Tài liệu Nghiên cứu hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một số loại cây rau màu tại huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương: ... Ebook Nghiên cứu hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một số loại cây rau màu tại huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương
139 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4702 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một số loại cây rau màu tại huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hơn 20 năm qua, từ khi Đảng và Chính phủ thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, nông nghiệp nước ta đã phát triển nhanh, toàn diện, ổn định trên nhiều lĩnh vực. Nền nông nghiệp đã chuyển từ nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá. Nhiều nông sản như gạo, cà phê, cao su, hạt điều, rau quả và các sản phẩm chăn nuôi không những đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu. Tỷ trọng hàng hoá và tỷ trọng xuất khẩu nông sản nước ta tăng nhanh. Nông nghiệp và thuỷ sản đã trở thành một trong những nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Sản xuất và kinh doanh hàng nông sản của nước ta còn thấp vẫn mang nặng tính tự phát, sức cạnh tranh của nông nghiệp thấp, giá thành cao, chất lượng chưa phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của thị trường, sự liên kết giữa sản xuất - chế biến – tiêu thụ chưa phát triển mạnh. Nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá hiện đại tạo điều kiện cho người sản xuất yên tâm đầu tư, tăng chất lượng và năng suất sản phẩm, hạ giá thành tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 80/2002/QĐTTG, ngày 24 tháng 6 năm 2002 về “Chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng”. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng nhà nước Việt nam và Bộ Tài Chính đã ban hành những Thông tư hướng dẫn thi hành quyết định này. Thực hiện chính sách trên nhiều doanh nghiệp đã ký kết hợp đồng sản xuất nông, lâm, thuỷ hải sản với nông dân và đã thành công.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện còn có những hạn chế, tồn tại: nhiều địa phương chưa tập trung chỉ đạo quyết liệt việc triển khai thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ; doanh nghiệp, hộ nông dân chưa thực sự gắn bó và thực hiện đúng cam kết đã ký; tỷ lệ nông sản hàng hóa được tiêu thụ thông qua hợp đồng còn rất thấp; doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư tới vùng nguyên liệu, chưa điều chỉnh kịp thời hợp đồng bảo đảm hài hòa lợi ích của nông dân khi có biến động về giá cả; trong một số trường hợp, nông dân không bán hoặc giao nông sản cho doanh nghiệp theo hợp đồng đã ký; xử lý vi phạm hợp đồng không kịp thời và chưa triệt để; tình trạng tranh mua, tranh bán vẫn xảy ra khi đã có hợp đồng. Các bên tham gia hợp đồng đang thiếu sự hỗ trợ của các ngành liên quan như Viện nghiên cứu, Trung tâm khuyến nông, Ngân hàng, các ngành tài chính và thương mại khác...Do vậy hiệu quả kinh tế của hình thức hợp đồng còn nhiều hạn chế vì thế chưa đủ điều kiện tạo ra động lực thúc đẩy các doanh nghiệp và nông dân hăng hái tham gia ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản phẩm.
Nguyên nhân chủ yếu là do: mối quan hệ hợp tác giữa các nhà chưa thực sự gắn bó và thực hiện đúng cam kết, nhất là hộ nông dân với các doanh nghiệp chế biến; thiếu động lực, chưa bảo đảm lợi ích trong quan hệ liên kết giữa các nhà; sự liên kết thiếu bền vững; thiếu một cơ chế, chế tài để gắn quyền, nghĩa vụ giữa các bên tham gia; vai trò của “Nhà nước” nói chung, doanh nghiệp nhà nước (DNNN), ngân hàng, các tổ chức tín dụng nói riêng và chính quyền địa phương các cấp chưa phát huy hết trách nhiệm, chưa tham gia đúng mức trong hỗ trợ, giúp đỡ và quản lý trong quá trình liên kết, nhất là không nắm được và không có biện pháp xử lý kịp thời, thích hợp để tạo sự liên kết bền vững, hiệu quả; bên cạnh đó, một số nơi đã thực hiện liên kết còn mang tính hình thức, đối phó; đồng thời chưa có một cơ quan đủ thẩm quyền để xử lý những vi phạm hợp đồng giữa các bên đã ký kết,… Đây là những nguyên nhân chủ yếu làm phá vỡ hợp đồng đã ký kết giữa các bên, đặc biệt là giữa nông dân sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến; vừa làm cho sản xuất đình đốn, nông dân không bán được nông sản (được mùa, nhưng mất giá), vừa làm cho các doanh nghiệp thiếu nguyên liệu chế biến trong khi đã ký hợp đồng giao sản phẩm cho các đối tác, gây thiệt hại không nhỏ cho cả nhà nông, nhà doanh nghiệp và nhà nước.
Với những tồn tại nói trên, đã làm cho quan hệ liên kết trong sản xuất nông nghiệp không phát triển mạnh mẽ, làm mất đi động lực của quá trình liên kết, nhất là liên kết giữa người người sản xuất và doanh nghiệp chế biến theo cơ chế thị trường; hay nói khác đi, mối quan hệ liên minh công - nông - trí trong phát triển nông nghiệp hàng hoá không bền chặt.
Để khắc phục tình trạng này, ngày 25/8/2008 Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Chỉ thị số 25/2008/CT-TTg về việc Tăng cường chỉ đạo tiêu thụ nông sản qua hợp đồng.
Thực hiện tinh thần đó, tỉnh Hải Dương đã có chỉ đạo tích cực, xây dựng nhiều chương trình, đề án thực hiện, khuyến khích và tăng cường các hoạt động liên kết, nhằm tháo gỡ khó khăn cho người nông dân, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Ninh Giang là huyện thuần nông nằm trên địa bàn huyện, là một trong số huyện có truyền thống và điều kiện phát triển cây hàng hoá, đặc biệt là cây rau màu. Trong những năm qua, kinh tế của huyện có nhiều khởi sắc, đời sống người nông dân, trong đó có người trồng rau có nhiều cải thiện, hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản cũng được chú ý đẩy mạnh. Tuy vậy, bên cạnh đó vẫn còn có một số bất cập chưa được giải quyết, dẫn đến người nông dân trồng rau không gắn bó với sản xuất, diện tích gieo trồng hàng năm bị thu hẹp...
Xuất phát từ tình hình thực tế đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một số loại cây rau màu tại huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng hoạt động liên kết giữa các chủ thể tham gia liên kết trong sản xuất và tiêu thụ đối với một số cây rau màu, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp tác động, giúp cho hoạt động liên kết có hiệu quả hơn.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, trong đó có cây rau màu.
- Đánh giá thực trạng hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một số loại rau màu tại huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
- Đề xuất định hướng, giải pháp nhằm tác động đến hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ rau màu tại huyện trong thời gian tới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một số loại rau màu: ớt, cà chua và dưa bao tử xuất khẩu.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Nội dung: Nghiên cứu hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên 3 loại rau chính là cà chua, ớt và dưa bao tử xuất khẩu tại huyện, với 4 nhóm chủ thể liên kết chính là người sản xuất (hộ sản xuất và HTX); nhà doanh nghiệp (các doanh nghiệp chế biến nông sản); nhà khoa học (cán bộ khuyến nông); nhà nước (các tổ chức chính quyền xã, huyện).
+ Không gian: Huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương
+ Thời gian: Tổng quan tài liệu được sử dụng số liệu của những năm trước, và khảo sát thực trạng hoạt động liên kết tại huyện từ năm 2006 đến 2008.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT, TIÊU THỤ RAU MÀU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm về liên kết
- Liên kết: Khái niệm liên kết xuất phát từ tiếng Anh “integration”mà trong hệ thống thuật ngữ kinh tế có nghĩa là sự hợp nhất, sự phối hợp hay sáp nhập của nhiều bộ phận thành một chỉnh thể. Trước đây khái niệm này được biết đến với tên gọi là nhất thể hoá và gần đây mới gọi là liên kết.
- Liên kết kinh tế: Theo từ điển Thuật ngữ kinh tế học của Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa thì: liên kết kinh tế là hình thức hợp tác phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước. Mục tiêu là tạo ra mối liên kết kinh tế ổn định thông qua các hoạt động kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt các tiềm năng của các đơn vị tham gia liên kết để tạo ra thị trường tiêu thụ chung, bảo vệ lợi ích cho nhau.
Tác giả Trần Văn Hiếu (Trường Đại học Cần Thơ) cho rằng liên kết kinh tế là quá trình xâm nhập, phối hợp với nhau trong sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế dưới hình thức tự nguyện nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh theo hướng có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật, thông qua hợp đồng kinh tế để khai thác tốt các tiềm năng của các chủ thể tham gia liên kết. Liên kết kinh tế có thể tiến hành theo chiều dọc hoặc chiều ngang, trong nội bộ ngành hoặc giữa các ngành, trong một quốc gia hay nhiều quốc gia, trên phạm vị khu vực và quốc tế.
- Liên kết dọc: Là liên kết được thực hiện theo trật tự các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh (Theo dòng vận động của sản phẩm). Kiểu liên kết theo chiều dọc là toàn diện nhất bao gồm các giai đoạn từ sản xuất, chế biến nguyên liệu đến phân phối thành phẩm. Trong mối liên kết này thông thường mỗi tác nhân tham gia vừa có vai trò là khách hàng của tác nhân trước đó đồng thời bán sản phẩm cho tác nhân tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh. Kết quả của liên kết dọc là hình thành nên chuỗi giá trị của một ngành hàng và có thể làm giảm đáng kể chi phí vận chuyển, chi phí cho khâu trung gian.
- Liên kết ngang: Là hình thức liên kết mà trong đó mỗi tổ chức hay cá nhân tham gia là một đơn vị hoạt động độc lập nhưng có quan hệ với nhau thông qua một bộ máy kiểm soát chung. Trong liên kết này mỗi thành viên tham gia có sản phẩm hoặc dịch vụ cạnh tranh nhau nhưng họ liên kết lại để nâng cao khả năng cạnh tranh cho từng thành viên nhờ phát huy tính lợi ích kinh tế theo quy mô của tổ chức liên kết. Kết quả của liên kết theo chiều ngang hình thành nên những tổ chức liên kết như Hợp tác xã, liên minh, hiệp hội...và có thể dẫn đến độc quyền trong một thị trường nhất định.
Như vậy liên kết kinh tế có thể diễn ra trong mọi ngành sản xuất kinh doanh, thu hút sự tham gia của tất cả các chủ thể kinh tế có nhu cầu của mọi thành phần kinh tế và không bị giới hạn bởi phạm vi địa lý.
- Hiệp hội: là một loại hình liên kết, hợp tác mang tính cộng đồng hỗ trợ phát triển và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các cơ sở, đồng thời là cầu nối giữa các cơ quan chính quyền với cơ sở. Hiệp hội với những lợi thế trong tổ chức liên kết, hợp tác và sự kết nối các hoạt động sẽ giảm được chi phí, tiết kiệm nguồn lực, tạo năng lực nội sinh mới trên nhiều phương diện: về thời gian khoảng cách, chi phí, tốc độ và tính ổn định cho các giao dịch trên thị trường ...Qua đó quy mô và không gian kinh tế của các doanh nghiệp được mở rộng và có nhiều cơ hội được tiếp cận với các nguồn lực và thị trường. Trên thế giới tiếng nói của hiệp hội có sức mạnh và quyền lực rất lớn. Sự phát triển của các hiệp hội là một tất yếu của nền kinh tế thị trường hiện đại trong thể chế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
Thành viên của các hiệp hội có thể là các doanh nghiệp, một số tổ chức kinh tế - kỹ thuật khác cùng chung lợi ích hợp tác bảo vệ quyền lợi chung và phát triển như: HTX, trang trại, Cơ sở nghiên cứu và dịch vụ KHCN, ngân hàng, các tổ chức tín dụng....Ngoài ra Hiệp hội là một tổ chức mà sự tham gia của các thành viên không mang tính áp đặt, bắt buộc mà hoàn toàn mang tính tự nguyện.
Thông qua các hoạt động của mình, Hiệp hội thiết lập mối quan hệ với các hiệp hội khu vực và thế giới tạo ra một khuôn khổ hợp tác có hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp trên các diễn đàn kinh tế quốc tế, đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp trong cùng một ngành hàng, chống áp đặt các điều kiện tiêu chuẩn quá cao của các nước phát triển về môi trường và trách nhiệm xã hội vào các quan hệ thương mại, tham gia ý kiến vào việc xây dựng một lộ trình hội nhập phù hợp với sức vươn lên của các doanh nghiệp và nền kinh tế.
Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ giữa các hộ, cơ sở và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là sự đan xen giữa hợp tác và cạnh tranh. Các đơn vị này một mặt liên kết với nhau để cùng phát triển, nhưng bên cạnh đó cũng cạnh tranh lẫn nhau nhằm tạo ra những ưu thế độc chiếm thị trường và thu nhiều lợi nhuận.
