Nghiên cứu hiện tượng đi xuất khẩu lao động và những tác động của xuất khẩu lao động đến hộ nông dân ở xã Tân Hội - Huyện Đan Phượng – Hà Nội

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ----------eêf---------- NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÝ NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG ĐI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG ĐẾN HỘ NÔNG DÂN Ở XÃ TÂN HỘI - HUYỆN ĐAN PHƯỢNG – HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Mã số: 60.31.10 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ HỮU ẢNH HÀ NỘI - 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa sử dụng

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2551 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu hiện tượng đi xuất khẩu lao động và những tác động của xuất khẩu lao động đến hộ nông dân ở xã Tân Hội - Huyện Đan Phượng – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để bảo vệ trong một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong luận văn này đã được cảm ơn, mọi thông tin trích trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc Hà Nội, tháng 9 năm 2009 Tác giả Nguyễn Thị Hương Lý LỜI CẢM ƠN Đến nay Luận văn của tôi đã hoàn thành, kết quả này là nhờ công lao dạy bảo, đào tạo và động viên của các Thầy, Cô giáo trong thời gian tôi học tập và nghiên cứu tại trường. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy giáo, Cô giáo khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, khoa sau đại học trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã giúp đỡ tôi thực hiện luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự kính trọng sâu sắc nhất tới thầy giáo PGS.TS Lê Hữu Ảnh, người đã tận tình chỉ bảo, trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ tôi thực hiện luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn UBND xã Tân Hội, các hộ gia đình có lao động đang tham gia XKLĐ và đi XKLĐ đã về, các hộ gia đình không có lao động tham gia XKLĐ, các cháu nhỏ của các gia đình có bố (mẹ) tham gia XKLĐ đã tham gia cuộc phỏng vấn, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu điều tra và xin số liệu của tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi hoàn thành khoá học! Hà Nội, tháng 09 năm 2009 Tác giả Nguyễn Thị Hương Lý MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU 1 1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2 1.2.1 Mục tiêu chung 2 1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 3 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 3 2 TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 4 2.1 Một số khái niệm chủ yếu và vai trò của giải quyết việc làm trong nôg thôn 4 2.1.1 Một số khái niệm 4 2.1.2 Đặc điểm của lao động việc làm ở nông thôn 6 2.1.3 Vai trò của giải quyết việc làm 8 2.2 Xuất khẩu lao động trong bối cảnh thị trường kinh tê quốc tế 8 2.2.1 Di cư quốc tế 8 2.2.2 Xuất khẩu lao động và vai trò xuất khẩu lao động 11 2.2.3 Đặc điểm của XKLĐ 14 2.2.4 Mối quan hệ giữa XKLĐ và giải quyết việc làm trong hội nhập kinh tế quốc tế 18 2.3 Một số kinh nghiệm, bài học về xuất khẩu lao động của một số nước trên thế giới 19 2.3.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về xuất khẩu lao động 19 2.3.2 Hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam 24 3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29 3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 29 3.1.1 Điều kiện tự nhiên 29 3.1.2 Điều kiện kinh tế, xã hội 29 3.2 Phương pháp nghiên cứu 37 3.2.1 Khung nghiên cứu 37 3.2.2 Phương pháp nghiên cứu 38 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 42 4.1 Thực trạng về hiện tượng đi xuất khẩu lao động ở xã Tân Hội 42 4.1.1 Thực trạng về số lượng lao động đi xuất khẩu ở xã Tân Hội 42 4.1.2 Thực trạng về độ tuổi và giới tính của lao động xuất khẩu 46 4.1.3 Thực trạng về nơi cư trú của lao động xuất khẩu ở xã Tân Hội 49 4.1.4 Thực trạng về ngành nghề của lao động xuất khẩu ở xã Tân Hội 50 4.1.5 Chất lượng lao động xuất khẩu ở xã Tân Hội 52 4.2 Thực trạng các nhóm hộ điều tra 54 4.2.1 Tình hình chung của các nhóm hộ điều tra 54 4.2.2 Tình hình sử dụng lao động của hộ điều tra 56 4.2.3 Tình hình thu nhập của các hộ điều tra 59 4.2.4 Tình hình chi tiêu của các hộ điều tra 60 4.2.5 Tình hình xuất khẩu lao động ở hộ gia đình điều tra 61 4.3 Những tác động tích cực từ hiện tượng đi XKLĐ ở xã Tân Hội 71 4.3.1 Giải quyết việc làm 71 4.3.2 Tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho các hộ gia đinh 72 4.3.4 Nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động 74 4.3.5 Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho người lao động 75 4.4 Những tác động tiêu cực từ hiện tượng đi XKLĐ ở xã Tân Hội 76 4.4.1 Gây bất hoà trong gia đình 76 4.4.2 Cha mẹ già không được chăm sóc, con cái hư hỏng 78 4.4.3 Người lao động “chê” đồng ruộng 80 4.4.4 Tình hình mất trật tự xã hội 80 4.4.5 Tỷ lệ thất nghiệp tự nguyện tăng cao hơn 82 4.5 Định hướng và giải pháp điều chỉnh hiện tượng đi XKLĐ ở xã Tân Hội 82 4.5.1 Một số định hướng trong phát triển XKLĐ tại xã Tân Hội 82 4.5.2 Giải pháp điều chỉnh hiện tượng đi XKLĐ tại xã Tân Hội 84 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 88 5.1 Kết luận 88 5.2 Kiến nghị 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 PHỤ LỤC 93 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BQ Bình quân CC Cơ cấu CN Công nghiệp DV Dịch vụ ĐH Đại học ĐVT Đơn vị tính LĐ Lao động LĐTB & XH Lao động thương binh và xã hội LĐXK Lao động xuất khẩu SL Số lượng NN Nông nghiệp KT Kinh tế TH Trung học TM Thương mại Trđ Triệu đồng UBND Uỷ ban nhân dân XKLĐ Xuất khẩu lao động XH Xã hội DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 3.1: Tình hình đất đai của xã Tân Hội qua 3 năm 2006-2008 30 Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của xã Tân Hội qua 3 năm 2006 - 2008 33 Bảng 3.3: Kết quả sản xuất kinh doanh của xã Tân Hội qua 3 năm 2006 - 2008 36 Bảng 3.4: Số lượng mẫu điều tra hộ gia đình 39 Bảng 4.1: Tốc độ phát triển xuất khẩu lao động ở xã Tân Hội giai đoạn 2001- 2008 43 Bảng 4.2: Số lượng lao động xuất khẩu của xã Tân Hội so với tỉnh Hà Tây cũ Và xã Hạ Mỗ 44 Bảng 4.3: Một số tỷ lệ về quy mô xuất khẩu lao động của xã Tân Hội 46 Bảng 4.4: Cơ cấu lao động xuất khẩu theo độ tuổi và giới tính của xã Tân Hội giai đoạn 2001- 2008 47 Bảng 4.5: Nơi cư trú của lao động xuất khẩu ở xã Tân Hội giai đoạn 2001 -2008 49 Bảng 4.6: Ngành nghề của lao động xuất khẩu ở xã Tân hội giai đoạn 2001 - 2008 50 Bảng 4.7: Tình hình chung về nhóm hộ điều tra năm 2008 55 Bảng 4.8: Tình hình sử dụng lao động của hộ điều tra năm 2008 58 Bảng 4.9: Thu nhập của các hộ điều tra năm 2008 59 Bảng 4.10: Tình hình chi tiêu của các nhóm hộ năm 2008 61 Bảng 4.11: Độ tuổi và giới tính của lao động tham gia XKLĐ ở các hộ điều tra 63 Bảng 4.12: Nơi cư trú của lao động tham gia XKLĐ 64 Bảng 4.13: Hình thức tham gia XKLĐ ở các hộ điều tra 64 Bảng 4.14: Chi phí cho lao động tham gia XKLĐ ở các hộ điều tra 66 Bảng 4.15: Trình độ học vấn của lao động trước khi tham gia XKLĐ 67 Bảng 4.16: Ngành nghề làm việc và mức độ ổn định công việc của lao động trước khi tham gia XKLĐ 68 Bảng 4.17: Tình trạng hôn nhân của lao động trước khi tham gia XKLĐ 70 Bảng 4.18: Mức độ việc làm của người lao động ở các nhóm hộ điều tra 71 Bảng 4.19: Khảo sát ý kiến về hiện tượng đi XKLĐ tại xã Tân Hội 73 Bảng 4.20: Trình độ ngoại ngữ của lao động đã về nước 75 Bảng 4.21: Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình 77 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 4.1 Quy mô xuất khẩu lao động của Tân hội, Hạ Mỗ và tỉnh Hà Tây cũ 45 Biểu đồ 4.2 Cơ cấu lao động xuất khẩu theo độ tuổi ở xã Tân Hội giai đoạn 2001-2008 47 Biểu đồ 4.3 Cơ cấu lao động xuất khẩu theo giới tính ở xã Tân Hội giai đoạn 2001-2008 48 Biểu đồ 4.4 Cơ cấu nơi cư trú của lao động xuất khẩu ở xã Tân Hội 50 Biểu đồ 4.5 Cơ cấu ngành nghề của lao động xuất khẩu ở xã Tân Hội 52 Biểu đồ 4.6 Tỷ lệ thu nhập của các nhóm hộ điều tra năm 2008 72 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất và đầu tư bùng nổ vào những thập kỷ gần đây, xuất khẩu lao động (XKLĐ) đã dần trở thành một phần không thể tách khỏi của hệ thống kinh tế thế giới. Nó là một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng của các quốc gia, đã và đang đem lại những lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể. Đối với nước ta, sự phát triển dân số và lao động (với số dân 85,8 triệu người, trong đó lực lượng lao động chiếm khoảng 60%)[11] đã gây ra những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp và gay gắt không chỉ hiện nay mà còn trong nhiều năm tới. Để có thể tạo được sự cân bằng giữa khả năng về cơ sở vật chất có hạn và mức tăng dân số, nguồn lao động ở mức chênh lệch khá cao như hiện nay thì sẽ phải tạo ra thêm hàng triệu công ăn việc làm nữa cho người lao động. Trước tình hình đó, XKLĐ đóng vai trò rất quan trọng, vì nó có thể góp phần giải quyết được hai mục tiêu quan trọng của đất nước. Thứ nhất là mục tiêu về kinh tế, XKLĐ góp phần mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động và gia đình họ. Thứ hai là mục tiêu về xã hội, nó góp phần giải quyết được việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động trong nước, tạo sự ổn định cho xã hội. Vấn đề lao động, việc làm, thất nghiệp luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia nói chung và mọi địa phương nói riêng trong tất cả các giai đoạn phát triển của thời đại, bởi vậy đề thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời để phù hợp với thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xã Tân Hội cũng như các địa phương khác trong cả nước đã và đang dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề lao động, việc làm ở địa phương. Để giải quyết việc làm cho lao động ở địa phương, Tân Hội đã đề ra không ít các giải pháp đó là phát triển nghề thủ công, xây dựng và mở rộng khu công nghiệp,… Và một trong những biện pháp hữu hiệu đã và đang được Tân Hội đẩy mạnh đó là XKLĐ. Xã Tân Hội, xuất phát là một làng nông nghiệp truyền thống sau một khoảng thời gian tìm đường sinh sống bằng nghề rèn, đạp xích lô, buôn bán, làm thuê… nay đã trở thành làng “xuất ngoại”. Từ năm 2000 đến nay xã đã có trên 600 người đi lao động ở trên 10 nước chủ yếu là ở các nước Đài Loan, Hàn Quốc, Nga, Ba Lan, Nhật Bản…và khoản tiền của mỗi người mang về hàng năm khoảng 70-100 triệu[25]. Đây quả là một khoản thu nhập không nhỏ chút nào đối với người lao động ở nông thôn. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích do XKLĐ mang lại thì cũng có không ít những vấn đề bất cập nảy sinh đối với vùng nông nghiệp truyền thống như Tân Hội. Vậy thì vấn đề đặt ra ở đây là hiện tượng đi XKLĐ ở xã Tân Hội diễn ra như thế nào? Nó có gì khác thường so với địa phương khác? Nó có tác động ra sao đối với những hộ nông dân? Họ được gì và mất đi những gì? Từ đó có thể đưa ra những giải pháp gì để đẩy mạnh quá trình phát triển XKLĐ ở xã Tân Hội? Chính từ những thực tế đó mà tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu hiện tượng đi xuất khẩu lao động và những tác động của xuất khẩu lao động đến hộ nông dân ở xã Tân Hội - huyện Đan Phượng – Hà Nội”. 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.2.1. Mục tiêu chung Trên cơ sở đánh giá thực trạng hiện tượng đi XKLĐ và những tác động của nó đến hộ nông dân nói riêng, địa phương nói chung. Từ đó đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề đi XKLĐ hiệu quả hơn. