Nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT (các sản phẩm công nghệ thông tin phần cứng)

Tài liệu Nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT (các sản phẩm công nghệ thông tin phần cứng): LỜI MỞ ĐẦU Trong thời đại ngày nay, khi mà xu thế quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế thì việc nền kinh tế của mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới là một tất yếu xảy ra. Đối với Việt Nam nói riêng, những quan hệ mua bán với các nước không còn là vấn đề xa lạ nữa mà nó ngày càng trở nên sôi động hơn, nhất là sau sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) ngày 7-11-2006. Và một... Ebook Nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT (các sản phẩm công nghệ thông tin phần cứng)

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT (các sản phẩm công nghệ thông tin phần cứng), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong những hoạt động thương mại quốc tế không thể không kể đến là hoạt động nhập khẩu hàng hoá. Sở dĩ như vậy là vì hoạt động này mang lại nhiều lợi ích, không chỉ với nền kinh tế quốc dân mà còn với cả các tổ chức, các cá nhân trong nền kinh tế. Chính vì vậy, nhập khẩu không chỉ dừng lại ở một hoạt động mà nó đã trở thành một lĩnh vực mũi nhọn, không thể thiếu của một quốc gia. Đối với Công ty FPT nói riêng, nhập khẩu hàng hoá đóng vai trò to lớn trong sự tồn tại và lớn mạnh của Công ty: Thứ nhất: Nhập khẩu giúp cho công ty có thêm nguồn cung cấp đầu vào cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những vật tư, hàng hóa mà trong nước chưa sản xuất được như: máy tính, các phụ kiện, điện thoại, các thiết bị khác,… Thứ hai: Thông qua nhập khẩu, các doanh nghiệp có thể nhập về được những hàng hóa có chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh. Từ đó không những tạo ra lợi ích cho bản than Công ty mà còn cả lợi ích cho người tiêu dung. Thứ ba: Nhập khẩu cũng tạo điều kiện tốt cho việc giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và thắt chặt mối quan hệ với các nhà cung cấp, bởi thông qua hoạt động này FPT sẽ tiếp cận gần hơn với các nhà cung cấp.Qua đó, học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu, cũng như quan hệ với họ ngày càng được củng cố. Ngoài những vai trò trên, đối với FPT, nhập khẩu hàng hoá còn có vai trò cung cấp trang thiết bị cho cán bộ công nhân viên làm việc và đảm bảo nguồn đầu vào quan trọng cho Công ty cung ứng hàng hóa đến tay khách hàng một cách đầy đủ, liên tục. Một khía cạnh nữa là về đặc điểm kinh doanh của Công ty, đó là: Công ty FPT đóng vai trò như một nhà phân phối và kinh doanh các sản phẩm công nghệ cao tới người tiêu dung, trong khi đó các loại hàng hóa này là các hàng hóa trong nước chưa sản xuất được. Vì vậy, qua Chuyên đề này em xin đi sâu nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT với đối tượng, nội dung và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề như sau: Đối tượng nghiên cứu là: Hoạt động nhập khẩu hàng hóa của công ty FPT. Nội dung chuyên đề: Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động nhập khẩu hàng hóa của FPT. Phạm vi nghiên cứu:Nhập khẩu các sản phẩm công nghệ thông tin phần cứng của Công ty FPT tại miền Bắc. Về kết cấu của chuyên đề. Chuyên đề gồm 3 chương: Chương I : Cơ sở lý luận. Chương II : Thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Công ty FPT Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoàn thiện nhập khẩu hàng hóa của Công ty FPT. Sau đây em xin đi vào một số nội dung chính: CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA NHẬP KHẨU HÀNG HÓA. 1.1.1. Khái niệm nhập khẩu hàng hóa: Có thể nói, từ khi nước ta mở cửa thị trường cho đến nay thì việc nhập khẩu không phải là vấn đề gì mới mẻ và lạ lẫm nữa, nhưng để hiểu rõ hơn , trước hết ta sẽ xem xét thế nào là nhập khẩu hàng hoá. Theo Luật Thương mại(6/2005) “Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.” Vậy nhập khẩu có những đặc trưng gì hay nhập khẩu khác với những loại hình kinh doanh khác như thế nào? 1.1.2. Đặc điểm cơ bản của nhập khẩu hàng hóa: Nhập khẩu hàng hoá cũng có nhiều điểm giống như những hoạt động kinh doanh khác, nhưng bên cạnh đó cũng có những điểm đặc thù: Thứ nhất: Về chủ thể tham gia. Chủ thể tham gia hoạt động này có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, thường thường có quốc tịch khác nhau. Vì vậy, khi tiến hành hoạt động này cần quan tâm nhiều đến vấn đề ngôn ngữ, văn hoá, khí hậu,…vì những điểm khác nhau này tạo ra nhiều khó khăn trong quá trình giao dịch và kí kết cũng như thực hiện hợp đồng nhập khẩu giữa các bên. Do vậy, người tiến hành hoạt động này cần phải là người có trình độ nghiệp vụ cao, hiểu biết về văn hóa, kinh tế, xã hội của các nước trên thế giới, giỏi ngoại ngữ và có những đức tính cần thiết khác. Thứ hai: Về đối tượng nhập khẩu. Theo khái niệm trên về nhập khẩu hàng hoá thì đối tượng nhập khẩu là các loại hàng hóa. Trong đó, các hàng hoá này có sự dịch chuyển qua biên giới quốc gia hoặc qua biên giới hải quan (như qua biên giới khu chế xuất) và các hàng hoá này phải đáp ứng được yêu cầu của các rào cản thương mại trên thị trường. Mặt khác, do được vận chuyển qua một khoảng cách xa nên hàng hoá có thể gặp nhiều rủi ro dẫn đến tổn thất không nhỏ cho các chủ thể tham gia kinh doanh. Vì vậy, hoạt động nhập khẩu gắn liền với một loạt các hoạt động quan trọng khác như: vận tải, bảo hiểm, đóng gói hàng hoá. Do đó, người làm nhập khẩu không chỉ phải hiểu về hàng hoá mình nhập khẩu mà phải hiểu được các nghiệp vụ liên quan khác để tiến hành nhập khẩu một cách an toàn và hiệu quả. Thứ ba: Về thanh toán. Vấn đề thanh toán trong nhập khẩu hàng hóa nói riêng và xuất nhập khẩu nói chung rất đa dạng và phức tạp. Điều đó được thể hiện qua những mặt sau: Một là: Các chủ thể tham gia thuộc các quốc gia khác nhau, mà mỗi vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia đều có hệ thống tiền tệ riêng. Do vậy, đồng tiền thanh toán sẽ là ngoại tệ đối với ít nhất một bên. Mặt khác, mỗi đồng tiền có khả năng thanh khoản, mạnh yếu khác nhau, độ ổn định về giá trị trên thị trường quốc tế khác nhau, do đó việc chọn đồng tiền nào là đồng tiền thanh toán là việc cần cân nhắc kĩ lưỡng vì nó chịu ảnh hưởng của tỉ giá hối đoái trên thị trường. Mỗi một sự thay đổi tỷ giá hối đoái liên quan đến đồng tiền được chọn làm đồng tiền thanh toán đều có thể làm thay đổi tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu ảnh hưởng đến kết quả nhập khẩu hàng hoá. Hai là :Việc lựa chọn phương thức thanh toán Trong buôn bán quốc tế, hiện nay có 9 phương thức thanh toán. Trong đó có phương thức thì chỉ đảm bảo cho người bán như phương thức CAD-Cash Against Document, hoặc chỉ đảm bảo cho người mua như phương thức Nhờ thu phiếu trơn, hoặc có thể đảm bảo cho cả hai bên như phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Vì vậy, cần đảm bảo lựa chọn phương thức thanh toán an toàn, có lợi cho công ty và giữ được mối quan hệ lâu dài với các đối tác. Ba là: Việc thanh toán giữa các chủ thể tham gia hoạt động này diễn ra thông qua sử dụng các phương tiện thanh toán quốc tế, như: séc, hối phiếu, thẻ tín dụng,… Chính vì vậy các bên cần phải hiểu các phương tiện thanh toán trên để áp dụng vào từng trường hợp một cách chính xác và an toàn. Như vậy có thể thấy nhà nhập khẩu muốn đảm bảo hiệu quả của nhập khẩu thì trong thanh toán cần phải hiểu và lựa chọn đúng ba điểm cơ bản là: đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán và công cụ thanh toán. Thứ tư: Về luật điều chỉnh hoạt động nhập khẩu. Vì hoạt động nhập khẩu được diễn ra giữa các chủ thể thông thường có quốc tịch khác nhau. Do vậy nếu như hoạt động kinh doanh trong nước chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia thì hoạt động nhập khẩu hàng hoá chịu sự điều chỉnh của Luật các quốc gia (bao gồm Luật của nước xuất khẩu, nước nhập khẩu hoặc nước thứ ba), Luật thương mại quốc tế và các tập quán thương mại quốc tế. Thứ năm: Những tác động của môi trường quốc tế đến doanh nghiệp tham gia trong hoạt động nhập khẩu. Vì bản thân hoạt động nhập khẩu đã diễn ra trong môi trường quốc tế trong đó giữa các chủ thể và môi trường có mối quan hệ tương tác qua lại. Do đó, tất cả những biến động của môi trường quốc tế đều tác động sâu sắc đến hoạt động nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp . Trong đó, sự thay đổi đó có thể là sự thay đổi tỷ giá hối đoái, sự sụt giảm hay tăng lên của nguồn cung hàng hoá, sự thay đổi của các chính sách thương mại quốc tế, hạn nghạch,…Những biến động trên đều ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá trong giao dịch, đến việc thực hiện hợp đồng, đến lợi nhuận của doanh nghiệp khi tham gia nhập khẩu. 1.1.3.Vai trò của hoạt đông nhập khẩu hàng hoá. 1.1.3.1. Vai trò của nhập khẩu hàng hoá nói chung. Có thể nói nhập khẩu hàng hoá là một trong những hoạt động cơ bản của thương mại quốc tế. Nhìn lại lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, hoạt động này có ý nghĩa sống còn với các nước tham gia và có những vai trò to lớn, cụ thể là: Thứ nhất: Thương mại quốc tế là lĩnh vực trao đổi, phân phối và lưu thông hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta với sản xuất và tiêu dùng của các nước khác trên thế giới. Mà trong đó, phân phối và lưu thông hàng hoá là một khâu quan trọng, có vai trò quyết định đến quá trình tái sản xuất mở rộng. Do đó, sản xuất có phát triển được hay không, phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào khâu này. Vì vậy, có thể nói thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu nói riêng tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Thứ hai: Từ thực tế sản xuất trong nước và quốc tế, chúng ta có thể nhận thấy được thế mạnh cũng như điểm yếu của mình qua đó sẽ phát triển sản xuất những mặt hàng mà quốc gia mình có lợi thế và nhập khẩu những mặt hàng mà nước đó sản xuất hiệu quả hơn. Từ đó,chuyển đổi cơ cấu các nghành kinh tế và phân công lại lao động xã hội cho phù hợp. Thứ ba: Thông qua nhập khẩu, nước ta có thể tranh thủ khai thác các tiềm năng, thế mạnh của các nước khác để thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ về khoa học công nghệ và sử dụng những hàng hoá tốt, rẻ mà mình chưa sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả. Thứ tư: Từ những hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá, các chủ thể kinh doanh, các quốc gia thấy được lợi ích của việc hợp tác trong thương mại quốc tế. Vì vậy, thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu hàng hoá nói riêng góp phần thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế thế giới. Thứ năm: Thông qua nhập khẩu hàng hoá cho phép quốc gia tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn, giá rẻ hơn và chủng loại phong phú hơn, góp phần nâng cao khả năng tiêu dùng và mức sống của dân cư. 1.1.3.2. Vai trò của việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học. Ngoài những vai trò chung kể trên, đối với riêng việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học còn có những vai trò đáng kể sau: Đối với quốc gia, việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học góp phần nâng cao trình độ tin học cho toàn dân. Nhờ được tiếp xúc với những thiết bị tin học những kiến thức về công nghệ thông tin được cập nhật, tránh sự lạc hậu so với thế giới. Hơn nữa, sự có mặt của công nghệ thông tin đã tác động không nhỏ đến tất cả các nghành, các lĩnh vực trong toàn nền kinh tế. Nhờ nó mà các công việc được thực hiện nhanh hơn, chính xác hơn, từ đó tạo ra hiệu quả trong sản xuất và trong các hoạt động khác. Đối với doanh nghiệp nói chung, việc đưa công nghệ thông tin vào trong hoạt động của mình góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng của quản lý, của sản xuất trong mỗi doanh nghiệp. Đối với riêng các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh mặt hàng thiết bị tin học thì việc nhập khẩu mặt hàng này là nguồn đầu vào quan trọng trong bối cảnh thị trường nội địa chưa sản xuất được. Mặt khác, trong quá trình nhập khẩu hàng hóa doanh nghiệp có thể giao lưu, học hỏi được những kiến thức về quản lý, về công nghệ, … làm tăng hiệu quả trong làm việc. Xuất phát từ những vai trò quan trọng nêu trên, việc nhập khẩu mặt hàng công nghệ thông tin là cần thiết và cần chú trọng phát triển. 