Để điều chỉnh các mối quan hệ nhằm bảo vệ lợi ích giữa các tác nhân trước các đối tác khác, một số tác nhân đã liên kết lại với nhau hình thành các hiệp hội.
2.1.2. Một số mô hình liên kết sản xuất
+ Mô hình tập trung (The centralized model)
Mô hình tập trung là mô hình các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ trực tiếp ký hợp đồng với các trang trại (1). Hợp đồng này chỉ có hai bên tham gia trực tiếp là doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ và các trang trại. Các doanh nghiệp đặt hàng cho các trang trại sản xuất nông sản để doanh nghiệp chế biến, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm. Trong những hợp đồng kiểu này, lượng sản phẩm doanh nghiệp đặt hàng các trang trại được phân bổ ngay từ đầu mùa vụ và chất lượng được giám sát một cách chặt chẽ.
Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản cung cấp các loại vật tư đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật, giám sát việc sản xuất của nông dân và mua lại toàn bộ sản phẩm. Nông dân cung cấp đất đai, công lao động, sản xuất theo đúng quy trình do doanh nghiệp đưa ra và bán lại toàn bộ sản phẩm cho doanh nghiệp. Trong loại hợp đồng này, người nông dân ít có quyền quyết định vấn đề sản xuất mặc dù họ là vẫn là người trực tiếp sản xuất. Người ký kết hợp đồng với nông dân sẽ quy định cụ thể về các yếu tố đầu vào cần sử dụng và phương thức canh tác chăn nuôi, kể cả người mua chịu trách nhiệm công tác hướng dẫn kỹ thuật canh tác chăn nuôi và thường xuyên kiểm tra thực tế trên đồng ruộng. Đây chính là hình thức “sản xuất gia công” hay “Sản xuất theo đơn đặt hàng” của doanh nghiệp.
Mô hình này thường chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp có nhà máy chế biến đủ khả năng mua hết sản phẩm của các trang trại trong vùng và các trang trại có diện tích đất lớn hoặc chăn nuôi quy mô lớn thì khi đó họ cần sản xuất theo hợp đồng để đảm bảo nông sản tiêu thụ hết. Ngoài ra, mô hình này còn áp dụng cho trường hợp có “tính chuyên biệt (đặc thù) về tài sản (asset specificity)” như con người, vật chất (physical), địa điểm... [13]
Mô hình tập trung đảm bảo nông dân tiêu thụ được nông sản, doanh nghiệp có nguyên liệu phục vụ cho chế biến. Ngoài ra mô hình này hình thành sự liên kết giữa doanh nghiệp và các trang trại tạo ra vùng sản xuất tập trung với chất lượng cao, an toàn theo quy trình sản xuất nông nghiệp an toàn, đạt tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vệ sinh thực phẩm, nhằm góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp và tạo sự phát triển bền vững cho các trang trại.
+ Mô hình trang trại hạt nhân (The Nucleus Estate Model)
Mô hình trang trại hạt nhân tương tự như mô hình tập trung, nhưng bên mua sản phẩm là doanh nghiệp nắm quyền sở hữu đất đai, chuồng trại, vườn cây. Bên bán sản phẩm chỉ thực hiện hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm và bán lại sản phẩm cho doanh nghiệp. Chủ thể tham gia trực tiếp vào mô hình này cũng chỉ bao gồm doanh nghiệp và các trang trại. Trong đó, các trang trại do nông dân sản xuất thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Do đó, các hộ nông dân trực tiếp sản xuất nông sản trên đất của doanh nghiệp có thể xem là người lao động trong doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, hình thức khoán trong các nông, lâm trường quốc doanh cũng là mô hình trang trại hạt nhân. Các hình thức khoán này được hình thành theo Nghị định của Chính phủ số 01/CP ngày 04 tháng 1 năm 1995 trước đây và hiện nay là giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản trong các nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh theo Nghị định của Chính phủ số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005.
Nông dân sản xuất nông sản trên đất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp giao đất và cả cây trồng (cây lâu năm), vật nuôi cho từng hộ nông dân, cung cấp vật tư đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, nông dân chăm sóc cây trồng vật nuôi theo đúng quy trình của doanh nghiệp và giao lại toàn bộ sản phẩm cho doanh nghiệp. Đây chính là mô hình “khoán liên doanh”, trong trường hợp “tái lập trang trại gia đình… trong lòng doanh nghiệp nông nghiệp quy mô lớn có từ hai cấp quản lý trở lên”[6]. Người sản xuất và người mua ký một hợp đồng gọi là “hợp đồng giao khoán”. Trong đó, hợp đồng quy định: Doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp giữ vai trò định hướng sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật (khuyến nông), cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra…, giám sát các hoạt động kinh doanh sản xuất trên vườn cây, đàn gia súc giao khoán ….. Quan hệ giữa doanh nghiệp giao khoán và bên nhận khoán được thiết lập theo nguyên tắc thị trường, thuận mua, vừa bán [6]. Bản chất của mô hình này chính là trang trại dự phần hay công ty dự phần trong nông nghiệp.
Doanh nghiệp có trang trại quy mô lớn, có nhà máy chế biến, đủ tiềm lực tài chính và kỹ thuật để cung cấp cho nông dân. Mô hình này phù hợp với các cây lâu năm và chăn nuôi gia cầm, gia súc theo kiểu công nghiệp, quy mô lớn.
Mô hình này cũng có ý nghĩa và tác dụng như mô hình tập trung. Ngoài ra mô hình này góp phần nâng cao hiệu quả của các trang trại có quy mô lớn với nhiều cấp quản lý như trang trại nhà nước (Nông trường quốc doanh, doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước).
+ Mô hình đa chủ thể (The Multipartite Model)
Mô hình đa chủ thể tham gia hợp đồng sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam thường gọi là mô hình “liên kết 4 nhà”. Tham gia mô hình này bao gồm nhiều chủ thể khác nhau như: nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, hợp tác xã, các trang trại. Đặc điểm của mô hình này là các chủ thể khác nhau sẽ có trách nhiệm và vai trò khác nhau. Trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò hạt nhân gắn kết nhà khoa học với nông dân, gắn kết nhà tài chính với nông dân và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Doanh nghiệp là người quyết định việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân, nên họ biết được thị trường cần gì để đặt hàng cho nông dân sản xuất. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng chính là người đặt hàng cho các nhà khoa học, ngân hàng, cung cấp các dịch vụ cho mình và cho nông dân. Vai trò của nhà nước là xử lý các mối quan hệ giữa các bên ký kết hợp đồng, quy hoạch vùng sản xuất, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, giải quyết những vấn đề khó khăn nảy sinh do thị trường, thiên tai gây ra, và vận động, giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, kỹ năng cho các bên tham gia sản xuất theo hợp đồng.
Đặc trưng của mô hình này là mối quan hệ đa chiều. Cơ chế hoạt động của mô hình này là sự liên kết và phối hợp nhiều chủ thể khác nhau cùng chia sẻ lợi ích, rủi ro và quyền quyết định. Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ là hạt nhân ký hợp đồng trực tiếp với các trang trại để thu mua nông sản. Ngân hàng căn cứ vào hợp đồng giữa doanh nghiệp và các trang trại để cho vay đầu tư phát triển sản xuất, phát triển thị trường. Doanh nghiệp đặt hàng nhà khoa học để giải quyết các vấn đề kỹ thuật sản xuất nảy sinh. Các tổ chức dân sự xã hội như hiệp hội ngành hàng sẽ vận động, theo dõi, giám sát các hợp đồng giữa doanh nghiệp và trang trại. Nhà nước căn cứ vào hợp đồng để xử lý các mâu thuẫn phát sinh.
Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp manh mún, lạc hậu, bản thân nông dân “không thể tự giải quyết 3 vấn đề của nền nông nghiệp hàng hóa là thị trường, công nghệ và vốn, do quy mô kinh doanh quá nhỏ” [5] thì mô hình đa chủ thể có thể áp dụng. Mô hình đa chủ thể được phát triển mạnh ở những quốc gia đang phát triển như Mexico, Kenya, Trung Quốc.
Mô hình này có ý nghĩa và tác dụng trong việc chuyển giao khoa học kỹ thuật hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Sản xuất theo mô hình này sẽ tạo ra vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn theo tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
+ Mô hình trung gian (The Intermediary Model)
Đây là mô hình doanh nghiệp ký hợp đồng mua sản phẩm của nông dân thông qua các đầu mối trung gian như hợp tác xã, tổ hợp tác, nhóm nông dân hoặc người đại diện cho một số hộ nông dân. Đặc điểm của mô hình này là doanh nghiệp không ký kết hợp đồng trực tiếp với nông dân mà thay vào đó doanh nghiệp thuê các tổ chức trung gian thực hiện vai trò của mình.
Mỗi cá nhân hoặc tổ chức trung gian này có trách nhiệm kiểm soát và giám sát hoạt động sản xuất của nông dân và chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động trong trang trại từ gieo hạt đến thu hoạch theo quy định của doanh nghiệp và họ được hưởng hoa hồng cho việc kiểm soát và giám sát.
Mô hình này tồn tại khi nền sản xuất nông nghiệp còn manh mún và phân tán. Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản khó thực hiện việc ký hợp đồng cung cấp vật tư, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân vì để thực hiện ký hợp đồng cho từng hộ nông dân thì chi phí giao dịch tăng cao và bản thân họ không đủ năng lực kiểm soát trực tiếp quá trình sản xuất của từng hộ nông dân.
Mô hình này góp phần làm giảm chi phí giao dịch nhờ đầu mối hợp đồng giảm đi và việc kiểm soát sản xuất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp cũng dễ dàng hơn. Người trung gian đóng vai trò cho đại diện cho nông dân, tạo nên sức mạnh tập thể để thương lượng với doanh nghiệp.
Mô hình liên kết kinh tế là một hoặc một tập hợp những vấn đề về tổ chức, hình thức, phương thức và biện pháp của mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế trong một thời gian, không gian nhất định để đạt được lợi ích kinh tế cho các đối tượng tham gia.
Liên kết 4 nhà trong nông nghiệp là sự thoả thuận, hợp tác và hỗ trợ nhau để cùng phát triển giữa Nhà nông, Nhà khoa học, nhà Doanh nghiệp và Nhà nước (chủ yếu các tổ chức tín dụng, ngân hàng, quản lý của chính quyền, tham gia của đoàn thể xã hội,…) trong đó có sự phân công và hợp tác để vừa phát triển sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm và mang lại lợi ích hài hoà cho các bên trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp theo cơ chế thị trường.
2.1.3. Sản xuất theo hợp đồng trong nông nghiệp.
Eaton và Shepherd (2001) định nghĩa sản xuất theo hợp đồng là “thoả thuận giữa những người nông dân với các doanh nghiệp chế biến hoặc doanh nghiệp kinh doanh trong việc sản xuất và cung cấp các sản phẩm nông nghiệp dựa trên thỏa thuận giao hàng trong tương lai, giá cả đã được định trước”
Theo Sykuta và Parcell (2003), sản xuất theo hợp đồng trong nông nghiệp đưa ra những luật lệ cho việc giao dịch nông sản qua việc phân bổ thật rõ ba yếu tố chính: lợi ích, rủi ro, và quyền quyết định. Như vậy, bản chất của sản xuất theo hợp đồng hoàn toàn khác với hình thức giao ngay mang tính truyền thống (đó là mua bán trực tiếp hoặc thông qua các chợ) hoặc giao dịch giao sau (đó là mua, bán nông sản thông qua Sở giao dịch hàng hóa). Điểm khác biệt về bản chất của ba hình thức giao dịch này chính là cơ chế hình thành giá. Đối với giao dịch giao ngay, giá thỏa thuận trên hợp đồng phản ánh cung cầu thị trường hiện tại; đối với giao dịch giao sau, giá cả phản ánh cung cầu thị trường tương lai; đối với sản xuất theo hợp đồng, giá cả phản ánh lợi ích, rủi ro và quyền quyết định của người mua và người bán. Điều này có nghĩa là, giá đã được thỏa thuận phải đảm bảo người bán thu được lợi ích nhất định và người mua có thể mua hàng với mức giá có thể chấp nhận được; cho dù vào thời điểm giao hàng, giá thị trường có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá thỏa thuận.