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Tìm hiểu, nghiên cứu từ đó góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề xuất khẩu lao động. - Tìm hiểu thực trạng hiện tượng đi xuất khẩu lao động ở xã Tân Hội, so sánh giữa các nhóm hộ và rút ra những tác động tích cực, những tồn tại từ hiện tượng đi xuất khẩu lao động ở xã Tân Hội. - Đề xuất một số giải pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu lao động của xã Tân Hội. 1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu các vấn đề KT-XH gắn liền với hiện tượng đi XKLĐ ở địa phương. Đối tượng nghiên cứu trực tiếp là các hộ gia đình đang có lao động đang tham gia XKLĐ và các hộ gia đình đã có lao động đi XKLĐ về. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Những tác động của hiện tượng đi XKLĐ đến hộ gia đình và địa phương trên các phương diện kinh tế - xã hội. - Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu tình hình thay đổi của các nhóm hộ có lao động đi XKLĐ từ năm 2001 đến năm 2008. - Phạm vi về không gian: Tập trung nghiên cứu hộ có lao động đi XKLĐ tại xã Tân Hội - huyện Đan Phượng - thành phố Hà Nội. 2. TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHỦ YẾU VÀ VAI TRÒ CỦA GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG NÔNG THÔN 2.1.1. Một số khái niệm 2.1.1.1. Khái niệm về lao động - sức lao động Lao động Theo Từ điển Tiếng Việt, lao động là hoạt động có mục đích của con người, nhằm tạo ra những của cải vật chất, tinh thần cho xã hội [26]. Theo giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm làm thay đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người [9]. Như vậy, lao động chính là hoạt động của con người tác động vào giới tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên theo những mục đích nhất định của mình. Con người có thể dùng sức mạnh cơ bắp hoặc trí tuệ để tác động vào tự nhiên biến chúng thành có ích cho cuộc sống của mình. Lao động có vai trò quyết định trong sự tiến hoá của loài người. Trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay, cùng với tài nguyên thiên nhiên, tư bản và năng lực kinh doanh, lao động là yếu tố chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Sức lao động Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được sử dụng trong quá trình lao động. Sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong thực hiện [3]. Trên thị trường lao động, sức lao động được coi là hàng hoá – đó là loại hàng hoá đặc biệt vì con người có tư duy, tự làm chủ bản thân mình hay nói cách khác con người là chủ thể lao động. Thông qua thị trường lao động, sức lao động được xác định giá cả, hàng hoá sức lao động cũng tuân theo quy luật của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường - sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt được trao đổi mua bán trên thị trường lao động. 2.1.1.2. Việc làm và giải quyết việc làm Việc làm Theo bộ luật lao động nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm được thừa nhận là việc làm [2]. Đại từ điển kinh tế thị trường lại định nghĩa: Việc làm là hành vi của nhân viên có năng lực lao động, thông qua hình thức nhất định kết hợp với tư liệu sản xuất để được thù lao hay thu nhập [30]. Như vậy, việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với nơi làm việc cụ thể, là những giới hạn cần thiết trong đó diễn ra quá trình lao động. Có thể nói việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, là khâu cơ bản nhất cần thiết để tạo ra sản phẩm theo mục đích sử dụng của con người. Các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: - Các công việc được trả công dưới dạng tiền lương hay hiện vật - Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hay tạo thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công cho công việc đó. Trong điều kiện hiện nay, việc làm có thể được coi là hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, tạo thu nhập hay lợi ích cho bản thân gia đình người lao động hay cho cộng đồng nào đó. Khái niệm việc làm đã được mở rộng cho thích ứng với nền kinh tế thị trường, mặt khác cũng giới hạn hoạt động lao động theo những chế định của pháp luật, ngăn chặn những hoạt động có hại cho thị trường lao động. Giải quyết việc làm Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân[20]. Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam; giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng loại thế phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới. 2.1.2. Đặc điểm của lao động việc làm ở nông thôn Ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng khu vực kinh tế nông thôn có đặc điểm là dân số tăng nhanh, cấu trúc dân số trẻ, dẫn đến số lượng lao động tăng nhanh với tốc độ cao hàng năm, vì vậy khả năng tạo việc làm của nền kinh tế luôn thấp hơn nhu cầu tìm việc làm của lao động nông thôn. Ở Việt Nam số việc làm trong năm ở nông thôn tăng chỉ đáp ứng được khoảng 65% nhu cầu việc làm [11]. Sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp là lĩnh vực tạo việc làm truyền thống về thu hút nhiều lao động của dân cư nông thôn nhưng bị giới hạn bởi diện tích canh tác vốn rất hạn hẹp và có xu hướng giảm dần do quá trình đô thị hoá về công nghiệp hoá đang phát triển mạnh. Điều đó đã hạn chế khả năng giải quyết việc làm ở nông thôn. Nếu tình trạng dân số còn gia tăng thì sự khan hiếm đất nông nghiệp ngày càng trầm trọng hơn, dẫn tới hậu quả ngày càng thiếu việc làm cho người lao động nông thôn nếu lực lượng này không được chuyển sang khu vực khác. Lao động nông thôn có đặc điểm sau: - Lao động nông thôn mang tính thời vụ: Sản xuất nông nghiệp luôn chịu sự tác động và chi phối mạnh mẽ của các quy luật sinh học và các điều kiện tự nhiên cụ thể của vùng. Quá trình sản xuất mang tính thời vụ cao có lúc cần ít lao động song cũng có thời kỳ cần nhiều lao động. Do đó khả năng thu hút lao động trong nông nghiệp nông thôn là không đều, trong từng giai đoạn sản xuất. Đối với ngành trồng trọt việc làm chỉ tập trung chủ yếu vào thời điểm gieo trồng và thu hoạch, thời gian còn lại là rất nhàn rỗi. Thời gian này tạo ra một lực lượng lao động dư thừa. Lực lượng này thường chuyển sang làm các ngành nghề khác hoặc đi các địa phương khác hành nghề để tăng thu nhập. Tính trạng thời gian nông nhàn cùng với thu nhập thấp trong sản xuất nông nghiệp là nguyên nhân gây nên hiện tượng di chuyển lao động nông thôn từ vùng này sang vùng khác, nhất là từ nông thôn lên thành thị. - Lao động nông thôn ít chuyên sâu, trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hơn so với lao động trong công nghiệp. Trong sản xuất có nhiều công việc mang tính chất khác nhau, một lao động có thể làm được nhiều việc khác nhau và cùng một công việc ấy có thể do nhiều lao động đảm nhiệm. Chính vì vậy mà lao động nông nghiệp ít chuyên sâu hơn lao động công nghiệp. Phần lớn lao động mang tính phổ thông, ít được đào tạo, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, nguồn lao động có chất xám không nhiều và phân bố không đều. Vì vậy mà làm cho hiệu suất lao động thấp, khó khăn trong việc đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. - Lao động nông thôn có việc làm không ổn định và rất đa dạng, hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra trên phạm vi rộng. Không gian rộng lớn lại phụ thuộc vào các yếu tố về tự nhiên, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ sản xuất … nên sản xuất nông nghiệp mang tính rủi ro cao (do thời tiết, khí hậu, sâu bệnh…) vì vậy công việc của người lao động thường không ổn định và rất bấp bênh, có lúc dư thừa việc làm (mùa vụ), có lúc lại thiếu việc làm. 2.1.3. Vai trò của giải quyết việc làm Việc làm và giải quyết việc làm có ý nghĩa vô cùng to lớn trong phát triển kinh tế. Bởi vì sự phát triển của một nền kinh tế phụ thuộc vào vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực và nguồn vốn. Trong đó, việc sử dụng nguồn lực có vai trò quan trọng và quyết định sự phát triển đó. Lực lượng lao động có thể là động lực hoặc là yếu tố cản trở sự phát triển kinh tế xã hội. Việc làm là vấn mang tính chất xã hội. Mỗi con người khi trưởng thành đều có nhu cầu và mong muốn làm việc. Việc làm có ý nghĩa rất quan trọng, đem đến thu nhập cho mỗi cá nhân, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp nhân dân. Giải quyết được việc làm cho người lao động sẽ tạo nguồn thu nhập cho họ, giúp họ ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống. Mặt khác, qua làm việc sẽ tạo điều kiện hoàn thiện các kĩ năng lao động, kĩ năng sống cho người lao động ở nông thôn. Góp phần điều tiết thị trường lao động, từ đó tác động đến an ninh xã hội kinh tế cũng là vai trò quan trọng của giải quyết việc làm. Việc làm là một trong những vấn đề nổi cộm nhất, thiết thực nhất ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội nhất là ở khu vực nông thôn, nơi tập trung một lực lượng lớn lao động. 2.2. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH THỊ TRƯỜNG KINH TẾ QUỐC TẾ 2.2.1. Di cư quốc tế Khi thị trường thế giới ngày càng mở rộng, việc di cư có cơ hội được thực hiện dễ dàng thông qua các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia các tổ chức kinh tế, khi đó di cư lao động quốc tế ngày càng trở thành hiện tượng phổ biến gắn với các hoạt động của các quốc gia thì thuật ngữ XKLĐ được sử dụng rộng rãi. Trong thực tế, XKLĐ quốc tế diễn ra bằng hai con đường chính thức và phi chính thức. Di cư lao động bằng con đường chính thức là việc XKLĐ thông qua các chính phủ, các tổ chức kinh tế hoặc các pháp nhân, cá nhân được sự đồng ý của chính phủ nước đi và nước đến. XKLĐ bằng con đường chính thức hay còn gọi là di cư lao động theo hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế, cá nhân được sự xác nhận và đồng ý của chính phủ nước đi và nước đến. XKLĐ bằng con đường chính thức ngày càng tăng về số lượng và chủng loại. Di cư lao động không chính thức hay còn gọi là di cư lao động không theo hợp đồng, là việc lao động bằng con đường không thông qua Nhà nước của nước lao động ra đi và nước lao động đến thực hiện việc di cư. Lao động di cư theo hình thức này được thực hiện bằng cách: thông qua các tổ chức buôn lậu người để vào nước sử dụng lao động, thông qua hình thức du lịch, thăm thân nhân, sau đó ở lại nước sử dụng lao động chốn khỏi nơi đợc chỉ định làm việc ngay cả khi đang còn thời hạn hợp đồng hoặc sau quá trình học tập và lao động ở nước ngoài không trở về nước mà ở lại nước xây dựng lao động. Đây là hình thức di cư có thể gặp nhiều rủi ro và nảy sinh nhiều vấn đến tiêu cực. Xem xét hiện tượng di cư lao động quốc tế trong quá trình lịch sử cho ta thấy có một số nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất, sự chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các quốc gia, giữa các vùng tạo ra luồng lao động di cư. Lịch sử phát triển kinh tế các quốc gia trên thế giới cho thấy việc di cư có thể do chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai nhưng luồng di cư do nguyên nhân kinh tế chiếm nhiều nhất. Do quy luật phát triển không đều giữa các quốc gia, khu vực nên dân cư ở nước này, khu vực này có mức sống cao hơn quốc gia, khu vực kia. Từ đó dẫn đến việc dân cư ở khu vực có mức sống thấp có xu hướng thích di cư sang những nơi có mức sống cao hơn. Về phía các nước nhập cư, sự tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia, các khu vực trên thế giới thường kéo theo sự phát triển và mở rộng sản xuất dịch vụ. Khi đó, nguồn lao động trong nước không đáp ứng đợc nhu cầu về số lượng chủng loại, gây tình trạng thiếu hụt lao động. Để đảm bảo sự phát triển các nước này phải tính đến việc nhập khẩu lao động nước ngoài. Thứ hai, sự mất cân đối nguồn lao động với số chỗ làm việc trong nước cũng là nguyên nhân của việc di cư. Tại một số nước đang phát triển có tỉ lệ tăng dân số hàng năm