1.2. NỘI DUNG VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC NHẬP KHẨU HÀNG HÓA THIẾT BỊ THÔNG TIN. 1.2.1. Nội dung của nhập khẩu hàng hóa thiết bị thông tin. Nghiên cứu thị trường hàng hóa xuất khẩu. Như các hoạt động kinh doanh khác, vai trò của nghiên cứu thị trường trong xuất nhập khẩu rất quan trọng, giúp doanh nghiệp đánh giá chính xác về thị trường xuất nhập khẩu, có nguồn thông tin toàn diện, chuẩn xác làm nền tảng cho chiến lược marketing xuất nhập khẩu. Nếu không thực hiện nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu hoặc thực hiện sơ sài, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với những rủi ro rất lớn. Nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp lựa chọn thị trường xuất nhập khẩu thích hợp, lập phương án kinh doanh và tìm được phương thức buôn bán phù hợp nhất với mặt hàng kinh doanh, với khả năng thực tế của doanh nghiệp. Để phục vụ cho mục đích của doanh nghiệp, khi nghiên cứu thị trường cần quan tâm đến những vấn đề cơ bản sau: Một là: Nghiên cứu dung lượng của thị trường: Trươc hết, dung lượng của thị trường là khối lượng hoặc giá trị của một mặt hàng trong một khu vực thị trường nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy, dung lượng của thị trường thể hiện quy mô của thị trường, quy mô xuất nhập khẩu của các nước. Khi nghiên cứu dung lượng của thị trường xuất nhập khẩu cần làm rõ những vấn đề như: Thứ nhất: Khối lượng sản xuất được và nhu cầu để biết được khối lượng hàng hoá cần nhập khẩu. Thông tin này phục vụ đắc lực cho khâu đặt mua hàng, tránh được tình trạng nhập về mà không dùng đến gây ứ đọng, lãng phí. Thứ hai: Tìm hiểu nguồn cung cấp hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp kinh doanh, nhu cầu hàng hoá của từng khu vực để chọn được nguồn cung cấp đảm bảo, tìm được thị trường mục tiêu. Thứ ba: Tìm hiểu được những nhân tố tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu, các nhân tố chủ quan cũng như khách quan để doanh nghiệp có thể dự đoán được những biến động của thị trường. Từ đó vạch ra được chiến lược kinh doanh cho mình. Hai là: Về hàng hóa. Doanh nghiệp muốn kinh doanh tốt thì phải hiểu được đối tượng mà mình kinh doanh.Đó là các thông tin về thương phẩm, về nhu cầu thị trường đối với hàng hóa, về điều kiện sản xuất và tiêu dùng có tính thời vụ hay liên tục, hàng hóa đang ở thời kì nào của chu kì sống và tỷ suất ngoại tệ của việc nhập khẩu hàng hoá (doanh nghiệp chỉ nên nhập khẩu nếu tỷ suất nhập khẩu lớn hơn hoặc bằng tỷ giá hối đoái). Ba là: Về giá cả. Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Trong buôn bán quốc tế các nhà kinh doanh hàng hoá nhập khẩu phải nắm được chính xác giá của hàng hoá định nhập và xu hướng biến động của nó. Giá cả của hàng hoá được cấu thành bởi: giá vốn, giá bao bì, chi phí bảo hiểm, chi phí vận chuyển và các chi phí khác tuỳ theo thoả thuận của các bên tham gia. Thông thường giá cả hàng hóa nhập khẩu chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, như: giá cả trên thị trường quốc tế, độc quyền, lạm phát, cung- cầu,… Vì vậy, người kinh doanh nhập khẩu phải phân tích được ảnh hưởng của từng nhân tố để có thể lựa chọn được từng mức giá phù hợp. Bốn là: Nghiên cứu môi trường chính trị, luật pháp, tập quán buôn bán , hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia mà mình định nhập khẩu hàng hoá và quốc gia mình, nghiên cứu những thông lệ quốc tế, những quy định về thương mại của các tổ chức mà Việt Nam tham gia để đảm bảo cho việc kinh doanh hàng hoá thực sự an toàn và ổn định. 1.2.1.2. Lập phương án nhập khẩu hàng hoá. Thực chất là những kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu mà doanh nghiệp xây dựng để đạt được những mục tiêu đặt ra trong chu kì kinh doanh, trong đó phương án kinh doanh phải đưa ra được cái nhìn tổng quát về thị trường từ những thông tin có được trong quá trình nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu.Từ đó, chỉ ra những thuận lợi cũng như những khó khăn mà thị trường đem lại khi doanh nghiệp tham gia vào quá trình kinh doanh. Nội dung của phương án kinh doanh gồm ba phần chủ yếu, đó là: Một là: Các mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt được trong thời gian tới. Có thể nói, mục tiêu này như một ”kim chỉ nam” cho doanh nghiệp hướng tới, đó là cái đích mà doanh nghiệp cần đạt được, là căn cứ để doanh nghiệp tiến hành thực hiện các hoạt động để nhằm tới đạt được nó. Tuy nhiên, việc đặt ra những mục tiêu này không phải là tùy tiện mà các mục tiêu này cần đảm bảo được các yêu cầu về tính cụ thể, tính khả thi, tính thống nhất, tính hợp lý, tính linh hoạt và tính lượng hóa được. Trong đó, để đảm bảo được tính lượng hóa được thì doanh nghiệp cần đưa ra các chỉ tiêu để đo lường kết quả kinh doanh, như: Tỷ suất ngoại tệ xuất nhập khẩu, chỉ tiêu giá nhập khẩu hòa vốn, chỉ tiêu về lãi lỗ trong kinh doanh…. Hai là: Đưa ra phương thức kinh doanh, lựa chọn mặt hàng kinh doanh trên cơ sở đánh giá những ưu và nhược điểm của mỗi trường hợp. Ba là: Hệ thống các giải pháp để đạt được chỉ tiêu. Đây là phần việc tất yếu phải vạch ra nhằm biến những mục tiêu trên thành hiện thực. Những mục tiêu này kết hợp với những khả năng của doanh nghiệp là cơ sở để xây dựng nên những giải pháp thực hiện. Các giải pháp này có thể chia ra thành nhóm giải pháp ở thị trường trong nước và nhóm giải pháp ở thị trường quốc tế, nhưng dù là nhóm giải pháp nào thì cũng cần chỉ ra cụ thể những việc cần phải làm, làm bởi ai, làm như thế nào, thời gian để thực hiện trong bao lâu, ngân sách để thực hiện ra sao,… Như vậy, lập phương án kinh doanh trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là một công việc cần phải được thực hiện bởi những người có chuyên môn, có trình độ hiểu biết về ngoại thương vì các bộ phận trong phương án kinh doanh có mối quan hệ mật thiết với nhau, lập phương án kinh doanh có tốt thì hoạt động kinh doanh mới đạt hiệu quả mong muốn. 1.2.1.3.Tìm kiếm đối tác nhập khẩu. Sau khi lập được phương án kinh doanh phù hợp thì bước tiếp theo là tìm kiếm đối tác, giao dịch và đàm phán kí kết hợp đồng. Để tìm kiếm đối tác cung cấp hàng hoá thì nhiều công ty có những tiêu chí lựa chọn khác nhau như giá cả, độ tin cậy, uy tín, quy mô của nhà cung cấp, chất lượng,... Từ việc đặt các trọng số cho các tiêu chí trên và tính điểm cho mỗi đối tác mà công ty tiến hành so sánh và lựa chọn đối tác phù hợp nhất. 1.2.1.4. Đàm phán, kí kết hợp đồng nhập khẩu. Trong hoạt động nhập khẩu việc kí kết hợp đồng giữa các bên là cực kì cần thiết vì hợp đồng thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia một cách rõ ràng và được đảm bảo thực hiện trước pháp luật. Đàm phán trong nhập khẩu hàng hoá. Trong thương mại nói chung và trong buôn bán hàng hoá quốc tế nói riêng thì hiện nay có một số hình thức đàm phán phổ biến như: Đàm phán qua gặp mặt trực tiếp, qua giao dịch thư tín, qua điện thoại. Đối với đàm phán giao dịch qua thư tín khi sử dụng thư tín để đàm phán, giao dịch cần phải nhớ rằng thư từ là “ sứ giả của mình” đến với đối tác, người ta sẽ đánh giá, phê phán mình qua những thư từ mình đã gửi đến. Do vây, cần phải lưu ý hết sức trong việc viết thư và gửi thư. Phải đảm bảo những yêu cầu lịch sự, chính xác, khẩn trương và kiên nhẫn trong việc sử dụng hình thức đàm phán này. Đối với giao dịch đàm phán qua điện thoại. Chỉ sử dụng trong trường hợp cần thiết, thật khẩn trương, sợ lỡ thời cơ hoặc trong những trường hợp mà mọi điều kiện đã thoả thuận xong, chỉ còn chờ xác nhận một vài chi tiết. Khi sử dụng hình thức này cần chuẩn bị thật chu đáo để có thể trả lời ngay mọi vấn đề được nêu lên một cách chính xác để từ đó tạo nên sự tin tưởng về tính trung thực của mình cũng như thể hiện tính quyết đoán trong đàm phán. Sau khi trao đổi bằng điện thoại cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán thoả thuận vì trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định đã đưa ra trong trao đổi. Đối với giao dịch đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Trước đây, khi các phương tiện thông tin liên lạc chưa phát triển thì hình thức giao dịch này được sử dụng phổ biến. Đối với hình thức giao dịch này có ưu điểm như: Hai bên có thể trực tiếp gặp gỡ để hiểu về nhau nhiều hơn, tin tưởng nhau hơn; có thể đàm phán được những điều khoản phức tạp mà nếu chỉ giao dịch qua điện thoại hay thư tín thì không thể chuyển tải hết được thông tin và không thể thống nhất được quan điểm của hai bên trong một vấn đề nào đó. Vì vậy, hiện nay hình thức này được áp dụng nhiều cho những hợp đồng lớn hoặc khi đối tác và doanh nghiệp lần đầu tiên hợp tác với nhau. Ngoài ra, người ta còn kết hợp các hình thức trên trong giao dịch tùy vào từng giai đoạn, từng yêu cầu cụ thể của công việc cũng như trong từng hợp đồng cụ thể. Kí kết hợp đồng ngoại thương. Trước hết để tránh những rủi ro không đáng có trong việc kí kết hợp đồng các doanh nghiệp cần hiểu rõ về hợp đồng ngoại thương với một số nét cơ bản sau: Về khái niệm: hợp đồng ngoại thương hay còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu, là sự thỏa thuận của bên mua và bên bán giữa hai nước khác nhau, trong đó quy định bên bán phải cung cấp hàng hóa và chuyển giao các chứng từ có liên quan đến hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và bên mua phải thanh toán tiền hàng. Về yêu cầu đối với hợp đồng ngoại thương: Hợp đồng ngoại thương muốn có giá trị pháp lý thực hiện trong thực tế và trở thành cơ sở để giải quyết tranh chấp (nếu có) xảy ra giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, thì hợp đồng ngoại thương phải đồng thời thỏa mãn được các yêu cầu Yêu cầu 1: Hợp đồng phải được xây dựng trên cơ sở pháp lý vững chắc. Điều này có nghĩa là hợp đồng ngoại thương phải được xây dựng dựa trên cơ sở Luật của nước người bán, các luật và các tập quán có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế như: Inconterms, Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, UCP-DC và Luật Thương mại của Việt Nam ban hành ngày 16/04/2005 và các văn phạm pháp luật hướng dẫn thi hành luật Thương mại 2005 khác. Yêu cầu 2: Chủ thể của hợp đồng ngoại thương phải hợp pháp. Yêu cầu này được thể hiện trong 2 khía cạnh: Thứ nhất, chủ thể phải là thương nhân hợp pháp có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu theo luật định; và thứ hai, những người tham gia ký kết hợp đồng phải là những người đại diện hợp pháp cho mỗi bên, trường hợp người khác ký phải có giấy ủy quyền hợp lệ bằng văn bản của người đại diện hợp pháp. Yêu cầu 3: Hình thức của hợp đồng ngoại thương phải hợp pháp. Theo tập quán thương mại quốc tế, có hai dạng hình thức của hợp đồng là: Hình thức thỏa thuận miệng và hình thức ký kết bằng văn bản Ở Việt Nam, theo điều 24 của luật Thương mại 2005, thì hợp đồng ngoại thương phải được kí kết bằng văn bản (có thể là văn bản viết, đánh máy hoặc chuyển bằng dữ liệu). Yêu cầu 4: Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp. Tính hợp pháp của nội dung được thể hiện trên hai vấn đề: Nội dung chủ yếu của hợp đồng phải đầy đủ và trong hợp đồng không chứa đựng bất cứ nội dung nào trái với pháp luật hiện hành của nước người bán, nước người mua và trái với tập quán buôn bán quốc tế. Yêu cầu 5: Hợp đồng phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện của các bên tham gia mới có hiệu lực. Về bố cục hợp đồng ngoại thương: Thông thường một văn bản hợp đồng ngoại thương sẽ bao bốn phần chủ yếu là: phần mở đầu, phần thông tin về các bên, phần nội dung các điều khoản và phần cuối của hợp đồng. Đối với phần mở đầu của một hợp đồng ngoại thương thường bao gồm: Tiêu đề hợp đồng, số và ký hiệu hợp đồng và thời gian ký kết hợp đồng. Đối với phần thông tin về chủ thể kí kết hợp đồng, phần này sẽ nêu những thông tin cần thiết về mỗi chủ thể tham gia. Đó là các thông tin về:Tên đơn vị, địa chỉ đơn vị, các số máy Fax, điện thoại và địa chỉ Email, Website nếu có, số tài khoản và tên ngân hàng mà đơn vị có tài khoản giao dịch thường xuyên. Đối với phần nội dung của hợp đồng ngoại thương thường bao gồm các điều khoản trong đó gồm 6 điều khoản bắt buộc bao gồm: Điều khoản về hàng hoá (Commodity): Điều khoản này sẽ mô tả về đối tượng trao đổi, đó là các loại hàng hoá với những đặc trưng cơ bản. Điều khoản về chất lượng hàng hoá (Quality) mà bên bán phải giao cho bên mua hàng. Điều khoản về giá cả (Price): Ghi rõ đơn giá theo điều kiện thương mại lựa chọn và tổng số tiền thanh toán của hợp đồng. Điều khoản về giao hàng (Shipment): Trong điều khoản này hai bên cần thoả thuận rõ vè thời hạn và địa điểm giao hàng, việc giao hàng một lần hay nhiều lần và việc chuyển tải hàng hóa sẽ do bên nào phụ trách. Điều khoản về thanh toán (Payment): Trong điều khoản này hai bên thoả thuận với nhau về thời hạn trả, đông tiền thanh toán, thanh toán bằng phương thức nào. Trên đây là các điều khoản chủ yếu, không thể thiếu đối với một hợp đồng ngoại thương hợp pháp. Ngoài ra còn có một số điều khoản phụ, như: Quy cách đóng gói bao bì và nhãn hiệu hàng hóa, bảo hành hàng hóa, phạt và bồi thường, bảo hiểm hàng hóa, bất khả kháng,… Đối với phần cuối của một hợp đồng ngoại thương, thông thường sẽ bao gồm các nội dung về: Số bản của hợp đồng, hình thức của hợp đồng là viết tay hay bản fax hay telex, ngôn ngữ hợp đồng sử dụng, hiệu lực hợp đồng được tính từ ngày nào, những sửa đổi bổ sung và cuối cùng là chữ kí của đại diện hai bên. Về hình thức kí kết hợp đồng ngoại thương: Hợp đồng ngoại thương có thể kí kết trực tiếp hoặc gián tiếp, có hợp đồng một văn bản và hợp đồng nhiều văn bản tùy theo điều kiện, mức độ cần thiết và chào hàng là chào hàng cam kết hay chào hàng tự do. 1.2.1.5. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Tùy thuộc vào từng loại hình kinh doanh nhập khẩu, phương thức thanh toán, cơ chế xuất nhập khẩu của nhà nước,… mà ở một hợp đồng cụ thể có những điểm khác nhau, nhưng nhìn chung các bước công việc thực hiện trong hợp đồng nhập khẩu như sau: Bước 1: Xin giấy phép nhập khẩu (nếu cần). Hiện nay, các thương nhân trong nước đều có thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa với thương nhân nước ngoài đối với những loại hàng hóa mà nhà nước không cấm nhập khẩu. Do vậy, vấn đề cần quan tâm ở đây là hàng hóa thuộc diện nào. Nếu là hàng hóa cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng xuất khẩu thì doanh nghiệp không được thực hiện nhập khẩu cho đến khi nào bãi bỏ lệnh cấm hoặc ngừng nhập khẩu hàng hóa đó. Nếu là hàng hóa thuộc diện quản lý bằng giấy phép thì doanh nghiệp muốn thực hiện nhập khẩu hàng hóa đó thì phải được phép của Bộ Công thương hoặc bộ chủ quản. Nếu là các loại hàng hóa khác thì doanh nghiệp chỉ cần làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu mà không cần phải xin giấy phép nhập khẩu. Bước 2: Đôn đốc người bán chuyển hàng. Ở bước này, người mua thực hiện các hình thức chủ yếu như gửi thư, gọi điện để đôn đốc người bán chuẩn bị hàng hóa và chuyển cho mình theo đúng thời gian quy định. Tuy bước này thực hiện đơn giản nhưng rất quan trọng vì có nhiều trường hợp vì một lí do nào đó đối tác thực hiện không đúng hoặc chuyển hàng chậm cho công ty làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh, gây ứ đọng vốn, làm thiệt hại cho công ty. Bước 3: Bước đầu thực hiện các thủ tục thanh toán. Tùy từng hợp đồng cụ thể quy định việc tiến hành các thủ tục thanh toán được thực hiện như thế nào. Nhìn chung, các thủ tục thanh toán sơ bộ được thực hiện ở bước này phụ thuộc vào việc trong hợp đồng hai bên thỏa thuận sử dụng phương thức thanh toán nào. Nếu sử dụng phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ, thanh toán bằng phương thức chuyển tiền trả trước, thanh toán bằng phương thức Đổi chứng từ trả tiền ngay(CAD) thì hai bên phải tiến hành những thủ tục thanh toán sơ bộ ban đầu. Nếu hợp đồng quy định sử dụng phương thức thanh toán khác, như: Điện chuyển tiền (T/T), Trả tiền đề đổi chứng từ (D/P), Chấp nhận trả tiền đổi chứng từ, Thanh toán bằng séc,… thì không có bước này. Bước 4: Thuê phương tiện vận tải. Hiện nay, theo Incoterms có 13 điều kiện giao hàng, trong đó quy định nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải có thể thuộc về người mua hoặc người bán tùy theo từng điều kiện giao hàng. Theo Incoterms 2000 thì: Nếu trong hợp đồng chi rõ điều kiện giao hàng theo Incoterms 2000 với điều kiện giao hàng loại E và F, gồm: EXW, FOB,FAS,FCA thì người mua có nghĩa vụ phải thực hiện thuê phương tiện vận tải. Có thể dùng hình thức thuê phương tiện vận tải bằng phương thức tàu chuyến, tàu chợ. Đối với giao hàng theo điều kiện loại C và D, gồm: CFR, CIP, CIF, CPT, DAF,DAS, DAQ, DDU, DDP thì nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải thuộc về người bán. Nếu trong hợp đồng không quy định giao hàng theo Incoterms 2000 thì nghĩa vụ thuê tàu tùy theo những quy định trong hợp đồng. Bước 5: Mua bảo hiểm. Nhằm đề phòng rủi ro và hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất có thể doanh nghiệp nhất thiết phải mua bảo hiểm. Trong buôn bán quốc tế, bảo hiểm đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Việc mua bảo hiểm được thực hiện thông qua một hợp đồng bảo hiểm, tuỳ vào điều kiện, tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà doanh nghiệp sẽ quyết định mua bảo hiểm chuyến hay bảo hiểm bao. Có nhiều điều kiện bảo hiểm: Điều kiện “A” bảo hiểm mọi rủi ro, điều kiện “B” bảo hiểm cả tổn thất, điều kiện “C” bảo hiểm miễn tổn thất riêng. Doanh nghiệp nhập khẩu phải căn cứ vào giá trị lô hàng, mức độ rủi ro, thỏa thuận của hai bên để lựa chọn mua bảo hiểm loại nào cho kinh tế nhất. Tuy nhiên, cũng như thuê phương tiện vận tải, việc mua bảo hiểm cũng được quy định tùy theo hợp đồng quy định áp dụng điều kiện giao hàng nào và tùy thuộc vào địa điểm chuyển rủi ro là ở đâu. Bước 6: Làm thủ tục hải quan. Vì đặc điểm của nhập khẩu là hàng hóa dịch chuyển qua biên giới hải quan, vì vậy trước khi nhận hàng từ người vận tải người nhập khẩu phải tiến hành làm các thủ tục hải quan. Các thủ tục hải quan phải thực hiện bao gồm: khai báo hải quan về lô hàng nhập khẩu; tự kê khai và tính thuế một cách đầy đủ, trung thực và chính xác; sau đó tiến hành nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan hải quan và thông quan hàng hóa. Bước 7: Nhận hàng từ người vận tải. Để nhận được hàng hoá từ người vận tải cán bộ đi nhận hàng cần xuất trình lệnh giao hàng và kí kết hợp đồng uỷ thác cho cảng tiến hành dỡ hàng. Bước 8: Kiểm tra hàng hóa trước sự chứng kiến của đại diện của chủ phương tiện vận tải, đại diện cảng biển (nếu có), đại diện hải quan và đại diện của người bảo hiểm. Sau đó, lập biên bản nhận hàng trong đó ghi rõ những vấn đề về hàng hoá, những phát sinh tổn thất,… để hai bên cùng giải quyết. Bước 9: Thực hiện thanh toán tiền hàng cho người bán. Đây là nghiệp vụ vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế là công việc quan trọng và cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Thủ tục thanh toán sẽ tùy thuộc vào hình thức thanh toán và qui định trong hợp đồng. Tuy nhiên doanh nghiệp cần phải chú ý có nhiều hình thức thanh toán khác nhau, mỗi hình thức lại có cách thức và trình tự thanh toán khác nhau. Bước 10: Khiếu nại (nếu có). Bước này chỉ thực hiện khi xảy ra những sai khác đối với những thỏa thuận của hai bên. Có thể thực hiện khiếu nại qua việc thương lượng, hòa giải giữa hai bên, thông qua trung gian hòa giải, thông qua trọng tài thương m._.ại hoặc tòa án để giải quyết. Nhưng phổ biến hơn cả là việc thương lượng giữa hai bên, các hình thức khác chỉ tiến hành khi thương lượng không đạt sự thống nhất của các bên tham gia. 1.2.2. Các phương thức nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học Trải qua nhiều thế kỉ, các phương thức trao đổi hàng hoá quốc tế cũng ngày càng trở nên đa dạng. Vì vậy, để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của từng doanh nghiệp cần hiểu về những phương thức nhập khẩu này cũng như những ưu điểm và nhược điểm của từng phương thức. 1.2.2.1. Phương thức nhập khẩu trực tiếp. Khái niệm: Giao dịch trực tiếp là hình thức giao dịch, trong đó người bán (người sản xuất, người cung cấp) và người mua quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thỏa thuận về hàng hóa, giá cả và các điều kiện giao dịch khác. Ưu và nhược điểm của phương thức nhập khẩu trực tiếp: Về ưu điểm: Thứ nhất: Phương thức này cho phép người nhập khẩu mua được với giá cả thấp nhất vì trực tiếp mua hàng mà không phải trả chi phí trung gian. Thứ hai: Nhập khẩu trực tiếp tạo cho nhà nhập khẩu cơ hội quan hệ tốt với nhà cung cấp thông qua các giao dịch. Đồng thời, qua đó hai bên có thể giao lưu, hiểu biết lẫn nhau cũng như tiếp thu được những quy trình công nghệ và những kinh nghiệm quản lý tiên tiến để áp dụng cho công ty mình. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu trực tiếp hàng hoá cũng giúp cho doanh nghiệp có được nguồn hàng tin cậy, nguồn gốc rõ ràng và không phải phụ thuộc vào các trung gian thương mại. Về nhược điểm . Bên cạnh những ưu điểm kể trên, nhập khẩu bằng phương thức trực tiếp cũng tồn tại những hạn chế, như: Chi phí cho những việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường quốc tế cao, thời gian tìm hiểu lâu cho nên trong trường hợp mua không thường xuyên, số lượng ít, cần đáp ứng ngay thì không nên sử dụng phương thức này. Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu trực tiếp đòi hỏi có những cán bộ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi: Giỏi về giao dịch đàm phán, am hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo, có như vậy mới bảo đảm kinh doanh nhập khẩu trực tiếp có hiệu quả. Đây vừa là yêu cầu để đảm bảo hoạt động kinh doanh nhập khẩu trực tiếp, vừa thể hiện điểm yếu của đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam khi tiếp cận với thị trường thế giới. 1.2.2.2. Phương thức xuất nhập khẩu đối lưu-Counter Trade. Khái niệm: Xuất nhập khẩu đối lưu (Counter – Trade) hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên kết là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau, có giá trị tương đương. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu ngoại tệ, mà thu về một hàng hóa khác có giá trị tương đương. Hiện nay, phương thức buôn bán đối lưu chiếm khoảng 24% kim nghạch buôn bán toàn cầu với 6 hình thức buôn bán chủ yếu, như: Hàng đổi hàng (Barter): Là việc hai bên trao đổi với nhau những hàng hóa có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Trao đổi bù trừ (Compensation) Trong nghiệp vụ bù trừ (Compensation) hai bên trao đổi hàng hóa với nhau trên cơ sở giá trị hàng giao, đến cuối kỳ hạn, hai bên mới so sánh, đối chiếu giữa trị giá hàng giao với trị giá hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ. Mua đối ứng (counter – purchase): Hai bên ký kết với nhau hai hợp đồng mua hàng của nhau, cân bằng tổng số tiền của từng hợp đồng. Hợp đồng mua thanh toán bằng hợp đồng bán. Chuyển giao nghĩa vụ: Tức là bên nhập khẩu sẽ chuyển nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho bên thứ ba. Giao dịch bồi hoàn: Hình thức này được tiến hành giữa hai bên trong đó bên nhập khẩu hàng hoá chủ yếu là máy móc thiết bị và thanh toán cho bên kia bằng cách dành cho bên kia những ưu đãi như: Đầu tư, hợp tác hoặc giúp đỡ bán hàng. Nghiệp vụ mua lại (buying back): một bên cung cấp thiết bị toàn bộ hoặc sáng chế, hoặc bí quyết kỹ thuật sản xuất (know-how) cho bên kia và cam kết mua lại sản phẩm do thiết bị hoặc know-how làm ra. Tuy nhiên, dù tiến hành theo hình thức nào cũng phải tôn trọng nguyên tắc cân bằng. Nguyên tắc này được thể hiện như sau: Thứ nhất là cân bằng về mặt hàng: mặt hàng quý đổi lấy hàng quý, mặt hàng thừa ế đổi lấy mặt hàng thừa ế. Thứ hai là cân bằng về điều kiện giao dịch: Cùng giao FOB cảng đi hoặc cùng giao CIF cảng đến. Thứ ba là cân bằng về cơ sở giá cả: Cùng tính cao hơn hoặc thấp hơn giá cả quốc tế. Và cuối cùng là cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau. Ưu và nhược điểm của phương thức nhập khẩu đối lưu. Về ưu điểm: Khi sử dụng phương thức này, các bên có thể kết hợp việc nhập khẩu hàng hoá và xuất khẩu hàng hoá. Từ đó, cả nhập khẩu và xuất khẩu ngày càng phát triển. Bên cạnh đó, đối với một số hình thức xuất nhập khẩu đối lưu thì có thể có nhiểu bên tham gia vào việc trao đổi làm thúc đẩy thương mại toàn cầu và việc buôn bán vẫn có thể diễn ra khi một trong hai bên không có nhu cầu hàng hoá của bên kia. Mặt khác, thông qua việc kết hợp xuất khẩu với nhập khẩu và việc thanh toán có thể thực hiện sau khi sản xuất nhờ vào vốn của bên kia cũng tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Về nhược điểm: Cũng như phương thức nhập khẩu trực tiếp việc thực hiện buôn bán đối lưu cũng thể hiện một số nhược điểm: Một là: Do có nhiều bên tham gia hợp đồng nên việc thực hiện hợp đồng phải thật chính xác sao cho các hợp đồng đều được đảm bảo, việc một hợp đồng có trục trặc thì hợp đồng kia cũng sẽ bị ảnh hưởng. Hai là: Khi tiến hành buôn bán theo hình thức này thì việc thực hiện nguyên tắc cân bằng là rất quan trọng, nhưng đôi khi do tương quan sức mạnh của hai bên không cân bằng và do sự cần thiết của một bên có thể bị bên mạnh hơn tạo áp lực và có những đòi hỏi trong trao đổi gây thiệt hại cho bên kia. 1.2.2.3. Phương thức nhập khẩu qua trung gian (Agent). Khái niệm Giao dịch qua trung gian là hình thức mua bán quốc tế được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến trong giao dịch quốc tế là đại lý môi giới. Nhập khẩu qua đại lý: Đại lý là một người hoặc một công ty ủy thác cho người khác, công ty khác thực hiện việc mua bán hoặc dịch vụ phục vụ cho việc mua bán như quảng cáo, vận tải và bảo hiểm. Quan hệ giữa người ủy thác với người đại lý thể hiện hợp đồng đại lý. Nhập khẩu qua môi giới(Broker) Là thương nhân trung gian giữa bên mua và bên bán, được bên mua hoặc bên bán ủy thác tiến hành bán hoặc mua hàng hóa hay dịch vụ. khi tiến hành nghiệp vụ môi giới, người môi giới không đứng tên của chính mình, mà đứng tên của người ủy thác, không chiếm hữu hàng hóa và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người ủy thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng. Quan hệ giữa người ủy thác với người môi giới dựa trên ủy thác từng lần, chứ không dựa vào hợp đồng. Ưu nhược điểm của hình thức giao dịch qua trung gian: Ưu điểm: Vì người trung gian thường là những người am hiểu thị trường xâm nhập, pháp luật và tập quán buôn bán của địa phương nên họ có khả năng đẩy mạnh buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người ủy thác. Mặt khác, những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất định, do đó khi sử dụng họ, người ủy thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước tiêu thụ hàng. Ngoài ra, nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn phân loại, đóng gói, người ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải từ đó giảm bớt chi phí trong nhập khẩu hàng hoá. Nhược điểm: Trái ngược với phương thức nhập khẩu trực tiếp, khi sử dụng phương thức nhập khẩu qua trung gian bên nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường, với nhà cung cấp. Do vậy, nhà nhập khẩu sẽ phụ thuộc vào trung gian, phải đáp ứng những yêu sách của đại lý và môi giới đưa ra. Đồng thời, nếu nhập khẩu trực tiếp nhà nhập khẩu sẽ mua được với giá cả thấp nhất vì trực tiếp mua hàng mà không phải trả chi phí trung gian trong khi đó, sử dụng các trung gian thì giá cả hàng hoá sẽ cao hơn vì trong đó đã cộng thêm chi phí lưu thông và lợi nhuận của các trung gian. Vì vậy, lợi nhuận bị chia sẻ. Một vấn đề nữa là về việc vốn kinh doanh hay bị bên nhận đại lý chiếm dụng do phải thanh toán cho bên trung gian để họ nhập hàng về và không chủ động được kế hoạch nhập hàng gây ra việc vốn bị đóng băng. Do những lợi hại nêu trên, trung gian chỉ được sử dụng trong những trường hợp thật cần thiết như: • Khi thâm nhập vào thị trường mới, • Khi mới đưa vào thị trường một mặt hàng mới, • Khi tập quán đòi hỏi phải bán hàng qua trung gian. • Khi mặt hàng đỏi hỏi sự chăm sóc đặc biệt. Ví dụ: Hàng tươi sống… 1.2.2.4. Phương thức kinh doanh tái xuất. Khái niệm: Tái xuất khẩu là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước khác, những hàng hóa đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Mục đích: Mục đích của thực hiện giao dịch tái xuất khẩu là mua rẻ hàng hóa ở nước này bán đắt hàng hóa ở nước khác và thu số ngoại tệ lớn hơn số vốn bỏ ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu. Phân loại hoạt động tái xuất khẩu Có hai hình thức: Một là: Hình thức kinh doanh chuyển khẩu. Hình thức kinh doanh chuyên khẩu được hiểu như sau: Chuyên khẩu là mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam. Hai là: Hình thức kinh doanh “tạm nhập, tái xuất”. Kinh doanh tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua bán hàng hóa của một nước để bán cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam, rồi làm thủ tục xuất khẩu mà không qua khâu chế biến. Ở Việt Nam thời gian hàng hóa tạm nhập để tái xuất khẩu được lưu chuyển là 60 ngày. Khi sử dụng phương thức kinh doanh này doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ tái xuất phải có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu về thị trường và giá cả; có nhiều bạn hàng ở nước ngoài để ráp nối mua bán giữa họ với nhau; có những nhân viên giỏi về nghiệp vụ thanh toán. 1.2.2.5. Một số phương thức nhập khẩu đặc biệt khác. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa: Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá là việc giao dịch được tiến hành ở một thị trường đặc biệt, được tổ chức ở một nơi nhất định, hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định. Ở đó thông qua các môi giới của sở giao dịch hàng hoá người ta mua bán những mặt hàng có khối lượng lớn, phẩm chất tương đồng và được tiêu chuẩn hóa. Trong đó, hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời gian và ỏ vào một địa điểm cố định trong một thời hạn nhất định, tại đó người bán đem trưng bày hàng hóa của mình và tiếp tục với người mua để ký kết hợp đồng mua bán. Đấu giá quốc tế. Đấu giá quốc tế là phương thức bán hàng đặc biệt, được tổ chức công khai ở một nơi nhất định. Tại đó, sau khi xem xét hàng hóa những người mua sẽ tự do cạnh tranh trả giá và cuối cùng hàng hóa sẽ được bán cho người mua trả giá cao nhất. Đấu thầu quốc tế Đấu thầu quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người mua (tức người gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán (tức người dự thầu) báo giá mình muốn bán, sau đó người mua sẽ chọn mua của người nào bán giá rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp cả với những điều kiện đã nêu. Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua sắm và thi công các công trình của Nhà nước, nhất là tại các nước đang phát triển. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC NHẬP KHẨU MẶT HÀNG THIẾT BỊ TIN HỌC. Doanh nghiệp từ khi ra đời, tồn tại và phát triển đều ở trong môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh tồn tại một cách khách quan và không thể phủ nhận được nó. Mỗi một sự thay đổi của môi trường đều ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Là một trong những doanh nghiệp tồn tại trong môi trường kinh doanh, Công ty cổ phần Phát triển và Đầu tư công nghệ FPT cũng chịu những tác động đó, nhất là trong việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học. Mặt khác, vì nhập khẩu là hoạt động diễn ra trong môi trường quốc tế nên kết quả hoạt động này chịu ảnh hưởng sâu rộng bởi những yếu tố không chỉ thuộc về bản thân FPT mà còn chịu ảnh hưởng của môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế. 1.3.1.Các nhân tố khách quan Trước hết, các nhân tố khách quan là những nhân tố tồn tại ngoài ý chí chủ quan của con người, một cá nhân con người không thể tạo ra nó cũng không thể xoá bỏ nó mà phải tuân theo và tìm cách thích ứng với nó. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học các nhân tố khách quan chủ yếu có thể kể đến là các yếu tố thuộc về chính trị và luật pháp; các yếu tố kinh tế; các yếu tố thị trường và cơ sở hạ tầng. Thứ nhất: Về yếu tố chính trị và luật pháp. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu, đặc biệt là chính sách ngoại thương, tuỳ theo tình hình, định hướng khác nhau mà sự ảnh hưởng của chúng cũng khác nhau, hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các quốc gia khác nhau do đó nó phải chịu sự ảnh hưởng không chỉ của các chính sách, quy định, luật pháp trong nước mà nó còn phải phù hợp thích nghi với các chính sách, luật pháp của nước ngoài và quốc tế. Các yếu tố này có thể ảnh hưởng tích cực đến hoạt động nhập khẩu, đôi khi nó lại làm kìm hãm, thậm chí ngăn cản hoạt động nhập khẩu, điều này gây ra những khó khăn không nhỏ cho hoạt động nhập khẩu . Để điều tiết cho hoạt động nhập khẩu, chính phủ có các chính sách sau: Một là: Chính sách về thuế. Đây thực chất là biện pháp nhằm thể hiện sự ưu đãi hay hạn chế của chính phủ đối với hoạt động nhập khẩu. Chính phủ dùng các mức thuế khác nhau để điều tiết hoạt động nhập khẩu. Đối với những hàng hoá không khuyến khích nhập khẩu thì chính phủ đánh thuế cao, thậm chí rất cao, còn đối với những hàng hoá chính phủ khuyến khích nhập khẩu thì có thể đánh thuế rất thấp thậm chí mức thuế bằng không. Thực tế cho thấy, khi tiến hành tính toán hiệu quả của một lô hàng nhập khẩu, ngoài các khoản chi phí doanh nghiệp chi cho hoạt động nhập khẩu, còn phải tính thêm mức thuế mà mình phải chịu sao cho đảm bảo vẫn có lợi nhuận, điều này cho thấy rằng thuế đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp . Hai là: Hạn ngạch nhập khẩu. Đây là một biện pháp chính phủ sử dụng để quản lý hoạt động nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu có thể được hiểu là những quy định về số lượng, trị giá của mặt hàng hoặc nhóm hàng được nhập khẩu từ một thị trường nhất định, trong thời gian nhất định của chính phủ. Đối với những mặt hàng bị chính phủ hạn chế bằng hạn ngạch doanh nghiệp nhập khẩu sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn ảnh hưởng đến quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Còn đối với những hàng nhập khẩu không bị chính phủ hạn chế bằng hạn ngạch thì doanh nghiệp nhập khẩu sẽ gặp rất nhiều thuận lợi. Ba là: Chính sách đối ngoại và cơ chế tỷ giá. Hoạt động nhập khẩu