. Đây là cơ sở cho hàng loạt
các công trình nghiên cứu về môi trường pha loãng tinh dịch sau này. (Trích
từ Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh, 1993) [47].
Yêu cầu của môi trường pha loãng và bảo tồn tinh dịch: Có thể coi môi
trường pha loãng là một dung dịch hoá học, có đủ các điều kiện: Lý học, hoá
học, sinh học thoả mãn cho tinh trùng sống và hoạt động. Để đạt được yêu
cầu đó Milovanov (1962) đã đưa ra các nguyên tắc của môi trường như sau:
+ Áp lực thẩm thấu của môi trường
Phải tương đương với áp lực thẩm thấu nội tại của tinh dịch, có nghĩa là
môi trường phải đẳng trương, nếu môi trường ưu trương hoặc nhược trương
đều làm tinh trùng chết đi nhanh chóng. Theo Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn
Anh (1993) [47] và một số tác giả khác thì tinh dịch lợn có độ nghiệm lạnh
trung bình là -0,620
0
C tương đương với áp lực thẩm thấu từ 7,1 - 7,7 atm.
+ pH và năng lực đệm của môi trường
Tinh dịch lợn có độ pH hơi kiềm (pH = 7,57) nên tinh trùng hoạt động
mạnh và nhanh chết, nếu môi trường toan nhẹ sẽ ức chế tinh trùng hoạt động,
nhưng nếu quá toan và quá kiềm thì tinh trùng chết rất nhanh. Để duy trì ổn
định pH ở mức thích hợp người ta nghiên cứu đưa vào những hoá chất có
năng lực đệm thích hợp cho từng môi trường các cặp đệm thường dùng là
muối kim loại kiềm của a xit hữu cơ yếu như:
Hệ đệm Bicabonat: H2CO3/NaHCO3.
Hệ đệm Phốt phát: NaH2PO4/Na2HPO4.
Hệ đệm Protid: H.Protid/Na Protid.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
+ Môi trường cần có chất không điện giải thích hợp
Chúng ta biết rằng, khi đưa hoá chất có năng lực đệm là các chất điện
giải, có các cation ảnh hưởng đến màng nguyên sinh chất của tinh trùng. Do
vậy phải cho chất không điện giải để pha loãng các ion trong đó, làm giảm
tác động xấu của các cation đến màng nguyên sinh chất của tinh trùng. Những
chất không điện giải được dùng chủ yếu là các loại đường, ngoài ra đường
còn cung cấp năng lượng cho tinh trùng hoạt động.
+ Tỷ trọng của môi trường: Cũng phải tương đương với tỷ trọng của
tinh dịch, nếu không tinh trùng sẽ bị lắng xuống đáy hoặc nổi lên mặt môi
trường và ảnh hưởng đến sức sống tinh trùng. (Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn
Anh, 1993) [47].
+ Độ nhớt của môi trường: Cũng cần tương đương với độ nhớt của tinh
dịch, nó có tác dụng tránh được sức căng bề mặt tác động lên tinh trùng và lực
ma sát nội phân tử khi tinh trùng vận động.
Các chất liệu chủ yếu để tạo môi trường:
Chất đệm giải: Thường dùng là muối của kim loại kiềm, của axít hữu
cơ yếu như:
Natricitrat tribasic (Na3C6H5O7)
Bicacbonat - Natri (NaHCO3)
Kali Clorua (KCl)
Cơ chế của chất đệm như sau: Natricitrat có công thức hoá học
Na3C6H5O7, trong dung dịch nó phân ly hoàn toàn:
Na3C6H5O7 3Na
+
+ C6H5O7
3-
Trong quá trình trao đổi chất của tinh trùng nồng độ ion H
+
luôn luôn
được thải ra môi trường, làm cho môi trường có xu hướng toan tính dẫn đến
đầu độc tinh trùng làm cho tinh trùng nhanh chết. Khi có mặt của C6H5O7
3-
sẽ
xảy ra phản ứng sau:
C6H5O7
3-
+ 3H
+
= C6H8O7 (axít citric)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Axit c itric là axit hữu cơ yếu rất ít phân ly trong nước, vì vậy nó không
độc hại cho tinh trùng. Nhờ có quá trình này mặc dù trong quá trình trao đổi
chất tinh trùng thải ra một lượng ion H
+
rất lớn nhưng pH của tinh dịch vẫn ổn
định (Rôdin. 1976 - trích từ Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh, 1993) [47].
Muối không có tác dụng cung cấp chất dinh dưỡng cho tinh trùng nhưng tạo
nên môi trường thích hợp để tinh trùng sống lâu hơn.
Các chất không điện giải: Các chất không điện giải thường dùng là
đường đơn (Glucoza và Fructoza). Theo Milovanov 1962 (trích từ Nguyễn
Thiện, Nguyễn Tấn Anh 1993) [47] đã xác định rằng trong môi trường pha
loãng tinh dịch lợn, lượng dung dịch glucoza thích hợp chiếm 4/5 tổng thể
tích môi trường. Khi bổ sung đường vào thành phần môi trường sẽ có những
tác dụng (1) bảo vệ cho tinh trùng tránh được hiện tượng mất điện tích trên bề
mặt do nhiều nguyên nhân khác nhau, làm tinh trùng sống lâu hơn, (2) Đường
đơn thấm qua màng bọc của tinh trùng, từ đó cung cấp nguyên liệu để tinh
trùng tiến hành quá trình trao đổi chất cung cấp năng lượng cho quá trình
sống và hoạt động của chúng, (3) Đường còn hạn chế sự phát triển của một số
loại vi khuẩn trong môi trường, làm giảm các loại vi khuẩn trong môi tr._.
và 8,73 kg/con. Khối lượng lợn con ở 42 ngày tuổi của công thức lai (♂L19 x
♀MC) có khối lượng trung bình 8,73kg/con cao hơn công thức lai (♂LY x
♀MC) và (♂L x ♀MC), sự sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức (Pα < 0,05).