cao, nguồn nhân lực dồi dào trong khi sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu về chỗ làm việc khiến các nước này phải đơng đầu với sức ép về dân số và việc làm. Tình trạng thất nghiệp tăng lên. Trong khi đó, có những nước đất rộng người thưa, có nhu cầu khai thác đất đai, tài nguyên cho sự phát triển nên thiếu lao động hoặc có một số nước phát triển thu nhập quốc dân đầu người cao, trình độ dân trí cao, người dân không muốn có con hoặc không muốn có nhiều con tỉ lệ sinh thấp, đời sống vật chất cao, các điều kiện chăm sóc con người ngày càng tốt nên tỉ lệ chết thấp dẫn đến tỉ lệ phát triển dân số thấp, dân số ngày càng “già” đi làm cho dân số trong độ tuổi lao động ngày càng giảm cũng dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động. Các nước như Đức, Nhật Bản, Thuỵ Sĩ hiện đang rơi vào tình trạng này. Thứ ba, sự phân bổ tài nguyên địa lý không đồng đều giữa các nước cũng là một trong những nguyên nhân tạo nên luồng lao động di cư. Đối với nhiều nước, khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, việc khai thác nguồn tài nguyên ngoài việc đòi hỏi phải có vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý thì lao động là một trong những yếu tố không thể thiếu để bù đắp lượng lao động còn thiếu là cần thiết và hợp lý. 2.2.2. Xuất khẩu lao động và vai trò xuất khẩu lao động 2.2.2.1. Khái niệm về xuất khẩu lao động Có rất nhiều khái niệm khác nhau về XKLĐ, dưới đây là một số khái niệm cơ bản về XKLĐ. Thứ nhất, phát triển hợp tác quốc tế trong việc tổ chức đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam (trừ những cán bộ, công chức được quy định tại pháp lệnh cán bộ, công chức đi thực hiện nhiệm vụ, công vụ ở nước ngoài do sự phân công của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền) đi làm việc ở nước ngoài có thời hạn là một hoạt động KT-XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, tăng nguồn thu cho đất nước và tăng cường hợp tác quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới [7]. Khái niệm thứ hai, XKLĐ là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung và là một bộ phận của kinh tế đối ngoại, hàng hoá đem xuất khẩu là sức lao động của con người, còn khách mua là chủ thể người nước ngoài. Nói cách khác XKLĐ là một hoạt động kinh tế dưới dạng dịch vụ cung ứng lao động cho người nước ngoài, mà đối tượng của nó là con người [7]. Trong chỉ thị số 41-CT/TW ngày 29/9/1998 của Bộ Chính trị cũng khẳng định với chúng ta rằng: “XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động KT-XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước”. Như vậy XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu đặc biệt trong đó hàng hoá được bán là sức lao động của con người, chính vì vậy nhà nước, doạnh nghiệp XKLĐ cũng như chính bản thân người lao động cần phải hết sức chú ý đến hoạt động này, nó không chỉ mang lại thu nhập cao cho người lao động mà còn đóng một vai trò rất lớn trong sự phát triển của mỗi quốc gia. 2.2.2.2. Vai trò của xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động đóng một vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia đặc biệt là những nước có nền kinh tế chậm và đang phát triển như Việt Nam. Trước hết, XKLĐ có một vai trò đặc biệt trong việc giải quyết việc làm và ổn định thị trường lao động. Đối với các quốc gia có nền kinh tế chưa phát triển khối lượng việc làm tạo ra trong xã hội là rất hạn chế so với khối lượng lao đông trong độ tuổi rất dồi dào của họ bởi vậy thất nghiệp và giải quyết việc làm luôn là vấn đề đau đầu của các nhà lãnh đạo quốc gia. Ở Việt Nam, hiện nay có khoảng 400.000 lao động và chuyên gia làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề, mỗi năm tăng thêm khoảng trên dưới 70.000 người riêng năm 2006 Việt Nam đã đưa được 78.655 lao động đi làm việc ở nước ngoài, chín tháng đầu năm 2007 đưa được 62760 lao động đi làm việc ở nước ngoài [21]. Với những con số ấn tượng trên chúng ta có thể nhận thấy rằng xuất khẩu lao động đã giải quyết được việc làm cho một khối lượng lớn lao động, tỷ lệ lao động xuất khẩu lao động trong tổng số lao động được giải quyết việc làm giai đoạn 2001 – 2005 khoảng 3,42 %. Tuy chưa phải là một con số cao song con số đó cũng cho thấy rằng xuất khẩu lao động đã góp một phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm cho nước ta trong thời gian qua. Còn đối với các quốc gia nhập khẩu lao động thì việc nhận thêm lao động sẽ giúp họ giải quyết được tình trạng thiếu hụt lao động trong những ngành nghề mà lao động trong nước không muốn làm như lương thấp, độc hại, vất vả nặng nhọc hoặc những công việc cần lao động thủ công hay thiếu hụt lao động do nguồn lao động trong nước ít. Không chỉ đơn thuần mang tính chất giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa mà xuất khẩu lao động còn góp phần rất lớn vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước nhờ có khoản thu nhập cao hơn rất nhiều so với mức lương ở trong nước điển hình như thu nhập bình quân của lao động tại Malaysia là 2 – 3 triệu đồng / 1 tháng, tại Đài Loan là 300 – 500 USD/tháng, tại Hàn Quốc là 900 -1.000 USD/ tháng [21]. Với con số ngoại tệ gửi về nước mỗi năm lên đến 1,5 tỷ USD xuất khẩu lao động ở Việt Nam đã trở thành một trong những ngành nghề mang lại nguồn thu ngoại tệ cao cho quốc gia. Không dừng lại ở đó, xuất khẩu lao động còn góp phần làm tăng thu ngân sách nhà nước nhờ có những khoản thuế thu từ hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và từ khoản ngoại tệ lao động gửi về nước. Như vậy, xuất khẩu lao động vừa trực tiếp lẫn gián tiếp góp phần thúc đẩy sự phát triển và ổn định xã hội. Xuất khẩu lao động còn là một trong những công cụ hữu hiệu cho việc chuyển giao công nghệ tiên tiến hiện đại của nước ngoài thông qua quá trình đào tạo và làm việc ở nước ngoài của người lao động.Thông qua đó quốc gia có lao động đi xuất khẩu sẽ có được một đội ngũ lao động có tay nghề trình độ cao, có tác phong công nghiệp và ý thức kỷ luật cao. Hoạt động xuất khẩu lao động cũng là cầu nối để quốc gia tăng cường quan hệ hợp tác về mọi mặt, giúp cho sự giao lưu giữa các nền văn hoá trên thế giới ngày càng được mở rộng. Nói tóm lại công tác xuất khẩu lao động có một vai trò rất lớn đối với mỗi quốc gia bởi vậy Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đây là một trong những công tác trọng điểm mang tính chiến lược cho quốc gia trong thời gian tới. 2.2.3. Đặc điểm của XKLĐ XKLĐ mang tính tất yếu khách quan XKLĐ diễn ra chủ yếu là do giữa các nước trên thế giới có sự chênh lệch về kinh tế - xã hội. Những nước giàu có nền kinh tế phát triển mạnh thường có nhiều lao động có tay nghề cao, nhiều chuyên gia giỏi có trình độ cao mà lại thiếu những lao động phổ thông, lao dông cho những công việc vất vả, nặng nhọc, độc hại hoặc những công việc có thu nhập tương đối thấp so với thu nhập chung của xã hội. Điều ngược lại lại diễn ra tại những quốc gia nghèo đang phát triển, nơi mà dân số đông nên rất dồi dào về lao động song do nền kinh tế chậm phát triển nên trình độ lao động còn thấp chủ yếu là lao động giản đơn thủ công là chính công thêm với mức thu nhập thấp, thiếu việc làm, thiếu hụt những chuyên gia giỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.Cũng tương tự như quy tắc hai bình thông nhau trong vật lý vậy điều đương nhiên sẽ xảy ra là lao động từ chỗ dư thừa sẽ chảy về chỗ thiếu hụt. Đó cũng chính là nguyên lý chính của quy luật cung – cầu trong nền kinh tế thị trường. XKLĐ là một hoạt động xuất nhập khẩu đặc biệt Trong hoạt động xuất khẩu lao động, người lao động sẽ đem “bán” sức lao động của mình cho chủ sử dụng lao động ở nước ngoài và nhận về khoản tiền công là tiền lương được trả. Chính vì sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt nên tính chất của xuất khẩu lao động không chỉ đơn thuần như hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa thông thường, tranh chấp về hàng hoá giữa các nước đã là một việc khó giải quyết bao nhiêu thì tranh chấp và những vi phạm tr._.ong việc xuất khẩu lao động giữa các nước lại càng khó giải quyết và xử lý hơn rất nhiều. Bởi đó mà đòi hỏi phải có sự quản lý và quan tâm đặc biệt của Nhà nước. XKL Đ mang tính lợi ích cao Đối với quốc gia hoạt động xuất khẩu lao động mang lại một khoản thu cho ngân sách nhà nước nhờ khoản thuế thu từ hoạt động của các công ty, doanh nghiệp xuất khẩu lao động và khoản ngoại tệ người lao động gửi về nước. Hơn nữa, đối với quốc gia xuất khẩu lao động còn giúp giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, thông qua xuất nhập khẩu đẩy nhanh được tiến trình phát triển đất nước và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Đối với các doanh nghiệp, công ty xuất khẩu lao động: hoạt động xuất khẩu lao động mang lại lợi nhuận trước hết cho các nhân viên của doanh nghiệp nhờ vào các khoản thu từ chi phí đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài như phí môi giới, phí đào tạo,... sau đó là mang lại lợi ích cho chủ doanh nghiệp nhờ khoản lợi nhuận thu được từ hoạt đông của doanh nghiệp. Đối với các đối tượng đi xuất khẩu lao động và người thân: khoản lợi ích mà họ nhận được chính là khoản tiền lương họ được nhận và gửi về nước cho người thân. Khoản tiền đó còn có thể trở thành khoản vốn đầu tư cho những người lao động sau khi họ trở về nước, giúp họ làm giàu và cải thiện cuộc sống của gia đình và bản thân. Một lợi ích vô hình nữa mà họ nhận được từ việc đi xuất khẩu lao động đó là được nâng cao trình độ tay nghề, ý thức lao động, kỷ luật,… cho bản thân họ điều mà ở trong nước không thể có được. Không chỉ mang lại lợi ích lớn cho các quốc gia đưa lao động đi xuất khẩu mà đối với các nước tiếp nhận hoạt động này cũng mang lại những lợi ích không nhỏ. Trước tiên là nó bù đắp được một khối lượng lao động đang bị thiếu hụt ở những nước này. Kế đến là khoản tiền lương phải trả cho lao động nước ngoài là tương đối rẻ so với khoản lương phải trả cho lao động trong nước. XKL Đ mang tính xã hội cao XKLĐ không chỉ đơn giản là một hoạt động kinh tế đơn thuần mà nó còn mang tính xã hội rất cao. Việc xuất khẩu lao động giúp cho các quốc gia giải quyết được phần nào những hạn chế của thi trường lao động như giải quyết việc làm cho những lao động dư thừa, giảm thiểu thất nghiệp ở những quốc gia đưa lao động đi xuất khẩu và giải quyết được tình trạng thiếu hụt lao động ở những nước tiếp nhận. Hoạt động xuất khẩu lao động không chỉ đơn giản là đem sức lao động của người lao động từ nước này sang nước kia mà nó còn đem theo cả một khối lượng dân cư từ nước đưa lao động đi xuất khẩu tới nước tiếp nhận lao động. Biên giới giữa các quốc gia không chỉ là mốc ngăn cách các quốc gia với nhau mà còn ngăn cách cả nền văn hoá, lối sống, tín ngưỡng,... của các quốc gia đó. Chính vì lẽ đó hoạt động xuất khẩu lao động cũng kèm theo nó là một loạt những xáo trộn cho cả xã hội tại nơi tiếp nhận và nơi lao động được đưa đi. Xuất khẩu lao động cũng góp phần cải thiện đời sống của nhân dân thông qua khoản thu nhập mà người lao động gửi về cho gia đình và người thân. Đây cũng là một trong những biện pháp hiệu quả để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo cho nhân dân. XKLĐ cũng có tính cạnh tranh Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động xuất khẩu lao động cũng được đặt trong một môi trường cạnh tranh gay gắt. Sự cạnh tranh đến trước hết là từ phía những người lao động với nhau. Bởi số lượng lao động được chọn đi xuất khẩu lao động sang các nước là có hạn mà dân số đông, nguồn lao động dư thừa lớn nên họ phải cạnh tranh nhau trên con đường đi đến việc có được một xuất đi lao động nước ngoài. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa những người lao động mà còn giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Họ phải cạnh tranh nhau khi cùng xuất khẩu vào một thị trường, khi cùng hoạt động trên một địa bàn... Sự cạnh tranh cũng không chỉ diễn ra trên lãnh thổ của một quốc gia mà còn vượt ra trên toàn thế giới khi mà có rất nhiều quốc gia cùng cố gắng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động đó là những quốc gia còn đang gặp khó khăn và cùng sử dụng biện pháp xuất khẩu lao động làm bàn đạp cho sự phát triển của nền kinh tế. Ta có thể đơn cử ngay như trong khu vực Đông Nam Á, không chỉ có Việt Nam mà còn nhiều nước cũng hoạt động xuất khẩu lao động như Inđônêsia, Philippin,... XKLĐ là hoạt động có tính rộng rãi trên toàn thế giới Nghe nói đến xuất khẩu lao động có thể người ta chỉ nghĩ rằng việc làm đó chỉ dành cho các quốc gia đang và kém phát triển, nơi mà nguồn lao động dồi dào dẫn đến dư thừa, còn các quốc gia phát triển sẽ chỉ là nước tiếp nhận lao động. Song thực tế không phải như vậy, hoạt động xuất khẩu lao động lại diễn ra trên hầu hết các nước kể cả các nước phát triển. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển họ xuất khẩu lao động của mình sang các nước phát triển khác để làm việc hoặc tới các quốc gia đang và kém phát triển thông qua các chương trình, dự án đầu tư. Đặc điểm nổi bật của hoạt động xuất khẩu lao động ở các nước phát triển là lao động xuất khẩu của họ là lao động chất xám có chất lượng cao, trình độ và tay nghề cao còn các nước đang và kém phát triển thì hầu hết là lao động giản đơn, không lành nghề. XKLĐ phụ thuộc nhiều vào chính sách của các quốc gia Xuất khẩu lao động là một hoạt động có liên quan đến mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia với nhau bởi thế chính sách của mỗi quốc gia có liên quan mật thiết đến hoạt động xuất khẩu lao động. Chính sách, pháp luật của quốc gia đưa lao động đi xuất khẩu có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu lao động của nước đó là điều đương nhiên rồi vì nó quyết định đến sự khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu của hoạt động xuất khẩu lao động nhưng chính sách, pháp luật của quốc gia tiếp nhận lao động cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu lao động, ví dụ một quốc gia đưa ra chính sách hạn chế lượng người nước ngoài nhập cư thì ngay lập tức sẽ hạn chế hoạt động xuất khẩu của những quốc gia có lao động đi làm việc tại nước đó và ngược lại. 2.2.4. Mối quan hệ giữa xuất khẩu lao động và giải quyết việc làm trong hội nhập kinh tế quốc tế Việc làm có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì thế, vai trò của tạo việc làm càng trở lên quan trọng đặc biệt là trong tiến trình hội nhập kinh tế. Quá trình hội nhập diễn ra kéo theo sự cạnh tranh ngày càng găy gắt giữa các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội. Cùng với nó là sự phát triển công nghệ đòi hỏi người lao động ngày càng phải nâng cao tình độ hơn nữa. Vấn đề cạnh tranh trong công việc ngày một nảy sinh, người lao động luôn có nguy cơ mất hoặc thiếu việc làm. Vì thế tạo việc làm đầy đủ cho người lao động sẽ tạo điều kiện kiện cho người lao động ổn định cuộc sống, làm giảm bớt sự cạnh tranh trong công việc, đồng thời sẽ làm giảm các tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng xã hội ngày một văn minh, giàu mạnh. Trong các giải pháp tạo việc làm, XKLĐ là một giải pháp quan trọng đem lại hiệu quả cao. XKLĐ vừa tạo ra việc làm cho hàng loạt lao động mà lại không phải tốn nhiều vốn để đầu tư vào việc tạo ra việc làm. Hơn nữa sau khi hết hợp đồng làm việc, người lao động sẽ thu được khoản tiền lớn hơn nhiều lần so với số tiền họ phải bỏ ra cho việc chi phí ban đầu. Và cũng qua hoạt động này đem lại cho ngân sách nhà nước một lượng ngoại tệ khá lớn. XKLĐ tạo ra việc làm cũng đồng nghĩa là làm giảm bớt tình trạng thất nghiệp, giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra. Và quan trọng nhất XKLĐ góp phần làm giảm sức ép cho các chính sách về việc làm. Như vậy, XKLĐ và tạo việc làm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, góp phần hỗ trợ, hoàn thiện và bổ sung cho nhau. Tạo việc làm xúc tiến cho quá trình XKLĐ, còn XKLĐ góp phần giải quyết việc làm, thực thi các chính sách giải quyết việc làm. 2.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM, BÀI HỌC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 2.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về xuất khẩu lao động * Thái Lan Thái Lan bắt đầu XKLĐ từ những năm 1970 khi ở Trung Đông bùng nổ xây dựng công trình khai thác dầu lửa. Số lượng lao động xuất khẩu trong 10 năm gần đây của Thái Lan bình quân là 200.000 người/năm. Trong đó hơn 50% đến làm việc tại Đài Loan. Lượng ngoại tệ do lao động Thái Lan làm việc ở nước ngoài chuyển về nước qua hệ thống Ngân hàng tăng từ 52 tỷ Bạt năm 1997 lên trên mức 60 tỷ Bạt các năm 1998 và năm 1999 tương đương 1.5 tỷ USD [3]. Về cơ cấu lao động xuất khẩu, phần lớn lao động Thái Lan đi nước ngoài làm việc là lao động không nghề, có trình độ học vấn thấp khoảng 50% chủ yếu từ các vùng nông thôn trong đó phần lớn từ vùng Đông Bắc Thái Lan nơi người dân có nhiều khó khăn về kinh tế. Về chính sách, Thái Lan thực hiện chính sách tự do hóa XKLĐ. Thời kỳ đầu, hoạt động XKLĐ do cá nhân người lao động và các đại lý môi giới tư nhân thực hiện, nhiều lao động Thái Lan ra nước ngoài bằng visa du lịch rồi ở lại làm việc bất hợp pháp. Sau đó để bảo vệ quyền lợi người lao động nước thuộc Tổng cục lao động Bộ nội vụ, Văn phòng quản lý việc làm người nước ngoài có chức năng giám sát họat động của các đại lý tuyển mộ lao động tư nhân, xây dựng các tiêu chuẩn, điều kiện là bảo vệ người lao động ở nước ngoài. Ở Thái Lan cũng có hiện tượng lừa đảo người lao động để chiếm đoạt tiền đặt cọc và dịch vụ phí của người lao động muốn đi XKLĐ. Trong nhiều trường hợp, chính phủ không thể can thiệp vì các công ty này giải thể rất nhanh. Đối với công ty tuyển mộ tư nhân có giấy phép, nếu có vi phạm cũng bị xử lý và thu hồi giấy phép. Về chủ trương và định hướng chung, chính phủ Thái Lan áp dụng triệt để và nhất quán các biện pháp nhằm thúc đẩy việc XKLĐ để giảm tiình trạng thất nghiệp trong nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, hiện nay chính phủ Thái Lan đã bắt đầu quan tâm đến việc làm sao để nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cấu cho lao động xuất khẩu. * Indonesia Indonesia là một nước xuất khẩu lao động lâu năm với quy mô lớn. Từ những năm 1930 đến những năm 1950 đã có hơn 200.000 người di cư sang lao động tại các đảo của Malaysia. Theo Bộ nhân lực giai đoạn từ 1969 dến 1993 đã có 877.400 người ra nước ngoài làm việc số lượng tăng nhanh từ 7.400 người năm 1970 lên đến 405.000 người năm 1980 và giai đoạn 1989 đến 1993 đã có 465.000 người. Những năm từ 1994 đến 1998 số lượng lao động Indonesia tăng nhanh, từ 2,1 triệu người tăng lên 3,2 triệu người theo Asian Migration News 1998 nguồn ngoại tệ do lao động chuyển về theo con đường chính thức năm 1996 đến 1998 là khoảng 2,72 tỷ USD. Trên thực tế số ngoại tệ thu được có thể gấp 2-3 lần [3]. Thị trường lao động Indonesia đến làm việc tập trung tại một số nước và khu vực như: Đông Nam Á, Malaysia, Singapore, Bruney, Đông Bắc Á Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản… Về chính sách, để đẩy mạnh XKLĐ Indonesia xây dựng chính sách về hệ thống tuyển mộ và đào tạo lao động chính sách đưa lao động đi nước ngoài làm việc và chính sách quan hệ hợp tác lao động với nước ngoài, chính phủ Indonesia can thiệp vào XKLĐ thông qua việc quản lý thống nhất và chỉ đạo chặt chẽ chương trình việc làm ngoài nước. Năm 1994 Chính phủ Indonesia đã ban hành Nghị định về thủ tục và hệ thống tuyển mộ, việc thành lập các công ty tuyển mộ lao động, các điều kiện và các yêu cầu đối với tổ chức tuyển mộ quy định XKLĐ việc giải quyết tranh chấp các vấn đề pháp lý khác. Tuy nhiên, việc quản lý hoạt động XKLĐ của Indonesia cũng còn nhiều thiếu sót do những bất cập của pháp luật và sự không tuân thủ các quy định của công ty tuyển mộ và người lao động, những phạm vi lừa đảo về XKLĐ thường được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. * Hàn Quốc Đặc điểm cơ bản của XKLĐ ở Hàn Quốc là lĩnh vực XKLĐ chủ yếu là ngành xây dựng, trong khi đó Hàn Quốc lại nhập khẩu rất nhiều lao động các ngành khác để đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động trong nước. Hàn Quốc có luật đẩy mạnh công tác xây dựng ở nước ngoài. Luật này cho phép công an Hàn Quốc ra nước ngoài làm việc khi có giấy phép của Bộ lao động Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc thực hiện hai chức năng chủ yếu. Thứ nhất, quản lý khu vực tư nhân tham gia trình XKLĐ. Thứ hai, thực hiện việc tuyển dụng và bố trí làm việc. Chính phủ đã theo đuổi một chương trình chủ động đẩy mạnh việc XKLĐ bằng cách chỉ đạo Bộ xây dựng tham gia đấu thầu xây dựng ở nước ngoài, Bộ ngoại giao hướng dẫn Đại sứ quán tìm kiếm thị trường Bộ lao động hỗ trợ các đại lý tuyển mộ lao động duy trì lực lượng lao động để các công trình xây dựng ở nước ngoài. Công dân đủ tiêu chuẩn đi lao động ở nước ngoài đăng ký danh sách tại cơ quan lao động và được giải quyết các thủ tục nhanh chóng thuận lợi. Công tác đào tạo lao động xuất khẩu được đặc biệt quan tâm. Chính phủ xác định các loại ngành nghề nào cần đầo tạo và yêu cầu các công ty tuyển mộ phải thực hiện việc đào tạo công nhân. Các đại lý tuyển mộ lao động xuất khẩu phải có giấy phép và phải ký quỹ một khoản tiền lương tương đương với 130.000 USD. Các hãng xây dựng phải có các điều kiện về trình độ kỹ thuật, vốn kinh nghiệm. Bộ lao động thực hiện việc kiểm tra thường xuyên các đại lý tuyển mộ để ngăn chặn các vi phạm trong XKLĐ [3]. Chính phủ rất quan tâm đến vấn đề phúc lợi và bảo vệ công dân, quy định các điều kiện cơ bản và tối thiểu về thời gian hạn hợp đồng thời gian làm việc chế độ nghỉ phép và quy định một số ưu đãi về tỷ suất thuế thu nhập về nhà ở sau khi về nước, phiếu mua hàng, quà tặng, cho người lao động để khuyến khích họ làm việc tốt. * Philippin Philippin là một nước có hệ thống XKLĐ có tổ chức và là mô hình tốt cho các nước XKLĐ ở Châu Á. Bộ lao động và ciệc làm là có trách nhiệm xây dựng các chính sách, phối hợp và quản lý tất cả các vấn đề liên quan đến lao động và ciệc làm ở Philippin Chính phủ Philippin quy định chức năng của văn phòng dịch vụ việc làm để quản lý dịch vụ tuyển chọn tư nhân và lập ra Ban phát triển việc làm ngoài nước để tuyển mộ công nhân làm việc trên đất liền, Ban thủy thủ quốc gia để quản lý các đại lý tàu biển thuê thuyền viên. Chính phủ giao cho Văn phòng dịch vụ việc làm, ban phát triển việc làm ngoài và Ban thủy thủ quốc gia xem xét các hợp đồng trước khi lao động được thuê (trên cơ sở các điều kiện, tiêu chuẩn cho chính phủ quy định). Năm 1982 để đảm bảo cho lao động xuất khẩu được hưởng các điều kiện làm việc công bằng và nhận các dịch vụ xã hội và phúc lợi một cách thuận tiên, chính phủ đã thành lập hai cơ quan thuộc Bộ lao động và việc làm chịu trách nhiệm về XKLĐ đó là: Cục quản lý việc làm ngoài nước Philippin và cục phúc lợi lao động ngoài nước. Đối với các công tuyển dụng lao động chính phủ quy định chỉ những công ty Philippin hoặc những công ty liên doanh mà ngư dân Philippin giữ 75% vốn pháp định trở lên mới được cấp giấy phép hoạt động XKLĐ. Về giấy phép ở Philippin có 3 loại giấy phép XKLĐ giấy phép cấp cho các công ty tuyển dụng lao động và bố trid việc làm trên biển, giấy phép cấp cho các nhà thầu khoán xây dựng để tuyển mộ và bố trí việc làm cho công nhân làm việc tại các công trình xây dựng mà người Philippin nhận thầu ở nước ngoài. Chính phủ Philippin cũng đưa ra các biện pháp để chống lại việc vi phạm quy định của chính về XKLĐ. Các hành vi vi phạm như: tuyển không có giấy phép, cung cấp các thông tin không đúng, thu nhận tiền quá mức quy định của chính phủ… sẽ bị phạt từ 6 tháng đến 12 năm tù và phạt tiền từ 200.000 đến 500.000 pesos tương đương 8.000 USD đến 20.000 USD [3]. 