Có thể phân loại sản xuất theo hợp đồng theo cấu trúc tổ chức của hợp đồng. Cấu trúc tổ chức của sản xuất theo hợp đồng phụ thuộc vào quy trình sinh học của sản phẩm nông nghiệp, nguồn lực của doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ và tính chất của mối quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ. Eaton và Shepherd (2001) đã chia các hình thức sản xuất theo hợp đồng trong nông nghiệp thành 5 mô hình, đó là: mô hình tập trung, mô hình trang trại tập trung, mô hình phi chính thức, mô hình đa thành phần và mô hình trung gian
2.1.4. Liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
Ở mỗi ngành hàng đều gồm có nhiều công đoạn và mỗi công đoạn đều được thực hiện bởi những chủ thể nhất định. Mỗi chủ thể đều có thể là các pháp nhân độc lập hoặc các bộ phận phụ thuộc lẫn nhau về mặt pháp lý nhưng đều được thực hiện và hoàn thành một số chức năng và tạo ra những sản phẩm nhất định.
Liên kết trong sản xuất và tiêu thụ giữa các chủ thể liên kết là những pháp nhân độc lập rất đa dạng với những nội dung chủ yếu như sau:
- Sự thoả thuận hay cam kết giữa các bên trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các cam kết này phải được công nhận là sự hợp tác giữa các bên tham gia chứ không phải là quan hệ cạnh tranh hay bóc lột giữa bên này với bên kia.
- Cam kết phải có các điều kiện ưu đãi: Ưu đãi phải được xây dựng trên quan hệ cung cầu thị trường, hay nói cách khác các bên đều được hưởng lợi từ cam kết.
- Trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện cam kết: Các bên có trách nhiệm thực hiện đúng, đủ và nghiêm túc theo cam kết.
- Các mối liên kết này được thể hiện thông qua các hình thức với các nội dung cơ bản sau:
+ Mua bán tự do trên thị trường
Mua bán tự do trên thị trường là hình thức giao dịch trực tiếp giữa người mua và người bán. Người mua thấy được số lượng, chất lượng hàng hoá mình cần, còn người bán sau khi thoả thuận được giá cả sẽ bán và thu được tiền, đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và các nhu cầu khác. Việc mua bán trên thị trường được thực hiện do mối quan hệ cung cầu, nếu hai bên thoả thuận được với nhau thì hoạt động giao dịch được diễn ra, thị trường có vai trò định giá.
Đặc điểm của hình thức giao dịch này là mỗi tác nhân độc lập, tự do trao đổi hàng hoá của mình với các tác nhân khác, giá cả được xác định tại thời điểm giao dịch. Thị trường tự do phản ánh mối quan hệ cung cầu của thị trường do đó trong một số trường hợp thương mại thị trường tự do không hiệu quả đã gây khó khăn cho công tác điều hành hoạt động của thị trường và giữa các tác nhân.
Mặc dù các tác nhân trao đổi với nhau trên thị trường tự do, không phải không có các mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau và ràng buộc giữa các ngành hàng. Ngược lại quan hệ liên kết có thể tồn tại và diễn ra khi hoạt động sản xuất của một tác nhân phụ thuộc vào hoạt động sản xuất của một tác nhân khác. Hay nói cách khác, một tác nhân có vai trò kiểm soát thị trường và mọi kế hoạch sản xuất, mặt hàng kinh doanh của các tác nhân đó đều tác động đến kế hoạch và chiến lược sản xuất kinh doanh của các tác nhân khác.
Những nhu cầu về sự khác biệt sản phẩm từ cấp độ sản xuất đã tạo áp lực lên các mối quan hệ thị trường tự do và có thể dẫn tới hình thức liên kết dưới dạng hợp đồng giữa các giai đoạn chủ chốt trong hệ thống thị trường hoặc hình thức hợp nhất dọc.
+ Hợp đồng miệng (thoả thuận miệng)
Hợp đồng miệng là các thoả thuận không được thể hiện bằng văn bản giữa các tác nhân cam kết cùng nhau thực hiện một số hoạt động, công việc nào đó. Hợp đồng miệng cũng được hai bên thống nhất về số lượng, chất lượng, giá cả, thời hạn và địa điểm nhận hàng. Cơ sở của hợp đồng miệng là niềm tin, độ tín nhiệm, trách nhiệm cam kết thực hiện giữa các tác nhân tham gia hợp đồng. Hợp đồng miệng thường được thực hiện giữa các tác nhân có quan hệ thân thiết (họ hàng, anh chị em ruột thịt, bạn bè...), hoặc giữa các tác nhân đã có quá trình hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ với nhau mà trong suốt thời gian hợp tác luôn thể hiện được nguồn lực tài chính, khả năng tổ chức và trách nhiệm giữ chữ tín với các đối tác.
Tuy nhiên hợp đồng miệng thường chỉ là các thoả thuận trên nguyên tắc về số lượng, giá cả, điều kiện giao nhận hàng hoá. Hợp đồng miệng cũng có thể có hoặc không có đầu tư ứng trước về tiền vốn, vật tư cũng như các hỗ trợ và giám sát kỹ thuật. So với hợp đồng bằng văn bản thì hợp đồng miệng lỏng lẻo và có tính chất pháp lý thấp.
+ Hợp đồng bằng văn bản
Thực hiện phương thức theo hợp đồng trong nông nghiệp thường diễn ra giữa các nhà có mối quan hệ với nhau trong quá trình từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ; các mối quan hệ liên kết hợp đồng gồm: liên kết hợp đồng tay đôi giữa nhà sản xuất là nông dân, HTX sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến; hoặc liên kết giữa cơ sở cung cấp dịch vụ về vật tư của các thành phần kinh tế với hộ nông dân, HTX sản xuất nông nghiệp; liên kết hợp đồng giữa 3 nhà, hoặc 4 nhà trong việc phát triển nguyên liệu để chế biến và bảo đảm tiêu thụ sản phẩm nông sản,…
Điểm căn bản thông qua hình thức theo hợp đồng là có sự bảo đảm bằng pháp lý trong liên kết giữa các bên; đó là những ràng buộc thông qua các điều của hợp đồng kinh tế của các khâu riêng rẽ (sản xuất, cung cấp dịch vụ, chế biến tiêu thụ sản phẩm) đã buộc các bên tham gia liên kết bảo đảm thực hiện hợp đồng theo một quy trình, có quy định về vốn, kỹ thuật, giá vật tư, sản phẩm, thời gian giao nộp sản phẩm, phương thức thanh toán,.… Đây là một chuỗi của quá trình liên kết mà các bên cần bảo đảm thực hiện.
Với 2 hình thức liên kết bằng “miệng” và bằng văn bản hợp đồng kinh tế nêu trên, trong thực tế đang diễn ra cả 2 hình thức; trong đó hình thức hợp đồng kinh tế là chặt chẽ hơn cả. Phương thức liên kết theo hợp đồng cũng đã được Nhà nước ta khuyến khích phát triển bằng Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg năm 2002. Thông qua hợp đồng theo tinh thần Quyết định số 80, Nhà nước khuyến khích các bên tham gia liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp; từ đó đã có sự phân công, phối hợp nhằm “khép kín” các khâu từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ nông sản, nâng cao thu nhập của nông dân và doanh nghiệp; trên cơ sở đó góp phần tăng cường mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa nông dân với công nhân và trí thức, thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
2.1.5. Ý nghĩa liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
Tăng cường liên minh công nông: Việc chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp từ tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hoá thì việc liên minh công nông có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp cho quá trình sản xuất chế biến tiêu thụ được hiệu quả hơn.
Thực hiện quan hệ hợp tác: Thông qua liên kết tăng cường được quan hệ hợp tác giữa các bên, giúp cho quan hệ cung cầu phù hợp và hiệu quả hơn.
Giải quyết quan hệ phân phối: Thông qua liên kết vấn đề phân phối thu nhập, trách nhiệm quyền hạn của các bên tham gia liên kết được cụ thể hơn, hàng hoá đến tay người tiêu dùng nhanh hơn.
Thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật: Liên kết giúp cho việc vận dụng và sử dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, đem lại hiệu quả cao hơn, chất lượng sản phẩm làm ra tốt hơn.
Tạo ra sự gắn kết giữa các nhà: Khi các nhà cùng tham gia vào liên kết thì hiệu quả thu được sẽ cao hơn, đồng bộ hơn trong thực hiện. Với sự tham gia của nhà nước thì tình trạng chồng chéo về cơ chế chính sách được hạn chế tối đa thay vào đó là một loạt chính sách đồng bộ trong sản xuất và tiêu thụ. Các nhà khoa học với những đóng góp về khoa học kỹ thuật mới đã dần thay thế cho những kỹ thuật lạc hậu không hiệu quả, các giống cây, giống con có năng suất thấp...Với các doanh nghiệp và người nông dân thông qua liên kết giúp họ yên tâm h._.ơn trong sản xuất, mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, ổn định các yếu tố đầu vào và thị trường đầu ra, giảm thiểu các rủi ro cũng như chia sẻ các rủi ro trong sản xuất ...Với sự liên kết như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao nhất trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông sản.
Nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá giúp cho nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng ngày một phát triển bền vững phù hợp với quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế nhà nước theo định hướng XHCN.
2.1.6. Tính tất yếu của sự liên kết
Liên kết kinh tế như đã phân tích ở phần trên, đó là sự hợp tác cùng phát triển của hai hay nhiều bên, không kể quy mô hay loại hình sở hữu. Mối quan hệ liên kết chính là bảo đảm về lợi ích của các bên tham gia liên kết kinh tế, có thể được khái quát lợi ích trên các mặt chủ yếu như sau:
+ Liên kết kinh tế giữa các chủ thể nhằm khắc phục những bất lợi về quy mô, loại sản phẩm trong kinh tế thị trường:
Chủ thể sản xuất (các doanh nghiệp, các nhà sản xuất của các ngành, lĩnh vực) có quy mô nhỏ và vừa thường bị các doanh nghiệp lớn cạnh tranh và mang lại bất lợi về lợi ích cho các chủ thể (doanh nghiệp) vừa và nhỏ. Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, mỗi chủ thể, doanh nghiệp đều có một hoặc vài lĩnh vực hoạt động chủ đạo, mang tính đặc thù, chuyên biệt, hoặc có những sản phẩm đặc thù riêng; bên cạnh đó, là một loạt các hoạt động phụ mà bản thân chủ thể, doanh nghiệp không thể tự mình sản xuất ra thành phẩm, hoặc tự thực hiện tiêu thụ được; mà phải nhờ đến các chủ thể khác mới bảo đảm sản xuất và tiêu thụ được sản phẩm ấy. Muốn vậy, phải có sự hợp tác giữa các chủ thể, với doanh nghiệp khác để tạo ra sản phẩm với quy mô lớn hơn và tiêu thụ được trên thị trường; giảm thiểu được bất lợi trong hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh.
+ Liên kết kinh tế giúp nhau phản ứng nhanh và tạo cơ hội đối phó với những thay đổi của thị trường.
Như trên đã nói, liên kết kinh tế giúp các chủ thể, hoặc doanh nghiệp khắc phục được những hạn chế về quy mô, thì ở một khía cạnh khác, liên kết kinh tế còn giúp cho các chủ thể và doanh nghiệp phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường, tạo cơ hội đứng vững khi thị trường có những biến đổi bất lợi. Điều đó được thể hiện trong những trường hợp sau:
- Nhu cầu của thị trường là luôn thay đổi, điều đó buộc các chủ thể sản xuất vừa phải luôn thay đổi mẫu mã của các sản phẩm hiện có, vừa phải tìm cách đa dạng hoá sản phẩm. Chính sự liên kết kinh tế mới có thể giúp cho các chủ thể đạt được điều mong muốn là thích ứng với thị trường.
- Liên kết kinh tế giúp cho các chủ thể sản xuất và doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình được nhanh hơn. Trong xu thế toàn cầu hoá các hình thức liên kết kinh tế được thực hiện với quy mô “xuyên quốc gia”; những sản phẩm hàng hoá do bản thân từng doanh nghiệp khó tiêu thụ, nhưng nếu đặt trong vị trí liên kết thì dễ tiêu thụ được, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Liên kết kinh tế còn giúp cho các nhà sản xuất, doanh nghiệp có thể tiếp cận nhanh chóng với các công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất, nhờ sự phối hợp với các nhà nghiên cứu ở các trường đại học, hay cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước.
- Liên kết kinh tế còn thúc đẩy liên kết, hỗ trợ nhau về vốn trước những thay đổi của thị trường vượt ra ngoài khả năng đáp ứng của doanh nghiệp, buộc các chủ thể ấy phải tìm cách liên kết, hỗ trợ về vốn và công nghệ để hoàn thành ra sản phẩm hoàn chỉnh cung cấp cho thị trường.
+ Liên kết kinh tế giúp các chủ thể giảm thiểu rủi ro trong sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp.
Ngoài lợi ích cơ bản của liên kết kinh tế bảo đảm về hiệu quả trong sản xuất của nhà nông, liên kết kinh tế còn giúp cho nhà doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Để tránh được rủi ro, nhiều nhà sản xuất đã biết phân tán “sự rủi ro” bằng cách mời gọi các chủ thể khác cùng tham gia thực hiện, triển khai dự án, thậm chí mỗi doanh nghiệp đảm nhận một phần công việc, tuỳ theo năng lực của từng chủ thể. Như vậy, mỗi chủ thể tham gia dự án chỉ phải chịu một phần rủi ro (nếu có xảy ra)...