cũng phụ thuộc nhiều vào quan hệ giữa các Quốc gia, điều này khiến cho các doanh nghiệp gặp phải ưu đãi hoặc cản trở khi tiến hành hoạt động nhập khẩu . Việc quản lý tỷ giá của chính phủ hay sự sử dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hay cố định cũng ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu . Như vậy, luật pháp bao giờ cũng là cơ sở pháp lý để tổ chức và thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với hoạt động nhập khẩu thì luật pháp không chỉ là luật pháp của nước sở tại mà còn bao gồm luật pháp của các nước khác và luật pháp quốc tế. Vì vậy, FPT cần quan tâm đến việc phân tích và cập nhật những thông tin về hệ thống chính sách trong nước và quốc tế. Thứ hai: Những yếu tố kinh tế. Đây là các yếu tố quan trọng có tác động đến cả cung và cầu hàng hoá dịch vụ trong toàn nền kinh tế quốc dân. Trong đó các yếu tố kinh tế chủ yếu tác động đến sản xuất kinh doanh là: Tốc độ phát triển kinh tế; lạm phát, thất nghiệp; tiềm năng kinh tế và sự gia tăng đầu tư; các chính sách tài chính tiền tệ; giai đoạn trong chu kì phát triển mà nền kinh tế đang trải qua. Các yếu tố này tác động đến cả sản xuất và tiêu dùng, ảnh hưởng đến sức mua trong nền kinh tế, là “máy đo nhiệt độ” của thị trường. Trong đó, tốc độ phát triển kinh tế của quốc gia, tình hình lạm phát và chính sách tài chính tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của FPT. Nếu tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam duy trì được ở mức độ cao, ổn định; lạm phát và lãi suất ngân hàng được kiểm soát sẽ là nhân tố kích thích sức mua trong nước. Từ đó, khả năng bán được hàng được nâng cao tạo điều kiện cho sản xuất và kinh doanh được mở rộng. Tuy nhiên, hiện nay với tình hình nền kinh tế toàn cầu đang suy thoái, lạm phát của Việt Nam tăng cao đang ảnh hưởng đến kết quả nhập khẩu hàng hoá. Với việc kinh tế toàn cầu bị suy thoái ảnh hưởng đến kinh tế của Việt Nam làm sức mua hàng hoá giảm. Bên cạnh đó, lạm phát làm cho Việt Nam đồng mất giá, làm tỉ giá hối đoái (VND/1 đơn vị ngoại tệ) gia tăng. Trong khi đó, việc doanh nghiệp nhập khẩu có lãi hay không lại tuỳ thuộc vào tương quan giữa tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu (tổng số đồng nội tệ thu được khi bỏ ra 1 đơn vị ngoại tệ) và tỉ giá đồng Việt Nam/ 1đơn vị ngoại tệ. Vì vậy, với việc lạm phát tăng như hiện nay thì nguy cơ bị thua lỗ trong hoạt động nhập khẩu là hiển nhiên nếu không tăng giá bán, nhưng việc tăng giá sẽ kèm theo cầu suy giảm dẫn đến hàng hoá không bán được; tóm lại đều gây thiệt hại cho hoạt động nhập khẩu. Vì ảnh hưởng quan trọng kể trên mà những điều chỉnh trong chính sách tài chính tiền tệ của các nhà kinh tế vĩ mô có quyết định đến thành bại trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp nhập khẩu nói chung và FPT nói riêng. Thứ ba: Các yếu tố thuộc về thị trường. Trong kinh doanh, vấn đề về cung - cầu hàng hoá là vấn đề luôn được quan tâm. Đối với hoạt động nhập khẩu của FPT thì khâu nghiên cứu cung hàng hoá ở thị trường quốc tế và cầu hàng hoá ở thị trường trong nước luôn là khâu đầu tiên, góp phần định hướng cả quy trình hoạt động tiếp theo. Cung hàng hoá thay đổi sẽ tác động đến giá thiết bị tin học nhập về, đây là một thành phần quan trọng cấu thành nên chi phí đầu vào của Công ty FPT. Nếu cung về thiết bị tin học suy giảm sẽ làm tăng áp lực của các nhà xuất khẩu đối với Công ty, làm tăng giá cả hàng nhập về; vì vậy, giá cả hàng hoá bán ra cũng gia tăng là cho cầu hàng hoá giảm xuống, làm giảm khả năng cạnh tranh của bản thân FPT. Và ngược lại, thiết bị tin học trên thị trường dồi dào, số nhà cung cấp nhiều, khả năng cung cấp hàng hoá lớn sẽ là nhân tố thuận lợi cho việc giảm chi phí mua vào, từ đó tăng khả năng cạnh tranh về giá cả hàng hoá bán ra của Công ty trên thị trường trong nước. Cũng như cung hàng hoá, cầu về hàng hoá trên thị trường trong nước cũng là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu quả nhập khẩu của FPT. Nếu cầu thiết bị tin học tăng cao sẽ là cơ hội thuận lợi cho Công ty trong việc tiêu thụ hàng hóa, giảm tồn kho. Như vậy, hiệu quả nhập khẩu cũng được nâng lên. Thứ tư: Các yếu tố cơ sở hạ tầng của quốc gia. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm đường xá, cầu, hệ thống điện, nước, các phương tiện giao thông, hệ thống thông tin liên lạc ... Trong hoạt động nhập khẩu không thể không nói đến vai trò của phương tiện giao thông vận tải để vận chuyển hàng hoá từ quốc gia này tới quốc gia khác... Vai trò của các phương tiện thông tin để trao đổi giao dịch, giảm được phí giao thông tin để trao đổi giao dịch, giảm được phí giao dịch . Do vậy, sự phát triển của các phương tiện, cơ sở hạ tầng nhằm tăng khả năng hỗ trợ cho hoạt động nhập khẩu . Các yếu tố này không đảm bảo sẽ khiến cho hoạt động nhập khẩu gặp khó khăn, gây ra nhiều rủi ro trong giao dịch và vận chuyển, giảm tính nhanh gọn và giảm vòng quay của vốn trong hoạt động của doanh nghiệp Thứ năm: Ảnh hưởng của các yếu tố khác như môi trường, văn hoá, điều kiện địa lý,tự nhiên... Đây cũng là những yếu tố có thể mang đến những thuận lợi cũng như những khó khăn trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Một điều kiện tự nhiên thuận lợi có thể giúp cho doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm, một môi trường văn hóa trong đó những hàng hóa mà doanh nghiệp nhập khẩu về để tiêu thụ phù hợp với những sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện kinh doanh hiệu quả một cách hiệu quả, và ngược lại. Tuy nhiên không thể khắc phục được sự ảnh hưởng tiêu cực của các yếu tố này mà chỉ có thể đưa ra các biện pháp để tìm cách khắc phục và thích nghi với điều kiện đó 1.3.2. Các nhân tố chủ quan. Ngoài những nhân tố khách quan thì những nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định đến việc thực hiện hoạt động nhập khẩu như thế nào. Về vốn: Đây là một yếu tố rất quan trọng trong vấn đề nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học nói riêng và các hàng hóa nói chung. Với mặt hàng thiết bị tin học, vì mặt hàng này có giá trị cao nên để nhập khẩu được nó thì doanh nghiệp cần một số vốn lớn đầu tư vào. Mặt khác, với số vốn có được sẽ có ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp lựa chọn mua bao nhiêu, phương thức mua là gì, phương thức thanh toán nào được sử dụng. Mặt khác, quy mô và sự trường vốn trong kinh doanh là một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra vị thế của Công ty trước các đối thủ cạnh tranh, định vị hình ảnh trong tâm trí nhà cung cấp và người tiêu dùng. Về nhân lực: Vì bản thân hoạt động nhập khẩu đã rộng lớn và phức tạp lại liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như vận tải, bảo hiểm, đóng gói,…nên khối lượng công việc cũng như sự phức tạp trong công việc là không nhỏ. Để giải quyết được vấn đề này thì những giải pháp về nhân lực là cần thiết. Từ những đòi hỏi trong công việc Công ty FPT cần phải có một đội ngũ nhân viên đủ về số lượng và cao về trình độ nghiệp vụ ngoại thương. Nếu số lượng nhân viên thiếu thì không giải quyết được hết khối lượng công việc, nếu các nhân viên có trình độ nghiệp vụ thấp sẽ không giải quyết được công việc, thực hiện không chính xác gây thiệt hại cho công ty. Bên cạnh đó, vì kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao nên các nhân viên phải am hiểu trong lĩnh vực này. Có như thế, các đối tác cung cấp mới đề cao, các khách hàng mới tin tưởng vào Công ty; từ đó, hiệu quả nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học mới phát triển. Về thương hiệu của Công ty. Sở dĩ Công ty FPT ngày càng phát triển mạnh là nhờ một phần không nhỏ vào danh tiếng của Công ty mang lại. Việc FPT luôn được biết đến là nhà cung cấp hàng đầu trong lĩnh vực tin học không chỉ tạo ưu thế trong tiêu thụ sản phẩm mà còn có thuận lợi trong nhập khẩu hàng hoá. Với khách hàng, uy tín của FPT trên thị trường là một trong những điểm thu hút khách hàng mua và tin tưởng vào những sản phẩm mang nhãn hiệu FPT, làm tăng doanh số bán, đem lại hiệu quả cho các hoạt động kinh doanh của toàn Công ty trong đó có hoạt động nhập khẩu. Với các nhà cung cấp, thương hiệu của FPT làm cho cái nhìn của các nhà cung cấp thiện cảm hơn, tránh được sự đánh đồng về quy mô và trình độ như các doanh nghiệp nhỏ, kinh doanh manh mún. Từ sự tin tưởng đó sẽ là cơ sở để các nhà cung cấp ưu tiên cho FPT trong hợp tác nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học về giá cả, về thanh toán,…làm giảm chi phí nhập khẩu và qua đó lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu tăng lên. Như vậy, trên đây là những nhân tố cơ bản và quan trọng ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của Công ty FPT. Xuất phát từ đó, Công ty cần chú trọng phân tích và dự báo được những tác động này để tìm ra hướng phát triển của mình trong tương lai. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU MẶT HÀNG THIẾT BỊ TIN HỌC CỦA CÔNG TY FPT TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY FPT TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY. Công ty FPT được biết đến là Công ty hàng đầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông của Việt Nam. Để có được vị trí như ngày nay là nhờ những nỗ lực không ngừng của tất cả lãnh đạo và nhân viên của Công ty. Nhìn lại quá trình xây dựng và phát triển của Công ty có thể điểm những nét chính sau: 2.1.1. Thông tin chung về Công ty Cổ phần FPT Công ty FPT được thành lập năm 1988 theo quyết định số 80-88 QĐ/VCN hoạt động kinh doanh lĩnh vực chính là sản xuất và chế biến lương thực thực phẩm, với tên gọi là Công ty Công nghệ chế biến thực phẩm. Năm 1990,Công ty chính thức chuyển sang lĩnh vực kinh doanh mới : Công nghệ thông tin và viễn thông. Năm 2002, theo quyết định số 178/QĐ-TTg Công ty Cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang Công ty Cổ phần, với các thông tin chính như sau: Tên gọi đầy đủ bằng tiếng Việt: Công ty Cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ. Tên giao dịch quốc tế: The Corporation for Financing and Promoting Technology. Tên viết tắt: FPT. Vốn điều lệ:547.292.000.000 đồng Việt Nam. Trụ sở chính: 89 Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam. Tại thành phố Hồ Chí Minh: 41 Sương Nguyệt Ánh, quận 1 Tại Đà Nẵng: 178 Trần Phú, quận Hải Châu Website: http//www.fpt.com.vn Đến nay, FPT đã giành được niềm tin của hàng nghìn doanh nghiệp và hàng triệu người tiêu dùng. FPT đã vinh dự được nhận Huân chương Lao động Hạng nhất do Nhà nước trao tặng năm 2003. Trong suốt những năm qua, FPT liên tục được bạn đọc tạp chí PC World Việt Nam bình chọn là Tập đoàn tin học uy tín nhất Việt Nam. Sản phẩm và dịch vụ của FPT luôn giành được những giải thưởng cao nhất của Hội Tin học Việt Nam, Hội Tin học thành phố Hồ Chí Minh và Hiệp hội Doanh nghiệp Phần mềm Việt Nam. Với những đóng góp tích cực cho sự phát triển của ngành tin học và viễn thông nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung, FPT đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, giải thưởng Sao Vàng Đất Việt cho Thương hiệu FPT, giải thưởng Sao Khuê,… 2.1.2. Sơ đồ tổ chức của Tập đoàn FPT Để đạt được những thành công to lớn như trên thì sự gắn kết sức mạnh của cả một tổ chức đóng vai trò quyết định. Có thể khái quát hóa mô hình tổ chức của Tập đoàn FPT hiện nay bằng sơ đồ sau: Như vậy, FPT là công ty đa quốc gia, hiện đang hoạt động trên bốn lĩnh vực: Công nghệ thông tin và viễn thông; Tài chính và ngân hàng; Bất động sản; Giáo dục và đào tạo.Trong đó với mỗi lĩnh vực, tập đoàn đã thành những công ty con với các chức năng trong từng lĩnh vực, như: Trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông FPT đã thành lập 9 công ty thành viên là: Công ty bán lẻ FPT, Công ty Công nghệ di động FPT, Công ty dịch vụ tin học FPT, Công ty Cổ phần quảng cáo FPT, Công ty Hệ thống thông tin FPT, Công ty Phân phối FPT, Công ty Cổ phần viễn thông FPT, Công ty Cổ phần phần mềm FPT, Công ty Truyền thông và giải trí FPT. Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Công ty cũng đã thành lập 3 công ty thành viên, đó là: Cổ phần chứng khoán FPT, Công ty Quản lý quỹ đầu tư FPT, ngân hàng thương mại cổ phần FPT. Một lĩnh vực còn mới mẻ đối với FPT đó là lĩnh vực bất động sản, Công ty đã bắt đầu tham gia bằng cách thành lập 2 công ty con là: Công ty phát triển công nghệ cao Hòa Lạc và Công ty bất động sản FPT. Theo xu thế của sự phát triển về giáo dục và sự cần thiết nhân tài của mình, Tập đoàn FPT cũng đã được nhà nước đồng ý thành lập Đại học FPT, chuyên đào tạo về công nghệ thông tin và viễn thông. Ngoài ra, FPT cũng mở nhiều chi nhánh theo các vùng miền địa lý, như FPT Hà Nội, FPT Đà Nẵng, FPT Hồ Chí Minh để mở rộng thị trường kinh doanh và phục vụ nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất. 2.1.3. Đặc điểm hoạt động của Tập đoàn FPT Lĩnh vực kinh doanh và các sản phẩm, dịch vụ kinh doanh: Như ta đã thấy trong sơ đồ tổ chức của Tập đoàn thì 4 lĩnh vực họa động chính của FPT là: Công nghệ thông tin và viễn thông; Tài chính và ngân hàng; Bất động sản; Giáo dục và đào tạo. Trong đó trong mỗi lĩnh vực lại bao gồm các hoạt động chính gồm: - Tích hợp hệ thống - Giải pháp phần mềm - Xuất khẩu phần mềm - Dịch vụ ERP - Tích hợp hệ thống - Phân phối sản phẩm công nghệ thông tin và viễn thông - Dịch vụ truy nhập Internet - Dịch vụ nội dung trực tuyến - Đào tạo công nghệ - Lắp ráp máy tính - Nghiên cứu và phát triển - Đầu tư phát triển hạ tầng và bất động sản - Dịch vụ tài chính-ngân hàng - Lĩnh vực giáo dục-đào tạo - Lĩnh vực bán lẻ - Giải trí truyền hình - Quảng cáo Về các đặc điểm nổi bật khác của công ty: Về nhân sự Tập đoàn FPT: Bảng 1: BẢNG THỐNG KÊ TÌNH HÌNH NHÂN SỰ CỦA FPT. Năm 2002 2003 2004 2005 2006 7-Nov Số nhân viên 1100 1905 2885 4975 7000 9000 Nguồn: phòng Nhân sự FPT Có thể nói, đằng sau sự tăng trưởng của FPT trong các lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông là sức mạnh và sự đóng góp của tập thể vững mạnh. Tính đến thời điểm 11/2007 là hơn 9.000 cán bộ công nhân viên. FPT tự hào là Tập đoàn tập trung đông đảo các cán bộ tin học nhất Việt Nam, độ tuổi bình quân là 26,91. Đó là tài sản quý báu nhất và là nền tảng tạo ra mọi thành công của FPT. Bên cạnh việc đầu tư và phát triển chuyên môn, FPT chú trọng việc đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ sẵn sàng tiếp bước cũng như kế thừa lớp đàn anh, duy trì và phát triển Tập đoàn đến tầm cao mới. Chương trình “Thủ lĩnh trẻ” là một bước đi chiến lược của FPT trong kế hoạch xây dựng lực lượng vững mạnh với 16.000 nhân viên và hơn lãnh đạo các cấp vào năm 2008. Về tài sản: Công ty có tổng tài sản là:5.346.280.298.376 (đồng), trong đó tài sản ngắn hạn là 4.366.815.291.496 (đồng) chiếm tỷ trọng 81,68%,tài sản dài hạn là 979.465.006.879 (đồng) chiếm tỷ trọng 18,32% . Về nguồn vốn: Hiện nay, tổng số vốn công ty huy động được là 5.346.280.298.376 (đồng) trong đó Vốn chủ sở hữu là 1.985.658.690.724 (đồng) chiếm 37,14% trong tổng số vốn. Tầm nhìn của FPT Từ khi thành lập đến nay, FPT luôn mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới, giàu mạnh bằng nỗ lực lao động sáng tạo trong khoa học kỹ thuật và công nghệ, làm khách hàng hài lòng, góp phần hưng thịnh quốc gia, đem lại cho mỗi thành viên của mình điều kiện phát triển tốt nhất tài năng và một cuộc sống đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần. Có thể nói đây là “kim chỉ nam” cho mọi hành động của Công ty từ trước đến nay. Và để hoàn thành được mục tiêu chiến lược đó, FPT đã xây dựng cho mình một hệ thống giá trị cốt lõi. Đây là các giá trị bền vững làm nên thành công._.ung cấp trong thời gian tới. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu thì việc tìm kiếm, duy trì và mở rộng mối quan hệ với các đối tác cung cấp là một trong những công việc chủ yếu phải làm để tạo thuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất. Xuất phát từ tình hình sản xuất và kinh doanh đã qua và phương hướng trong thời gian tới, Công ty FPT đã đề ra khẩu hiệu: “Mở rộng hợp tác và cùng tiến bộ” khi giao dịch, làm việc với các nhà cung cấp. Hiện nay Công ty FPT đang là nhà phân phối của nhiều hãng sản xuất máy tính nổi tiếng như: : Microsoft, Cisco, Samsung, Lenovo, …Trong quá trình hợp tác, FPT đã nhận được sự tín nhiệm của các nhà cung cấp này, nhiều trong số đó đã công nhận FPT là “Đối tác Vàng” và mối quan hệ với những nhà cung cấp này đã và đang được củng cố. Đối với các nhà cung cấp lâu năm đó ngoài việc nhập khẩu những mặt hàng thiết bị tin học, hai bên sẽ tiến hành hợp tác trong đào tạo cho nhân viên cho mỗi bên nhất là về phía FPT. FPT sẽ tăng cường việc cử các nhân viên của mình sang phía đối tác để học hỏi những biện pháp kỹ thuật, những giải pháp phần mềm để có thể từ đó trang bị cho mình những hiểu biết nhất định để trước mắt là có thể nâng cao hiệu quả trong kinh doanh, sau đó là tạo nền móng về kỹ thuật cho việc tự sản xuất của mình sau này. Mặt khác, đối với các nhà cung cấp quen thuộc, bên cạnh viêc nhập khẩu thiết bị tin học (tức là phần cứng của tin học) FPT sẽ tiến hành đàm phán để nhập khẩu những bí quyết công nghệ, chuyển giao phần mềm,…để nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng chúng. Bên cạnh những nhà cung cấp truyền thống, FPT sẽ tăng cường mở rộng mối quan hệ với các nhà cung cấp khác.Hiện nay, FPT đã có quan hệ với nhiều nhà cung cấp ở thị trường châu Á, tuy nhiên, thị trường này vẫn còn rất nhiều tiềm năng với giá cả thấp hơn vì giá nhân công ở đây không cao. Vì vậy, trong thời gian tới FPT sẽ tiếp tục mở rộng quan hệ với nhều nhà cung cấp ở các nước như: Trung Quốc, Singapo, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ,…Việc này sẽ tạo ra cho FPT sự lựa chọn đa dạng hơn những nhà cung cấp giúp Công ty có lợi thế khi đàm phán mua hàng, chủ động động trong việc tạo nguồn hàng, có được nguồn hàng tốt nhất, có hiệu quả nhất. Phương thức nhập khẩu trong thời gian tới. Như ta đã biết, để nhập khẩu được hàng hoá có thể sử dụng nhiều cách thức, nhiều con đường khác nhau. Sự lựa chọn những cách thức nhập khẩu có thể căn cứ vào những yếu tố như: ưu, nhược điểm của mỗi cách thức, khả năng để thực hiện nhập khẩu theo những cách thức đó của Công ty như thế nào, mục tiêu của doanh nghiệp nhập khẩu trong thời gian tới ra sao…Nhưng dù sử dụng tiêu thức nào thì hiệu quả tổng hợp đem lại cũng phải cao nhất. Trong thời gian qua, việc nhập khẩu hàng hoá của FPT hầu như được thực hiện theo phương thức nhập khẩu trực tiếp, một phần nhỏ Công ty tiến hành nhập khẩu theo theo phương thức kinh doanh tái xuất. Vì vậy, hiệu quả nhập khẩu chưa cao do chưa khai thác được những ưu điểm của các phương thức nhập khẩu khác, cũng chưa hỗ trợ được đầu ra cho sản xuất của bản thân FPT. Xuất phát từ lý do đó, FPT quyết định đa dạng hoá các phương thức nhập khẩu hàng hoá bên cạnh việc nhập khẩu theo phương thức trực tiếp. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả trong nhập khẩu Công ty cũng sẽ nỗ lực tiến hành tìm kiếm những hợp đồng xuất nhập khẩu đối lưu với các đối tác nhằm tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Với kế hoạch này, các chi nhánh tiến hành sản xuất các sản phẩm tin học và việc xuất khẩu không chỉ tiến hành riêng rẽ nữa mà sẽ được kết hợp với việc nhập khẩu; các cấp quản trị sẽ giao dịch với các đối tác, thỏa thuận việc nhập các linh kiện của họ và xuất các sản phẩm của FPT ra thị trường quốc tế. Việc làm này không chỉ nâng cao hiệu quả của việc nhập khẩu hàng hoá mà còn có tác dụng tích cực trong phát triển đầu ra cho sản xuất của Công ty và giúp cho Công ty tạo đặt những nền tảng đầu tiên trong việc xuất khẩu các sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế. Như vậy, trên đây đã khái quát phương hướng và mục tiêu cho nhập khẩu thiết bị tin học của FPT trong những năm tới. Vậy, để đạt được những mục tiêu nêu trên thì FPT đã có hệ thống giải pháp thực hiện cụ thể như thế nào? 3.2. GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU MẶT HÀNG THIẾT BỊ TIN HỌC CỦA CÔNG TY FPT 3.2.1. Nhóm giải pháp hạn chế nhược điểm trong hoạt động nhập khẩu. Để có được một FPT như ngày hôm nay là nhờ những nỗ lực không ngừng của toàn thể Ban lãnh đạo và những thành viên của toàn Công ty FPT. Không một công ty nào mà không tồn tại những điểm yếu, những nhược điểm của mình mà điều quan trọng là có biết sửa chữa và hạn chế những nhược điểm đó hay không. Xuất phát từ ý tưởng đó và qua đánh giá những điểm yếu của mình, Công ty FPT đã đề ra những biện pháp khắc phục nhược điểm như sau: 3.2.1.1. Giải pháp về nhân lực. Nhân sự và bộ máy tổ chức nhân sự luôn luôn là yếu tố quyết định đến sự thành bại ở bất kỳ một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu là một công việc hết sức phức tạp đòi hỏi các cán bộ kinh doanh phải có trình độ cao, nắm bắt và xử lý các loại thông tin một cách nhanh chóng cà có khả năng phản xạ nhạy bén trước các biến động của thị trường. Mặt khác do đặc trưng của hoạt động nhập khẩu luôn phải tiếp xúc với đối tác là người nước ngoài, do đó các cán bộ kinh doanh trong Công ty còn phải là người có trình độ về ngoại ngữ và khả năng giao tiếp tốt… Trong nhập khẩu hàng hoá, mỗi nghiệp vụ đều có yêu cầu nhất định về chuyên môn, do đó phòng Xuất nhập khẩu cần có các cuộc sát hạch, thường xuyên kiểm tra trình độ để tiến tới phân bổ cán bộ vào những công việc chuyên môn phù hợp với khả năng của họ nhằm phát huy được hiệu quả cao nhất và khiến cho họ có động lực hơn trong việc học hỏi, nâng cao trình độ. Mặt khác, hiện nay số lượng cán bộ nhập khẩu còn thiếu, nhất là trong bộ phận giao nhận hàng hoá khiến áp lực trong công việc hết sức căng thẳng. Trong khi đó, nhu cầu của khách hàng ngày càng gia tăng do vậy để đáp ứng được những nhu cầu đó thì nhu cầu về hàng hoá của các chi nhánh cũng tăng lên một khối lượng tương ứng. Do đó, để đảm trách được nhiệm vụ của mình bộ phận xuất nhập khẩu sẽ phải tiến hành bổ sung về nhân lực để hoàn thành tốt những công việc đặt ra. Việc tiến hành tuyển dụng nhân viên mới trước tiên có thể tham khảo ở các nguồn nội bộ, xem xét thuyên chuyển công tác cho phù hợp, có thể hợp tác với các trường,các trung tâm đào tạo hoặc tuyển dụng trên thị trường lao động . Đi đôi với quá trình tuyển dụng là quá trình đào tạo vì để làm tốt được những công việc cụ thể thì những nhân viên mới này cần được làm quen, hướng dẫn của những người đi trước. Vì vậy với những nhân viên này sẽ được tham gia khoá đào tạo về nghiệp vụ hoặc một biện pháp mà Công ty thường xuyên sử dụng là học hỏi trong công việc dưới sự hướng dẫn của những nhân viên có kinh nghiệm. Sau quá trình đó, việc đánh giá năng lực của các nhân viên mới sẽ quyết định việc kí kết hợp đồng lao động giữa người lao động và Công ty. Một khía cạnh nữa là về quyền lợi của nhân viên. Quyền lợi của cán bộ cũng ảnh hưởng tới sự hăng say và lòng nhiệt tình của họ, Công ty không nên đánh giá kết quả kinh doanh của cán bộ thông qua kết quả kinh doanh của phòng vì nhiều khi những người làm tốt công việc của họ được giao nhưng hiệu quả kinh doanh của cả phòng lại không cao do đó họ không được hưởng lương hay các chế độ khen thưởng khác tương xứng với công sức mà họ bỏ ra. Vì vậy, cần phải đánh giá năng lực của các cán bộ trong Công ty thông qua năng lực và khả năng thực hiện các công việc được giao của họ. 3.2.1.2. Đa dạng hoá phương thức nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học. Trong buôn bán quốc tế việc lựa chọn đúng phương thức xuất nhập khẩu là một trong những thành tố tạo nên thành công của doanh nghiệp.Trong đó, mỗi phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu đều có những ưu và nhược điểm riêng mà doanh nghiệp cần nắm được và vận dụng chúng cho phù hợp.