2.3.2. Hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam 2.3.2.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam Như đã phân tích ở trên hoạt động xuất khẩu lao động có tính tất yếu khách quan, chính vì vậy mà Việt Nam cũng giống như các nước đang phát triển khác trên thế giới không thể không triển khai hoạt động xuất khẩu lao động. Với dân số khoảng 85,8 triệu người, trong đó 49,5% nam giới và 50,5% nữ giới. Việt Nam được xếp vào hàng ngũ đông dân thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 13 trong tổng số các nước đông dân nhất thế giới. Trong đó có khoảng 60% lao động (nữ chiếm 48,7%), mỗi năm tăng thêm bình quân trên 1 triệu người, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề khoảng 20%, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 5% nhưng con số thiếu việc làm ở nông thôn thì còn cao hơn rất nhiều, số việc làm được tạo ra mới chỉ đáp ứng được khoảng trên dưới 40% số lao động[11]. Những con số trên cho thấy tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm đang là một trong những vấn đề nổi cộm của nền kinh tế Việt Nam, những biện pháp thu hút đẩy mạnh đầu tư luôn được khuyến khích song chỉ giải quyết được một phần nào tình trạng thiếu việc làm, do đó xuất khẩu lao động là lựa chọn hữu hiệu và cần thiết cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay không chỉ là vì giải quyết được phần nào lao động dư thừa mà còn vì những lợi ích to lớn mà hoạt động này mang lại cho quốc gia. 2.3.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam Hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam bắt đầu diễn ra từ năm 1980.Trong suốt thời gian này cùng với sự biến đổi của đất nước hoạt động xuất khẩu lao động cũng đã có những bước biến đổi lớn, cụ thể: Thời kỳ đầu từ năm 1980 đến năm 1990: Đây là thời kỳ nước ta vẫn còn áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập chung do vậy thị trường xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là các nước thuộc khối các nước xã hội chủ nghĩa như các nước Đông Âu gồm Liên Xô (cũ), Cộng hòa dân chủ Đức (cũ), Tiệp Khắc (cũ) và Bungari thông qua việc Nhà nước ký kết các Hiệp định lao động và đứng ra trực tiếp thực hiện. Thời kỳ này cũng có một bộ phận lao động không nhỏ được dưa sang các nước như Iraq, Libya,… một số chuyên gia trong lĩnh vực y tế, nông nghiệp và giáo dục thì được đưa sang làm việc ở một số nước thuộc Châu Phi. Khối lượng lao động được đưa đi trong thời gian này là 250.000 lao động, khoảng hơn 7.000 lượt chuyên gia đi làm việc và 23.713 thực tập sinh vừa học vừa làm ở nước ngoài, thu về cho ngân sách khoảng 800 tỷ đồng, hơn 300 triệu USD và khối lượng hàng hóa người lao động đưa về nước với giá trị hàng nghìn tỷ đồng [3]. Tuy thời kỳ này Nhà nước chưa thực sự quan tâm nhiều đến hoạt động xuất khẩu song đây cũng là điểm khởi đầu khá tốt cho hoạt dộng này sau này. Thời kỳ thứ hai là thời kỳ từ năm 1991 đến nay: Thời kỳ này mở đầu bằng sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu dẫn đến sự tan dã của khối SEV buộc Nhà nước ta phải nhanh chóng đổi mới chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Kể từ đó đến nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế đất nước, hoạt động xuất khẩu lao động cũng được quan tâm một cách đúng mực. Số lượng người đi làm việc ở nước ngoài tăng lên một cách nhanh chóng, từ con số 1.022 người năm 1991 đến năm 2000 đã tăng lên là 31.500 người và năm 2006 là 78.655 người.Tính đến nay nước ta đã có khoảng 400.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài với mức lương trung bình khoảng 400 – 500 USD/tháng tập trung chủ yếu ở các thị trường: Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan, Trung Đông,...Xuất khẩu lao động cũng trở thành một kênh đem lại nguồn thu nhập quan trọng cho đất nước. Theo tính toán, trung bình mỗi năm số lao động gửi về nước khoảng 1,5 tỷ USD, bình quân mỗi tháng họ gửi về cho gia đình khoảng 302,5USD [3]. Trong thời gian tới, nước ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của công tác xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu lao động của ta còn gặp nhiều hạn chế do trình độ và chất lượng của lao động xuất khẩu chưa cao, chưa tìm được đường vào cho những thị trường lớn, có thu nhập cao như EU, Hoa Kỳ,... Sau hơn 20 năm hình thành và phát triển, những thành tựu mà hoạt động xuất khẩu lao động mang lại cho Việt Nam là rất đáng kể, bởi vậy Đảng và Nhà nước ta cần phải tập trung, quan tâm hơn nữa đến công tác này để trong thời gian tới tiếp tục phát triển hoạt động xuất khẩu lao động hơn nữa nhằm đưa hoạt động này cùng với những hoạt động kinh tế mũi nhọn khác thực sự trở thành bàn đạp đưa nền kinh tế nước ta trở thành một nền kinh tế phát triển, hoàn thành mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Từ thực tế hoạt động XKLĐ ở Việt Nam trong thời gian qua có thể đánh giá khái quát như sau: Về ưu điểm: Lĩnh vực XKLĐ đã và đang từng bước đổi mới phương thức hoạt động, phát triển nhiều hình thức dịch vụ tiến bộ, đầu tư có trọng điểm và nâng cao năng lực cạnh tranh. Lao động và chuyên gia đang làm việc ở nước ngoài với nhiều ngành nghề đa dạng như xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt may, chế biến thuỷ sản, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản, chuyên gia y tế, giáo dục, tin học… Dịch vụ XKLĐ đã góp phần làm cho hàng vạn người có việc làm với thu nhập cao; giảm được khoản đầu tư khá lớn cho đào tạo nghề và giải quyết việc làm trong nước, người lao động được nâng cao tay nghề, tiếp thu được công nghệ sản xuất mới và phương pháp quản lý tiên tiến, được rèn luyện tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp. Thị trường xuất khẩu lao động của nước ta từng bước ổn định và mở rộng, số thị trường nhận lao động Việt Nam ngày càng tăng lên. Việc chỉ đạo khai thác, củng cố và mở rộng thị trường đã được định hướng: tập trung khai thác, củng cố các thị trường trọng điểm, từng bước tiếp cận, thí điểm để mở rộng sang các khu vực. Các hợp đồng ký kết với đối tác nước ngoài đều phù hợp với luật pháp nước ta và luật pháp nước sử dụng lao động, phù hợp với mặt bằng thị trường và bảo đảm bảo được quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Về hạn chế: Số lượng lao động đưa đi của các doanh nghiệp nhìn chung còn thấp so với yêu cầu. Một số doanh nghiệp đã không tích cực đầu tư, thiếu chủ động trong tìm kiếm, khai thác thị trường để ký kết hợp đồng cung ứng lao động. Chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu của các doanh nghiệp vẫn còn thấp so với đòi hỏi của thị trường, nhất là ngoại ngữ, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của công nghệ sản xuất hiện đại chủ yếu là xuất khẩu lao động phổ thông; một số loại lao động kỹ thuật nước ngoài có nhu cầu nhưng ta chưa có đủ để đáp ứng. Nhiều trường hợp người lao động tự bỏ hợp đồng trốn ra ngoài sống bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín lao động ta và thị trường lao động của Việt Nam. Tình trạng lao động phải về nước trước hạn cũng xảy ra phố biến, dẫn đến việc doanh nghiệp mất nguồn thu phí dịch vụ, phát sinh tăng chi phí để giải quyết các vấn đề phát sinh và làm giảm đáng kể hiệu quả của dịch vụ xuất khẩu lao động của doanh nghiệp. 3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN 3.1.1. Điều kiện tự nhiên Tân Hội là một xã thuộc huyện Đan Phượng thành phố Hà Nội, với tổng diện tích đất tự nhiên là 532.64 ha. Xã được chia ra làm 4 thôn, 13 cụm và 75 xóm, xã có ranh giới tiếp giáp các xã như sau: - Phía Nam giáp xã Tân Lập - Phía Đông giáp xã Liên Trung - Liên Hà - Phía Tây giáp xã Đan phượng - Song Phượng - Phía Bắc giáp xã Thượng Mỗ - Hạ Mỗ Xã Tân Hội nằm ở phía Bắc thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 20 km nên rất thuận lợi cho giao lưu, trao đổi kinh tế, văn hóa trong vùng. Tiếp cận được với nhiều công ty XKLĐ, nắm bắt được nhiều thông tin về XKLĐ hơn hẳn so với các vùng khác. 3.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội 3.1.2.1. Tình hình đất đai của xã Đối với xã Tân Hội đất đai là nguồn tài nguyên chủ yếu, nó rất quan trọng vì nó tham gia vào mọi hoạt động của con người. Do đó việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên đất đai đòi hỏi phải hợp lý và hiệu quả. Với tổng diện tích đất tự nhiên là 532,64 ha, trong đó bao gồm các loại đất: đất nông nghiệp, đất chuyên dùng và đất ở. Từ khi tỉnh Hà Tây nói chung và xã Tân Hội nói riêng được sát nhập thành Hà Nội và dưới tác động của quá trình đô thị hóa đã làm cho cơ cấu đất đai của xã có sự biến động đáng kể được thể hiện qua bảng 3.1. Để phục vụ cho quá trình đô thị hóa, một phần đất nông nghiệp ở xã đã bị thu hồi để mở rộng đường xá, xây dựng khu đô thị mới, trường học, làng nghề… Vì thế diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm để chuyển sang mục đích sử dụng khác. Bảng 3.1: Tình hình đất đai của xã Tân Hội qua 3 năm 2006-2008 Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 SL CC(%) SL CC(%) SL CC(%) A.Tổng diện tích đất tự nhiên ha 532,64 100,0 532,64 100,0 532,64 100,0 I. Đất nông nghiệp ha 422,46 79,3 422,46 79,3 406 76,2 1. Đất canh tác ha 380,46 90,1 380,46 90,1 364 89,7 - Đất trồng lúa ha 367,72 96,6 364,7 95,8 349,47 96,0 - Đất trồng cây hàng năm ha 12,74 3,4 15,76 4,2 14,53 4,0 2. Đất trồng cây lâu năm ha 27,23 6,4 27,23 6,4 27,23 6,7 3. Đất nuôi trồng thủy sản ha 14,77 3,5 14,77 3,5 14,77 3,6 II. Đất phi nông nghiệp ha 110,18 20,7 110,18 20,7 126,64 23,8 1. Đất ở ha 58,39 53,0 59,29 53,8 60 47,4 2. Đất chuyên dùng ha 42,44 38,5 42,44 38,5 58,33 46,1 3. Đất khác ha 9,35 8,5 8,45 7,7 8,31 6,5 B. Một số chỉ tiêu bình quân 1. BQ đất ở/hộ m2/hộ 64,8 61,2 50,4 2. BQ đất phi NN/hộ phi NN m2/hộ 1098 878,4 694,8 3. BQ đất NN/hộ NN m2/hộ 878,4 867,6 792 4. BQ đất NN/khẩu NN m2/khẩu 248,4 262,8 266,4 5. BQ đất NN/lao động NN m2/LĐ 356,4 374,4 399,6 Nguồn: Ban thống kê xã Tân Hội Cụ thể, năm 2008 xã đã thu hồi 16,46 ha đất nông nghiệp để thực hiện các dự án gồm: đường Đan Phượng-Tân Hội, mương tiêu nước ở cụm 6, khu đất dịch vụ cơ chế 10%, trường trung cấp nghề Tây An, đường Tân Hội-Hạ Mỗ, đường Hoàng Quốc Việt kéo dài, làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Chính vì vậy, đất phi nông nghiệp đã tăng lên mà chủ yếu là đất ở và đất chuyên dùng. Như chúng ta đã thấy, loại đất giảm mạnh nhất là đất canh tác, một phần là do những mục đích trên còn một phần là người dân chuyển đất canh tác sang hướng nuôi trồng thủy sản và trồng cây lâu năm. Tuy rằng, diện tích đất ở và đất phi nông nghiệp tăng nhưng các chỉ tiêu bình quân đất ở/hộ và chỉ tiêu bình quân đất phi nông nghiệp/hộ vẫn giảm là do 2 năm 2007, 2008 người dân ở xã đã tách hộ quá nhiều. Những chỉ tiêu về bình quân đất nông nghiệp/hộ nông nghiệp, bình quân đất nông nghiệp/khẩu nông nghiệp, bình quân đất nông nghiệp/lao động nông nghiệp đã chứng minh cho chúng ta thấy người dân của xã Tân Hội sẽ không thể sống nhờ vào nông nghiệp mãi được vì những chỉ tiêu này quá nhỏ. Những lao động ở đây họ sẽ không đủ việc để làm, không đủ thu nhập để sống vì thế họ phải đi ra ngoài để tìm việc và phổ biến nhất hiện nay là họ tìm đường đi XKLĐ. 3.1.2.2 Tình hình dân số và lao động của xã Lao động là nguồn lực cơ bản trong sản xuất của mọi ngành mọi nghề. Quy