2.1.7. Các chủ thể tham gia liên kết
Tham gia các hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá nói chung có rất nhiều các chủ thể (nhiều nhà). Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy thường có 4 nhóm chủ thể sau đây:
- Nhà sản xuất: có thể bao gồm hộ gia đình, hộ trang trại, hay các tổ hợp tác, hợp tác xã, các doanh nghiệp sản xuất..., đây là chủ thể chính và trực tiếp tham gia liên kết trong sản xuất và tiêu thụ, họ là người được sử dụng đất đai của mình để sản xuất, hay góp cổ phẩn, liên doanh, liên kết với doanh nghiệp hoặc cho các doanh nghiệp khác thuê đất sản xuất; họ có thể được hỗ trợ về giống, kỹ thuật canh tác, bảo quản và bao tiêu sản phẩm ổn định lâu dài từ phía doanh nghiệp chế biến.
Thông qua hợp đồng, người sản xuất ngay từ đầu vụ sản xuất cần xác định rõ lượng vật tư nông nghiệp cần đầu tư, các biện pháp kỹ thuật, giá cả hợp lý, các khoản bảo hiểm giá nông sản...để yên tâm sản xuất. Xác định được trách nhiệm làm vệ tinh của mình, người sản xuất chủ động và mạnh dạn hưởng ứng chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đầu tư phát triển sản xuất, giảm giá thành, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, gom đủ nguồn hàng theo đúng thời hạn hợp đồng với doanh nghiệp.
- Nhà doanh nghiệp: đây là chủ thể thứ hai và cũng là chủ thể chính tham gia hoạt động liên kết. Doanh nghiệp có liên quan trực tiếp và cần xác định rõ trách nhiệm cụ thể đối với người sản xuất như: cung ứng vật tư nông nghiệp; áp dụng công nghệ cao, công nghệ sạch chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm; nâng cao tính chủ động về hoạt động quản lý, điều hành sản xuất có hiệu quả; có biện pháp khuyến khích người sản xuất có ý thức trách nhiệm tạo ra nguồn hàng ổn định và đảm bảo chất lượng để phục vụ sản xuất chế biến, tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
- Nhà nước: Để phát triển hình thức liên kết sản xuất – tiêu thụ giữa doanh nghiệp và người nông dân, các cấp chính quyền ngoài công tác quản lý, chỉ đạo sản xuất cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, thể chế để tạo điều kiện cho cả hai phía, đồng thời khuyến khích các hộ nông dân hình thành các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện làm vệ tinh cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, Nhà nước còn có thể đứng lên làm trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp, hay vi phạm hợp đồng giữa nhà sản xuất và doanh nghiệp, hoặc giữa các chủ thể khác có liên quan.
Về tài chính, tín dụng Nhà nước tạo điều kiện cho người sản xuất ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm được vay vốn từ các ngân hàng thương mại để đầu tư phát triển sản xuất, cải tiến thủ tục vay vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển để các doanh nghiệp thuộc diện vay vốn được thuận lợi, đồng thời tăng mức vốn vay đầu tư ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển để đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, tiêu thụ nông sản hàng hoá.
Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp liên kết sản xuất tiêu thụ với nông dân trong việc: nâng sức cạnh tranh, giảm chi phí sản xuất thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin định hướng cho kinh doanh, công tác kiểm soát chất lượng, xuất xứ hàng nông sản và đăng ký kinh doanh nông sản, tìm kiếm và mở rộng thị trường.
- Nhà khoa học: Trong sản xuất, để tạo nên những sản phẩm vừa có năng suất, chất lượng và có giá trị kinh tế cao, vừa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng cũng như đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, nhà khoa học có vai trò hết sức quan trọng. Nhà khoa học ở đây có thể là các nhà nghiên cứu, nhà khoa học hay cán bộ khuyến nông..., họ sẽ đóng góp công sức và chất xám của mình để thực hiện các hợp đồng theo đơn đặt hàng của các nhà doanh nghiệp cũng như của nhà sản xuất.
Nhà khoa học không bó hẹp hoạt động trong phòng nghiên cứu mà năng động, chuyên nghiệp trong việc bắt tay với nhà nông, doanh nghiệp để hỗ trợ họ trong sản xuất, thu hoạch, bảo quản nông sản; cần có tiếng nói tích cực để tham mưu cho các nhà quản lý nhằm có những dự báo, tính toán, quy hoạch cụ thể và chủ động trong chỉ đạo sản xuất, tiêu thụ.
2.1.8. Những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến sự liên kết
(1) Trình độ của nền sản xuất
Sản xuất hàng hoá càng cao thì nhu cầu liên kết càng lớn. Trên thực tế, bất cứ nền sản xuất của nước nào mang tính tự cấp, tự túc sẽ không xuất hiện quá trình liên kết, hợp tác, nếu có cũng mang tính giản đơn; trong sản xuất nông nghiệp thể hiện rất rõ yếu tố này. Ở Việt Nam, trình độ sản xuất nông nghiệp ở các vùng có khác nhau, thì mức độ hợp tác, liên kết cũng khác nhau. Rõ nhất là vùng núi Bắc bộ điều kiện sản xuất khó khăn, manh mún và chủ yếu là sản xuất tự túc, tự cấp nên tính liên kết kinh tế rất ít và chậm được triển khai, thực hiện trên thực tế; trong khi đó, vùng ĐBSCL là vùng sản xuất hàng hoá lớn của cả nước về nông nghiệp, luôn có nhu cầu liên kết cao từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
(2) Yếu tố thị trường
Nơi nào thị trường hàng hoá phát triển càng mạnh thì quá trình liên kết, hợp tác càng diễn ra sôi động. Trên thực tế sản xuất, ở mỗi vùng, mỗi địa bàn có những điều kiện khác nhau. Thông qua thị trường để thực hiện giá trị sản xuất của mình, điều đó quyết định có sản xuất sản phẩm hay không và bán được giá cao hay thấp? Nơi nào thị trường hàng hoá phát triển thấp thì giá bán càng bất lợi cho nhà sản xuất; ngược lại thị trường sôi động, nông sản hàng hoá giao dịch nhiều, thì nơi ấy tạo lập được giá đúng với bản chất của thị trường. Để đáp ứng cho yêu cầu của thị trường trong điều kiện của người nông dân còn khó khăn, nhất là thiếu các yếu tố “đầu vào, đầu ra” của sản xuất, khi ấy buộc người nông dân phải thực hiện liên kết với các nhà có điều kiện cung cấp các dịch vụ “đầu vào, đầu ra”; càng nhiều hộ có nhu cầu cung cấp dịch vụ thì quá trình liên kết, hợp tác càng diễn ra sôi động.
(3) Quan hệ giữa cơ sở chế biến và vùng nguyên liệu
Thông qua chế biến làm tăng thêm giá trị của sản phẩm nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp truyền thống thường chỉ cung cấp hoặc bán sản phẩm thô ra thị trường, nên giá trị thu được thường rất thấp, nếu không qua chế biến sẽ không đạt giá trị sản xuất cao. Do đó, muốn sản xuất nông sản có hiệu quả luôn phải tính đến sự gắn kết hữu cơ giữa vùng sản xuất nguyên liệu với các cơ sở chế biến để mang lại giá trị cao cho cả nhà chế biến và người sản xuất.
Công nghiệp chế biến đòi hỏi sản xuất nông nghiệp là sản xuất hàng hoá. Thực trạng sản xuất nông nghiệp ở nước ta đang trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá, để bảo đảm hiệu quả của hàng hoá nông sản, sản xuất nông nghiệp buộc phải chuyển từ một nền sản xuất tiểu nông, quy mô nhỏ lên sản xuất lớn, có năng suất, chất lượng và tính đồng đều của sản phẩm; từ đó đòi hỏi sản xuất nông nghiệp phải được chuyên môn hoá, có sự phân công, hợp tác, liên kết với nhau cả về chiều rộng và chiều sâu để phát triển sản xuất nông sản, ngày càng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
(4) Việc áp dụng tiến bộ của khoa học, công nghệ
Việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến là điều kiện nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản xuất và đặc biệt tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Muốn vậy, nhà sản xuất, chế biến cũng như các đơn vị lưu thông hàng hoá buộc phải áp dụng ngày càng mạnh mẽ khoa học kỹ thuật và công tiên tiến; khi ấy yêu cầu liên kết với “nhà khoa học” sẽ ngày càng cao, nhất là liên kết trong các dịch vụ bảo đảm chất lượng của hàng hoá. Đây là yêu cầu đòi hỏi tất yếu của các sản phẩm nông nghiệp khi sản xuất ra để tiếp cận được thị trường.
(5) Yếu tố tổ chức sản xuất
Đây là yếu tố quan trọng để gắn kết các “nhà” trong mối quan hệ liên kết kinh tế (như liên kết 4 nhà trong sản xuất nông nghiệp). Để phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, đòi hỏi các chủ thể trực tiếp sản xuất (nhà nông) và cả công đoạn của quá trình sản xuất - chế biến ra sản phẩm nông nghiệp có tác động và mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp ở mức độ khác nhau, các “nhà” và quá trình liên kết phải có sự liên kết, hợp tác với nhau, nhằm khắc phục những hạn chế và mâu thuẫn của quá trình sản xuất đến lưu thông, nhất là tính tự phát và cạnh tranh không lành mạnh. Quá trình đó rất cần được tổ chức một cách chặt chẽ, khoa học thì mới có thể tồn tại và phát triển được trong kinh tế thị trường.
Những yếu tố cơ bản tác động đến hiệu quả của quá trình hợp tác, liên kết kinh tế, đặc biệt là hợp tác, liên kết trong sản xuất nông nghiệp hàng hoá. đó chính là yếu tố thành, bại trong quá trình cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trong kinh tế thị trường
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước ta về vấn đề liên kết trong sản xuất nông nghiệp
Thực hiện các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc về phát triển kinh tế-xã hội nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng theo hướng CNH, HĐH, Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng để triển khai và nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa doanh nghiệp nhà nước và sản xuất của kinh tế hộ ở nông thôn, ngày 15/6/2000 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP về “một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, theo đó Nghị quyết yêu cầu “Tạo thêm các nguồn lực, phát triển các hình thức hợp đồng với nông dân, liên kết có hiệu quả giữa nông nghiệp, công nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản”.
Thực hiện tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) “về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001 – 2010”, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002, về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng; trong đó, quyết định nêu lên các hình thức liên doanh, liên kết giữa các chủ thể kinh tế nhằm thúc đẩy việc phát triển sản xuất gắn với tiêu thụ hàng hoá nông sản, bảo đảm lợi ích chính đáng của các bên tham gia liên doanh, liên kết mà trước hết là lợi ích của người nông dân. Quyết định đã đặt ra mối quan hệ nhiều mặt giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong đó chủ yếu là quan hệ giữa 4 nhà: nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà ngân hàng và có sự tham gia của nhà quản lý ở các Bộ, ngành, chính quyền đoàn thể các cấp.
Cùng với các văn bản chỉ đạo phát triển các mô hình liên kết trong nông nghiệp, Chính phủ cũng ban hành các văn bản khác có liên quan như: Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 01 tháng 4/2004 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; Nghị định số 20/2005/NĐ-CP ngày 28/2/2005; Nghị định số 106/2004/NĐ-CP; Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 2/6/2006 về đầu tư phát triển ngành nghề nông thôn; Nghị định số 56/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 4 năm 2005 về chính sách khuyến nông, khuyến ngư…
Sau 5 năm thực hiện Quyết định 80/2002/QĐ-TTg, để củng cố và tăng cường hoạt động liên kết, ngày 25/8/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 25/2008/CT-TTg về việc Tăng cường chỉ đạo tiêu thụ nông sản qua hợp đồng.
Các văn bản trên được ban hành nhằm tạo thuận lợi bằng chính sách để khuyến khích phát triển các mô hình liên kết trong nông nghiệp. Trên tinh thần các Nghị quyết, Quyết định, Nghị định của Chính phủ, Bộ nông nghiệp và PTNT, các bộ ngành Trung ương và các địa phương đã ban hành các văn bản Chỉ thị, thông tư và hướng dẫn nhằm tổ chức thực hiện, khuyến khích các mô hình liên kết trong nông nghiệp phát triển.