Khối lượng lợn con ở 56 ngày tuổi trung bình của công thức lai (♂L x
♀MC); (♂LY x ♀MC) và (♂L19 x ♀MC) lần lượt là 12,81; 13,26 và 14,34
kg/con. So sánh giữa các công thức lai chúng tôi thấy khối lượng lợn con ở 56
ngày tuổi của công thức lai (♂L19 x ♀MC) có khối lượng trung bình là 14,34
kg/con cao hơn công thức lai (♂LY x ♀MC) có khối lượng trung bình là
(13,26 kg/con), đồng thời công thức lai (♂LY x ♀MC) cao hơn công thức lai
(♂L x ♀MC) có khối lượng trung bình là (12,81 kg/con), sự sai khác có ý
nghĩa thống kê ở mức (Pα < 0,05).
Như vậy, khối lượng lợn con ở các độ tuổi tiếp theo đều có sự khác biệt
ở các công thức có sử dụng lợn đực lai L19 và LY. Trong đó, khối lượng lợn
con sinh ra khi sử dụng lợn đực lai L19 có sự sai khác thống kê so với lợn con
sinh ra khi sử dụng lợn đực L thuần và lợn đực lai LY (P<0,05). Điều này một
lần nữa chứng minh ưu thế lai của lợn đực lai L19 (sử dụng lợn bố là lợn đực
Duroc).
Khối lượng của lợn con sinh ra đều tuân theo quy luật sinh trưởng
chung của lợn là tăng dần qua các giai đoạn tuổi, tuy nhiên mức độ tăng khối
lượng không đều nhau giữa các công thức lai. Một điều dễ nhận thấy là khối
lượng lợn con sinh ra của công thức lai (♂L19 x ♀MC) luôn có khối lượng
cao nhất sau, tiếp theo là công thức lai (LY x ♀MC) và thấp nhất là công thức
lai (♂L x ♀MC), như vậy điều này đã thể hiện rõ ưu thế lai về khả năng sinh
trưởng ở các con lai có bố là lợn lai giữa các giống có khả năng sinh trưởng
cao. Điều này được minh họa qua Đồ thị 3.1.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
Qua Đồ thị 3.1 ta thấy, khối lượng của lợn lai sinh ra từ các công thức
lai (♂L x ♀MC); (♂LY x ♀MC) và (♂L19 x ♀MC) luôn tăng dần theo giai
đoạn tuổi. Khối lượng của lợn khi sơ sinh đến 21 ngày tuổi có sự chênh lệch
nhau không đáng kể, từ 21 đến 56 ngày khả năng sinh trưởng của đàn lợn lai
sinh ra từ công thức lai (♂L19 x ♀MC) luôn có tốc độ sinh trưởng cao hơn lợn
con lai sinh ra từ công thức lai (♂LY x ♀MC) và thấp nhất là tốc độ sinh
trưởng của lợn con sinh ra từ công thức lai (♂L x ♀MC) ở mọi giai đoạn tuổi.
0
2
4
6
8
10
12
14
16
S¬ sinh 21 42 56 Ngµy tuæi
Lîn lai (♂ LR x ♀
MC)
Lîn lai (♂ LY x ♀
MC)
Lîn lai (♂ L19 x ♀
MC)
Khèi L•îng lîn ( kg )
Đồ thị 3.1. Đồ thị sinh trưởng tích luỹ của lợn (kg)
3.3.2 Sinh trưởng tương đối
Sinh trưởng tương đối của đàn lợn con sinh ra từ các công thức lai (♂L
x ♀MC); (♂LY x ♀MC) và (♂L19 x ♀MC) được trình bày ở bảng 3.10.
Kết quả Qua Bảng 3.10 cho thấy, sinh trưởng tương đối của đàn lợn
con lai sinh ra từ các công thức lai (♂L x ♀MC); (♂LY x ♀MC) và (♂L19 x
♀MC) đều tuân theo quy luật chung là giảm dần theo giai đoạn tuổi. Đối với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
lợn con thuộc công thức (♂L x ♀MC) sinh trưởng tương đối của các giai đoạn
giảm từ 120,63 - 81,82 - 40,21% tương ứng các giai đoạn từ sơ sinh - 21; 21-
42 và 42-56 ngày tuổi. Tương tự như vậy, lợn con sinh ra từ công thức (♂LY
x ♀MC) là 121,78 - 80,92 - 43,30% và lợn con sinh ra từ công thức (♂L19 x
♀MC) là 117,39 - 81,33 - 49,39%. Trong đó, tốc độ sinh trưởng tương đối
giảm nhanh nhất ở lợn lai sinh ra từ công thức lai (♂L x ♀MC), sau đến công
thức lai (♂LY x ♀MC) và cuối cùng là đến công thức lai (♂L19 x ♀MC).
Bảng 3.10 Sinh trưởng tương đối của lợn qua các giai đoạn tuổi (%)
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
(♂ L x
♀ MC)
(♂ LY x
♀ MC)
(♂ L19 x
♀ MC)
Giai đoạn SS - 21 ngày % 120,63 121,78 117,39
Giai đoạn 21 - 42 ngày % 81,82 80,92 81,33
Giai đoạn 42 - 56 ngày % 40,21 43,30 49,39
3.3.3 Sinh trưởng tuyệt đối
Khả năng sinh trưởng tuyệt đối của đàn lợn con lai sinh ra từ các công
thức lai (♂L x ♀MC); (♂LY x ♀MC) và (♂L19 x ♀MC) được trình bày ở
Bảng 3.11.