mô và tốc độ tăng nguồn lao đông phụ thuộc rất lớn vào tốc độ tăng dân số, do dân số và lao động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì vậy mà hộ gia đình là yếu tố cơ bản quyết định sự gia tăng nguồn lao động. Những năm qua, xã Tân Hội đã có nhiều thay đổi, chất lượng cuộc sống được nâng cao rất nhiều. Cùng với quá trình đô thị hoá và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, xã Tân Hội đang ngày càng có nhiều lao động đi XKLĐ. Chính điều này đã tác động phần nào đến tình hình dân số và lao động của xã. Bảng 3.2 cho thấy, số hộ gia đình trong xã qua các năm có tốc độ tăng tương đối lớn, năm 2006 là 3253 hộ, đến năm 2008 tổng số hộ toàn xã tăng lên là 4262 hộ. Trong đó hộ nông nghiệp có xu hướng giảm dần, còn hộ phi nông nghiệp và hộ kiêm lại có xu hướng tăng nhanh. Cụ thể là năm 2006, tỷ lệ hộ nông nghiệp chiếm 53,2%, hộ phi nông nghiệp chiếm 11,1%, hộ kiêm chiếm 35,7%. Đến năm 2008 tỷ lệ hộ nông nghiệp chỉ còn 43,3%, hộ phi nông nghiệp tăng lên 15,4%, hộ kiêm tăng lên 41,3%. Về nhân khẩu và lao động cũng giống như xu hướng của hộ, khẩu nông nghiệp và lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần qua 3 năm. Còn khẩu phi nông nghiệp, khẩu kiêm và lao động phi nông nghiệp, lao động kiêm có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Nguyên nhân của sự thay đổi này là do: Những năm gần đây, Nhà Nước có chủ trương thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ cho quá trình đô thị hóa nên đã làm cho những hộ thuần nông giảm xuống. Nhiều hộ nông dân có diện tích đất nông nghiệp ít đi, các lao động không đủ việc làm vì vậy họ đã phải chuyển sang làm thêm một số nghề khác để tăng thu nhập. Mặt khác, do nhiều hộ nông dân thấy sản xuất nông nghiệp không hiệu quả bằng làm các nghề khác nên họ cho người khác mượn đất ruộng còn họ chuyển hẳn sang làm nghề khác như: kinh doanh buôn bán, đi làm công nhân, làm thuê, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, đi XKLĐ... Do đó các hộ phi nông nghiệp và hộ kiêm ngày một tăng lên. Từ đó lao động phi nông nghiệp và lao động kiêm cũng tăng lên. Bình quân chung số khẩu trong mỗi hộ có khoảng 4 – 5 người, trong đó có gần 3 lao động. Qua đây cho thấy tình hình dân số ở xã Tân Hội khá ổn định. Người dân có nhận thức tương đối đúng đắn về vấn đề kế hoạch hóa gia đình. Nhưng so với các xã khác lân cận thì xã Tân Hội lại quá đông dân. Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của xã Tân Hội qua 3 năm 2006-2008 Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 SL CC(%) SL CC(%) SL CC(%) I.Tổng số hộ Hộ 3.253 100,0 3.554 100,0 4.262 100,0 1.Hộ nông nghiệp Hộ 1.731 53,2 1.756 49,4 1.845 43,3 2.Hộ phi nông nghiệp Hộ 361 11,1 451 12,7 657 15,4 3.Hộ kiêm Hộ 1.161 35,7 1.347 37,9 1.760 41,3 II.Tổng số nhân khẩu Người 16.752 100,0 17.057 100,0 17.347 100,0 1.Khẩu nông nghiệp Người 6.149 36,7 5.755 33,7 5.502 31,7 2.Khẩu phi nông nghiệp Người 1.351 8,1 1.750 10,3 2.620 15,1 3.Khẩu kiêm Người 9.252 55,2 9.552 56,0 9.225 53,2 III.Tổng số lao động LĐ 9.032 100,0 9.452 100,0 10.117 100,0 1.Lao động nông nghiệp LĐ 4.253 47,1 4.048 42,8 3.661 36,2 2.Lao động phi nông nghiệp LĐ 1.025 11,3 1.345 14,2 2.063 20,4 3.Lao động kiêm LĐ 3.754 41,6 4.059 43,0 4.393 43,4 IV.Một số chỉ tiêu bình quân 1.BQ khẩu/hộ Khẩu/hộ 5,15 4,79 4,07 2.BQ lao động/hộ LĐ/hộ 2,77 2,66 2,37 3.BQ khẩu phi NN/hộ phi NN Khẩu/hộ 3,74 3,88 3,98 4.BQ khẩu NN/hộ NN Khẩu/hộ 3,55 3,28 2,98 5. BQ lao động NN/ hộ NN LĐ/hộ 2,46 2,31 1,98 Nguồn: Ban thống kê xã Tân Hội Tuy nhiên, Tân Hội là một xã có truyền thống về nông nghiệp nhưng lại đất chật người đông nên vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một vấn đề nan giải cho các cấp các ngành và cả người dân địa phương. Bởi vậy nắm bắt được chủ trương của Nhà Nước cùng với sự thuận lợi về vị trí địa lý, người dân ở xã Tân Hội cũng đã tìm đến con đường XKLĐ. Vì họ thiếu việc làm, thu nhập không đủ chi cho cuộc sống của họ n._.ọ đã không ngừng học hỏi, tìm hiểu về tiếng nước bạn, nên phần giao tiếp tiếng nước ngoài của họ rất tốt. Chính vì vậy sau khi về nước đã có một số người đi làm cho các công ty nước ngoài ở tại Việt Nam, có người làm trực điện thoại, có người làm phiên dịch, cũng có người được các công ty môi giới đi XKLĐ mời lại để dạy tiếng cho những lao động chuẩn bị đi XKLĐ. 4.4. NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC TỪ HIỆN TƯỢNG ĐI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở XÃ TÂN HỘI XKLĐ được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu giải quyết tình trạng thiếu việc làm, xoá đói giảm nghèo cho người lao động. Nguồn lợi về kinh tế của công tác XKLĐ đã được khẳng định, tạo ra bước chuyển biến cơ bản làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao mức sống nhiều gia đình nông dân. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, XKLĐ cũng bộc lộ những mặt ảnh hưởng tiêu cực đối với người lao động, gia đình và cộng đồng như: chức năng gia đình biến đổi, vai trò giới truyền thống bị xáo trộn, mối quan hệ gia đình trở lên bị lỏng lẻo… 4.4.1. Gây bất hoà trong gia đình Hình ảnh lãng mạn "Một túp lều tranh, hai trái tim vàng" đã trở nên lỗi thời với người dân xã Tân Hội - Đan Phượng - Hà Nội. Xây nhà biệt thự, đi xe máy đời mới nhờ người thân đi xuất khẩu lao động (XKLĐ) đang là tiêu chí, là hướng đi cho nhiều gia đình nơi đây. Họ vay nợ, chạy vạy huy động mọi nguồn lực trong gia đình để xuất ngoại. Trong số người xuất khẩu lao động của xã có 39,6% là phụ nữ đã lập gia đình, ôm mộng làm giàu. Nhưng không ít người đã phải vỡ mộng vì sự tan nát của mái ấm gia đình. Qua thực tế điều tra tôi thấy, tình trạng gia đình của những lao động trong thời gian tham gia XKLĐ ở nhóm hộ 1 có thể khái quát những nét cơ bản sau: Phần lớn gia đình của những người lao động tham gia XKLĐ vẫn giữ được mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên, tình cảm gia đình vẫn được duy trì mặc dù có sự xa cách về thời gian và không gian. Họ liên lạc với nhau chủ yếu qua điện thoại và internet, vợ chồng vẫn chung thuỷ và con cái thì vẫn tốt. Bảng 4.21 : Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ĐVT: người, % Nhóm hộ 1 Nhóm hộ 2 Mức độ quan hệ gia đình SL CC (%) Tình trạng hôn nhân SL CC(%) Vẫn tốt 21 91,3 Vẫn như trước 18 72,0 Gây bất hoà 2 8,7 Xấu hơn trước 2 8,0 Ly thân, ly hôn 5 20,0 Tổng 23 100,0 Tổng 25 100,0 Nguồn: Số liệu điều tra hộ gia đình Tuy nhiên, không phải ai cũng may mắn giữ được một mái ấm gia đình hạnh phúc mà đạt được cả mục đích về kinh tế ở nơi xứ người. Một tỷ lệ không nhiều lắm (8,7%) nhưng cũng nói lên phần nào mức độ ảnh hưởng của XKLĐ đến mối quan hệ tình cảm trong gia đình. Mối bất hoà đó do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một bộ phận người XKLĐ gửi tiền về gia đình nhưng không sử dụng số tiền đó vào việc chăm lo cho gia đình mà lại lao vào cờ bạc, rượu chè. Có người đi XKLĐ có tiền nhưng lại sử dụng vào việc đánh bạc ở nước ngoài không gửi về (chủ yếu là nam giới). Điều đó dẫn đến sự bất đồng, làm sứt mẻ tình cảm giữa các thành viên gia đình. Đối với nhóm hộ 2, qua điều tra cho thấy tình trạng hôn nhân của các lao động tham gia vào XKLĐ đã về nước có nhiều thay đổi so với trước khi đi XKLĐ. Vì vợ chồng xa cách nhau cả về thời gian và không gian nên khiến họ thiếu chung thuỷ, dẫn đến những quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Chính những quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, cộng thêm những thay đổi về lối sống, về tâm lý ỷ lại kiếm được nhiều tiền hơn của người vợ hoặc người chồng mà nhiều gia đình đã bất hoà, vợ chồng sống ly thân, thậm chí là ly hôn. Qua nghiên cứu, có 28% lao động đi XKLĐ về ở nhóm hộ 2 là sống bất hoà và ly hôn. Cụ thể là gia đình chị Đào Thị Oanh ở cụm 10, trước kia là một gia đình nhìn vào mà ai cũng thèm vì chồng làm bộ đội chuyên nghiệp, vợ làm may, có hai cô con gái rất ngoan. Nhưng kể từ khi chị Oanh đi Hàn Quốc về đến giờ thì gia đình chị thay đổi hoàn toàn so với trước kia. Chị Oanh tâm sự “tưởng rằng đi XKLĐ về để xây nhà, mua sắm tiện nghi cho chồng con được sướng hơn nào ngờ ở nhà chồng đi bồ bịch có cả con với người phụ nữ khác. Hiện tại bây giời tôi rất chán và bị mất phương hướng không biết phải làm gì nữa”. Một trường hợp khác tôi cũng được phỏng vấn trực tiếp người đi XKLĐ đó là chị Đông Thị Hoa ở cụm 8, chị cho biết “gia đình tôi phải chạy mãi mới đủ tiền cho tôi đi Đài Loan, vậy mà từ khi tôi ở bên nước ngoài chồng tôi ở nhà không những không giúp tôi chăm sóc gia đình mà còn lao vào cờ bạc, rượu chè, bỏ nhà vào miền Nam sống cùng bạn bè mặc kệ con nhỏ. Chắc rằng, nếu cứ tình trạng như thế này thì chúng tôi phải chia tay mất”. Các gia đình tương tự như vậy còn rất nhiều ở xã Tân Hội. Tất cả những vấn đề này chúng tôi đưa ra để dẫn đến một câu hỏi: phải chăng đó là sự đánh đổi mà người nghèo phải chấp nhận? phía sau bức tranh XKLĐ, trong nhiều trường hợp chức năng gia đình bị biến đổi, mối quan hệ gia đình trở lên lỏng lẻo dẫn đến nhiều vấn đề như tha hoá đạo đức, lối sống, mắc các tệ nạn xã hội, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân; gia đình lục đục, tan vỡ; thiếu quản lý, giáo dục con cái, nợ nần… 4.4.2. Cha mẹ già không được chăm sóc, con cái hư hỏng Trong những gia đình có người đi XKLĐ, không chỉ cha mẹ già không được nghỉ ngơi, phụng dưỡng chu đáo, mà chính con trẻ cũng khó có thể được chăm sóc đầy đủ để phát triển toàn diện cả về thể chất, dinh dưỡng, cả về tâm lý tình cảm. Ở xã Tân Hội lao động đi XKLĐ chủ yếu nằm trong độ tuổi 26-40, đặc biệt là khoảng độ tuổi 28-37, ở các độ tuổi này gia đình có 1 con dưới 6 tuổi là tương đối phổ biến. Việc thiếu đi một người, đặc biệt là người mẹ, trong việc chăm sóc trẻ nhỏ thực sự là một thách thức lớn đối với người ở nhà. Phải sống thiếu mẹ trong một thời gian khá dài (ít nhất là 3 năm), những đứa trẻ không tránh khỏi những hụt hẫng, khủng hoảng. Vậy mà có những gia đình cả hai vợ chồng đều đi XKLĐ để lại con thơ ở nhà cho bố mẹ già chăm sóc. Qua điều tra cho thấy, 70% con cái ở nhà học hành ngoan ngoãn hơn và vẫn như trước, còn lại 30% con cái ở nhà đua đòi, hư hỏng. Vậy thì “con hư tại ai?”