2.2.2. Tình hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
2.2.2.1. Tính tất yếu của liên kết trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
Liên kết kinh tế nhằm để khắc phục tình trạng nền nông nghiệp nước ta vốn từ sản xuất tự nhiên, phân tán, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường, nhất là nền nông nghiệp còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ, manh mún; để tạo lập và phát triển nền nông nghiệp hàng hoá buộc phải có bước chuyển và phải trải qua 2 tất yếu cơ bản là:
Từ sản xuất tự nhiên, phân tán, tự túc tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn
Từ sản xuất phát triển theo chiều rộng (lượng) sang phát triển theo chiều sâu (chất). Đây là vấn đề lớn cần phải giải quyết.
- Liên kết kinh tế để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất quy mô nhỏ, manh mún, từng nhà, từng hộ với yêu cầu sản xuất ra các sản phẩm đồng loại, có chất lượng ngày càng cao cho thị trường ở trong và ngoài nước.
Đến năm 2007, kinh tế hộ nhỏ vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong nông nghiệp nước ta; đa số nông hộ có quy mô nhỏ (32,2% hộ có dưới 0,2ha; 36,6% có 0,2 - 0,5ha đất nông nghiệp); các hộ này chủ yếu sản xuất tự cung, tự cấp, số nông sản hàng hoá bán ra rất ít, hiệu quả thấp. Kinh tế trang trại mới chỉ chiếm hơn 1% tổng số hộ nông, lâm, ngư nghiệp của cả nước, quy mô còn nhỏ bé (bình quân một trang trại sử dụng 4,5ha). Do tình trạng đất đai manh mún, phân tán đã làm ảnh hưởng đến phát triển sản xuất. Do vậy, liên kết kinh tế sẽ giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất quy mô nhỏ, manh mún, từng nhà, từng hộ với yêu cầu sản xuất ra các sản phẩm đồng loại, có chất lượng ngày càng cao cho thị trường.
- Liên kết kinh tế để giải quyết mâu thuẫn giữa giá thành sản xuất phải ngày càng hạ, chất lượng sản phẩm ngày càng cao để cung ứng cho thị trường với điều kiện sản xuất còn chủ yếu là thủ công, lạc hậu của “nhà nông”...
Qua phân tích khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo, mặc dù chi phí sản xuất ra lúa, gạo của Việt nam thấp hơn các nước nhất trong khu vực Đông Nam á (ở đồng bằng sông Cửu long chỉ bằng từ 80 - 95% so với Thái lan, do chi phí chi lao động chỉ bằng 1/3 so với Thái lan và năng suất lúa cao hơn 1.5 lần). Nhưng, các khâu sau thu hoạch, chế biến ra các chủng loại gạo xuất khẩu, hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất và lưu thông xuất khẩu… lại yếu kém hơn các nước trong khu vực, dẫn đến khả năng cạnh tranh của mặt hàng gạo kém hơn. Do đó, chỉ có trên cơ sở liên kết kinh tế mới giải quyết mâu thuẫn giữa giá thành sản xuất phải ngày càng hạ, chất lượng sản phẩm ngày càng cao để cung ứng cho thị trường với điều kiện sản xuất còn chủ yếu là thủ công, lạc hậu của “nhà nông” như ở mước ta.
- Liên kết kinh tế để giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu đầu tư khai thác tiềm năng, lợi thế trong từng địa bàn, địa phương về phát triển hàng hoá quy mô lớn với năng lực, trình độ của người sản xuất ở nông thôn (nông dân) còn thấp kém. Là một nước nông nghiệp, nguồn lao động nước ta chủ yếu vẫn tập trung trong khu vực nông thôn (năm 2007 vẫn chiếm 70%). Về trình độ học vấn và trình độ sản xuất của lao động trong khu vực nông thôn còn nhiều bất cập, đến nay còn khoảng 92% lực lượng lao động khu vực nông thôn chưa qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật và nghiệp vụ. Đó là những trở lực hạn chế hiệu quả của sản xuất hàng hoá và quá trình CNH, HĐH.
Để giải quyết được những mâu thuẫn nhằm phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, đòi hỏi phải có một chương trình tổng thể với những nội dung, bước đi và biện pháp phù hợp như Đề án “vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn” đang trình tại Hội nghị Trung ương 7 (khoá IX). Đồng thời phải đẩy mạnh quá trình liên kết, hợp tác trong sản xuất nông nghiệp, trong đó có liên kết 4 nhà là nội dung tất yếu để phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hoá và bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế trong từng địa bàn, địa phương.
2.2.2.2. Tình hình tổ chức thực hiện liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
Quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/6/02 được ban hành là cơ sở pháp lý đầu tiên để hình thành mối liên kết 4 nhà, đặc biệt giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp. Mặc dù một số doanh nghiệp không đợi đến Quyết định số 80 ra đời nhưng họ đã thực hiện việc ký kết hợp đồng tiêu thụ và ứng trước vật tư với nông dân từ lâu, bước đầu thực hiện thành công. Điều này chứng tỏ Quyết định 80 là chủ trương đúng đắn nhằm tạo ra sự liên kết sản xuất theo hợp đồng trong nông nghiệp.
Sau khi quyết định này ra đời, từ năm 2003 đến nay hầu hết các địa phương trong cả nước đều lập kế hoạch và triển khai các nội dung của quyết định 80, một số tỉnh còn lập cả Ban chỉ đạo thực hiện quyết định 80 với nhiều hình thức đa dạng, nhất là ở một số địa phương có vùng nguyên liệu (như Nghệ An, Thanh Hoá, Tuyên Quang, Tây Ninh, Đồng Nai,…), từ đó đã “dấy lên một phong trào” mà chúng ta thường gọi là “Sản xuất theo hợp đồng và liên kết 4 nhà”. Từ việc triển khai, tổ chức thực hiện Quyết định 80, ở nhiều địa phương đã từng bước hình thành một số vùng sản xuất theo hợp đồng trên một số cây trồng chính.
Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau còn nhiều hạn chế như manh mún, không đáp ứng nhu cầu thành hàng hóa cung cấp cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu mặt hàng rau quả. Chất lượng chưa cao, mẫu mã chưa đều, sản lượng rau an toàn có kiểm soát còn khá thấp. Quan hệ hợp tác 4 nhà còn lỏng lẻo. Người sản xuất quen với tập quán tự cung tự cấp, tiêu thụ nội địa qua hệ thống thương nhân tự phát, giá cả phụ thuộc vào từng buổi chợ.
Do vậy có khi giá cao với những chủng loại quý và có lúc rớt giá tồi tệ nếu gặp hàng thừa, dội chợ. Các chợ đầu mối rau tại Tp.HCM và các tỉnh chưa được phát huy đúng như chức năng là thu mua, sơ chế và cung ứng cho siêu thị, cửa hàng hoặc các đơn vị có nhu cầu xuất khẩu, đồng thời là người đặt hàng cho nông dân sản xuất theo nhu cầu thị trường.
Trước thực trạng này, các thành phố và các tỉnh đã thống nhất thực hiện dự án “Tăng cường liên kết sản xuất - tiêu thụ rau an toàn tại Tp.HCM và các tỉnh lân cận”. Dự án gồm 9 tỉnh và thành phố là Tp.HCM, Lâm Đồng, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tiền Giang, Long An, Vĩnh Long. Tháng 7/2005, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ký quyết định thành lập Ban chỉ đạo dự án. Thời gian thực hiện dự án từ 2006 đến 2010.
Năm 2007 này, Ban chỉ đạo liên kết trình UBND Tp.HCM thành lập Ban chỉ đạo và tổ tham mưu thực hiện Đề án kiểm tra dư lượng độc chất trên rau. Xây dựng và trình duyệt các tiểu dự án như đầu tư trang thiết bị cho 3 Công ty kinh doanh chợ trên, đồng thời tổ chức hội thảo thống nhất mô hình tổ chức kiểm tra dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm trồng trọt đầu vào tại các chợ đầu mối. Hàng tháng sẽ kiểm tra dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tại các chợ đầu mối.
Các tỉnh đang tiến hành xây dựng vùng rau an toàn nhưng còn lúng túng. Theo Ban chỉ đạo, nguyên nhân là do Cục Trồng trọt chưa triển khai cụ thể Quyết định số 04 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn như chỉ tiêu thẩm định nhiều thì tốn khoản kinh phí khá lớn cho công tác thẩm định vùng. Chưa cụ thể hoá công tác thẩm định vùng, phí thẩm định, cách triển khai công tác chứng nhận và thu phí chứng nhận sản phẩm rau an toàn... Các tỉnh đề nghị lập dự án riêng cho từng tỉnh, trên cơ sở đó thành lập dự án chung trình Bộ.
Việc sản xuất, chứng nhận và lưu thông tại vùng liên kết đồng bằng sông Hồng chưa đồng bộ, các tỉnh, thành phố mới chỉ cấp chứng nhận vùng đủ điều kiện sản xuất rau an toàn, còn sản phẩm rau an toàn thì chưa làm được, vì việc này phải phụ thuộc vào các doanh nghiệp, công ty tư vấn có máy móc phân tích lấy mẫu và phải chịu trách nhiệm giữa người tiêu dùng và cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng mà đơn vị công nhận.
Sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, dẫn đến ý thức sản xuất của người nông dân cũng chưa được nâng cao. Tình trạng vắng cán bộ kỹ thuật giám sát, người dân không tuân thủ đúng quy trình sản xuất rau an toàn còn khá phổ biến. Công tác quản lý sản xuất rau an toàn chưa thực sự chặt chẽ, trách nhiệm quản lý của chính quyền địa phương ở một số nơi chưa cao, chưa chủ động thực hiện và phối hợp với cơ quan chuyên môn về sản xuất rau an toàn. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất rau an toàn còn thiếu, cơ chế chính sách được vận dụng chưa hoàn thiện, chưa khuyến khích nông dân phát triển sản xuất rau an toàn. Việc chứng nhận chất lượng cho vùng sản xuất và sản phẩm rau an toàn chậm, rau an toàn khó tiêu thụ, do người tiêu dùng thiếu tin tưởng vào chất lượng, khó phân biệt với rau thông thường.
Thực tế sản xuất nông nghiệp vừa qua đã có nhiều mô hình liên kết kinh tế khá đa dạng và với nhiều mức độ khác nhau (như liên kết giữa 2 chủ thể là nông dân - nhà doanh nghiệp, liên kết giữa nhà nông với nhà khoa học, liên kết 3 bên giữa nhà nông - doanh nghiệp chế biến và ngân hàng, liên kết 4 bên giữa nhà nông - doanh nghiệp chế biến - ngân hàng và nhà khoa học,…). Các hình thức thức liên kết trên đều nhằm mục đích là nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, bảo đảm lợi ích của các bên tham gia.
Trong các mô hình liên kết nêu trên, có 2 mô hình liên kết mang tính phổ biến hơn đó là: mô hình “liên kết 4 nhà” (giữa nhà sản xuất, nhà chế biến thương mại dịch vụ, cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ và ngân hàng, chính quyền); mô hình liên kết “2 nhà” (giữa nhà sản xuất, nhà chế biến thương mại dịch vụ).
Một số mô hình cụ thể như sau:
+ Liên kết “hai nhà”:
Liên kết hai nhà thường chỉ có nhà nông (người sản xuất) và nhà doanh nghiệp chế biến liên kết, hợp tác với nhau trong việc sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, nhưng liên kết 2 nhà còn được thể hiện giữa nhà nông với doanh nghiệp sản xuất cung ứng vật tư, thuốc bảo vệ thực vật. Điển hình về liên kết 2 nhà thời gian qua là sự liên kết giữa Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang với nhà nông.
Chương trình “Cùng nông dân ra đồng” của Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật của tỉnh An Giang đã làm nòng cốt trong việc hỗ trợ nông dân sản xuất cả cây lúa, rau, màu thực phẩm và cây công nghiệp. Chương trình được ra đời từ đầu vụ đông xuân 2005-2006, sau khi thực hiện thí điểm từ các mô hình sản xuất cụ thể ở An Giang, Long An, Bến Tre, Trà Vinh,… Từ năm 2007 Công ty đã mở rộng mô hình liên kết 2 nhà ra khắp các tỉnh từ Bắc vào nam.
+ Liên kết “ba nhà”:
Liên kết ba nhà đã xuất hiện từ những năm 1985, sau khi có chủ trương hỗ trợ nông dân thông qua việc ứng trước vốn, vật tư để phát triển diện tích nông nghiệp với quy mô lớn (tăng diện tích), nhất là phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Trong mối quan hệ này thường có các mô hình liên kết giữa: nhà nông - nhà doanh nghiệp chế biến- ngân hàng để cung ứng vốn cho đầu tư phát triển nguyên liệu; liên kết, hợp tác giữa nhà nông - nhà khoa học (các viện, trường, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao KHKT, Trung tâm khuyến nông, khuyến ngư,…) và doanh nghiệp chế biến để sản xuất ra các sản phẩm cho thị trường.