Qua Bảng 3.11 cho thấy, sinh trưởng tuyệt đối của đàn lợn con lai sinh
ra từ các công thức lai (♂L x ♀MC); (♂LY x ♀MC) và (♂L19 x ♀MC) đều
tăng dần từ khi sơ sinh đến 56 ngày tuổi, trong đó lợn con sinh ra từ công
thức lai (♂L19 x ♀MC) có sinh trưởng tuyệt đối cao hơn công thức lai (♂LY x
♀MC) và thấp nhất là công thức lai (♂L x ♀MC). Sinh trưởng tuyệt đối bình
quân của cả 3 giai đoạn, của lợn con thuộc công thức (♂L19 x ♀MC) là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
257,62 gam/con/ngày; của công thức (♂LY x ♀MC) là 233,97 g/con/ngày và
của công thức (♂L x ♀MC) chỉ đạt 223,41 g/con/ngày. Nếu lấy sinh trưởng
tuyệt đối của lợn con của công thức (♂L x ♀MC) là 100%, thì sinh trưởng
tuyệt đối của lợn con thuộc công thức lai (♂LY x ♀MC) cao hơn 4,73% và
của lợn con thuộc công thức lai (♂L19 x ♀MC) cao hơn 15,31%.
Bảng 3.11 Sinh trưởng tuyệt đối của lợn qua các giai đoạn tuổi
(g/con/ngày)
Chỉ tiêu Đơn vị tính
(♂ L x
♀ MC)
(♂ LY x
♀ MC)
(♂ L19 x
♀ MC)
Giai đoạn SS - 21 ngày g/con/ngày 128,09 130,48 128,57
Giai đoạn 21 - 42 ngày g/con/ngày 235,71 234,29 238,57
Giai đoạn Cai sữa 42 - 56
ngày
g/con/ngày 306,43 337,14 405,71
Bình quân cả đợt g/con/ngày 223,41 233,97 257,62
So sánh % 100 104,73 115,31
Để minh hoạ về sinh trưởng tuyệt đối của đàn lợn con lai sinh ra từ các
công thức lai chúng tôi minh hoạ bằng Biểu đồ 3.2.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
405.71
235.71
128.09
306.43
234.29
130.48
337.14
238.57
128.57
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
SS-21 21-42 42-56
Lîn lai (♂ LR x ♀ MC)
Lîn lai (♂ LY x ♀ MC)
Lîn lai (♂ L19 x ♀ MC)
gr/con/ngµy
Giai ®o¹n
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của lợn (g/con/ngày)
3.3.4 Tiêu tốn thức ăn / 1 kg lợn lúc cai sữa và 1 kg tăng khối lượng từ cai
sữa đến 56 ngày tuổi
Các chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa có ảnh hưởng quan
trọng đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn. Chi phí về thức ăn chiếm một
phần lớn trong tổng các chi phí, nó chiếm 60% chi phí sản xuất lợn con và 70
- 75% trong sản xuất lợn thịt (Pfeifer, 1984) [69]. Do vậy để nâng cao khả
năng tăng trọng của lợn và làm giảm tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng là cần
thiết và hoàn toàn có ý nghĩa trong công tác giống. Chúng ta biết rằng hệ số di
truyền của chỉ tiêu tăng khối lượng h
2
= 0,5, tiêu tốn thức ăn h
2
= 0,47
(Schmitten, 1989) [72].
3.3.4.1 Tiêu tốn thức ăn/kg lợn con lúc cai sữa
Kết quả theo dõi về tiêu tốn thức ăn/kg lợn con lúc cai sữa của các cặp
lợn lai sinh ra từ công thức lai (♂Lx ♀MC); (♂LY x ♀MC) và (♂L19 x ♀MC)
được trình bày ở bảng 3.12.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
Bảng 3.12 Tiêu tốn thức ăn / kg lợn con lúc cai sữa
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
(♂ L x
♀ MC)
(♂ LY x
♀ MC)
(♂ L19 x
♀ MC)
1.Số đàn nái theo dõi đàn 10 10 10
2. Thức ăn cho mẹ
Giai đoạn chờ phối kg 257,5 256,5 266
Chửa kỳ I kg 1.710 1.710 1.710
Chửa kỳ II kg 504 504 504
Giai đoạn nuôi con kg 1.272 1.272 1.272
Tổng thức ăn tiêu thụ cho mẹ kg 3.743,5 3.742,5 3.752
3. Lượng TA tập ăn cho lợn con kg 210 226 226
4. Tổng thức ăn cho mẹ và con
đến lúc cai sữa
kg 3.953,5 3.968,5 3.978
5. Tổng khối lượng lợn con cai
sữa ở 42 ngày tuổi
kg 894,60 965,02 986,49
6. Tiêu tốn thức ăn/kgTT lợn
con lúc cai sữa
kg 4,42 4,11 4,03
So sánh % 100 92,99 91,18
Qua Bảng 3.12 cho thấy về tiêu tốn thức ăn/kg lợn con khi cai sữa ở 42
ngày tuổi của đàn lợn lai sinh ra từ công thức lai (♂L x ♀MC); (♂LY x ♀MC)
và (♂L19 x ♀MC) lần lượt là 4,42; 4,11 và 4,03 kg thức ăn. So sánh giữa các
công thức, chúng tôi thấy ở công thức lai (♂L x ♀MC) có tiêu tốn thức ăn/kg
lợn con cai sữa cao hơn so với lợn con sinh ra từ công thức lai (♂LY x ♀MC)
và công thức lai (♂L19 x ♀MC). Nếu lấy tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa
của công thức lai (♂L x ♀MC) là 100% thì ở công thức lai (♂LY x ♀MC) đã
giảm được 7,01% và công thức lai (♂L19 x ♀MC) đã giảm được 8,82%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
Một số kết quả nghiên cứu của các tác giả như Trần Đình Miên (1985)
[31] và Nguyễn Thiện (1995) [48] cũng đã chứng minh khi cho lai kinh tế
giữa lợn đực ngoại với lợn nái nội, con lai có khả năng sinh trưởng tốt, tiêu
tốn thức ăn giảm từ 5,9-7,6 ĐVTA xuống còn 4,0-4,94 ĐVTA/kg tăng khối
lượng. Trong trường hợp sử dụng lợn đực lai LY và L19, tiêu tốn thức ăn/kg
lợn con cai sữa giảm thấp hơn khi sử dụng lợn đực L thuần ngoài lý do sinh
trưởng của lợn con còn do số lượng lợn con lúc cai sữa cao hơn như đã đề cập
ở phần trên.