. Câu hỏi mang cả đáp án này, người Việt ai cũng biết. Hiện tượng lập băng nhóm, sống bầy đàn, tệ nạn mại dâm, nghiện hút… ở trẻ em hư hỏng thường là do bố mẹ không quan tâm, chăm sóc. Nhiều gia đình trong xã Tân Hội vì ôm giấc mộng làm giàu đã quên mất những bài học đau xót này để rồi chính họ lại vướng vào triết lý của ông cha ta: “con hư tại mẹ”. Được phỏng vấn ông Đào Văn Dụ, người mà cả đại gia đình ông có 4 người con (2 con trai, 2 con dâu) đều đi XKLĐ sang Hàn Quốc đã về. Ông tâm sự: “Một năm về trước, lúc nào tôi cũng phải lo lắng vì các con tôi đi nước ngoài để lại cho vợ chồng tôi 3 đứa cháu”. Cái tuổi của ông bà đã gần 80 tuổi đáng ra ông bà phải được chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo nhưng đằng này ông bà lại phải cưu mang 3 đứa cháu, mặc dù kinh tế của các con ông đều khá lên trông thấy nhưng kết quả của việc đi XKLĐ đã làm cho các cháu của ông học hành không bằng bạn bè, một cặp vợ chồng con ông đã phải ly hôn. Với câu hỏi “cháu có muốn bố (mẹ) cháu đi nước ngoài không?” dành cho 20 cháu có bố (mẹ) đi XKLĐ thì thu được kết quả là: 7 cháu trả lời “cháu có thích bố cháu đi nước ngoài”; 5 cháu trả lời “cháu có thích mẹ cháu đi nước ngoài”; 5 cháu trả lời “cháu không thích mẹ cháu đi nước ngoài. Vì mẹ đi bố ở nhà đi chơi suốt ngày”; 2 cháu trả lời “nếu bố mẹ cháu không đi nước ngoài thì bố mẹ cháu sẽ không bỏ nhau”; 1 cháu trả lời “cháu sẽ không bỏ học, nếu mẹ cháu không đi XKLĐ”. Những câu trả lời thật gây thơ của bọn trẻ nhưng lại là lỗi đau xót của bậc làm cha, làm mẹ. Những câu trả lời này đã chứng minh cho chúng ta thấy những đứa trẻ đa số không thích mẹ đi XKLĐ. Vậy thì câu hỏi đặt ra là phụ nữ “nên” hay “không nên” đi XKLĐ? 4.4.3. Người lao động “chê” đồng ruộng Sau khi đi XKLĐ trở về nhiều người không muốn trở lại với ruộng đồng mà muốn có một công việc nhàn hạ, thoát ly nông nghiệp. Hiện tượng nhiều người trở về không muốn ở nhà nữa mà muốn đi XKLĐ tiếp là khá phổ biến ở xã Tân Hội. Theo điều tra có tới 60% lao động đi XKLĐ trở về muốn đi tiếp lần thứ 2, thứ 3 vì họ nhận thấy cơ hội phát triển kinh tế gia đình hơn hẳn lao động ở quê nhà. Tất nhiên, có một điều đáng mừng là không ít người đi XKLĐ (22,5%) đã phát huy số vốn dành dụm được làm vốn ban đầu chuyển sang làm kinh doanh, buôn bán nhỏ, tiếp tục mưu sinh một cách bền vững. Nhưng cũng chỉ có một số ít (2,2) sử dụng nghề nghiệp đã được đào tạo nơi XKLĐ để có thể “đổi đời” cho mình và gia đình một cách đúng nghĩa nhất. Hầu hết người lao động sau khi đã trả hết nợ vay để đóng tiền đi XKLĐ, tiền kiếm được chỉ dành để tiêu dùng cho các mục tiêu chung của gia đình như: xây dựng, sửa chữa nhà cửa, mua sắm đồ đạc đặc biệt là xe máy và ti vi… Rõ ràng đã đến lúc phải tính toán lại bài toán XKLĐ, để làm sao sự đánh đổi giữa cái được và cái mất ít nhất. Tình cảm con người vốn không bất biến. Nhu cầu sinh lý là điều khó có thể phán xét. 4.4.4. Tình hình mất trật tự xã hội Chúng ta phải thừa nhận rằng sự phát triển hiện tượng đi XKLĐ đã mang lại rất nhiều tác động tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của người dân xã Tân Hội. Xong bên cạnh đó, nó cũng có những ảnh hưởng không tốt. Từ khi phong trào đi XKLĐ “nở rộ” thì cũng là lúc có nhiều loại hình dịch vụ giải trí phát triển kèm theo đã gây không ít những tác động xấu đối với tình hình trật tự xã hội. Đầu tiên phải kể đến là các quán internet. Bên cạnh mặt tích cực nó mang lại cho người dân sự giao lưu, mở mang kiến thức đối với thế giới bên ngoài, thì đồng thời nó cũng mang lại những hạn chế nhất định. Nhiều đối tượng thanh thiếu niên đã lợi dụng quán internet để chơi đến nửa đêm, thậm chí thâu đêm, bỏ bê việc học. Theo số liệu điều tra, hỏi ý kiến của cửa hàng internet cho thấy 60% số người vào quán để chơi điện tử. Trong đó có tới 30% là thanh thiếu niên có người nhà đi XKLĐ. 20% để chát và đọc thư, 20% truy cập tìm ài liệu nghiên cứu. Tiếp theo phải kể đến là các quán nhậu. Nó mang lại sự thuận lợi cho cuộc sống giao lưu bạn bè, tạo sự thoải mái, thuận tiện trong cuộc sống. Xong các quán xá mở cửa quá khuya hoặc bán nhiều rượu gây ra những hậu quả khó lường. Qua điều tra khảo sát ý kiến của người dân xã Tân Hội, chúng tôi đã nhận được 90% ý kiến phàn nàn về những ông chồng có vợ đi XKLĐ và cả con cái của họ nữa. Họ cho rằng nếu vợ đi XKLĐ thì chồng sẽ trượt dốc và con của họ sẽ hư hỏng. Những ông chồng lao vào quán nhậu và cờ bạc… Nhìn chung, XKLĐ phát triển đã kéo theo thương mại dịch vụ phát triển, đồng nghĩa với cuộc sống hiện đại du nhập vào làm thay đổi cuộc sống êm ả của một vùng nông thôn. Cuộc sống hiện đại làm cho người dân được hưởng thụ chất lượng cuộc sống cao hơn, đầy đủ hơn, Xong, tất cả đều phải được quản lý, kiểm soát chặt chẽ để phát triển theo xu hướng tốt. Ngược lại nếu để phát triển tự phát, tự do, bản thân thương mại dịch vụ sẽ đem lại những mặt tiêu cực. Nó sẽ tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ gây nên một lối sống buông thả, tự do, đua đòi… Chính điều này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình hình mất trật tự an ninh xã hội. 4.4.5. Tỷ lệ thất nghiệp tự nguyện tăng cao Trước khi tham gia vào XKLĐ thì số lao động thất nghiệp trong 40 hộ điều tra là 4 người (8,3%). Thì nay con số lao động thất nghiệp đã lên tới 14,6% (7 người) trong 20 hộ có lao động đã về nước. Qua khảo sát cho thấy, có một số người chưa muốn làm việc ngay mà vẫn muốn nghỉ ngơi sau một thời gian làm việc vất vả ở nước ngoài. Bên cạnh đó lại có một số người cảm thấy thoả mãn với số tiền mình kiếm được nên họ không muốn hoặc chưa muốn đi làm. Ngoài ra cũng có một số khi sang nước ngoài làm những ngành nghề mà quê hương không có nên khi về nước họ không tìm được công việc phù hợp vì vậy họ đã trở thành lao động thất nghiệp. Cũng có một số người mong muốn đi XKLĐ nữa để có thể kiếm thêm được một số vốn lớn hơn do đó họ cũng không đi tìm việc làm. Một bộ phận người lao động sau khi về nước thì tuổi không còn trẻ, vì vậy cơ hội tìm kiếm việc làm của họ là rất hạn chế, thường là tất cả đều không thể xin vào làm việc cho các công ty hay doanh nghiệp nào được. Nói chung công việc của những người lao động đi XKLĐ về có sự thay đổi cả về số lượng và chất lượng, qui mô và cơ cấu. Những ngành nghề cần trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì số lao động tăng lên và số người làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp giảm xuống, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng lên tương đối so với trước. 4.5. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH HIỆN TƯỢNG ĐI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở XÃ TÂN HỘI 4.5.1. Một số định hướng trong phát triển xuất khẩu lao động tại xã Tân Hội Do hoạt động XKLĐ ở các nước đang phát triển có vai trò quan trọng, thậm chí một số nước đã coi việc phát triển lĩnh vực này như là một thế mạnh kinh tế quốc gia. Vì vậy việc đề ra những định hướng và chủ trương cho hoạt động này là rất cần thhiết. Ở nước ta, chiến lược phát triển KT-XH của Nhà nước đang thu được những kết quả khả quan. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh chủ trương: “Trong những năm trước mắt, phải giải quyết tốt một số vấn đề xã hội, tập trung sức tạo việc làm… Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh XKLĐ, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”. Chủ trương này đã ddược Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 khoá VIII cụ thể hoá như sau: “Mở rộng XKLĐ trên thị trường đã có và thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia và làm dịch vụ XKLĐ trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ XKLĐ trái quy định của Nhà Nước” [4]. Nhằm cụ thể hoá thêm một bước và đánh giá vai trò của XKLĐ trong điều kiện hiện nay, ngày 22 tháng 9 năm 1999, Bộ chính trị đã ban hành chỉ thị số 41-CT/TW khẳng đinh: “XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động KT-XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước. Sự nỗ lực tạo thêm việc làm trong nước và ngoài nước chỉ mới giải quyết được một phần trong khi số lao động không có việc làm ở thành thị còn khá cao. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn còn rất thấp. Hàng năm lại có hơn một triệu người đến tuổi lao động. Trước tình hình đó cùng với giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, XKLĐ và chuyên gia còn có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài” [4]. Từ quan điểm và chủ trương của Đảng đề ra, cùng với thực tế phát triển XKLĐ của xã Tân Hội cần phải có định hướng XKLĐ cho xã Tân Hội trong thời gian tới. Cụ thể như sau: - Xác định XKLĐ là một chiến lược quan trọng, lâu dài, là một nội dung của Chương trình Quốc gia về việc làm, một hoạt động KT-XH góp phần phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là một bộ phận của hợp tác quốc tế góp phần tăng cường mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa Việt Nam với các nước và củng cố cộng đồng người Việt ở nước ngoài. - Phải có chiến lược mở rộng hơn nữa các thị trường mới như các nước Trung đông, giữ vững các thị trường truyền thống như là Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản… Thăm dò và thí điểm đưa lao động sang các thị trường hoàn toàn mới như Mỹ, các nước EU… - Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động XKLĐ từ phía Nhà nước, lẫn phía doanh nghiệp và bản thân người lao động - Đa dạng hoá ngành nghề, trình độ lao động, cung cấp lao động với mọi ngành nghề và trình độ tay nghề khác nhau. XKLĐ phải đảm bảo tính cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia, nâng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu… Mặt khác phải đa dạng hoá thành phần tham gia XKLĐ. 4.5.2. Giải pháp điều chỉnh hiện tượng đi xuất khẩu lao động tại xã Tân Hội Từ các định hướng nêu trên, để thực hiện có hiệu quả hoạt động XKLĐ ở xã Tân Hội đòi hỏi phải có các giải pháp thiết thực. 4.5.2.1. Giải pháp về phía các cơ quan quản lý Nhà nước Thứ nhất là phải hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động xuất khẩu như: các quy định về thủ tục, quy trình đăng ký hợp đồng, các chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động, chính sách cho vay vốn… nhằm đảm bảo tính đồng bộ và chặt chẽ của các văn bản, chính sách liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động. Nhà nước cần tạo lập một hệ thống các chế tài đủ mạnh để ngăn chặt, xử lý và răn đe những trường hợp vi phạm pháp luật và quy định về XKLĐ. Nghiên cứu và tìm hiểu kỹ lưỡng pháp luật của các nước tiếp nhận lao động của ta để có những hướng dẫn văn bản sao cho phù hợp. Thứ hai, các ban ngành địa phương cần có những biện pháp thông tin tuyên truyền một cách sâu rộng những quy định pháp luật liên quan đến vấn đề XKLĐ tới từng người dân để họ nắm vững được pháp luật và hiểu rõ hơn về hoạt động này, tránh những vi phạm do thiếu hiểu biết gây ra. Nhà nước cũng cần có một hệ thống các kế hoạch, chủ trương cụ thể và đúng đắn cho công tác xuất khẩu lao động của nước ta nói chung và của xã Tân Hội nói riêng trong thời gian tới. Riêng đối với xã Tân Hội việc xây dựng một kế hoạch cụ thể cho công tác XKLĐ của mình bao gồm: số lượng lao động xuất khẩu trong năm là bao nhiêu? Trong đó, số lao động đã qua đào tạo là bao nhiêu người? chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số? Nguồn lao động chủ yếu tâp trung ở lứa tuổi nào?…Thông qua kế hoạch này tiến hành đánh giá việc thực hiện kế hoạch của từng tháng, từng quý, từng năm để có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Nhà nước cũng cần phải xây dựng những chính sách giải quyết việc làm cho người lao động khi họ trở về nước để ổn định cuộc sống của bản thân họ và gia đình. Những đối tượng còn có nhu cầu tiếp tục đi xuất khẩu lao động thì cũng phải có những chính sách hỗ trợ cho họ nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ có thể tiếp tục đi XKLĐ. Những chính sách hỗ trợ cho những đối tượng chính sách, đối tượng nghèo, bộ đội xuất ngũ… cũng phải được hoàn thiện hơn nữa đồng thời cũng phải có biện pháp quản lý chặt chẽ nguồn, quỹ hỗ trợ đó sao cho hợ lý và hiệu quả nhất. Cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ và chỉ đạo đúng đắn cho công tác đào tạo nghề, đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài sao cho chất lượng lao động của ta ngày càng được nâng cao hơn nữa. Quy định các mức phí cần thiết để vừa đảm bảo lợi nhuận cho các cơ sở đào tạo vừa giảm thiểu chi phí một cách tối đa cho người lao động. Tăng cường hiệu quả hoạt động cho các trung tâm dạy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm. Tăng cường hơn nữa các công tác kiểm tra, thanh tra cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành trong công tác này nhằm hạn chế những tiêu cực và nâng cao hiệu quả thực sự. Song song với đó, sẽ xây dựng một lộ trình sắp xếp phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu lao động theo định hướng, tiêu chí của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đặc biệt là đầu tư phát triển, tăng cường năng lực cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp trong công tác XKLĐ. 4.5.2.2. Giải pháp đối với người lao động Điểm yếu nhất