- Mô hình liên kết 3 nhà tại Công ty Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp An Giang (Antesco) cũng là mô hình điển hình mang lại hiệu quả đáng kể. Antesco đã chú trọng đến phát triển vùng nguyên liệu để đáp ứng cho yêu cầu chế biến của 2 nhà máy đông lạnh rau, củ, quả xuất khẩu với công suất 1.200 -1.300 tấn/ngày. Để có nguyên liệu chế biến, Công ty đã phối hợp với các địa phương hình thành các tổ chức đại diện cho nông dân như HTX và tổ hợp tác nhằm khắc phục được hạn chế về diện tích sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán.
Quan hệ liên kết ở mô hình này bao gồm 3 chủ thể: Công ty có nhà máy chế biến - HTX, tổ hợp tác - nông dân sản xuất nguyên liệu. Việc duy trì mối quan hệ liên kết thông qua hợp đồng kinh tế là điều kiện để bảo đảm lợi ích của các bên tham gia, trong đó quan trọng là lợi ích của cả doanh nghiệp và của người sản xuất nguyên liệu…
+ Liên kết 4 nhà:
Liên kết 4 nhà ở nước ta đã hình thành và phát triển từ những năm 1996, nhất là sau khi có Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về “chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hóa thông qua hợp đồng” đến nay. Trong mối quan hệ này thường có sự liên kết giữa: nhà nông - nhà doanh nghiệp chế biến - nhà khoa học và ngân hàng để cung ứng vốn cho đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp. Mỗi nhà có vai trò riêng, nhưng trong một thể thống nhất quan hệ liên kết nhằm phát triển sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Nông dân có vai trò sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp (có thể thông qua tổ hợp tác, HTX) liên kết, hợp tác với các viện, trường, trung tâm nghiên cứu, Trung tâm khuyến nông, khuyến ngư,…(nhà khoa học) để chuyển giao KHKT; ngân hàng cung ứng vốn cho sản xuất và doanh nghiệp có vai trò thu mua nguyên liệu để chế biến và tiêu thụ ra thị trường.
2.2.3. Hoạt động liên kết giữa doanh nghiệp và hộ sản xuất
Mặc dù có rất nhiều các chủ thể có thể tham gia liên kết, tuy nhiên những năm qua, trên khắp cả nước, hoạt động liên kết này vẫn chỉ được tiến hành thông qua hai chủ thể là người sản xuất và doanh nghiệp chế biến.
Mô hình liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân là mô hình liên kết kinh tế giữa một bên là doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông sản với nông dân là những người sản xuất và cung ứng nông sản nguyên liệu để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội.
Mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp chế biến với nông dân vẫn luôn là vấn đề thời sự trong đời sống kinh tế xã hội. Tình trạng doanh nghiệp chế biến thiếu nguyên liệu cho sản xuất, tranh nhau mua nguyên liệu trong ngành mía đường, điều, bông vải, thuốc lá… hoặc ngược lại, tình trạng “được mùa mất giá, được giá mất mùa” luôn là nỗi lo của nông dân, tình trạng nông sản hàng hoá do nông dân sản xuất ra khó tiêu thụ, trong khi các nhà chế biến hàng xuất khẩu không thể cung ứng đủ sản lượng lớn theo đơn đặt hàng của nước ngoài chỉ vì tình trạng sản xuất tiểu nông, manh mún của nông dân… Tất cả những hiện tượng đang diễn ra cho thấy mối quan hệ liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân còn bất cập, một số mặt chưa hoàn thiện cần bổ sung, phát triển như là hệ quả tất yếu của tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân trong thời gian qua đã thể hiện bản chất kinh tế-chính trị-xã hội rất sâu sắc. Về mặt kinh tế, đó là mối quan hệ liên kết giữa công nghiệp với nông nghiệp; là hai khâu nối tiếp nhau trong quá trình sản xuất và chế biến nông sản phẩm. Về mặt chính trị, liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân lại là cơ sở vật chất của mối quan hệ liên minh công nhân với nông dân. Về mặt xã hội, đó là một trong những cơ sở nền tảng của mối quan hệ giữa nông thôn với thành thị. Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân là một trong nhiều mối quan hệ trao ._.y đủ, đúng pháp luật các quyền về sử dụng đất đai. Tổ chức thực hiện việc giao đất không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho HTX nông nghiệp xây dựng trụ sở, làm cơ sở sản xuất, kinh doanh....
b) Chính sách đầu tư
Chính quyền các cấp tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trên cơ sở tăng các nguồn vốn từ ngân sách, vốn ODA, tạo môi trường thuận lợi thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác vào đầu tư cho nông nghiệp nông thôn nói chung “gấp 2 lần những năm qua”, nhằm gắn với nhà máy chế biến và tiêu thụ nông sản cho nông dân.
Trên cơ sở quy hoạch sản xuất, dân cư trong vùng nguyên liệu, cần phân định rõ trách nhiệm giữa Nhà nước và doanh nghiệp chế biến trong việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo nguyên tắc: Nhà nước đầu tư xây dựng các công trình lớn, đầu mối có tính liên thông giữa các vùng và có ý nghĩa về xã hội, như: đường giao thông, đường điện, công trình thuỷ lợi, hệ thống chợ bán buôn, kho bảo quản, mạng lưới thông tin thị trường, cơ sở kiểm định chất lượng hàng hoá, đầu tư các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ, đồng thời hỗ trợ dân xây dựng kênh mương nội đồng, chợ, trường học, bệnh xá, nước sinh hoạt. Doanh nghiệp chế biến đầu tư xây dựng các công trình trực tiếp phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, như đường nội bộ (vận chuyển vật tư, nguyên liệu, sản phẩm), nâng cấp hoặc xây dựng mới nhà máy chế biến, các cơ sở sản xuất, kinh doanh…
Ưu tiên đầu tư thích đáng các dịch vụ phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất, hỗ trợ nông dân sản xuất rau màu, đảm bảo đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng thu nhập cho hộ nông dân.
Thực hiện chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng các hình thức đầu thư thông qua việc việc bán trả góp vật tư, máy móc, thiết bị nông nghiệp cho nông dân; ứng vốn cho dân vay sản xuất rau màu phục vụ cho công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển các Trung tâm, cơ sở nghiên cứu khoa học ở các vùng trọng điểm về nông nghiệp; đổi mới cơ chế quản lý đối với các cơ quan, đơn vị nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật, bảo đảm quyền tự chủ về tài chính, tăng cường ký kết hợp đồng, nhận giao việc nghiên cứu và chuyển giao KHCN của các đơn vị này với cơ sở sản xuất và nông dân,
c) Chính sách tài chính, tín dụng
Trước hết Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là doanh nghiệp chế biến thu mua nông sản để đảm bảo tiêu thụ cho nông dân, nhất là trong điều kiện hiện nay do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho giá thị trường biến động xấu (giảm nhanh); trước hết có cơ chế bằng lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp mua trữ hàng hoá nông sản, dự trữ lưu thông, tránh bán đổ, bán tháo trong khi thị trường trong nước và khu vực đang giảm giá.
Thực hiện tốt tinh thần chỉ đạo của Chính phủ về Chỉ thị số 25/2008/CT-TTg về “tăng cường chỉ đạo tiêu thụ hàng hoá nông sản thông qua hợp đồng kinh tế”, thiết thực thực hiện Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về “chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng”, doanh nghiệp chế biến và hộ nông dân, hộ trang trại có hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá (rau màu) được thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu đãi về tài chính, tín dụng nêu trong Thông tư số 04/2003/TT-BTC ngày 10/1/2003 hướng dẫn một số vấn đề về tài chính và Thông tư số 05/2002/TT-NHNN ngày 27/9/2002 về cho vay vốn, Trước mắt đề nghị Chính phủ chỉ đạo ngành Ngân hàng nâng mức cho vay không cần bảo đảm bằng tài sản đối với hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại từ mức 30 triệu đồng lên 50-100 triệu đồng.
Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian nhất định đối với HTX nông nghiệp mới chuyển đổi hoặc mới thành lập trong vùng sản xuất rau màu. Khuyến khích nhiều hình thức góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất...của thành viên để tăng thêm vốn kinh doanh cho HTX, Giao lại những tài sản của HTX cũ và tài sản của Nhà nước đã giao cho HTX sử dụng trước đây để cho HTX sản xuất rau màu làm vốn không chia thuộc sở hữu chung của HTX.
Các bên ký hợp đồng cung ứng vật tư, tiêu thụ nông sản gặp các rủi ro về thiên tai, đột biến về giá cả thị trường và các nguyên nhân bất khả kháng được Nhà nước xem xét miễn các khoản thuế, bù đắp một phần thiệt hại, Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích người sản xuất, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xây dựng quỹ bảo hiểm ngành hàng, bảo hiểm rủi ro thiên tai, thời tiết, dịch bệnh, thị trường,… để trợ giúp nhau khi gặp rủi ro.
Ngoài các chính sách trên, doanh nghiệp và người sản xuất nguyên liệu ký hợp đồng tiêu thụ nông sản có các dự án sản xuất nông nghiệp được hưởng chính sách từ Quỹ Hỗ trợ phát triển theo Nghị định số 106/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Đối với hộ nông dân, chủ trang trại, HTX sản xuất rau màu trong huyện được vay vốn gấp 2 lần mức cho vay bình quân không phải thế chấp theo quy định của ngân hàng (Thông tư số 03/2003/TT-NHNN ngày 24/2/2003 về hướng dẫn cụ thể các mức cho vay không phải bảo đảm bằng tài sản), Được giảm lãi suất cho vay theo quy định hiện hành.
Khuyến khích phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở các xã, nhất là ở các xã trong vùng sản xuất rau màu để hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn để phát triển sản xuất rau màu (hiện nay nhiều nơi nông dân vay vốn “ngoài” còn chịu lãi suất khá cao).
d) Chính sách đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ
Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản xuất, coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển sản xuất nguyên liệu gắn với nhà máy chế biến. Trước hết cần ưu tiên cho các doanh nghiệp chế biến có đủ vốn tập trung áp dụng công nghệ sinh học, chương trình giống cây rau màu, công nghệ bảo quản và công nghiệp chế biến rau màu thông qua các Trạm khuyến nông, Trạm nông vụ trong vùng nguyên liệu. Có chính sách ưu tiên các dự án hỗ trợ, phát triển vùng nguyên liệu; hỗ trợ doanh nghiệp chế biến nhập khẩu công nghệ cao, thiết bị hiện đại, các loại giống tốt.
e) Chính sách đào tạo nguồn nhân lực:
Trước mắt cần tăng cường lực lượng khuyến nông của huyện, xã và tạo điều kiện cho doanh nghiệp chế biến xây dựng các Trạm khuyến nông, Trạm nông vụ trong vùng rau màu. Có chính sách khuyến khích những cán bộ khuyến nông giỏi, thu hút những người được đào tạo về làm việc ở nông thôn, Tổ chức thực hiện tốt Nghị định số 167/2007/NĐ-CP ngày 16-11-2007 của Chính phủ về “quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác có thuê mướn lao động”.
Nhà nước hỗ trợ toàn bộ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý HTX trong vùng sản xuất rau màu. Có chính sách thu hút thanh niên vùng nông thôn nâng cao trình độ tại các cấp học và đào tạo nghề; trước mặt thực hiện tốt Chỉ thị số 21/2007/CT-TTg ngày 04-9-2007 về thực hiện chế độ cho vay ưu đãi để học đại học, cao đẳng và dạy nghề, Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg ngày 21-7-2008 về việc phê duyệt Đề án Hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008- 2015.
Đầu tư hiện đại hoá hệ thống viện, trường, nâng cao năng lực đào tạo cán bộ khoa học, nghiên cứu và tiếp thu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển của nông nghiệp và nông thôn. Dành vốn ngân sách đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề cho nông dân theo quy hoạch chung của Nhà nước; đồng thời có cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hoá, phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng. Giao cho các doanh nghiệp chế biến tổ chức đào tạo nghề cho người lao động.
g) Chính sách xúc tiến thương mại, thị trường:
Tổ chức lại khâu bán buôn, hình thành dần các trung tâm giao dịch, các chợ bán buôn theo phương thức đấu giá đối với một số mặt hàng có khối lượng lớn và bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, tiến tới hình thành thị trường hàng hoá nông sản, xây dựng cho được một số chợ mua bán hàng hoá nông sản như: chợ rau quả...
Xây dựng các quỹ bảo hiểm sản xuất, quỹ bảo hiểm rủi ro thiên tai và thị trường, quỹ hỗ trợ xuất khẩu,… đối với từng loại hàng nông sản trên cơ sở đóng góp của doanh nghiệp chế biến, người sản xuất nguyên liệu và sự hỗ trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo cho mô hình liên kết giữa nhà máy và vùng nguyên liệu phát triển ổn định, bền vững.
5. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Qua nghiên cứu tình hình hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một số loại cây rau màu, cụ thể là đối với 3 loại cây: ớt, cà chua và dưa bao tử xuất khẩu tại huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương, chúng tôi có một số kết luận sau:
1- Hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một số loại rau màu tại huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương còn qua lỏng lẻo. Hình thức liên kết dọc giữa 4 nhà chưa được thực hiện đầy đủ. Qua 3 năm 2006 – 2008 hoạt động liên kết này chủ yếu diễn ra giữa 2 chủ thể là người sản xuất và các doanh nghiệp chế biến. Hoạt động của nhà khoa học chưa có và vai trò của Nhà nước thì còn rất hạn chế
2- Trong liên kết sản xuất và tiêu thụ giữa hộ nông dân và các doanh nghiệp chế biến còn đang ở mức sơ khai. Hoạt động mua bán đã được thoả thuận dưới dạng hợp đồng, nhưng mới chỉ là hợp đồng gián tiếp thông qua đối tượng trung gian là các hợp tác xã nông nghiệp, các hộ sản xuất nhận được thông báo thu mua đầu ra của một số loại rau màu của các cơ sở chế biến nông sản, các hộ đăng ký ghi tên tham gia với hợp tác xã nông nghiệp, bản thân các hộ sản xuất cũng chưa được thoả thuận trực tiếp với doanh nghiệp chế biến và cũng không được trực tiếp thoả thuận dưới dạng hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng miệng.
3- Tỷ lệ các hợp đồng ký kết bằng văn bản chiếm 66,27% số hợp thoả thuận và hình thức hợp đồng thoả thuận miệng được sử dụng ít hơn (chiếm 33,73% số lượng hợp đồng thoả thuận)
Huyện Ninh Giang có số lượng doanh nghiệp chế biến nông sản rất ít (4 doanh nghiệp), nhưng tình trạng các doanh nghiệp phải sang thị trường các huyện khác hoặc các tỉnh lân cận để mua nguyên liệu đầu vào là thường xuyên xảy ra, lượng nguyên liệu đầu vào trong huyện chỉ đáp ứng được khoảng 30% số lượng nguyên liệu cần cho sản xuất. Mặt khác vốn đầu tư cho chế biến nông sản của các doanh nghiệp ngày càng ít do hiện nay các đối tác nhập khẩu chỉ ứng trước 10% vốn. Điều này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ® giảm quy mô sản xuất ® Giảm lượng rau màu đầu vào ® ảnh hưởng đến việc ứng trước vốn và lượng rau màu cần thu mua cho các hộ sản xuất rau màu trong huyện.
4- Tình hình thực hiện các hợp đồng đã ký kết còn ở mức hạn chế với tỷ lệ hợp đồng thực hiện là 76,7%. Nguyên nhân của tình trạng trên là khi giá một số loại rau màu trên thị trường cao hơn giá đã ký kết trong hợp đồng thì các hộ sản xuất tìm mọi cách để bán rau màu ra ngoài thị trường cho các thương lái để được giá cao hơn khi đó doanh nghiệp chế biến thiếu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, ngược lại khi giá rau màu trên thị trường thấp thì các doanh nghiệp chế biến trì hoãn việc thu mua lại, khi thu mua thì tìm cách ép cấp, ép giá vì vậy xảy ra tình trạng nông dân sản xuất ra không tiêu thụ đúng thời vụ, sản phẩm rau màu bị quá lứa, giảm chất lượng làm tăng chi phí. Qua thực tế trên cho thấy lòng tin từ phía hộ sản xuất và doanh nghiệp chế biến gây dựng cho nhau là không có, chủ thể nào cũng muốn tạo ra cho mình lợi ích tối đa cho dù phải hy sinh lợi ích của đối tác. Chính vì vậy mà mối liên kết này quá lỏng lẻo, tình trạng phá vỡ hợp đồng (hợp đồng miệng, hợp đồng bằng văn bản) xảy ra thường xuyên khi mà hiện nay chưa có chế tài xử lý hữu hiệu.
5- Trong hoạt động liên kết sản xuất và tiêu thụ một số loại rau màu tại huyện tuy vai trò của chủ thể là nhà khoa học và nhà nước còn rất mờ nhạt nhưng đã mang lại những lợi ích cơ bản:
+ Người sản xuất:
Khi hoạt đông liên kết thực hiện được dưới dạng thoả thuận bằng các văn bản hay thoả thuận miệng đã mang lại cho họ những lợi ích cơ bản như: Có đầu ra ổn định cho sản phẩm và được đảm bảo trước; yên tâm đầu tư và sản xuất, giảm thiểu rủi ro trong sản xuất và tiêu thụ (nhất là trong tiêu thụ sản phẩm hàng hoá); giảm được chi phí sản xuất, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất; xác định được trước những lợi ích thu được; được pháp luật bảo hộ và nhà nước công nhận.
Bên cạnh những lợi ích thì họ còn phải đối mặt với những tồn tại như: Khi có biến động giá đầu vào tăng mạnh thì giá sản phẩm đầu ra không tăng hoặc nếu có tăng thì tăng chậm hơn; khi giá nông sản trên thị trường tự do thấp, thì người sản xuất gặp phải tình huống doanh nghiệp không thực hiện hợp đồng, nếu thực hiện thì sản phẩm bị ép cấp, ép giá; người sản xuất phải đầu tư đúng hơn về nguồn lực để đảm bảo chất lượng của dầu ra theo hợp đồng.
+ Doanh nghiệp chế biến
Lợi ích của các doanh nghiệp chế biến khi tham gia liên kết: Tạo ra được một luồng đầu vào tương đối ổn định về số lượng và chất lượng theo đúng yêu cầu của sản xuất; giảm thiểu được chi phí và rủi ro trong sản xuất. kinh doanh; xác định trước được những lợi ích của mình khi tham gia liên kết; được pháp luật thừa nhận và nhà nước bảo hộ
Bên cạnh những lợi ích thì các doanh nghiệp chế biến gặp phải những tồn tại như: khi có biến động xuống của các nguyên liệu đầu vào trên thị trường thì doanh nghiệp khó có thể giảm giá mua của các hộ nông dân hoặc nếu có giảm thì giảm ít hơn so với việc giảm của thị trường; khi giá nông sản trên thị trường cao hơn giá trong hợp đồng, doanh nghiệp gặp phải tình huống các hộ sản xuất không thực hiện hợp đồng, nếu có thực hiện thì các hộ luôn tìm cách giảm mức sản lượng cung ứng; nếu có sự thay đổi về yêu cầu kỹ thuật của các đầu vào khó có thể thích ứng được ngay.
+ Nhà khoa học
Lợi ích khi tham gia hoạt động liên kết: Có được môi trường để nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật; được đóng góp công sức, chất xám cho cộng đồng và hưởng lợi thông qua các công trình khoa học của mình; tạo ra được các sản phẩm đáp ứng được yêu cầu cả người sản xuất, doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường.
Tuy nhiên họ gặp phải những khó khăn như: Chưa có đủ điều kiện để phát huy tài năng; vẫn còn bị chi phối bởi nguồn lực tài chính; thời tiết, khí hậu bất thường luôn là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu.
+ Nhà nước
Lợi ích khi tham gia hoạt động liên kết: Có sự chủ động trong công tác chỉ đạo sản xuất; tạo ra môi trường, điều kiện kinh tế, xã hội phát triển; kiểm soát được vấn đề môi trường và sự ô nhiễm cũng như chất lượng an toàn sản phẩm rau màu.
Những tồn tại như: Nguồn vốn ngân sách và năng lực quản lý điều hành của cán bộ chính quyền còn hạn chế; điều kiện hạ tầng chưa phát triển, chưa thu hút được các doanh nghiệp và các nhà đầu tư sản xuất; thị trường luôn biến động, tạo ra nhiều vấn đề phát sinh, ảnh hưởng và gây mất ổn định xã hội.
6- Những biện pháp chính đẩy mạnh hoạt động liên kết là:
Để hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một số loại cây rau màu tại huyện Ninh Giang có hiệu quả hơn trong thời gian tới, cần có một số biện pháp chính tác động đến từng chủ thể tham gia liên kết như sau:
+ Đối với các hộ sản xuất trong huyện: Tổ chức lại sản xuất, đảm bảo đủ về diện tích, trình độ thâm canh, tăng năng suất cây rau màu, đáp ứng đủ về số lượng cho chế biến, tăng cường công tác tập huấn chuyển giao công nghệ sản xuất và công nghệ bảo quản sau thu hoạch cho hộ sản xuất, kiểm tra nghiêm ngặt các tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm đầu ra, bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp, thực hiện tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
Để thực hiện được những công việc trên cần làm như sau:
- Đào tạo nâng cao trình độ canh tác, chuyển giao kỹ thuật mới về cây rau màu cho hộ sản xuất.
- Nhà nước cần ban hành các chính sách khuyến khích hộ nông dân tích cực tham gia sản xuất cây rau màu.
- Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như: hệ thống giao thông, thuỷ lợi ...
- Huyện nên tổ chức các hiệp hội, ngành hàng khuyến khích người sản xuất tham gia và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho họ.
+ Đối với doanh nghiệp chế biến:
Xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh lâu dài, đầu tư xây dựng thêm nhà máy và cơ sở chế biến, đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại tiết kiệm chi phí tạo ra nhiều sản phẩm có tính ưu việt hơn đáp ứng tối đa nhu cầu của thị trường, từng bước hình thành mô hình công ty, tăng cường liên doanh liên kết trong nông nghiệp, nông thôn từ đó rà soát lại quy hoạch trồng rau màu trong huyện.
Trong tương lai gần có thể thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp cho các hộ nông dân góp vốn, góp sức, góp đất, xây dựng vùng trồng rau màu có quy mô lớn.
+ Đối với nhà khoa học
Cần tích cực tham gia hoạt động liên kết giữa các nhà, thực hiện nghiên cứu và chuyển giao công nghệ mới ứng dụng vào sản xuất rau màu tại huyện Ninh Giang.
Tăng cường các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu để ngày càng tạo ra các sản phẩm rau màu có ưu thế, khai thác hết những lợi thế của huyện.
+ Đối với nhà nước
Xác định rõ tầm quan trọng của mình trong hoạt động liên kết giữa các chủ thể trong sản xuất và tiêu thụ một số loại rau màu tại huyện. Chính quyền làm tốt vai trò của một trọng tài kinh tế, soạn thảo và thi hành các chế tài có liên quan đến lợi ích giữa các nhà khi tham gia liên kết để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên tham gia, củng cố và thực hiện tốt quyết định 80 của Thủ tướng Chính Phủ.
5.2. Kiến nghị
Từ các định hướng, giải pháp, chính sách nêu trên, để tăng cường các hoạt động và hiệu quả của liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá cũng như đối với cây rau màu tại huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, chúng tôi xin có một số kiên nghị đề xuất sau:
1. Đối với Trung ương
- Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Nông nghiệp& PTNT phối hợp với các địa phương rà soát lại các vùng nguyên liệu, nhà máy chế biến nông sản để làm cơ sở xây dựng, điều chỉnh quy hoạch đảm bảo cân đối giữa khả năng cung ứng nguyên liệu với công suất chế biến của nhà máy.
- Sửa đổi một số quy định về hợp đồng tiêu thụ nông sản theo Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ, tăng trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên ký hợp đồng, có chế tài đủ mức xử lý các trường hợp vi phạm hợp đồng.
- Khuyến khích cac cơ quan nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ liên kết với doanh nghiệp chế biến, tổ hợp tác, HTX và hộ nông dân.
- Bộ NN&PTNT phải chỉ đạo và giúp các địa phương trong công tác quy hoạch vùng sản xuất, đặc biệt là những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, tránh tình trạng để cho các địa phương đua nhau, chạy theo thị trường dẫn đến sản xuất thường bị phá vỡ quy hoạch, gây thua thiệt cho người sản xuất.
2. Đối với địa phương
- UBND tỉnh chỉ đạo Sở NN&PTNT và các sở khác có liên quan tổ chức thực hiện tốt các chính sách phát triển vùng rau màu, khuyến khích đầu tư và nâng cao chất lượng chế biến của các doanh nghiệp và mở rộng việc ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản.
- Hướng dẫn hộ sản xuất có thể dùng quyền sử dụng đất để liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp chế biến nông sản, hoặc góp cổ phần, xây dựng mô hình sản xuất nông dân trở thành công nhân nông nghiệp và được tiến hành sản xuất ngay trên đất của mình theo và được hưởng quyền lợi từ doanh nghiệp theo mức cổ phần đã góp.
- Chính quyền cấp huyện, nhất là cấp xã tích cực chỉ đạo, hỗ trợ hộ nông dân thực hiện “dồn điền, đổi thửa”; bố trí sản xuất theo quy hoạch vùng rau màu; giải quyết kịp thời các tranh chấp giữa các chủ thể liên kết.