3.3.4.2 Tiêu tốn thức ăn/1 kg tăng trọng lợn con từ cai sữa đến 56 ngày tuổi
Hiện nay, trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, lợn con sau khi cai sữa
thường được nuôi đến 56 ngày rồi mới xuất bán hoặc chuyển sang nuôi lợn
thịt. Vì vậy chúng tôi tiến hành theo dõi chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng lợn con giai đoạn 42-56 ngày tuổi, vì đây cũng là chỉ tiêu quan trọng để
xác định hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái sinh sản. Kết quả được trình
bày ở bảng 3.13.
Bảng 3.13 Tiêu tốn thức ăn/kg TKL lợn con từ cai sữa đến 56 ngày tuổi
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
(♂ L x
♀ MC)
(♂ LY x
♀ MC)
(♂ L19 x
♀ MC)
1. Số lợn con theo dõi con 105 113 113
2. Tổng TĂ cho lợn con từ
cai sữa – 56 ngày
kg 735 791 892,21
3. Tổng khối lượng lợn con
tăng từ cai sữa - 56 ngày
kg 450,45 533,36 633,93
4. Tiêu tốn TA/kg tăng khối
lượng lợn con từ cai sữa - 56
ngày
kg 1,63 1,48 1,41
5. So sánh % 100 90,8 86,50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
Qua Bảng 3.13 cho thấy tiêu tốn thức ăn/1kg tăng khối lượng lợn con
từ cai sữa đến 56 ngày của lợn lai sinh ra từ công thức lai (♂L x ♀MC); (♂LY
x ♀MC) và (♂L19 x ♀MC) lần lượt là 1,63; 1,48 và 1,41 kg. So sánh về tiêu
tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn con lai ở giai đoạn từ 42-56 ngày
chúng tôi thấy lợn lai sinh ra từ công thức lai (♂L x ♀MC) có tiêu tốn thức ăn
cao nhất, cao hơn lợn lai sinh ra từ các công thức lai (♂LY x ♀MC) và (♂L19
x ♀MC). Nếu lấy tiêu tốn TA/kg tăng khối lượng của lợn con từ cai sữa 42-56
ngày của công thức lai (♂L x ♀MC) là 100 %, thì công thức lai (♂LY x ♀MC)
giảm được 9,2% và công thức lai (♂L19 x ♀MC) giảm được 13,5%. Điều này
cho thấy hiệu quả ưu thế lai do lợn đực lai tạo ra đối với đàn con cao hơn so
với lợn đực thuần.
3.3.5 Chi phí thức ăn / kg lợn cai sữa và kg tăng khối lượng từ lúc cai sữa
đến 56 ngày tuổi
3.3.5.1 Chi phí thức ăn/kg lợn con lúc cai sữa
Chi phí thức ăn/kg lợn con lúc cai sữa là chỉ tiêu kinh tế quan trọng,
phản ánh hiệu quả kinh tế của chăn nuôi lợn. Chỉ tiêu này được tính toán dựa
trên tổng thức ăn tiêu tốn/kg lợn con cai sữa và đơn giá của thức ăn tại thời
điểm theo dõi. Kết quả được trình bày ở bảng 3.14.
Qua kết quả ở Bảng 3.14 cho thấy, chi phí thức ăn để sản xuất ra 1 kg
lợn con lúc cai sữa của các công thức lai (♂L x ♀MC); (♂LY x ♀MC) và
(♂L19 x ♀MC) lần lượt là 26.980; 25.141 và 24.649 đồng. So sánh giữa các
lô về chi phí thức ăn /kg lợn con cai sữa chúng ta thấy: Chi phí thức ăn/kg
tăng khối lượng của lợn con của công thức lai (♂L x ♀MC) là cao nhất, tiếp
theo là công thức lai (♂LY x ♀MC) và thấp nhất là công thức lai (♂L19 x
♀MC). Nếu lấy chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn con lúc cai sữa
của công thức lai (♂L x ♀MC) là 100% thì chi phí thức ăn/kg lợn con lúc cai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
sữa của công thức (♂LY x ♀MC) thấp hơn 6,82% và của công thức (♂L19 x
♀MC) thấp hơn 8,64%. Điều này có thể được giải thích là lợn con sinh ra từ
các lợn đực giống lai sinh trưởng phát triển nhanh hơn, tiêu tốn thức ăn thấp
hơn so với lợn lai sinh ra từ lợn đực giống L là lợn đực giống ngoại thuần.
Bảng 3.14 Chi phí thức ăn/ kg lợn con lúc cai sữa
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
(♂ L x
♀ MC)
(♂ LY x
♀ MC)
(♂ L19 x
♀ MC)
1.Tổng chi phí thức ăn cho mẹ Nghìn đ. 22.457,2 22.453,8 22.508,4
2. Chi phí thức ăn tập ăn cho
lợn con
Nghìn đ. 1.680,0 1.808,0 1.808,0
3. Tổng chi phí thức ăn tiêu thụ
cho mẹ + con
Nghìn đ. 24.137,2 24.261,8 24.316,4
4. Tổng khối lượng lợn con
cai sữa
kg 894,60 965,02 986,49
5. Chi phí thức ăn/kg lợn con
cai sữa
đồng 26.980 25.141 24.649
6. So sánh % 100 93,18 91,36
3.3.5.2 Chi phí thức ăn/1 kg tăng khối lượng lợn con từ cai sữa đến 56 ngày tuổi
Kết quả tính toán chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn con từ cai
sữa đến 56 ngày tuổi được trình bày ở bảng 3.15.