của lực lượng lao động xã Tân Hội nói riêng và của cả nước nói chung là chất lượng lao động bởi vậy để nâng cao được hiệu quả công tác XKLĐ thì cần có những giải pháp cơ bản đối với người lao động như sau: Phải nâng cao trình độ học vấn thông qua việc tích cực học tập rèn luyện trong các nhà trường. Hệ thống giáo dục là nơi không chỉ rèn luyện và trau rồi học vấn, kiến thức cho người lao động mà còn là nơi nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão cũng như nâng cao phẩm chất đạo đức, nhân cách cho người lao động do đó không chỉ Nhà nước cần quan tâm chú ý tới công tác này mà bản thân người lao động cũng cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến việc học tập, rèn luyện của bản thân mình. Nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và tay nghề thông qua việc tham gia vào các lớp đào tạo nghề. Việc này không phải là chờ các doanh nghiệp tới tuyển dụng hay Nhà nước ra chính sách thì người lao động mới bắt đầu đi học mà người lao động cần phải chủ động tham gia vào các khoá đào tạo nghề này để nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân mình, chuẩn bị cho việc đăng ký tuyển mộ, tuyển chọn đi XKLĐ. Cần phải nâng cao trình độ ngoại ngữ, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp thông qua các lớp học tiếng nước ngoài và các chương trình đào tạo giáo dục định hướng của các đơn vị XKLĐ tổ chức. Cần phải nhận thức đúng đắn về hoạt động XKLĐ, tìm hiểu và nắm rõ những quy định của nhà nước về hoạt động này để xác định rõ ràng rằng mình đi lao động chứ không phải là đi du lịch từ đó có ý thức lao động và tuân thủ kỷ luật lao động. Nhận thức rõ hơn nữa những hậu quả mình sẽ phải trả giá nếu vi phạm hợp đồng hoặc pháp luật của Việt Nam và nước sở tại. Thường xuyên liên hệ với các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước sở tại và cơ quan đại diện hoặc người quản lý của doanh nghiệp xuất khẩu lao động của mình để khi cần thiết có thể giúp mình giải quyết những tranh chấp hoặc sự cố xảy ra. Cần tìm hiểu kỹ về những thủ tục cần thiết để chuẩn bị tốt tránh tự gây ra cho mình những phiền phức không đáng có và để đảm bảo tính hợp pháp cho việc đi XKLĐ của mình. Khi trở về nước, người lao động phải thực hiện tốt những nghĩa vụ khai báo, làm thủ tục cần thiết với cơ quan Nhà nước để nhập cảnh trở về quê hương. Về với gia đình, người lao động cần phải tích cực tìm kiếm việc làm cho bản thân và sử dụng hợp lý khoản thu nhập mà bản thân dành dụm được trong thời gian lao động ở nước ngoài. Tích cực tìm kiếm việc làm để ổn định cuộc sống chứ không được có tư tưởng có tiền rồi không cần phải làm gì. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. KẾT LUẬN 1. Tân Hội là một xã đất chật người đông nhất huyện Đan Phượng, bình quân đất NN/khẩu chỉ đạt gần 90 m2/người. Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, với nguồn lao động thiếu việc làm thì XKLĐ sẽ là một thế mạnh của xã. XKLĐ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và giải quyết tình trạng thiếu việc làm của xã Tân Hội. 2. Khác biệt so với các địa phương khác, tỷ lệ lao động đi xuất khẩu của xã Tân Hội là quá đông. Bình quân cứ 5 hộ trong xã lại có một hộ có lao động đi xuất khẩu, tổng số lao động toàn xã đi XKLĐ giai đoạn 2001-2007 chiếm 22,5% so với toàn tỉnh Hà Tây cũ. Lao động đi xuất khẩu ở xã tập trung chủ yếu ở lứa tuổi 25 đến 30 tuổi, đây là nhóm tuổi đã lập gia đình và tỷ lệ nữ giới đi XKLĐ gần bằng tỷ lệ nam giới là 44,8%. Họ tập trung đi ở các nước như Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản. 3. Từ việc đánh giá, phân tích và so sánh giữa các nhóm hộ có lao động đang tham gia XKLĐ, đã đi XKLĐ về nước và nhóm hộ không có lao động đi XKLĐ. Cho thấy, hiện tượng đi XKLĐ đã mang lại nhiều lợi ích cho xã Tân Hội như: giải quyết việc làm; làm tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho hộ gia đình; nâng cao trình độ chuyên môn và ngoại ngữ cho người lao động. Tuy nhiên hiện tượng này cũng mang đến không ít những hệ luỵ cho người dân nơi đây đó là: gây bất hoà cho gia đình; cha mẹ già không được chăm sóc, con cái hư hỏng; người lao động chê đồng ruộng; mất trật tự xã hội; tỷ lệ thất nghiệp tự nguyện tăng cao. 4. Từ những thực tế của hiện tượng đi XKLĐ ở xã Tân Hội cho thấy, những năm tới xã Tân Hội cần có những biện pháp thiết thực hơn nữa để vừa khuyến khích lao động tham gia XKLĐ nhưng phải có hiệu quả cao hơn, để lao động vừa có việc làm, có thu nhập cao nhưng gia đình lại bền vững, xã hội phát triển giàu mạnh. 5.2. KIẾN NGHỊ 5.2.1. Đối với chính quyền địa phương - Phối kết hợp với các công ty XKLĐ để có những thông tin chuẩn xác cho người lao động nhằm tránh bị lừa đảo, tổn thất đến người lao động. - Quan tâm hơn nữa trong việc mở các lớp dạy nghề tại địa phương nhằm giảm chi phí tối đa nhất cho người lao động. - Quan tâm, động viên những gia đình có lao động đi XKLĐ, nhất là phải làm công tác tư tưởng cho những người chồng ở nhà chăm sóc gia đình để tránh tình trạng “tan vỡ” gia đình. - Tạo điều kiện cho những lao động đã trở về nước để họ có công việc ổn định như: làm nghề tiểu thủ công nghiệp, làm nông nghiệp theo hình thức VAC… - Tăng cường quản lý chặt chẽ hơn nữa đối với một số loại dịch vụ phục vụ nhu cầu ăn uống, vui chơi, giải trí về đêm, tránh hiện tượng gây mất trật tự an ninh xã hội. 5.2.2. Đối với các hộ gia đình có lao động tham gia XKLĐ - Động viên tinh thần cho người thân của mình để họ yên tâm làm việc ở nước ngoài. - Sử dụng đồng vốn gửi từ nước ngoài về sao cho có hiệu quả nhất, không chơi bời, cờ bạc… TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoàng Anh, phía sau bức tranh xuất khẩu lao động: thêm tiền, thêm mất mát, http:// www.btv.org.vn. Bộ luật lao động nước CHXHCN Việt Nam (2007), NXB Tài chính, Hà Nội. Nguyễn Thị Hồng Bích (2007), XKLĐ của một số nước Đông Nam Á kinh nghiệm và bài học, Trung tâm nghiên cứu quốc tế và khu vực. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam-Nghị định số 152/1999/NĐ/CP, ngày 20/09/1999. Bích Đào, Phụ nữ đi xuất khẩu lao động: nên hay không nên?, http:// www.toquoc.gov.vn. Đặng Đình Đào, “một số vấn đề xuất khẩu lao động ở Việt Nam”, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 92 tháng 2/2005. Nguyễn Vân Điềm, Nguyễn Ngọc Quân (2004), giáo trình quản trị nhân lực, Trường Đại học kinh tế quốc dân, NXB thống kê, Hà Nội. Tây Giang, xuất khẩu lao động làm tan vỡ 30-40% số gia đình, http:// www.doisongphapluat.com.vn. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-LêNin (2005), NXB Chính trị quốc gia. Đoàn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2004), giáo trình khoa học quản lý khoa học, Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội. Hồng Hải, tin tức xã hội, htpp:// www.viencanh.com. Trần Thanh Hải (2007), xuất khẩu lao động của Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, Đề án môn học, Trường đại học kinh tế quốc dân. Mai Thị Hải (2004), một số giải pháp thúc đẩy XKLĐ của công ty TM – DV và xuất nhập khẩu Hải Phòng sang Malaysia, Luận văn tốt nghiệp đại học, Trường Đại học kinh tế quốc dân. Thu Hiên (2008), xuất khẩu lao động – cơ hội cho người lao động Hà Tây, www.baohatay.com.vn Nguyễn Thị Hoan (2006), Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý XKLĐ ở Bắc Ninh, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học kinh tế quốc dân. Phạm Hoàng, Thanh Vân, làng xuất ngoại, www.toquoc.gov.vn. Nguyễn Mạnh Hùng (2007), XKLĐ Việt Nam. Giải pháp giải quyết việc làm trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đề án môn học, Trường Đại học kinh tế quốc dân Hồng Khánh, vợ xuất khẩu lao động, chồng ở nhà ham của lạ, www.vnexpress.net. Vân Minh, giải pháp tạo việc làmcho người lao động ở Tân Hội, http:// www.baohatay.com.vn Nguyễn Thị Kim Ngân, giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập, http:// www.tapchicongsan.org.vn. Trúc Thanh, xuất khẩu lao động những vấn đề đặt ra, http:// www.cpv.org.vn Phạm Đức Thành và Mai Quốc Chánh (1999), kinh tế lao động, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Giáo Dục. Thị trường lao động Việt Nam - thực trạng và giải pháp phát triển, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Tiệp (2007), thực trạng và giải pháp tạo việc làm cho lao động thanh niên, tạp chí kinh tế và phát triển số 124-10/2007. Toàn cầu hoá: cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam (2002), NXB Lao động xã hội. Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu (2002), khoa học quản lý, Đại học Kinh tế Quốc dân- Hà Nội. Trần Văn Thọ, vấn đề xuất khẩu lao động tại Việt Nam, http:// www.diendan.org. Trần Thị Thu (2006), nâng cao hiệu quả quả lý xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay, NXB Lao động-Xã hội Hà Nội. Nguyễn Chí Thuận (2003), thực trạng và giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, luận án thạc sỹ, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Từ điển tiếng việt (2005), NXB Đà Nẵng. UBND xã Tân hội (2008), Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của xã Tân Hội giai đoạn 2001-2008. UBND xã Hạ Mỗ (2008), Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của xã Hạ Mỗ giai đoạn 2001-2007. Viện chiến lược phát triển, cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. PHỤ LỤC PHIẾU ĐIỀU TRA 1. Các thông tin về chủ hộ gia đình 1.1. Họ và tên chủ hộ:……………………………… Nam (Nữ)………………… 1.2. Địa chỉ của hộ: -Cụm:…………. - Thôn:……………. -Xã: Tân Hội - Huyện: Đan Phượng 1.3. Số nhân khẩu, lao động trong hộ Tuổi Giới tính Trình độ văn hóa Nghề chính Nghề phụ Ghi chú 1.Chủ hộ 2.Vợ/chồng 3.Con 4.Con 2.Tình hình đất đai của hộ ĐVT: m2 Loại đất Trước khi có LĐ đi XKLĐ Sau khi có LĐ đi XKLĐ 1. Đất thổ cư 2.Vườn 3. Đất làm dịch vụ 4. Đất nông nghiệp 5. Đất khác Lý do tăng giảm diện tích đất: …………………………………………………… 3. Tài sản mua bằng tiền ở nước ngoài gửi về: Tên tài sản ĐVT Số lượng Giá trị (1000đ) Mục đích sử dụng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 4. Các thông tin về lao động đi XKLĐ của hộ Họ và tên: ……………………………………………Nam(nữ)…………………. Nghề trước khi đi XKLĐ……………………Sau khi đi………………………… Tên nước đến: ………………….... Thời gian về nước: ………………………… Kinh phí để đi là bao nhiêu? …………………………………………………….. Nguồn kinh phí để đi XKLĐ…………………………………………………….. Lương/tháng? ……………………… Bao lâu hoàn vốn……………………….. Đi theo tổ chức …………………….Môi giới………………………………….. Tình trạng hôn nhân trước khi đi ………………….Sau khi đi…………………. 5. Tình hình thu nhập của hộ ĐVT: 1000đ Chỉ tiêu Trước khi có LĐ đi XKLĐ Sau khi có LĐ đi XKLĐ Ghi chú Thu từ nông nghiệp Thu từ dịch vụ Thu khác 6. Tình hình chi tiêu của hộ ĐVT: 1000đ Chỉ tiêu Trước khi có LĐ đi XKLĐ Sau khi có LĐ đi XKLĐ 1.Lương thực, thực phẩm Gao Thịt Rau …… 2.Quần áo 3.Tiền điện 4.Chi cho giáo dục 5.Chi khám chữa bệnh 6.Chi phí xây dựng 7.Chi hiếu, hỉ 8. Chi khác 7. Theo gia đình việc đi XKLĐ có tác động gì đến cuộc sống của gia đình 7.1. Tác động tích cực: - Tăng thu nhập cho gia đình mình:………………………………………………. - Tạo thêm việc làm cho lao động gđ: ……………………………………………. - Nâng cao đời sống gia đình: ……………………………………………………. - Nâng cao trình độ nghề nghiệp:…………………………………………………. - Tác động khác: ………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………. 7.2. Tác động tiêu cực: - Phát sinh những thói hư tật xấu:………………………………………………. - Nuôi dạy con không tốt: ………………………………………………………. - Xa cách người thân:…………………………………………………………… - Tác động khác: ………………………………………………………………….. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHUONG LY (25.8).doc
  • pptBÁO CÁO - HUONG.ppt
  • pptBao ve LV2 Ly.ppt
  • docMỤC LỤC1.doc
  • docphiêu điêu tra.doc
  • doctóm tắt luận văn Lý.doc
Tài liệu liên quan