Ý thức được điều đó, FPT đã tiến hành đa dạng hoá các phương thức nhập khẩu. Hiện nay, phương thức nhập khẩu chủ yếu của Công ty là phương thức nhập khẩu trực tiếp, bên cạnh đó một số ít là sử dụng phương thức kinh doanh tái xuất. Để khai thác được thế mạnh của các phương thức khác, đặc biệt là thúc đẩy xuất khẩu của Công ty và số lượng hàng hoá xuất khẩu chắc chắn sẽ gia tăng trong những năm sắp tới, FPT sẽ thử nghiệm phương thức xuất nhập khẩu đối lưu. Để thực hiện được mục đích này, trong giai đoạn hiện nay Công ty sẽ gợi ý với những đối tác mà FPT thường xuyên nhập khẩu những linh kiện máy vi tính để thoả thuận về việc xuất khẩu những sản phẩm của FPT. Đồng thời, Công ty sẽ tăng cường sản xuất để tăng sản lượng các mặt hàng tin học, tích cực quảng bá sản phẩm của mình trên cả thị trường quốc tế và trong nước để tạo thuận lợi hơn cho các hợp đồng buôn bán đối lưu. Nếu sử dụng thành công phương thức này sẽ là một trong những điều kiện tạo đầu ra cho lĩnh vực sản xuất của Công ty. 3.2.1.3. Cải thiện mối quan hệ với các đơn vị khác, đặc biệt là các cơ quan chức năng trong hoạt động xuất nhập khẩu Một trong những đặc điểm của việc nhập khẩu hàng hoá khác so với những hình thức kinh doanh khác là doanh nghiệp nhập khẩu phải phối hợp với nhiều bên liên quan một cách thường xuyên, lặp lại trong từng đợt hàng nhập về. Đó là các tổ chức, doanh nghiệp khác như: nhà cung ứng, các đơn vị thực hiện các dịch vụ liên quan đến nhập khẩu (bảo hiểm, vận tải, kho bãi,…) và các cơ quan chức năng. Và muốn thực hiện tốt nhập khẩu hàng hoá thì doanh nghiệp phải có những mối quan hệ tốt với các bên liên quan nêu trên. Đối với các tổ chức, doanh nghiệp khác, hiện nay FPT đã có mối quan hệ làm việc lâu dài và tốt đẹp. Đó là các tổ chức tài chính tiền tệ, các công ty bảo hiểm, vận tải,… Sự hợp tác của các đơn vị này tạo nên sự thuận lợi không nhỏ cho việc nhập khẩu của FPT, do đó, trong thời gian tới Công ty sẽ tiếp tục phát triển mối quan hệ tốt với những đơn vị này. Bên cạnh đó, gắn liền với việc nhập khẩu, Công ty FPT phải làm việc với nhiều cơ quan chức năng như cơ quan thuế, cơ quan hải quan, các bộ,…Hiện nay, mối quan hệ với những cơ quan này là vấn đề khá nhạy cảm không chỉ đối với riêng FPT mà các doanh nghiệp khác cũng gặp phải. Vì vậy, với những cơ quan này, ngoài việc thực hiện đúng các nguyên tắc, các thủ tục làm việc thì Công ty cũng sẽ tiến hành những giải pháp cụ thể hơn nhằm cải thiện mối quan hệ với các đơn vị chức năng, tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong quá trình nhập khẩu. Việc làm thủ tục Hải quan rất phức tạp và mất nhiều thời gian, do đó phòng Xuất nhập khâu sẽ cử ra một vài cán bộ chuyên chịu trách nhiệm lo các thủ tục Hải quan, bên cạnh đó sẽ thường xuyên cử họ đi học để tiếp nhận một cách nhanh chóng các chính sách mới về Hải quan và thủ tục Hải quan. 3.2.1.4. Hoàn thiện quá trình giao nhận và vận chuyển hàng từ cảng Việc giao nhận và vận chuyển hàng từ cảng của Công ty cũng còn nhiều điều không hợp lý. Hiện nay, tất cả những nhiệm vụ nhập hàng dù lớn hay nhỏ cũng đều do phòng Xuất nhập khẩu xử lý, sự việc này đã diễn ra một thực tế là số lượng cán bộ giao nhận đảm bảo không xuể các công việc trong giao nhận hàng hoá, dẫn đến những lô hàng nhập về của các chi nhánh còn xảy ra trường hợp chậm trễ. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, khi hàng hoá về cảng thì cán bộ phòng Xuất nhập khẩu của Tổng công ty làm thủ tục nhận hàng với những lô hàng có khối lượng lớn, còn với những lô hàng nhỏ các chi nhánh có thể cử cán bộ giao nhận của mình ra nhận hàng và thông báo kết quả với phòng Xuất nhập khâu của Tổng Công ty. Như vậy, có thể khắc phục được những hạn chế do khối lượng hàng quá nhiều, mật độ dày đặc và tận dụng được các lợi thế của chi nhánh. 3.2.1.5 Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác về thị trường Như đã phản ánh trong thực trạng của hoạt động nhập khẩu hiện nay, đó là vấn đề nghiên cứu thị trường mà cụ thể la công tác dự báo những biến động của thị trường. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng không kiểm soát được hiệu quả của nhập khẩu là không dự đoán được những động thái của sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái, trong tốc độ lạm phát của nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Do đó, trong thời gian tới, Công ty sẽ cải tiến công tác nghiên cứu thị trường bằng cách đầu tư kinh phí, tuyển dụng những nhân viên có kinh nghiệm trong nghiên cứu môi trường kinh doanh. Đồng thời đưa ra những yêu cầu cụ thể phải thực hiện, đó là: Phải dự đoán trước các biến động của môi trường chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật và các tác động của nó đối với hoạt động kinh doanh của Công ty. Phải xác định được khả năng hiện tại và các động thái trong tương lai của các đối thủ cạnh tranh, các tác động của các động thái này đối với hoạt động kinh doanh của Công ty. Việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh bao gồm nghiên cứu các điểm mạnh điểm yếu, các lợi thế và hạn chế của các đối thủ cạnh tranh, từ đó có các biện pháp thích hợp. Phải dự đoán được các biến động của tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và tác động của nó đến giá cả nguyên liệu. Phải nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm để giúp Công ty định hướng nhập khẩu hàng cho phù hợp. Nhóm biện pháp phát huy thế mạnh trong hoạt động nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp, để tăng cường sức mạnh của mình thì cần phải sử dụng những biện pháp tổng thể, đó là sự kết hợp giữa việc hạn chế những điểm yếu và phát huy thế mạnh của mình. Nếu như những biện pháp khắc phục nhược điểm nhằm hạn chế rủi ro thì khai thác và phát huy những thế mạnh của mình sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt được những cơ hội và biến những cơ hội đó thành những thành công của mình . Đối với FPT nói riêng và cụ thể là trong lĩnh vực nhập khẩu, để phát huy những thế mạnh của mình Công ty đã có những biện pháp cụ thể như sau: 3.2.2.1. Phát triển các chương trình khuyến khích nhân tài. FPT luôn tự hào về đội ngũ nhân viên trẻ tuổi, tài năng và nhiệt tình trong công việc. Họ đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những thành công của FPT, tạo nên một FPT như ngày hôm nay. Để phát triển nguồn lực quan trọng này, ngoài những chương trình khuyến khích nhân tài bộ phận phòng Xuất nhập khẩu còn có những biện pháp riêng phù hợp với những yêu cầu công việc. Đó là việc xây dựng chương trình đánh giá hiệu quả làm việc của từng cá nhân trong từng công việc. Ví dụ: Trong việc hoàn thiện bộ hồ sơ nhập khẩu thì chỉ tiêu đánh giá là: Tỷ lệ hồ sơ được hoàn thiện đúng hạn; Trong việc theo dõi vận tải thì chỉ tiêu đánh giá là: Tỷ lệ giao hàng đúng địa điểm và đúng phương thức (air/sea) và tỷ lệ kiểm soát chi phí hợp lý; Trong thanh toán là :Tính chính xác, …Sau đó, cuối mỗi quý va cuối năm sẽ có sự đánh giá công việc trong phòng của từng người và có những mức thưởng đối với cá nhân làm việc tốt. Mặt khác, vì hoạt động nhập khẩu có liên quan đến nhiều nghiệp vụ khác như: bảo hiểm, vận chuyển, đóng gói, … nên Phòng Xuất nhập khẩu sẽ gửi nhân viên của mình đi tham gia học hỏi và có những đợt tập huấn về nghiệp vụ trong các khoá học. Mặt khác, việc thu hút và khuyến khích nhân tài không chỉ dừng lại ở việc cổ vũ tinh thần mà trong thời gian qua và trong những năm tới đây, FPT sử dụng các biện pháp khuyến khích khác như : tăng lương, quan tâm đến đời sống của công nhân viên, chia cổ phần, tạo ra môi trường làm việc tốt,… vì một chế độ đãi ngộ đúng đắn sẽ khuyến khích người lao động tận tuỵ với công việc, thu hút được lao động có trình độ cao, khai thác được tiềm năng tích cực của người lao động, do đó tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. 3.2.2.2. Tích cực phát huy việc áp dụng quy trình làm việc khoa học cho các bộ phận nói chung và bộ phận nhập khẩu nói riêng. Công ty FPT là một trong số ít những công ty áp dụng mô hình tổ chức theo các nước tiên tiến trên thế giới, thực hiện quy trình hoá từng công việc cụ thể. Và thực tế những biện pháp đó đã có những ảnh hưởng tích cực đến kết quả sản xuất kinh doanh của toàn công ty. Trong thời gian tới, ngoài việc tiếp tục áp dụng các quy trình hiện có, Công ty còn tiến hành cải tiến những quy trình này, tạo ra tính linh hoạt cho phù hợp với từng công việc trong từng thời kỳ. Đối với hoạt động nhập khẩu hàng hoá, quy trình làm việc của phòng Xuất nhập khẩu sẽ được cải tiến theo việc phân chia cụ thể hơn những công việc phải làm trong từng thời gian. Các buớc trong quy trình nhập khẩu vẫn được tiến hành như quy trình trước đó nhưng trong việc hoàn thiện hồ sau khi tập hợp được các công việc trong ngày thì trưởng nhóm sẽ phân chia cho từng cá nhân hoàn thành các chứng từ cho từng lô hàng cụ thể để đạt được sự thống nhất và công việc được chia đều cho các nhân viên, tránh được tình trạng một người phải hoàn thành rất nhiều việc. 3.2.2.3. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng tương ứng với quy mô của Công ty trong thời gian tới. Trải qua chặng đường phát triển từ năm 1998 đến nay FPT đã không ngừng phát triển, kể từ khi mới chỉ có một trụ sở đến nay Công ty đã mở rộng thêm trụ sở ở thành phố Hồ Chí Minh, ở Đà Nẵng với 12 công ty thành viên. Kéo theo sự phát triển về quy mô đó, hệ thống cơ sở hạ tầng của Công ty FPT cũng không ngừng được mở rộng. Và trong tương lai, sự phát triển đó không dừng lại mà còn tăng lên với những định hướng kinh doanh ngày càng đa dạng đáp ứng nhu cầu phát triển của Công ty trong trong điều kiện kinh tế mới. Cùng với sự phát triển đó là sự gia tăng về số lượng công nhân viên, yêu cầu hỗ trợ từ phía trang thiết bị ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, trong những năm sắp tới FPT sẽ dành một phần lớn vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Hiện tại, trong năm 2008 FPT tiếp tục hoàn thành việc xây dựng khu công nghệ cao Hoà Lạc để tạo điều kiện tốt cho việc nghiên cứu và làm việc cho nhân viên. Riêng đối với vấn đề nhập khẩu Công ty cũng có kế hoạch mở rộng và nâng cao cơ sở hạ tầng. Với việc giao nhận hàng hoá, trong thời gian tới FPT sẽ chủ động xây dựng thêm các kho hàng, thành lập những đội vận tải chuyên trách đảm nhiệm việc vận chuyển hàng hoá sao cho hàng hoá được thông suốt, kịp với tiến độ và đảm bảo chất lượng hàng nhập. Với việc hoàn thiện hồ sơ nhập khẩu, Công ty cũng sẽ bố trí thêm hệ thống máy vi tính, máy in, fax,… phục vụ cho việc hoàn thành hồ sơ ngày càng nhanh chóng và chính xác hơn. Không ngừng nâng cao uy tín của Công ty trước các đối tác, bạn hàng, các cơ quan chức năng. Từ thực tế kinh doanh có thể thấy tên tuổi của doanh nghiệp có một tiếng nói vô cùng quan trọng. Nó không chỉ giúp cho doanh nghiệp tăng doanh số bán ra tức là tạo ra uy tín trước khách hàng mà nó còn giúp cho doanh nghiệp thực hiện cung ứng đầu vào hiệu quả hơn. Trong kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, uy tín của FPT đã góp phần không nhỏ trong việc giao dịch, đàm phán, thực hiện hợp đồng với các đối tác và việc giải quyết những phát sinh một cách nhanh chóng. Vì vậy, FPT sẽ không ngừng phát triển thương hiệu và uy tín của mình trước đối tác, bạn hàng và khách hàng. Trong việc nhập khẩu hàng