Qua kết quả trình bày ở Bảng 3.15 chúng tôi thấy, chi phí thức ăn/ 1 kg
tăng khối lượng lợn con từ cai sữa đến 56 ngày của các đàn lợn lai sinh ra từ
công thức lai (♂L x ♀MC); (♂LY x ♀MC) và (♂L19 x ♀MC) lần lượt là
13.053; 11.864 và 11.259 đồng. So sánh về chi phí thức ăn để sản xuất ra 1 kg
tăng khối lượng của lợn con từ cai sữa đến 56 ngày chúng tôi thấy lợn lai sinh
ra ở công thức lai (♂L x ♀MC) là cao nhất; sau đó đến công thức (♂LY x
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
♀MC) và cuối cùng là công thức (♂L19 x ♀MC). Nếu lấy chi phí thức ăn/kg
tăng khối lượng của lợn con từ cai sữa đến 56 ngày của công thức lai (♂L x
♀MC) là 100% thì chỉ tiêu này ở công thức lai (♂LY x ♀MC) thấp hơn 9,11%
và của công thức lai (♂L19 x ♀MC) thấp hơn 13,74%. Điều này cho thấy hiệu
quả của việc sử dụng lợn đực lai, không những lợn con sinh trưởng nhanh
hơn, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng thấp hơn mà chi phí thức ăn cũng
giảm thấp hơn ở những công thức mà con bố là lợn đực lai với những giống
lợn có các tính trạng thiên về sinh trưởng.
Bảng 3.15 Chi phí thức ăn / kg lợn con từ cai sữa đến 56 ngày tuổi
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
(♂ L x
♀ MC)
(♂ LY x
♀ MC)
(♂ L19 x
♀ MC)
1. Tổng chi phí TĂ cho lợn
con
Nghìn
đồng
5.880,0 6.328,0 7.137,68
2. Tổng khối lượng lợn con
tăng từ sơ sinh đến 56 ngày
kg 450,45 533,36 633,93
3. Chi phí thức ăn/kg tăng khối
lượng lợn con từ cai sữa đến
56 ngày
đồng 13.053 11.864 11.259
4. So sánh % 100 90,89 86,26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Trên cơ sở kết quả theo dõi khả năng sản xuất tinh dịch và ảnh hưởng
của chúng đến đời con của lợn đực giống L và hai dòng lợn đực lai LY và
L19 nuôi tại tỉnh Bắc Giang, chúng tôi sơ bộ kết luận sau:
1. Chất lượng tinh dịch của các lợn đực giống nuôi tại Bắc Giang tương
đối cao và ổn định. Trong đó, một số chỉ tiêu về chất lượng tinh dịch của các
lợn đực giống lai LY và L19 đều cao hơn so với lợn đực giống Landrace
thuần. Chỉ tiêu VAC của lợn đực giống LY là 35,94 tỷ và L19 là 41,27 tỷ cao
hơn chỉ tiêu VAC của lợn đực giống Landrace (29,99 tỷ).
2. Điều kiện thời tiết khí hậu tại Bắc Giang có ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng tinh dịch của lợn đực giống. Đối với chỉ tiêu VAC của tinh dịch
lợn đực giống ở vụ đông xuân cao hơn vụ hè thu: (35,71 tỷ so với 25,13 tỷ ở
lợn Landrace); (40,33 tỷ so với 32,21 tỷ ở lợn LY) và (48,68 tỷ so với 35,19
tỷ ở lợn L19).
3. Tuy nhiên, kết quả xác định hiệu quả bảo tồn tinh dịch của 3 giống
lợn đực kiểm tra trên môi trường TH5 cho thấy, thời gian sống của tinh trùng
(t5) và chỉ số tuyệt đối về sức sống của tinh trùng (Sa5) của lợn đực Landrace
thuần chủng đều cao hơn lợn đực lai LY và L19. Điều này thể hiện khả năng
thích nghi của lợn Landrace nuôi tại Bắc Giang.
4. Các chỉ tiêu về số con đẻ ra/lứa, số con sống đến cai sữa, số con sống
đến 56 ngày tuổi và sản lượng sữa của lợn nái giống Móng Cái được cải thiện
hơn khi cho phối giống với các lợn đực giống lai LY và L19.
5. Lợn đực lai đã ảnh hưởng khá lớn đến khả năng sinh trưởng của đàn
lợn con. Khối lượng lợn con lúc cai sữa và 56 ngày ở các công thức sử dụng
lợn đực lai đều cao hơn, khối lượng lúc 56 ngày của lợn con sinh ra ở công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
thức lai (♂LY x ♀MC) cao hơn 3,51% và ở công thức lai (♂L19 x ♀MC) cao
hơn 11,94% so với công thức lai (♂L x ♀MC).
6. Sử dụng lợn đực lai trong các công thức lai với lợn nái Móng Cái
nuôi tại Bắc Giang còn góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho người chăn
nuôi. Chi phí thức ăn/kg lợn con lúc cai sữa và từ lúc cai sữa đến 56 ngày tuổi
của công thức lai (♂LY x ♀MC) và (♂L19 x ♀MC) thấp hơn công thức lai
(♂L x ♀MC) lần lượt là 6,82 - 8,64% và 9,11 - 13,74%.
7. Có thể sử dụng lợn đực lai LY và L19 trong thụ tinh nhân tạo nhằm
tạo con lai giữa chúng và lợn nái giống Móng Cái góp phần nâng cao hiệu quả
chăn nuôi lợn sản xuất hàng hoá của tỉnh Bắc Giang.