- Cần tích cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các chủ thể liên kết, giúp họ hiểu rõ hơn các lợi ích khi họ tham gia liên kết và thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong hoạt động liên kết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu Tiếng Việt
1. Bộ Nông nghiệp & PTNT (2003), Báo cáo về xây dựng mối liên kết giữa nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp và nhà nước trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.
2. Bộ Nông nghiệp & PTNT – Trung tâm tin học và Thống kê - Bản tin phục vụ lãnh đạo, số 9/2006, Sản xuât nông nghiệp theo hợp đồng – hình thức gắn nông dân với thị trường, trang 24, 25.
3. Trương Đình Chiến, Nguyễn văn Thưởng (1996), Quản lý kênh marketing, trường Đại học KTQD, NXB thống kê, Hà nội.
4. Dương Đình Giám (2007), liên kết kinh tế một nhu cầu cấp bách đối với phat triển kinh tế - xã hội hiện nay, TCCN số tháng 1/2007.
5. Trần Văn Hiếu (2004), Thực trạng và giải pháp cho sự liên kết “bốn nhà” trong sản xuất và tiêu thụ nông sản ở ĐBSCL, Tạp chí khoa học, Đại học Cần Thơ, www.ctu.edu.vn/department/dra/Journal/rod/01/23
6. Trần Văn Hiếu (2003), Xử lý đúng đắn về lợi ích trong liên kết kinh tế giữa kinh tế hộ nông dân với doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Kinh tế Nông nghiệp & PTNT tháng 5.2003.
7. Doanh nghiệp tư nhân Phú Hưng (2008), Báo cáo tình hình thu mua nông sản chế biến năm 2008, tỉnh Hải Dương
8. Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Ninh Giang (2008), Báo cáo tình hình sản xuất nông nghiệp của huyện năm 2008, Ninh Giang.
9. Phòng Thống kê huyện Ninh Giang (2008), Niên giám thống kê huyện Ninh Giang 3 năm 2006-2008, Ninh Giang.
10. Philip Kotler (2000), Quản trị marketing, NXB Thống kê, Hà nội.
11. Thủ tướng Chính phủ (2002), Chỉ thị 25/2008/CT – TTg ngày 25/8/2008 về việc tăng cường chỉ đạo tiêu thụ nông sản qua hợp đồng.
12. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng.
13. Bảo Trung (2005), “Bàn về nội dung, hình thức tiêu thụ nông sản thông qua hơp đồng (theo Quyết định 80/2002/QĐ-TTg)”, Tạp chí Nông nghiệp và phját triển nông thôn, tháng 2/2005.
14. Bảo Trung (2006), Báo cáo hội thảo “Đẩy mạnh tiêu thụ nông sản theo ký kết hợp đồng giữa doanh nghiệp với nông dân – mô hình Hợp tác xã, tổ kinh tế hợp tác” ngày 31/7/2006, Bộ Nông nghiệp và PTNT.
15. Bảo Trung (2008) nghiên cứu phân tích các mô hình tiêu thụ trái cây theo hợp đồng trong nông thôn hiện nay, tháng 10/2008. Bộ nông nghiệp và PTNT
16. Văn phòng Trung ương Đảng (2008) Khảo sát tình hình và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quan hệ liên kết giữa sản xuất, chế biến, thương mại dịch vụ và nghiên cứu khoa học công nghệ theo mô hình liên kết 4 nhà trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
17. Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (2006), Nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách và giải pháp phát triển các hình thức liên kết dọc trong một số ngành hàng nông sản chủ yếu.
18. Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (2001), Từ điển thuật ngữ kinh tế học, NXB Từ điển bách khoa, Hà nội.
19. Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (2008), Thực trạng và giải pháp về tổ chức và hoạt động của các hiệp hội ngành hàng “nông sản xuất khẩu” Việt nam
20. Xí nghiệp chế biến nông sản Hùng Sơn (2008), Báo cáo sản lượng thu mua nông sản năm 2008, tại địa bàn huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
B. Tài liệu tiếng Anh
21. Charles Eaton and Andrew W. Shepherd (2001), Contract Farming Parnership for Growth, FAO Agricultural Services Bullentin 145, pp. 2.
22. Sing S (2000), “Theory and practice of contract farming”, Journal of Economic Development, Vol 3,2000.
PHỤ LỤC
XÍ NGHIỆP CBNS HÙNG SƠN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Số HĐKT Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------***---------
HỢP ĐỒNG KINH TẾ
- Căn cứ vào pháp lệnh HĐKT của Hội đồng Nhà nước, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công bố ngày 29/9/1989.
- Căn cứ vào Nghị định số 17/HĐBT ngày 16 tháng 01 năm 1999 của Hội đồng Bộ trường, hướng dẫn thi hành pháp lệnh HĐKT
- Căn cứ vào nhu cầu và lợi ích hợp tác của các bên tham gia
Hôm nay, ngày tháng năm 2008, các bên tiến hành ký kết hợp đồng tiêu thụ một số loại rau màu chủ yếu như sau:
Bên A (bên mua): Xí nghiệp chế biến nông sản Hùng Sơn
Địa chỉ: Xã Vĩnh Hoà – Ninh Giang - Hải Dương
Điện thoại: Fax
Tài khoản số tại Ngân hàng Công thương Hải Dương
Đại diện: Ông Chu Văn Dũng, chức vụ Giám đốc Xí nghiệp
Bên B (bên bán): HTX nông nghiệp xã Hiệp Lực – Ninh Giang - Hải Dương
Địa chỉ: Xã Hiệp Lực – Ninh Giang - Hải Dương
Điện thoại Fax
Đại diện: Ông Lê lương Dân, chức vụ: Chủ nhiệm HTX nông nghiệp xã Hiệp Lực
Hai bên cùng thoả thuận và thống nhất ký kết hợp đồng tiêu thụ rau màu theo các điều khoản sau:
Điều 1: Bên A đầu tư ứng trước cho bên B
STT
Tên hàng
ĐVT
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
1
Hạt giống rau màu
kg
2
Tiền mặt hỗ trợ theo sào (360m2)
sào
3
Tiền mặt ứng trước theo sào (360m2)
sào
Cộng
Số tiền bằng chữ:
Điều 2: Bên B bán cho bên A
STT
Tên hàng
ĐVT
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
1
Dưa bao tử
kg
2
3
Cộng
Số tiền bằng chữ:
Điều 3: Quy cách - phẩm chất dưa bao tử
Dưa bao tử: Chiều dài: 3,5 – 6 cm
Đường kính; 1,2 – 1,4 cm
Dưa không sâu thối, đèo thắt, dị dạng, vàng úa, dưa phải xanh, hái giao trong ngày.
Trong thời gian thu hoạch bên B có trách nhiệm quản lý và giao đủ số lượng dưa đã ký.
Điều 4: Giao nhận - vận chuyển
- Giao hàng tại kho của bên A, bên B nhận thu hái của nông dân và phân loại, vận chuyển đến tận kho bên A
- Cước phí vận chuyển: bên B chịu
- Cước phí bốc xếp: bên B chịu
- Bao bì đóng gói: bên A chịu
- Cước vận chuyển hao hụt: bên A khoán cho bên B là 400đ/kg
Điều 5: Thanh toán
Bên A đầu tư cho bên B số tiền, vật tư, dóc dược
Khi thu hoạch xong 15 ngày bên A thanh toán tiền cho bên B để trả cho nông dân sau khi đã trừ đi khoản tiền ứng trước.
Phí dịch vụ trả địa phương là 200đ/kg
Điều 6: Cam kết chung
Hai bên cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản đã ghi trong hợp đồng này
Trong quá trình thực hiện, nếu khó khăn trở ngại, 2 bên thông báo kịp thời cho nhau trước 15 ngày để cùng nhau giải quyết.
Bên nào vi phạm hợp đồng phải bồi thường vật chất cho bên kia theo chính sách và pháp luật hiện hành. Nếu hợp đồng vi phạm không tự giải quyết được, hai bên báo lên Toà án kinh tế Hải dương giải quyết, bên thua phải chịu mọi phí tổn.
Hiệu lục của hợp đồng bắt đầu từ ngày ký.
Hợp đồng được lập thành 04 bản có giá trị pháp lý như nhau, mỗi bên giữ 02 bản.
ĐẠI DIỆN BÊN B ĐẠI DIỆN BÊN A
Chủ nhiệm Giám đốc
Lê lương Dân Chu Văn Dũng
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
----------eêf----------
BÙI THỊ HOA
NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ MỘT SỐ LOẠI CÂY RAU MÀU TẠI HUYỆN NINH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ TÂM
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng các số liệu, tài liệu trong luận văn là những số liệu, tài liệu qua quá trình điều tra thực tế tại địa bàn nghiên cứu và có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả nghiên cứu là hoàn toàn trung thực, độc lập, chưa được bảo vệ tại một công trình nghiên cứu nào.
Hà nội, ngày 01 tháng 12 năm 2009
Tác giả
Bùi Thị Hoa
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ chân thành.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các Thầy, Cô trong Khoa Kinh tế & PTNT, Các Thầy, Cô trong bộ môn Kinh tế đã tận tình hỗ trợ, giúp đỡ tôi.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Thị Tâm, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài này.
Tôi chân thành cảm ơn Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện và các phòng ban trực thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, các HTX nông nghiệp xã Hiệp Lực, xã Vạn Phúc, xã Vĩnh Hoà đã giúp đỡ và cung cấp số liệu giúp tôi thực hiện tốt quá trình điều tra nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã cổ vũ, động viên, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 01 tháng 12 năm 2009
Tác giả
Bùi Thị Hoa
MỤC LỤC
Lời cam đoan lxxvii
Lời cảm ơn lxxvii
Mục lục lxxvii
Danh mục các chữ viết tắt lxxvii
Danh mục bảng lxxvii
Danh mục biểu đồ lxxvii
Danh mục sơ đồ lxxvii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN
Chăn nuôi
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
DNCB
Doanh nghiệp chế biến
HTX
Hợp tác xã
HTXNN
Hợp tác xã Nông nghiệp
KHCN
Khoa học công nghệ
SXTH
Sản xuất tổng hợp
TS
Thuỷ sản
TTSP
Tiếp thị sản phẩm
UBND
Uỷ ban nhân dân
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
3.1 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của huyện Ninh Giang 45
3.2 Tình hình dân số - lao động của huyện 46
3.3 Giá trị sản xuất nông nghiệp - thuỷ sản của huyện 47
3.4 Giá trị sản xuất ngành trồng trọt (2006-2008) 48
3.5 Bảng mẫu nghiên cứu, điều tra 52
4.1 Diện tích và cơ cấu diện tích cây rau màu của huyện (2006 – 2008) 54
4.2 Quy mô diện tích của các hộ trồng rau qua 3 năm 2006-2008 55
4.3 Quy mô diện tích sản xuất rau màu của các hộ sản xuất tổng hợp huyện Ninh Giang 56
4.4 Năng suất và sản lượng một số cây rau màu huyện Ninh Giang 60
4.5 Chi phí sản xuất một số loại cây rau màu huyện Ninh Giang 61
4.6 Kết quả sản xuất một số cây rau màu tính trên 1 sào 62
4.7 Khối lượng rau màu của huyện tiêu thụ qua các kênh năm 2008 64
4.8 Tình hình tham gia liên kết của người sản xuất theo tiêu chí định trước tại huyện Ninh Giang (theo mẫu điều tra) 70
4.9 Tình hình tiêu thụ rau màu của hộ sản xuất 75
4.10 Số lượng, cơ cấu thu mua một số loại rau màu của doanh nghiệp chế biến năm 2008 77
4.11 Tình hình thực hiện hợp đồng giữa nhà sản xuất và nhà doanh nghiệp chế biến năm 2008 77
4.12 Một số lợi ích và tồn tại đối với các chủ thể tham gia liên kết 77
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
Tên biểu đồ
Trang
4.1 Tỷ lệ hộ trồng rau màu tham gia liên kết với DN chế biến 73
4.2 Tỷ lệ tiêu thụ Ớt qua các kênh 76
4.3 Tỷ lệ tiêu thụ dưa bao tử xuất khẩu qua các kênh 77
DANH MỤC SƠ ĐỒ
STT
Tên sơ đồ
Trang
4.1 Kênh tiêu thụ trực tiếp từ SX – Tiêu dùng 62
4.2 Kênh tiêu thụ gián tiếp qua trung gian 62
4.3 Kênh tiêu thụ trực tiếp từ SX đến DNCB 63
4.4 Kênh tiêu thụ nội bộ 63
4.5 Các chủ thể tham gia liên kết (4 nhà) 65
4.6 Liên kết ngang giữa DN chế biến với các DN khác 72
4.7 Tỷ lệ tiêu thụ cà chua qua các kênh 76
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHKT09022.doc