hóa, nhất là với mặt hàng tin học việc tạo một hình ảnh tốt đẹp trước các đối tác cung ứng hàng hoá,các bạn hàng và các cơ quan chức năng sẽ được Công ty chú trọng hơn nữa. Với các đối tác cung ứng hàng hoá, vấn đề thanh toán và sự hiểu biết về mặt hàng kinh doanh của Công ty là vấn đề cơ bản. Trong thanh toán, Công ty sẽ cố gắng giảm đến mức thấp nhất những chậm trễ do các sự cố gây ra, đồng thời vạch ra một quy trình khoa học để phối hợp nhịp nhàng giữa bộ phận nhập khẩu hàng hoá và bộ phận thanh toán trong phòng tài chính kế toán nhằm sắp đặt thứ tự ưu tiên thanh toán, lên kế hoạch thanh toán cho nhà cung ứng đúng thời hạn quy định trong hợp đồng. Một vấn đề rất quan trọng trong việc nhập khẩu và phân phối hàng hoá khi FPT đóng vai trò là nhà phân phối của các hãng là sự hiểu biết về mặt hàng kinh doanh, đặc biệt đối với mặt hàng tin học- mộtt mặt hàng đòi hỏi người kinh doanh phải thực sự hiểu về nó. Vì vậy, để củng cố sự tín nhiệm của các nhà cung ứng, Công ty sẽ thúc đẩy các biện pháp Marketing nhằm nâng cao doanh số bán hàng, tuyển dụng và đào tạo thêm nhiều cán bộ có trình độ cao về lĩnh vực tin học. Với mối quan hệ với bạn hàng và những nhà cung cấp dịch vụ khác như: dịch vụ vận tải, dịch vụ cho thuê kho bãi, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tài chính tiền tệ,… cũng được Công ty tiếp tục phát triển. Phát triển quá trình bán và sau khi bán những sản phẩm nhập khẩu. Để tăng hiệu quả cho việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học thì những giải pháp để thúc đẩy bán hàng là rất cần thiết. Hiện nay, mạng lưới bán hàng của Công ty đã phục vụ rất tốt việc tiêu thụ hàng hoá, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường. Nằm trong chiến lược mở rộng quy mô kinh doanh, việc phát triển mạng lưới phân phối sản phẩm nhập khẩu cũng đang được chú trọng. Trong năm tới, Công ty sẽ xây dựng thêm các cửa hàng phân phối sản phẩm nhập khẩu của Công ty. Đồng thời, ngoài lực lượng bán hàng của Công ty thì FPT cũng chú trọng phát triển các hình thức trung gian thông qua các hợp đồng đại lý nhằm khai thác các thế mạnh của lực lượng này và giảm các chi phí do phải xây dựng mới các lực lượng bán hàng cơ hữu của Công ty. Đối với mỗi địa điểm phân phối các sản phẩm nhập khẩu của công ty, cần phải đáp ứng các yêu cầu: Khối lượng, mặt hàng và chất lượng hàng hoá dịch vụ phải đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng (thị trường) Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ trong quá trình bán hàng (trước trong và cả sau khi bán). Đặc biệt với hoạt động dịch vụ sau bán là hết sức quan trọng để tái tạo nhu cầu của khách hàng đối với những sản phẩm của Công ty. Với các mặt hàng thiết bị tin học vì đây là những mặt hàng công nghệ cao nên việc lắp đặt và bảo hành, sửa chữa đều đòi hỏi người có chuyên môn, vì vậy, ở mỗi cửa hàng bán lẻ của FPT sẽ tổ chức một đội chuyên đảm nhận những dịch vụ sau bán để đáp ứng tốt hơn những nhu cầu của khách hàng. Sử dụng các phương pháp, quy trình bán hàng hoàn thiện, đảm bảo cho năng suất lao động của người bán hàng, chất lượng dịch vụ, phục vụ khách hàng không ngừng nâng cao. Phải cải tiến thiết kế cửa hàng, quầy hàng và các loại hình cơ sở kinh doanh, đổi mới các thiết bị dụng cụ để bảo quản, bày và bán hàng đảm bảo tốt nhất cho việc phục vụ khách hàng. Làm tốt công tác quảng cáo, kết hợp với bán hàng, làm cho quảng cáo phát huy được tác dụng thúc đẩy bán hàng, là công cụ cạnh tranh là công cụ của marketing thương mại. Xây dựng một thái độ bán hàng văn minh, lịch sự. Tất cả vì khách hàng. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI CÔNG TY. Trên đây là những phương hướng và giải pháp của Công ty trong thời gian tới. Có thể nói những giải pháp này khá toàn diện và giải quyết được những vấn đề đặt ra hiện nay đối với FPT. Tuy vậy, xuất phát từ thực tế và những đánh giá cá nhân, em xin đưa ra một số kiến nghị với Công ty trong chuyên đề này như sau: Một là: Công ty nên lưu ý hoàn thiện chiến lược về nhân sự để đảm bảo tính linh hoạt trước sự biến động của môi trường. Như ta đã biết, nguồn lực con người là một trong những nguồn lực mà doanh nghiệp huy động vào hoạt động sản xuất kinh doanh để hoàn thành các mục tiêu của mình, hơn nữa nó là nguồn lực quan trọng nhất của doanh nghiệp. Những quyết sách về nhân sự là nguyên nhân thành công hay thất bại của mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp nói chung và FPT nói riêng cần có chiến lược, kế hoạch cụ thể về nhân sự, có chính sách hợp lý và đồng bộ để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động chung của toàn công ty. Về chế độ làm việc: Hiện nay, FPT là một trong những công ty tạo ra một môi trường làm việc tốt nhất tại Việt Nam. Những vấn đề cơ bản như thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, các điều kiện làm việc, khối lượng công việc đã được bố trí khá phù hợp. Tuy nhiên, khi mà trong tương lai quy mô Công ty sẽ ngày càng mở rộng sẽ tạo ra một sự biến động trong công việc.Với đặc thù công việc nhập khẩu hàng hoá của FPT phụ thuộc vào nhu cầu của các chi nhánh nên quy mô Công ty tăng lên đồng nghĩa với nhu cầu nhập khẩu tăng lên nên khối lượng công việc dành cho bộ phận nhập khẩu cũng tăng lên tương ứng. Do đó, FPT nên có một kế hoạch cụ thể trong việc bố trí, bổ sung nhân sự cũng như đào tạo nhân sự. Về chế độ đãi ngộ lao động: Đãi ngộ lao động là quyền lợi của người lao động được hưởng do quá trình cống hiến của họ cho công ty. Do đó, Công ty cần có một chế độ đãi ngộ đúng đắn. Hiện nay, về lương thưởng cho nhân viên của FPT đã đảm bảo độ hài lòng của đa số nhân viên trong Công ty. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, khi mà tốc độ lạm phát đang rất cao và mức độ ổn định kinh tế đang giảm sút thì một việc tăng lương cho nhân viên là rất cần thiết để đảm bảo cuộc sống cho họ và gia đình cũng như tạo ra sự yên tâm trong công tác. Mặt khác, việc đảm bảo công bằng trong việc đưa ra mức lương cho mỗi công việc, cấp bậc cũng cần có hướng giải quyết cụ thể hơn. Bên cạnh đó, vấn đề thưởng trong Công ty hiện nay cũng có một số lo ngại bởi sự không rõ ràng, minh bạch. Do vậy, Công ty FPT cần đưa ra những mức thưởng rõ ràng hơn, minh bạch và đảm bảo công bằng cũng như tính kích thích hơn đối với người lao động . Hai là: Cần tăng cường sự hợp tác giữa các bộ phận và các thành viên trong Công ty. Trong Công ty, một trong những yếu tố quan trọng tạo nên điều kiện lao động là việc hợp tác giữa các nhân viên trong cùng bộ phận, giữa các bộ phận khác nhau mà điều kiện làm việc của người lao động ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của từng người lao động. Đặc biệt, trong nhập khẩu hàng hoá liên quan đến nhiều nghiệp vụ kinh doanh khác nhau, từ những cán bộ nghiên cứu thị trường đến những cán bộ quản trị, bộ phận làm hồ sơ, bộ phận thanh toán, bộ phận giao nhận,…nên trong chiến lược quản trị nhân sự của Công ty cũng cần quan tâm đến điều này. Để thực hiện các công việc một cách nhịp nhàng giữa các nhân viên, các bộ phận trước tiên các nhân viên bộ phận này cần thống nhất kế hoạch làm việc, đưa ra kế hoạch làm việc của bộ phận mình cho các bộ phận có liên quan nắm được. Đồng thời, trong quá trình làm việc cần có có sự liên lạc thường xuyên với nhau để thông báo cho nhau những công việc đã hoàn thành, những công việc chưa hoàn thành, những sự cố và nguyên nhân để cùng nhau giải quyết. Ba là: Cần tăng cường sự hợp tác giữa các bộ phận và các thành viên trong Công ty. Có thể thấy rõ vai trò quan trọng của việc nghiên cứu thị trường trong kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Nghiên cứu thị trường chính là khâu bắt đầu, là định hướng cho việc nhập khẩu hàng hoá. Đối với việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học do có giá trị lớn, đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao nên việc tìm hiểu nguồn hàng, các dòng sản phẩm, đối tác cung cấp,… nên khâu nghiên cứu thị trường cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc. Bốn là: Liên tục cập nhật và có phương án dự đoán xu hướng thay đổi của các chính sách nhập khẩu, chính sách về thuế. Một trong những nội dung của nghiên cứu thị trường là việc tìm hiểu các chính sách vĩ mô tác động đến kinh doanh nhất là trong giai đoạn Việt Nam đang có nhiều sự thay đổi để phù hợp với môi trường toàn cầu. Trong thực tế hệ thống luật pháp của Việt Nam còn chưa đạt độ thống nhất và minh bạch, đôi khi còn đi ngược lại với thực tế gây không ít trở ngại cho doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh. Đối với FPT trong năm vừa qua những quan niệm áp mã hàng hóa cho cùng một loại hàng hoá ở các cửa khẩu khác nhau là khác nhau, việc thay đổi chính sách về danh mục thuế suất, thay đổi mã hàng hoá của các cơ quan chức năng mà không có hướng dẫn thực hiện đã gây không ít khó khăn cho Công ty.Vì vậy, việc nghiên cứu và dự báo những thay đổi trong chính sách vĩ mô sẽ giúp cho việc thực hiện nhập khẩu hàng hoá chủ động hơn và tránh được rủi ro trong kinh doanh. Năm là: Hoàn thiện khả năng thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm Do ít có hợp đồng Công ty chịu trách nhiệm thuê tàu và mua bảo hiểm, vì vậy kinh nghiệm trong hai lĩnh vực này của Công ty còn rất ít. Do vậy, trong tương lai Công ty phải mạnh dạn ký các hợp đồng nhập khẩu mà trong đó trách nhiệm thuê tàu và mua bảo hiểm thuộc về Công ty, tạo điều kiện tiếp xúc, cọ xát cho cán bộ nghiệp vụ. Bên cạnh đó, Công ty phải thường xuyên cử cán bộ nghiệp vụ đi học hỏi, tìm kiếm các kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm trong hai lĩnh vực này, đặc biệt là việc mua bảo hiểm và ngoài nghĩa vụ mua bảo hiểm trong nước Công ty nên mua cả bảo hiểm ở nước ngoài để có thể nâng cao hơn nữa khả năng cọ xát của mình. KẾT LUẬN Như vậy, qua nội dung của Chuyên đề đã khái quát những điểm cơ bản nhất của hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của Công ty Cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT cả về thực trạng cũng như giải pháp hoàn thiện hoạt động này trong thờ gian tới. Bên cạnh đó, Chuyên đề cũng chỉ ra những cơ sở lý luận cũng như vai trò to lớn của hoạt động nhập khẩu hàng hoá. Trong bối cảnh ngày nay, nhập khẩu hàng hoá là một trong những hoạt động quan trọng, không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Nó cũng là một cũng là một xu thế phát triển tất yếu của con người. Ngày nay, trước những biến động rất phức tạp của thị trường thị nhập khẩu hàng hoá nói chung và thiết bị tin học nói riêng vừa mang lại những thời cơ nhưng cũng tồn tại tại những rủi ro mà nhà nhập khẩu phải vượt qua. Hy vọng cùng với những tiềm năng vốn có hiện nay, toàn Công ty FPT từ Ban lãnh đạo đến các nhân viên sẽ nỗ lực hết mình vì sự nghiệp chung của bản thân Công ty và của toàn xã hội; Đặc biệt, hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần tạo ra một diện mạo mới cho nhập khẩu và trình độ tin học của Việt Nam. Tài liệu tham khảo: Các loại sách, giáo trình: Cẩm nang nghiệp vụ xuất nhập khẩu (Tác giả: GS.TS Võ Thanh Thu- NXB Thống kê năm 2004). Danh mục hàng xuất nhập khẩu (Tổng cục thuế năm 2005). Incoterms 2000 và hỏi đáp về Incoterms 2000 (Tác giả: GS.TS Võ Thanh Thu- NXB Thống kê 2005). Kỹ thuật ngoại thương (Đoàn Thị Hồng Vân – NXB Thống kê năm 2000). Thanh toán và tín dụng quốc tế trong hoạt động ngoại thương (Tác giả: Nguyễn Phương Liên). Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương (Tác giả: PGS.TS Nguyễn Văn Tiến). Marketing xuất nhập khẩu – NXB Tài chính. Giáo trình kỹ thuật ngoại thương –NXB LĐXH năm 2006. Các website : ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20671.doc
Tài liệu liên quan