2. Đề nghị
Phổ biến rộng rãi việc sử dụng tinh dịch lợn LY và L19 trong thụ tinh
nhân tạo của tỉnh Bắc Giang, nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương phát triển
chăn nuôi lợn hướng nạc sản xuất hàng hoá của tỉnh. Đồng thời có biện pháp
cải thiện điều kiện tiểu khí hậu cho lợn đực giống ở các cơ sở thụ tinh nhân
tạo, đặc biệt trong vụ hè thu.
Tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của lợn đực lai LY và L19 đến khả
năng sản xuất thịt của lợn nuôi thịt, nhằm có các kết luận đầy đủ và tổng thể
ảnh hưởng của chúng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN VĂN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
1. Thân Văn Hiển, Trần Văn Phùng (2008)“Khả năng sản xuất của một
số dòng lợn đực lai tại tỉnh Bắc Giang”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn
nuôi, Hội chăn nuôi Việt Nam, năm thứ 16, Số 10[116] - 2008, Trang 4-8.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Tấn Anh (1984), Nghiên cứu môi trường tổng hợp để pha loãng
bảo tồn tinh dịch một số giống lợn ngoại nuôi ở Miền Bắc Việt Nam,
Luận án PTS. Khoa học Nông nghiệp, tr 52- 62.
2. Nguyễn Tấn Anh (1985), Một vài đặc điểm SVH của tinh trùng lợn, Tạp
chí KHKT Nông nghiệp, số 278, tr 4 -8.
3. Nguyễn Tấn Anh, Lưu Kỷ, Lương Tất Nhợ, Nguyễn Việt Hương (1985),
Một số đặc điểm sinh vật học tinh dịch lợn và kết quả pha loãng bảo tồn,
Tuyển tập công trình nghiên cứu Chăn nuôi 1969-1984, NXB Nông
nghiệp Hà Nội.
4. Nguyễn Tấn Anh (1993), Đánh giá chất lượng tinh trùng lợn, Viện chăn
nuôi, tháng 10, tr 56-59.
5. Nguyễn Tấn Anh (1994), Kết quả nghiên cứu môi trường VCN đóng gói
để bảo tồn tinh dịch lợn, Thông tin KHKT - Chăn nuôi- Thú y, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
6. Đặng Vũ Bình (1996), Phân tích một số tính trạng trong một lứa đẻ của
lợn nái Móng cái, Tạp chí KH và KT Nông nghiệp, số 290, tr 344-345.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2008), Chiến lược phát triển
chăn nuôi đến năm 2020, NXB Nông nghiệp Hà Nội, tr 9- 15.
8. Cục chăn nuôi - Bộ NN & PTNN (2008), Chăn nuôi heo Việt Nam giai
đoạn 2001-2007- Giải pháp phát triển chăn nuôi heo hàng hoá theo
hướng bền vững, Cục chăn nuôi, tr 1-8.
9. Cục chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2008), Quyết
định về việc phê duyệt các chỉ tiêu kỹ thuật đối với giống gốc vật nuôi, số
1712/QĐ-BNN-CN ngày 09 tháng 06 năm 2008, tr 8.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
10. Cục thống kê tỉnh Bắc Giang (2008), Niêm giám thống kê tỉnh Bắc Giang,
(2007), NXB Thống kê Hà Nội, tr 126 -131.
11. Trần Cừ, Nguyễn Khắc Khôi (1985), Cơ sở sinh học và các biện pháp
nâng cao năng xuất sinh sản ở lợn, NXB Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
12. Lê Xuân Cương (1986), Năng xuất sinh sản ở lợn nái, NXBKHKT, Hà Nội.
13. Lê Xuân Cương, Vũ Đình Hiền, Đỗ Kim Liên (1987), Kết quả theo dõi
thụ tinh nhân tạo lợn ngoại ở quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh, Tạp
chí KHKT Nông nghiệp số 2/1987, tr 76 - 77.
14. Đinh Văn Chỉnh và Trần Xuân Việt (1993), Kiểm tra thành tích cá thể 1
số lợn đực giống tại trại nhân giống lợn Phú Lãm, Kết quả nghiên cứu
Khoa học Chăn nuôi - Thú y (1991 - 1993), tr 20-23.
15. Đinh Văn Chỉnh và Trần Xuân Việt (1995), Khả năng sinh sản của lợn nái
lai F1 (ĐB x MC) nuôi trong điều kiện nông hộ, Thông tin KHKTNN số 2,
tr 15 - 17.
16 . Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinh lý
sinh sản gia súc, NXB Nông nghiệp Hà Nội, tr 56 - 61.
17. Nguyễn Đình Dũng (2007), Nghiên cứu một số đặc điểm sinh lý và kỹ
thuật đông lạnh tinh dịch lợn, Luận văn thạc sĩ Sinh học, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, tr 55-57.
18. Phạm Hữu Doanh (1984), Kết quả lai tạo giống lợn ĐBI-81 và BSI-81,
Tuyển tập các công trình nghiên cứu Chăn nuôi (1969-1984), NXB Nông
nghiệp Hà Nội.
19. Phạm Hữu Doanh (1992), Kỹ thuật nuôi lợn lớn nhanh nhiều nạc, NXB
Nông nghiệp Hà Nội.
20. Phạm Hữu Doanh (1995), Kết quả nghiên cứu đặc điểm SVH và tính năng
sản xuất của một số giống lợn ngoại, Tuyển tập công trình nghiên cứu
Chăn nuôi (1969 - 1995), VCN - NXB Nông nghiệp Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
21. Nguyễn Văn Đồng, Phạm Sỹ Tiệp (2004), Nghiên cứu khả năng sinh
trưởng phát triển, chất lượng tinh dịch của lợn đực F1(Y x L), F1 L x Y)
và hiệu quả trong sản xuất, (2000-2003), Báo cáo Khoa học Chăn nuôi
Thú y, NXB Nông nghiệp Hà Nội, tr 294 - 298.
22. Mai Lâm Hạc (2006), Nghiên cứu đánh giá số lượng, chất lượng tinh dịch
và một vài giải pháp kỹ thuật chăn nuôi thú y góp phần nâng cao năng
xuất sinh sản của lợn đực giống ngoại dùng trong kỹ thuật thụ tinh nhân
tạo, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp, tr 50 - 62.
23. Lê Thanh Hải, Nguyễn Thị Viễn (1995), Nghiên cứu xác định tổ hợp lai 3
máu để sản xuất heo con nuôi thịt đạt tỷ lệ nạc trên 52%, Kết quả nghiên
cứu đề tài cấp nhà nước.
24. Hội chăn nuôi Việt Nam (1995), Thụ tinh nhân tạo lợn, Tạp chí Khoa học
Kỹ thuật Chăn nuôi, Số 4 (6), tr 27- 30.
25. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc – Gia cầm,
tập I, NXB Nông nghiệp Hà nội, tr 25 -54.
26. Võ Trọng Hốt (1982), Kết quả nghiên cứu tổ hợp lai (Đại bạch x Móng cái)
tăng năng xuất thịt và nâng cao phẩm chất thịt, Luận văn phó TS- KHNN Hà
Nội, tr 52-62.
27. Phan Văn Hùng (2007), Khả năng sản xuất của các công thức lai giữa lợn
đực Duroc, L19 với nái lai F1 (L x Y) và F1 (Y x L) nuôi tại nông hộ tỉnh
Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sỹ KHNN, trường ĐHNNI, Hà Nội, tr 56 -75.
28. Dương Đình Long (1996), Môi trường pha chế và bảo tồn tinh dịch lợn,
Luận án PTS khoa học Nông nghiệp.
29. Đinh Hồng Luận (1980), Ưu thế lai qua các công thức lai kinh tế lợn,
Tuyển tập các công trình NCKH Nông nghiệp (phần chăn nuôi thú y),
NXB Nông nghiệp Hà nội, tr 29-42.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
30. Chu Hoàng Mậu, Nguyễn Thị Tâm (2006), Giáo trình di truyền học, NXB
Giáo dục Hà Nội.
31. Trần Đình Miên (1985), Di truyền học hoá sinh, sinh lý ứng dụng trong
công tác giống gia súc Việt Nam, NXBKHKT, tr 30-39.
32. Trần Đình Miên, Phan Cự Nhân, Nguyễn Văn Thiện, Trịnh đình Đạt
(1994), Di truyền chọn giống động vật, Giáo trình cao học nông nghiệp,
NXB Nông nghiệp Hà Nội, tr 26.
33. Trần Đình Miên, Nguyễn Hải Quân, Vũ Kính Trực (1997), Chọn giống và
nhân giống gia súc, NXB Nông nghiệp Hà Nội.
34. Lê Kim Ngọc (2004), Khảo sát khả năng sinh trưởng, phát dục và khả
năng sinh sản của lợn nái thuộc 2 dòng lợn ông bà C1230 và C1050 nuôi
tại trung tâm nghiên cứu lợn Thuỵ Phương, Luận văn thạc sĩ Nông
nghiệp, Trường ĐHNNI Hà Nội, tr 4-10.
35. Perro cheau M., Cobiporc (1994), Sự cải thiện tính di truyền ở lợn, Bộ
Nông - Ngư nghiệp Pháp, tại hội thảo hợp tác Việt Pháp 9/1994, tr 85-87.
36. Lê Quang Phiệt - Lưu Kỷ (1972), Số tay cán bộ dẫn tinh lợn, NXB Nông
thôn, tr 18 -26.
37. Pork industry handbook (1996), Cẩm nang chăn nuôi lợn công nghiệp,
(2005), NXB Bản đồ 73 Láng Trung- Đống Đa - Hà Nội, tr 115 - 121.
38. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004),
Giáo trình chăn nuôi lợn, NXB nông nghiệp Hà Nội, tr 40 - 67.
39. Nguyễn Hải Quân (1994), Dùng lợn đực F1 (L x Đ) phối với giống lợn nái
nội (MC) để tạo ra con lai 3 máu (L x Đ) x MC nuôi theo hướng nạc đạt
yêu cầu xuất khẩu cao, Kết quả NCKH Chăn nuôi Thú y 1991 - 1993,
NXB Nông nghiệp Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
40. Nguyễn Khắc Tích (2002), Bài giảng chăn nuôi lợn, Tài liệu giảng dạy
sau Đại học, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, tr 25 -29 .
41. Đặng Đình Tín (1986), Sản khoa và bệnh sản khoa thú y, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội, tr 18-19.
42. Đào Đức Thà (2006), Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo vật nuôi, NXB Lao động
– Xã hội, tr 12 – 15.
43. Đào Đức Thà, Đỗ Hữu Hoan, Nguyễn Đình Dũng, Văn Lệ Hằng, (2007),
Nghiên cứu kỹ thuật đông lạnh tinh dịch lợn dạng cọng rạ , báo cáo khoa
học năm 2007, phần nghiên cứu công nghệ sinh học và các vấn đề khác,
Viện chăn nuôi, Hà Nội năm 2008, tr 16 -23.
44. Ngô Thị Thẩm (1985), Kết quả nghiên cứu lợn cái Lang hồng với lợn đực
Landrace, Tuyển tập các công trình nghiên cứu KHKT Nông nghiệp
(1981 - 1985), NXB Nông nghiệp Hà Nội, tr 71-75.
45. Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi, Lê Mộng Loan
(1996), Sinh lý học gia súc, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr 246-254.
46. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học vật nuôi,
NXB Nông nghiệp Hà Nội, tr 212 - 235.
47. Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993), Thụ tinh nhân tạo cho lợn ở Việt
Nam, NXB Nông nghiệp Hà Nội, tr 6-77.
48. Nguyễn Thiện, Phùng Thị Vân, Nguyễn Khánh Quắc, Phạm Hữu Doanh,
Phạm Nhật Lệ (1995), Kết quả nghiên cứu các công thức lai giữa lợn
ngoại và lợn Việt Nam, Tuyển tập các công trình nghiên cứu KHKT Chăn
nuôi (1969-1995), tr 13-21.
49. Nguyễn Văn Thiện (1995), Nghiên cứu ứng dụng chỉ số chọn lọc (SI) và
dự đoán không chệch tuyến tính tốt nhất (BLUP) để xây dựng giá trị gây
giống dự đoán (EBV) của lợn nuôi ở Việt Nam, Tuyển tập các công trình
nghiên cứu KHKT Chăn nuôi (1969-1995), tr 60 -65.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
50. Nguyễn Thiện, Võ Trọng Hốt (1994), Kết quả xây dựng mô hình nuôi lợn
lai 42 - 45% tỷ lệ nạc, Hội nghị KHKT, Chăn nuôi Thú y toàn quốc 6/7 -
8/7/ 1994, tr 5 -10.
51. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc (1998), Di truyền học động vật,
NXB Nông nghiệp Hà Nội, tr 91 - 99.
52. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan (2002),
Giáo trình phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, NXB Nông nghiệp
Hà Nội, tr 117 -154.
53. Nguyễn Thiện, Trần Đình Miên, Vũ Trọng Hốt (2005), Con lợn ở Việt
Nam, NXB NN, tr 133 - 141.
54. Nguyễn Văn Thiện (2005), “Kết quả nghiên cứu về chăn nuôi gia súc
trong 20 năm qua và hướng phát triển nghiên cứu trong thời gian tới”,
Khoa học công nghệ và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới, tập 2, NXB
chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 10 -16.
55. Trần Thế Thông (1995), Kết quả bước đầu tạo giống lợn mới (Berkshire x
Ỉ), Kết quả nghiên cứu KHCN (1991 - 1994), NXBNN, tr 18 - 19.
56. Phùng Thị Vân, Lê Thị Kim Ngọc, Trần Thị Hồng (2001),“ Khảo sát khả
năng sinh sản và xác định tuổi loại thải thích hợp đối với lợn nái L và Y”,
Báo cáo khoa học viện chăn nuôi, phần chăn nuôi gia súc 2000-2001,
trang 96-101.
57. Đoàn Phương Xoạn (1996), Đánh giá chất lượng tinh dịch lợn Đại bạch
và lợn Landrace nuôi tại Hà Bắc, Luận văn thạc sỹ KHNN, tr 50 - 56.
58. William, T.Ahlschwede (1997), Hệ thống lai trong chăn nuôi thương
phẩm, Cẩm nang chăn nuôi lợn, NXB NN Hà Nội.
59. Winters L.M và CTV (1978), Ưu thế lai ở những lợn lai khác giống, Di
truyền học động vật (Dịch giả Phan Cự Nhân) NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội, tr 353-359.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
II. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
60. Akina Ogasa (1992), Prolomged storage of boar semen in liquid form -
nipon veterinary and animal science university, Masaskino-shi 1980
Tokio, pp.49-50.
61. Although GC, (1997), Comparision of currently used semen extenders in
the swine industry. Compend Cont Educ Pract Vet. 19, 777 – 782, USA.
62. Bereskin B, Stele N.C (1986), Perfomance of Duroc and Yorkshire boar
and gilts and reciprocal breed crosses, Jourmal of animal science, 62 (4),
pp.918-926.
63. Clutter A.C. and E.W. Brascamp (1998), Genetic of performance tranits,
The genetics of the pig, M.F. Rothschild and, A. Ruvinsky (eds). CAB
Internationnal, pp.427-462.
64. Gineva E, Stojkov A (1999), Comparative study on reproductive
performance of hybrid sows (Landrace x English large White)
insemination by purebred and hybris boars, Zhivotnovdni-Nauki
(Bilgaria), Animal science. V. 36 (1), pp.21-25.
65. Hammell. K.L, J.P. Laforest and J.J. Dufourt (1993), Evaluation of
growth performance and carcass characteristics of commercial pigs
produced in Quebec, Canadian J. of Animal science, (73), pp.495-508.
66. Hirosi Masuda (1994), Artifcian insemination, for swine, Manual Of
feeding management for Pigs, National Institute Of Animal Husbandry,
pp: 4-8, Japan.
67. Jurgens. M (1993) “Animal Science consultant”, Lowa state University.
68. Pavlik J.E., Arent, J. Pulkarabek (1989), Pigs news and information, 10,
pp. 357.
69. Pfeifer. H, GV. Lengerken, G. Gehard (1984), Wachstum unl
scjhlachkoereper qualititaet bei landwirrtchaflichen Nutztieren
schweinen, DT, landw-Verlag, Berlin.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
70. Shull GH. (1952), Beginning of the heterosis concept, Iowa state college pess.
71. Schmitten, J: Jungst, H (1987): Die rheinische Fleischleistungspruefung
fuer SChweineun Jahre Bonn 1988.93pp.
72. Schmitten (1989), F. et al. Handbuch SChweine - production 3. Auflage -
DLG - Verlig Faranufurt (Main), .
73. Stoikov A, Vassilev (1996), M Wer fund und Aufeuchibistunger
Bungarischer Schweinerrassen. Arch. Tiez.
74. OSter. A: Jahresbericht (1994). Versuchs - und Pruefungsbericht 1994.
Landesanstaltfuer Schweinezucht Forechheim.
75. SChmidlim, J: Rapportdactivite (1992), Der Kleinviehzuechter 7.(1993).
pp. 384-404.
76. SChmitten, F. et al (1989). Handbuch SChweine - Production 3 Auflage -
DLG - Verlig Faranufurt (Main).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9239.pdf